Tải bản đầy đủ (.doc) (17 trang)

Đổi mới kiểm tra đánh giá trong dạy học lịch sử THCS

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (178.53 KB, 17 trang )

A.ĐẶT VẤN ĐỀ
I.LỜI MỞ ĐẦU
Trong thời gian qua, cùng với việc đổi mới chương trình sách giáo
khoa, đổi mới phương pháp dạy học thì vấn đề đổi mới trong kiểm tra đánh
giá là khâu hết sức quan trọng trong quá trình giảng dạy và học tập.
Kiểm tra đánh giá nhằm làm sáng rõ tình hình lĩnh hội kiến thức, sự
hình thành kĩ năng, kĩ xảo cho học sinh, bổ sung, củng cố, hệ thống hoặc khái
quát hóa kiến thức đã học, đồng thời chuẩn bị cho việc lĩnh hội kiến thức mới.
Mặt khác, qua kiểm tra, đánh giá học sinh, giáo viên có thể tự đánh giá việc
giảng dạy của mình. Vì vậy, kiểm tra đánh giá là một khâu quan trọng không
thể thiếu của quá trình dạy học, là một trong những biện pháp để nâng cao
chất lượng dạy học.
Kiểm tra đánh giá không chỉ là công việc của giáo viên, mà còn là của
cả học sinh. Giáo viên kiểm tra kết quả học tập của học sinh. Học sinh tự
kiểm tra đánh giá việc học tập của mình và kiểm tra đánh giá lẫn nhau.

II.THỰC TRẠNG CỦA VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1.

Thực trạng

Thực tế cho thấy, việc kiểm tra đánh giá (bao gồm kiểm tra thường
xuyên và định kì) vẫn được tiến hành để thúc đẩy học sinh học tập, nhưng đa
số học sinh chưa có nhận thức đúng đắn về tầm quan trọng của môn học, cho
đó là “môn phụ”, ngại học. Mặt khác, một bộ phận giáo viên chưa nhận thức
đúng tầm quan trọng của việc kiểm tra đánh giá, cho rằng chỉ cần các em nắm
được kiến thức cơ bản trên lớp là được. Hoặc nếu có kiểm tra thì cũng chỉ
kiểm tra kiến thức, chứ chưa chú trọng kiểm tra kĩ năng, thái độ, tư tưởng,
tình cảm và khả năng vận dụng kiến thức vào cuộc sống. Hình thức kiểm tra
chủ yếu vẫn là giáo viên kiểm tra học sinh, chưa chú ý đến sự đánh giá của
học sinh với học sinh, tự đánh giá của học sinh. Các hình thức kiểm tra vẫn


còn đi theo lối mòn.
2.

Kết quả (hiệu quả của thực trạng trên)
1


Thực tế cho thấy, với cách làm cũ, học sinh còn lười học, chưa có sự
say mê với môn học. Nhiều học sinh còn chưa nắm vững kiến thức, mà chỉ
học thuộc một cách máy móc. Học sinh thường trả lời câu hỏi của giáo viên
đưa ra thông qua việc thụ động nhìn vào sách giáo khoa, thậm chí có một bộ
phận học sinh còn đọc y nguyên sách giáo khoa khi trả lời câu hỏi. Học sinh
chỉ muốn giải quyết các vấn đề hoặc trả lời các câu hỏi đơn giản, còn các vấn
đề mang tính tổng hợp, phân tích, so sánh…thì học sinh còn lúng túng
Kiểm tra đánh giá mới chỉ tập trung vào việc giáo viên đánh giá học
sinh, ít tạo điều kiện cho học sinh tự đánh giá mình và đánh giá lẫn nhau. Một
bộ phận giáo viên còn chưa thấy hết vai trò của kiểm tra đánh giá, do vậy,
việc ra đề kiểm tra nhiều khi còn qua loa, nhiều giáo viên ra đề kiểm tra với
mục đích lam sao cho dễ chấm nên kết quả đánh giá chưa khách quan. Việc
lập ma trận chưa đúng theo yêu cầu, hệ thống câu hỏi không phù hợp với ma
trận, không phân hóa được đối tượng học sinh..
Để khắc phục những quan điểm sai lệch đó, đồng thời để lôi cuốn học
sinh tích cực học tập môn Lịch sử thì nhất thiết phải đổi mới việc kiểm tra
đánh giá.
Từ thực trạng trên, để công việc đạt hiệu quả tốt hơn, tôi đã mạnh dạn
nghiên cứu đề tài “ Đổi mới kiểm tra đánh giá trong dạy học lịch sử THCS”

B.GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
2



I.CÁC GIẢI PHÁP THỰC HIỆN
1.
2.

Đổi mới nội dung, hình thức kiểm tra thường xuyên
Đổi mới ra đề kiểm tra định kì

II.CÁC BIỆN PHÁP THỰC HIỆN
1.

Nội dung kiểm tra đánh giá

Nội dung kiểm tra đánh giá của môn học cần bao gồm cả các mặt kiến
thức, kĩ năng, thái độ. Song chủ yếu tập trung vào kiểm tra, đánh giá kiến
thức và kĩ năng của học sinh
Về mặt kiến thức, yêu cầu học sinh phải nhớ, nắm vững các kiến thức
cơ bản trong chương trình theo 6 mức độ là nhận biết, thông hiểu, vận dụng,
phân tích, đánh giá, sáng tạo
Về mặt kĩ năng, tức là kiểm tra việc sử dụng bản đồ, lược đồ, lập bảng
thống kê, vẽ biểu đồ, kĩ năng so sánh, phân tích..
2.
Đổi mới nội dung, hình thức kiểm tra miệng
Kiểm tra miệng giúp giáo viên nhanh chóng nắm bắt được trình độ phát
triển tư duy của học sinh, là động lực phát huy tính tích cực của học sinh
trong học tập, thúc đẩy học sinh suy nghĩ độc lập, rèn luyện tư duy ngôn ngữ
của học sinh.
Kiểm tra miệng cung cấp những thông tin ngược nhanh nhất, giúp giáo
viên kịp thời điều chỉnh hoạt động dạy và đánh giá sơ bộ mức độ nắm kiến
thức của học sinh, từ đó đưa ra những biện pháp tối ưu, phù hợp với từng đối

tượng học sinh.
Kiểm tra miệng được giáo viên sử dụng trong kiểm tra bài cũ. Giáo
viên cần thực hiện linh hoạt khâu kiểm tra bài cũ- không nhất thiết phải kiểm
tra đầu giờ học mà có thể kiểm tra bất cứ thời điểm nào khi lên lớp. Kiểm tra
bài cũ không chỉ để lấy điểm mà còn trên cơ sở kiểm tra kiến thức cũ để phục
vụ cho việc lĩnh hội kiến thức mới- điều này đòi hỏi học sinh không chỉ “nhớ”
mà phải “hiểu” sâu kiến thức.

3


Trước đây, hình thức kiểm tra rất đơn giản, đó là giáo viên gọi học sinh
lên bảng, đặt câu hỏi để học sinh trả lời rồi giáo viên nhận xét cho điểm. Giờ
đây giáo viên có thể sử dụng thêm các hình thức sau:
- Giáo viên gọi 1 học sinh lên bảng trả lời câu hỏi và yêu cầu cả lớp
cùng lắng nghe. Sau đó, gọi 1, 2 em nhận xét, bổ sung phần trả lời của bạn.
Cuối cùng giáo viên cho điểm cả em trả lời và em nhận xét. Cách làm này sẽ
lôi cuốn được học sinh cả lớp chú ý lắng nghe và giáo viên có thể kiểm tra
được nhiều học sinh.
-Giáo viên còn có thể gọi 1 hoặc 2 học sinh lên bảng để lập bảng so
sánh, vẽ sơ đồ, lập niên biểu, đồng thời đặt câu hỏi khác cho học sinh dưới
lớp trả lời.
Ví dụ: yêu cầu học sinh lên bảng lập bảng so sánh về chủ trương sách
lược của ta trong giai đoạn 1930-1931 và 1936-1939 theo những nội dung
sau:
Nội dung

Giai đoạn 1930-1931

Giai đoạn 1936-1939


Kẻ thù
Nhiệm vụ
Mục tiêu
Hình thức đấu tranh
Phương pháp đấu tranh

Trong khi đó giáo viên có thể đặt câu hỏi với học sinh ở dưới lớp: “ tại
sao ta lại chủ trương tiến hành cuộc vận động dân chủ 1936-1939?”
-Giáo viên có thể cho 2 học sinh làm việc với nhau, 1 học sinh đặt câu
hỏi, 1 học sinh trả lời dựa trên những dữ kiện mà giáo viên cung cấp.
Ví dụ: giáo viên đưa ra các dữ liệu sau trên màn hình máy chiếu:
-

8/1566
Cách mạng tư sản đầu tiên trên thế giới
Nội chiến cách mạng
Chế độ 3 đẳng cấp
4


- Chiến tranh giành độc lập
Học sinh A ở dưới lớp đặt câu hỏi để học sinh B ở trên bảng không nhìn
vào máy chiếu mà vẫn trả lời đúng các dữ kiện đó. Cụ thể, học sinh A có thể
đặt câu hỏi: cuộc cách mạng Hà Lan nổ ra năm nào? Ý nghĩa của cách mạng
Hà Lan đối với thế giới? cách mạng Tư sản Anh diễn ra dưới hình thức này?...
-Giáo viên có thể yêu cầu học sinh vẽ đường trục thời gian biểu diễn
quá trình diễn biến của sự kiện, tiến trình lịch sử
Ví dụ: vẽ sơ đồ biểu diễn sự đi lên của cách mạng tư sản Pháp cuối thế
kỉ XVIII?

2/6/1793
10/8/1792
14/7/1789
CÁC
Cách mạng bùng nổ,
hạn chế quyền lợi của
vua, xóa bỏ đẳng cấp

Chuyên chính
27/7/1794
Gia-cô-banh

Xóa bỏ chế độ quân
chủ, thành lập chế
độ cộng hòa

- Giáo viên có thể kiểm tra vở bài tập của học sinh hoặc kiểm tra sự
chuẩn bị bài ở nhà của học sinh ( soạn bài mới, sưu tầm tranh ảnh, vẽ bản đồ,
tìm hiểu nhân vật, sự kiện)
Ví dụ: học xong bài 26- lịch sử 8 “Phong trào kháng chiến chống Pháp
trong những năm cuối thế kỉ XIX” , giáo viên giao nhiệm vụ cho học sinh về
nhà tìm hiểu về nhân vật Hoàng Hoa Thám và phong trào Yên Thế . Đến tiết
học sau, giáo viên kiểm tra sự chuẩn bị của học sinh để cho điểm
3. Đổi mới kiểm tra viết
Kiểm tra viết được thực hiện ở đầu hay cuối mỗi tiết học với thời gian
15 phút hoặc được thực hiện trọn trong một tiết…sau khi học xong một
chương, một phần của chương trình, cuối mỗi kì hay cuối năm.
Với hình thức kiểm tra này, trong cùng một lúc có thể kiểm tra được
trình độ của tất cả học sinh trong lớp và có thể kiểm tra được nhiều nội dung.
Qua bài làm của học sinh, mức độ lĩnh hội kiến thức, khả năng lập luận của

5


học sinh được bộc lộ rõ. Trên cơ sở đó, giáo viên có thể đánh giá được trình
độ chung của cả lớp, trình độ của từng cá nhân, từ đó có kế hoạch cụ thể trong
thời gian giảng dạy tiếp theo và có hướng giúp đỡ đối với những học sinh cá
biệt của lớp.
Đối với kiểm tra 15 phút, giáo viên có thể sử dụng câu hỏi trắc nghiệm
hoặc tự luận. Đối với kiểm tra 1 tiết, phải có sự kết hợp giữa câu hỏi trắc
nghiệm với tự luận.
Khi muốn học sinh nhớ mốc thời gian thì nên sử dụng câu hỏi trắc nghiệm.
Ví dụ: hãy nối mốc thời gian ở cột I tương ứng với các sự kiện ở cộtII:
Cột I
19/8/1945

Cột II
Giành chính quyền ở Huế

23/8/1945

Giành chính quyền ở Hà Nội

25/9/1945

Chủ tịch Hồ Chí Minh độc tuyên ngôn độc lập

2/9/1945

Giành chính quyền ở Sài Gòn


Tuy nhiên, hình thức này sẽ không đánh giá được khả năng sáng tạo, tư
duy của học sinh, học sinh dễ nhìn bài..Do vậy, trong kiểm tra viết, cần có sự
kết hợp với câu hỏi tự luận. Đối với câu hỏi tự luận, không nên yêu cầu học
sinh ghi nhớ máy móc, mà giáo viên có thể đưa ra các câu hỏi mở.
Ví dụ: đối với học sinh lớp 8, giáo viên đưa câu hỏi: “ Từ hậu quả của 2
cuộc chiến tranh thế giới, em có suy nghĩ gì?”- học sinh sẽ dựa vào bài học và
tài liệu để thể hiện suy nghĩ của mình.
-Hoặc giáo viên cho học sinh giải thích, bình luận 1 câu nói nổi tiếng
của các nhân vật lịch sử
Ví dụ: em hiểu thế nào về câu nói của nhà khoa học Nô-ben: “ Tôi hi
vọng rằng nhân loại sẽ rút ra được từ những phát minh khoa học nhiều điều
tốt hơn là điều xấu”?
Đối với loại câu hỏi này, đòi hỏi học sinh phải lập luận, lí giải, chứng
minh trên cơ sở các sự kiện mà các em đã biết
6


-Giáo viên cũng có thể đặt câu hỏi yêu cầu học sinh làm việc với đồ
dùng trực quan.
Ví dụ: đối với học sinh lớp 9, giáo viên đưa câu hỏi: hãy điền kiến thức
phù hợp vào các vòng tròn có đánh số thứ tự dưới đây để thể hiện vị trí tập
trung binh lực của địch trong chiến cuộc Đông- Xuân 1953-1954 và rút ra
nhận xét:
2
1

3

4


5

Hoặc giáo viên yêu cầu học sinh điền tên các nhà thám hiểm theo mũi
tên trên lược đồ để thấy rõ hành trình của các cuộc phát kiến địa lí

7


Kiểm tra đánh giá bằng câu hỏi tự luận có ưu thế là “đo” được trình độ
học sinh về lập luận, tức là mức độ hiểu kiến thức, rèn cho các em khả năng
trình bày. Trắc nghiệm khách quan có ưu thế là chấm nhanh, bảo đảm tính
khách quan, khảo sát được khá toàn diện nội dung học tập, gây hứng thú cho
học sinh..Nhưng đối với bộ môn Lịch sử nói riêng, các môn khoa học xã hội
nói chung, phương pháp kiểm tra đánh giá này lại có hạn chế là không “đo”
được độ sâu kiến thức của học sinh, chỉ “đo” được kết quả mà không “đo”
được quá trình dẫn đến kết quả. Do đó, chúng ta cần kết hợp một cách linh
hoạt, sáng tạo chúng với nhau trong quá trình tiến hành các hình thức kiểm tra
4.Quy trình biên soạn đề kiểm tra
Đề kiểm tra là phương tiện đánh giá kết quả học tập của học sinh sau
khi học xong một chủ đề, một chương, một số chương hay toàn bộ chương
trình một lớp. Việc biên soạn đề kiểm tra theo quy trình sau:
-Xác định mục tiêu và nội dung kiểm tra
Đánh giá kết quả học tập là sự phân tích, đối chiếu thông tin về trình
độ, khả năng học tập của học sinh so với mục tiêu dạy học đã được xác định.
Do đó, cần căn cứ vào mục tiêu cụ thể của từng bài, từng chương để xác định
mục tiêu và nội dung kiểm tra
-Thiết lập ma trận
Để kiểm tra được một phạm vi rộng các kiến thức, kĩ năng; vừa kiểm
tra được các mức độ nhận thức, đồng thời có thể chủ động kết hợp loại câu
hỏi tự luận với câu hỏi trắc nghiệm khách quan, cần thiết phải lập ma trận hai

chiều. Đó là một bảng với một chiều thường là nội dung với các lĩnh vực kiến
thức cần đánh giá và một chiều là các mức độ nhận thức của học sinh. Trong
mỗi ô là số lượng câu hỏi và hình thức câu hỏi. Nhìn chung, càng nhiều câu
hỏi ở nhiều lĩnh vực kiến thức khác nhau thì kết quả đánh giá càng có độ tin
cậy cao hơn. Hình thức câu hỏi đa dạng sẽ gây hứng thú, tập trung sự chú ý,
tránh nhàm chán đối với học sinh.
-Thiết kế câu hỏi theo ma trận
8


Mức độ khó của câu hỏi được thiết kế căn cứ vào mục tiêu và nội dung
cần đánh giá. Hình thức câu hỏi (tự luận hay trắc nghiệm) dựa trên ma trận đã
thiết kế ở trên
-Xây dựng đáp án và thang điểm
Đối với hình thức kiểm tra tự luận kết hợp với trắc nghiệm, điểm tối đa
toàn bài là 10. Sự phân bố điểm cho từng phần được tuân theo nguyên tắc: tỉ
lệ thuận với thời gian dự định học sinh hoàn thành từng phần, mỗi câu trắc
nghiệm khách quan nếu trả lời đúng đều có số điểm như nhau. Ví dụ: nếu ma
trận thiết kế dành 70% thời gian cho tự luận và 30% cho trắc nghiệm khách
quan thì số điểm tối đa cho câu hỏi tự luận là 7, các câu hỏi trắc nghiệm
khách quan là 3, mỗi câu trắc nghiệm khách quan trả lời đúng thường được
0,5 điểm.
Khi xây dựng câu hỏi cho phần trắc nghiệm khách quan, nhất thiết
không được sử dụng một loại duy nhất, giáo viên có thể sử dụng ít nhất 2
trong số các dạng trắc nghiệm khách quan sau:
-Câu hỏi đúng- sai: loại này chỉ gồm 2 lựa chọn (đúng hoặc sai) và là
loại trắc nghiệm rất đơn giản, dễ sử dụng.
Ví dụ: trong các câu sau, câu nào đúng câu nào sai?
1.cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng do Nguyễn Ái Quốc soạn thảo
2.cương lĩnh chính trị đầu tiên có nhiều hạn chế so với Luận cương

chính trị
-dạng câu hỏi có nhiều lựa chọn: được trình bày dưới dạng một câu hỏi
gồm 2 phần- phần dẫn và phần lựa chọn. Phần dẫn là một câu hỏi, có thể là
một câu hỏi chưa hoàn chỉnh. Phần lựa chọn bao gồm các phương án trả lời,
học sinh phải lựa chọn 1 trong các phương án đó.
Ví dụ: Hãy khoanh tròn vào chữ cái in hoa trước ý trả lời em cho là
đúng:
Tứ đại phát minh của Trung Quốc thời phong kiến là:
A.giấy viết, nghề in, đóng thuyền, luyện sắt
B.chữ viết, nghề in, la bàn, thuốc súng
C.giấy viết, gốm sứ, đóng thuyền, thuốc súng
9


D.giấy viết , nghề in, la bàn, thuốc súng
-câu hỏi điền khuyết: căn cứ vào các dữ liệu đã cho hoặc dựa vào kiến
thức đã học mà tìm các từ, các cụm từ điền vào chỗ trống
Ví dụ: hãy điền các cụm từ vào chỗ ... cho đúng với ý nghĩa của Cách
mạng tháng Tám: người dân độc lập tự do, xiềng xích nô lệ, trở thành một
nước độc lập, một sự kiện vĩ đại
“cách mạng tháng Tám là……… trong lịch sử dân tộc Việt Nam. Nó đã
phá tan hai tầng……của thực dân Pháp và phát xít Nhật, đồng thời nó còn lật
nhào chế độ quân chủ chuyên chế ngót ngàn năm. Nước Việt Nam từ một
nước thuộc địa đã…..dưới chế độ dân chủ cộng hòa, đưa nhân dân ta từ thân
phận nô lệ thành………làm chủ nước nhà”
-Dạng câu ghép đôi: được trình bày dưới dạng một bảng thống kê bao
gồm hai cột: cột thời gian và cột sự kiện- học sinh phải nối thời gian với sự
kiện cho đúng
Ví dụ: hãy nối sự kiện với thời gian khởi nghĩa trong cách mạng tháng
Tám cho đúng:

Sự kiện
Khởi nghĩa thắng lợi ở Hà Nội
Khởi nghĩa giành thắng lợi ở Huế
Khởi nghĩa giành thắng lợi ở Sài Gòn
Hồ Chí Minh đọc tuyên ngôn độc lập

Thời gian
23/8/1945
19/8/1945
2/9/1945
25/8/1945
16/8/1945

Sau đây là các giáo án minh họa về đổi mới kiểm tra đánh giá học sinh
trong dạy học Lịch sử THCS
LỊCH SỬ 9- TIẾT 25- BÀI 21:
VIỆT NAM TRONG NHỮNG NĂM 1939-1945
Trước tiết học này, học sinh đã được học tiết 23 “phong trào cách mạng
trong những năm 1930-1935” và tiết 24 “cuộc vận động dân chủ trong những
năm 1936-1939”, do vậy giáo viên kiểm tra việc nắm kiến thức của học sinh ở
các bài trước bằng cách yêu cầu 2 học sinh lên bảng lập bảng so sánh về chủ
10


trương sách lược của ta trong giai đoạn 1930-1931 và 1936-1939 theo những
nội dung sau (mỗi học sinh một giai đoạn):
Nội dung

Giai đoạn 1930-1931


Giai đoạn 1936-1939

Kẻ thù
Nhiệm vụ
Mục tiêu
Hình thức đấu tranh
Phương pháp đấu tranh

Đồng thời yêu cầu 1 học sinh khác trả lời câu hỏi: “tại sao ta lại chủ
trương tiến hành cuộc vận động dân chủ 1936-1939?”. Như vậy, trong một
khoảng thời gian nhất định, giáo viên đã kiểm tra được nhiều học sinh
Giáo viên tổ chức hướng dẫn học sinh lĩnh hội kiến thức để các em biết
được tình hình thế giới và Đông Dương sau khi chiến tranh thế giới thứ 2
bùng nổ đã tác động như thế nào đến tình hình Việt Nam; hiểu rõ những thủ
đoạn mà Nhật- Pháp đã tiến hành để áp bức, bóc lột nhân dân Đông Dương;
đồng thời thấy được chính sự áp bức đó đã dẫn đến các cuộc khởi nghĩa Bắc
Sơn, khởi nghĩa Nam Kì và binh biến Đô Lương…Để củng cố kiến thức, giáo
viên có thể đưa ra bài tập nhận thức cho học sinh như sau:
Củng cố: giáo viên yêu cầu học sinh lên bảng hoàn thiện bảng sau:
Sự kiện
Nhật tiến đánh Lạng Sơn

Thời gian

Khởi nghĩa Bắc Sơn
Khởi nghĩa Nam Kì
Binh biến Đô Lương
Cuối tiết học, giáo viên giao bài tập về nhà cho học sinh, yêu cầu các
em về vẽ lược đồ khu giải phóng Việt Bắc
Như vậy qua giáo án minh họa (minh họa những phần liên quan đến nội

dung đề tài) trên cho thấy giáo viên không chỉ kiểm tra kiến thức, mà còn có
11


thể kiểm tra cả kĩ năng vẽ bản đồ của học sinh. Việc kiểm tra đánh giá không
chỉ tiến hành đầu giờ học, mà còn ở phần củng cố bài. Đồng thời với việc yêu
cầu học sinh về vẽ bản đồ cho tiết học sau, giáo viên có thể kiểm tra sự chuẩn
bị của học sinh vào tiết học sắp tới và cho điểm các em. Chính sự đổi mới đó
đã tạo ra sự hứng thú cho học sinh và góp phần vào việc nâng cao hiệu quả
giờ học.
A.

ĐỀ KIỂM TRA LỊCH SỬ 9 (1 TIẾT- HỌC KÌ II)
Mục tiêu và nội dung kiểm tra
- kiểm tra việc lĩnh hội kiến thức của học sinh phần lịch sử Việt Nam từ

khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời cho tới khi cuộc kháng chiến chống thực
dân Pháp kết thúc thắng lợi
- kiểm tra kĩ năng làm việc với đồ dùng trực quan của học sinh, kĩ năng
nhận xét, đánh giá
- giáo dục học sinh lòng tự hào dân tộc, ý thức bảo vệ độc lập dân tộc
B. Ma trận ( theo hình thức ma trận đã được triển khai thực hiện từ các năm
học trước)
Các chủ đề chính
Bài 24: cuộc đấu tranh bảo vệ
và xây dựng chính quyền dân
chủ nhân dân
Bài 27: cuộc kháng chiến toàn
quốc chống thực dân Pháp
xâm lược kết thúc

Tổng số điểm
B.
Đề bài
I.

Các mức độ cần đánh giá
Nhận biết
Thông
Vận dụng
hiểu
TN
TL TN TL TN TL
1(2)

Tổng
số
điểm
2

1(1)

1(5)

1(2)

8

3

5


2

10

Trắc nghiệm

Câu 1(1 điểm): Hãy khoanh tròn vào chữ cái trước ý trả lời đúng:
a) chiến dịch nào được xem là đỉnh cao trong cuộc kháng chiến chống Pháp
(1945-1954)?
A.

Chiến dịch Việt Bắc

C. chiến dịch Tây Bắc
12


Chiến dịch Biên giới

B.

D. chiến dịch Điện Biên Phủ

b) hiệp định Giơ-ne-vơ về lập lại hòa bình ở Đông Dương được kí ngày:
A. 7/5/1954

C. 21/7/1954

B. 8/5/1954


D. 20/7/1954

Câu 2(2 điểm): em hãy ghi tiếp sự kiện vào cột II sao cho phù hợp với thời
gian ở cột I:
Cột I
23/9/1945
6/1/1946
6/3/1946
14/9/1946
II.

Cột II

Tự luận

Câu 3(2điểm): Hãy điền kiến thức phù hợp vào các vòng tròn có đánh số thứ
tự dưới đây để thể hiện vị trí tập trung binh lực của địch trong chiến cuộc
Đông- Xuân 1953-1954 và rút ra nhận xét:

2

1

3

4

5


- nhận xét:
……………………………………………………………………………………
Câu 4(5điểm):em hãy trình bày ý nghĩa lịch sử và nguyên nhân thắng lợi của
cuộc kháng chiến chống Pháp (1945-1954)?
C.
Phần

Đáp án và thang điểm
câu

Nội dung cần đạt

Điể
m
13


1

a) D
b) C
- 23/9/1945, thực dân Pháp xâm lược nước ta lần 2
2
- 6/1/1946, tổng tuyển cử bầu quốc hội khóa I
(2 điểm) - 6/3/1946, hiệp định Sơ bộ
- 14/9/1946, tạm ước Việt- Pháp
- điền theo số thứ tự:
1. đồng bằng bắc bộ
2. Điện Biên Phủ
3

3. Xê- nô
(2 điểm) 4. Luông-pha-băng
5. Plây-cu
- nhận xét: từ 1 điểm tập trung quân (đồng bằng
Bắc Bộ), địch phải bị động phân tán nhiều nơi
( Điện Biên Phủ, Xê-nô, Luông-pha-băng, Plâycu) kế hoạch Na-va bước đầu bị phá sản
* Ý nghĩa lịch sử
- đối với dân tộc:
+ chấm dứt ách thống trị của thực dân Pháp
+ miền Bắc giải phóng, xây dựng CNXH
- đối với thế giới:
+ góp phần làm tan rã hệ thống thuộc địa của chủ
nghĩa thực dân
+ cổ vũ mạnh mẽ phong trào giải phóng dân tộc
4
thế giới
(5 điểm) * Nguyên nhân thắng lợi
- chủ quan:
+ sự lãnh đạo tài tình, sáng suốt của Đảng, chủ
tịch Hồ Chí Minh
+ cuộc kháng chiến tiến hành trong điều kiện
thuận lợi: hệ thống chính quyền dân chủ nhân
dân,mặt trận dân tộc thống nhất, lực lượng vũ
trang 3 thứ quân, hậu phương vững mạnh
- khách quan:
+ tinh thần đoàn kết chiến đấu của 3 dân tộc Đông
Dương
+ sự ủng hộ, giúp đỡ của Liên Xô, Trung Quốc và
các lực lượng dân chủ
(1 điểm)


Trắc
nghiệ
m

Tự
luận

0,5
0,5
0,5
0,5
0,5
0,5
1

1

0,75
0,75
0,5
0,5

0,75
0,75

0,5
0,5

14



C.KẾT LUẬN
1.

Kết quả nghiên cứu
Sau quá trình nghiên cứu và thực hiện giảng dạy, chất lượng khảo sát

học sinh sau các tiết dạy thực nghiệm đã cho thấy ưu thế của đổi mới phương
pháp kiểm tra đánh giá. Kết quả cụ thể như sau:
Tổn
g số

Loại khá

Loại TB

Loại yếu kém

( điểm 9-10)

(điểm 7-8)

( điểm 5-6)

( dưới 5)

Số

Tỉ lệ


Số

Tỉ lệ

Số

Tỉ lệ

Số

Tỉ lệ

lượng
20

(%)
52,6

lượng
12

(%)
31,6

lượng
6

(%)
15,8


lượng
0

(%)

38

44

8

18,2

20

45,5

11

25

5

11,3

bài
Lớp thực

Loại giỏi


nghiệm
9A(38 HS)
Lớp đối
chứng 9B
( 44 HS)

2.

Bài học kinh nghiệm rút ra
Kiểm tra đánh giá là một khâu quan trọng không thể thiếu được của quá

trình dạy học, biện pháp quan trọng để nâng cao chất lượng dạy học. Nó
không chỉ là công việc của giáo viên mà cả của học sinh. Giáo viên kiểm tra
và đánh giá kết quả học tập của học sinh. Học sinh tự đánh giá lẫn nhau.
Trong kiểm tra đánh giá kết quả học tập của học sinh môn Lịch sử, cần
phải căn cứ vào chuẩn kiến thức kĩ năng để đánh giá kết quả học tập của học
sinh cho sát, đảm bảo yêu cầu cơ bản về kiến thức, kĩ năng sau mỗi bài, mỗi
chủ đề.
Khắc phục tình trạng thiên về kiểm tra ghi nhớ kiến thức, tăng cường ra
đề “mở” nhằm kiểm tra mức độ thông hiểu và vận dụng tổng hợp tri thức để
giải quyết vấn đề
15


Coi trọng kiểm tra đánh giá kĩ năng diễn đạt các sự kiện bằng lời nói,
đọc và khai thác sơ đồ, lược đồ, sa bàn, hiện vật, sử dụng máy tính, máy
chiếu…
Vận dụng linh hoạt các hình thức kiểm tra đánh giá: kiểm tra miệng có
thể tiến hành vào đầu giờ hoặc trong quá trình dạy học; trong kiểm tra viết

cần vận dụng linh hoạt giữa câu hỏi trắc nghiệm và tự luận, nhất thiết phải lập
ma trận trước khi ra đề kiểm tra
Khuyến khích vận dụng các hình thức kiểm tra đánh giá thông qua các
hoạt động học tập ngoài lớp học của học sinh, như: phân tích đánh giá các số
liệu bản đồ, làm đồ dùng dạy học..
3.
Kiến nghị, đề xuất
Qua kết quả thực nghiệm, chúng tôi thấy, việc đổi mới kiểm tra đánh
giá là cần thiết để tạo hứng thú học tập cho học sinh và góp phần nâng cao
chất lượng giáo dục. Muốn vậy, giáo viên phải được tiếp cận với các tài liệu
và tham gia nhiều hơn nữa các lớp chuyên đề giới thiệu về việc đổi mới kiểm
tra đánh giá. Mặt khác, các nhà trường cũng cần trang bị thêm phương tiện,
thiết bị hiện đại để tạo điều kiện thuận lợi cho giáo viên trong quá trình giảng
dạy.
Trên đây là toàn bộ sáng kiến kinh nghiệm về “Đổi mới kiểm tra đánh
giá trong dạy học lịch sử THCS” của bản thân tôi. Sáng kiến này chắc chắn
không thể tránh khỏi những thiếu sót. Tôi mong nhận được sự góp ý chân
thành của các đồng nghiệp để tôi có thể hoàn thiện hơn sáng kiến của mình
cũng như góp phần nâng cao chất lượng giảng dạy trong các năm học tiếp
theo.
Tôi xin chân thành cảm ơn.

Ngày 9 tháng 3 năm 2011
Người thực hiện
16


Trương Thị Hương

17




×