Tải bản đầy đủ (.doc) (21 trang)

Đánh giá chung về thực trạng đội ngũ cán bộ quản lý giáo dục bỉm sơn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (133.97 KB, 21 trang )

A. Đặt vấn đề:
I.Lời mở đầu ( Lí do chọn đề tài )
I.1. Lý do khách quan:
Nhận diện bài toán của giáo dục Việt Nam trong giai đoạn mới, sau khi
vào WTO, cũng như nhiều lĩnh vực khác, giáo dục Việt Nam đang đứng trước
một cơ hội mới: Bước vào sân chơi toàn cầu giáo dục; Giáo dục Việt nam sẽ
chuyển từ mô hình chuẩn độc quyền sang mô hình chuẩn thị trường. Điều đó
cũng đồng nghĩa với việc cần phải hoàn thiện thể chế và nâng cao năng lực
quản lí, chuyển từ tư tưởng quản lí chủ yếu bằng mệnh lệnh hành chính sang
quản lí chủ yếu bằng pháp luật.
Nhà nước và nhân dân đang đặt vấn đề cao đối với sự phát triển của
giáo dục nước ta trong những năm đầu thập niên thế kỉ XXI. Nhưng cả hiệu
lực bộ máy, năng lực quản lí và tiềm lực hệ thống còn bộc lộ nhiều yếu kém.
Vì vậy, Cải cách giáo dục là lời giải cho bài toán lớn giáo dục Việt Nam
trong giai đoạn mới. Một trong những giải pháp cho bài toán toán cải cách
giáo dục đó chính là cần phải đổi mới công tác quản lí giáo dục, nâng cao
nâng lực cho đội ngũ cán bộ quản lí giáo dục.
Quản lí giáo dục và quản lí nhà trường đóng vai trò định hướng, là một
trong những yếu tố mang tính đột phá và quyết định đến chất lượng và hiệu
quả giáo dục. Vì vậy, đổi mới lãnh đạo và quản lí giáo dục nói chung là một
tất yếu khách quan và cũng là đòi hỏi cấp thiết của xã hội trong giai đoạn hiện
nay; nhất là trong bối cảnh đất nước ta đã gia nhập tổ chức thương mại thế
giới (WTO).
Chỉ thị 40/CT – TW của Ban Bí thư trung ương Đảng về “Xây dựng, nâng
cao chất lượng đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lí giáo dục” đã chỉ rõ: Mục
tiêu là xây dựng đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lí giáo dục được chuẩn hóa,
đảm bảo chất lượng, đủ về số lượng, đồng bộ về cơ cấu, đặc biệt chú trọng
nâng cao bản lĩnh chính trị, phẩm chất lối sống, lương tâm, tay nghề nhà giáo;
thông qua việc quản lí, phát triển đúng định hướng và có hiệu quả sự nghiệp
giáo dục để nâng cao chất lượng đào tạo nguồn nhân lực, đáp ứng những đòi
hỏi ngày càng cao của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.


I.2. Lý do chủ quan:
Là một chuyên viên của phòng GD&ĐT Bỉm Sơn, đã hơn 10 năm được
tiếp xúc và làm việc cùng với các đồng chí hiệu trưởng, hiệu phó ở các trường
tiểu học, tôi nhận thấy, khoảng hơn 30% số CBQLGD tại các trường tiểu học
còn thiếu hụt ở tiêu chí này hay tiêu chí khác, chưa thực sự đáp ứng đầy đủ
yêu cầu đổi mới công tác quản lí giáo dục, yêu cầu của đổi mới Chương trình
giáo dục phổ thông.
Chính vì những lí do trên, tôi mạnh dạn trình bày suy nghĩ và những
việc làm đã giúp các hiệu trưởng, hiệu phó khắc phục được yếu điểm, ngày
càng hoàn thiện hơn trong công tác quản lí giáo dục, góp phần nâng cao chất
lượng đội ngũ, nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện trong các nhà trường.
Hy vọng sẽ tham mưu với Ngành những giải pháp nâng cao chất lượng cán bộ
1


quản lý giáo dục các trường tiểu học Bỉm Sơn theo tiêu chí chuẩn Hiệu
trưởng.
II. Thực trạng của vấn đề nghiên cứu:
II.1-Đánh giá chung về thực trạng đội ngũ cán bộ quản lý giáo dục Bỉm
Sơn:
Để có sự nhìn nhận khách quan về thực trạng đội ngũ cán bộ Ngành
giáo dục Bỉm Sơn, tôi đã tiến hành điều tra, khảo sát thực tế.
Cụ thể:
- Gặp gỡ cán bộ tổ chức - bộ phận tham mưu của cơ quan UBND Thị
xã, Thị uỷ, phòng giáo dục Bỉm Sơn để nắm bắt số liệu và thông tin về số
lượng, chất lượng đội ngũ cán bộ quản lý giáo dục.
- Gặp gỡ một số cán bộ quản lý các trường Mầm non, Tiểu học, THCS
để tìm hiểu thêm các thông tin về khả năng quản lý giáo dục của đội ngũ cán
bộ quản lý ở dưới cơ sở ( hoạt động của Ban giám hiệu các trường). Đặc biêt
thăm dò để tìm hiểu về mức độ hoà hợp, hỗ trợ trong lãnh đạo, quản lý của

cán bộ lãnh đạo, cán bộ quản lý tại cơ sở.
- Sử dụng phiếu trắc nghiệm để thăm dò khả năng lãnh đạo, quản lý, uy
tín của cán bộ QLGD ở cơ sở.
- Qua khảo sát thực tế: Điều tra lấy số liệu về đội ngũ cán bộ lãnh đạo
và quản lý của toàn ngành giáo dục Thị xã.
- Qua tham khảo kết quả công tác lấy phiếu tín nhiệm quy hoạch cán bộ
5 năm của Thị xã đối với cán bộ lãnh đạo và cán bộ quản lý giáo dục (tháng 5/
2005).
- Qua công tác thanh kiểm tra, thanh tra cácc trường học trong các năm
học, kiểm tra hồ sơ quản ly của các Hiệu trưởng, hiệu phó.
- Qua kết quả xếp loại hiệu trưởng, hiệu phó theo tiêu chí chuẩn Hiệu
trưởng vào cuối mỗi năm học.
Từ những khảo sát trên, tôi nhận thấy: Đội ngũ cán bộ quản lý giáo dục
Bỉm Sơn đã bộc lộ những mặt mạnh, mặt yếu như sau:
* Mặt mạnh:
- 100% số cán bộ lãnh đạo, quản lý giáo dục Bỉm Sơn đều là Đảng
viên, có bản lĩnh chính trị vững vàng, kiên định với mục tiêu, con đường mà
Đảng và Bác Hồ đã chọn.
- Trong công tác, phần lớn trong số họ rất nhiệt tình, năng động, sáng
tạo, hăng hái thực hiện đường lối, chủ trương, chính sách đổi mới của Đảng
và Nhà nước về kinh tế, văn hoá, xã hội nói chung và giáo dục nói riêng.
- 100% cán bộ lãnh đạo và quản lý có trình độ đào tạo chuyên môn đạt
chuẩn trở lên, có thể đáp ứng được các yêu cầu cơ bản trong việc tiếp thu,
triển khai chuyên đề chuyên môn. Trong đó, có 50% khả năng đáp ứng yêu
thực hiện yêu cầu đổi mới chương trình giáo dục phổ thông.
- Trình độ quản lý và năng lực quản lý kinh tế, quản lý xã hội bước đầu
được nâng cao.

2



- Hầu hết cán bộ giữ được phẩm chất đạo đức, phẩm chất cách mạng,
có lối sống nhà giáo lành mạnh, giản dị, gắn bó vơí học sinh, với đồng nghiệp,
với phụ huynh; Có lòng yêu nghề, tích cực tham gia cải tiến, đúc rút sáng kiến
kinh nghiệm, nhiều đề tài có khả năng ứng dụng, góp phần nâng cao chất
lượng quản lý giáo dục, chất lượng giáo dục toàn diện trong các nhà trường.
- Có năng lực vận động quần chúng, làm tương đối tốt công tác xã hội
hoá giáo dục, góp phần hoàn thành phổ cập giáo dục TH đúng độ tuổi, tích
cực tham mưu với chính quyền, với các tổ chức đoàn thể để bổ sung cơ sở vật
chất cho các trường học.
*Nguyên nhân chính:
Thực hiện Nghị quyết Trung ương II, khoá VIII, trong thời gian qua,
công tác cán bộ ở Thị xã Bỉm Sơn đã từng bước được đổi mới về nội dung,
quy trình, chính sách cán bộ.
- Thị xã đã từng bước tiêu chuẩn hoá cán bộ, các thế hệ cán bộ; đã ưu
tiên đào tạo, bồi dưỡng một số lượt cán bộ về trình độ lý luận chính trị, về
trình độ quản lý nhà nước, về chuyên môn, nghiệp vụ.
- Các cấp uỷ và chính quyền của Thị xã đã cố gắng chỉ đạo công tác
đào tạo, bồi dưỡng cán bộ về lý luận chính trị, bước đầu khắc phục được tình
trạng tràn lan, không theo quy hoạch.; tăng cường cử tuyển cán bộ đi học các
lớp đại học , trên đại học..., đã chú ý đào tạo nguồn, cán bộ nữ, cán bộ trẻ.
- Công tác đánh giá cán bộ đã có sự tiến bộ, bài bản hơn, mở rộng dân
chủ hơn; Đã có kế hoạch bố trí, sắp xếp lại đội ngũ cán bộ một cách khoa học
hơn.
- Phòng GD&ĐT thị xã đã làm tốt công tác tham mưu trong công tác
bổ nhiệm, sắp xếp cán bộ quản lí cũng như trong việc uốn nắn, bồi dưỡng,
nâng cao năng lực cho đội ngũ cán bộ quản lí trên địa bàn.
*Mặt yếu:
Tuy nhiên, nhìn nhận một cách khách quan, tôi nhận thấy một bộ phận
cỏn bộ quản lí giáo dục tại các trường MN, TH, THCS của Bỉm Sơn vẫn có

những biểu hiện yếu kém sau đây:
- Đội ngũ cán bộ tuy đông nhưng không đồng bộ, vẫn còn tình trạng
"vừa thiếu, vừa thừa". Khoảng 20% số cán bộ trình độ kiến thức, năng lực
lãnh đạo và quản lý chưa đáp ứng được yêu cầu mới, nhất là kiến thức về
quản lý kinh tế, quản lý xã hội và pháp luật. Một bộ phận cán bộ có trình độ
chuyên môn đạt chuẩn (Chương trình đào tạo trước CCGD) ngại học, lười
nghiên cứu nên không có khả năng chỉ đạo, thực hiện đổi mới chương trình
giáo dục phổ thông (20% số cán bộ cao tuổi, có tư tưởng nghỉ ngơi, chờ ngày
nghỉ hưu), một số cán bộ trẻ có tư tưởng "hãnh tiến" đi học cốt chỉ để hợp lý
bằng cấp, ý thức học hỏi kinh nghiệm đồng nghiệp chưa cao; Một số cán bộ
có năng lực được chọn đi học nâng cao trình độ, khi có học vị cao hơn lại
chuyển công tác khác hoặc chuyển đến địa bàn khác.
- Chất lượng cán bộ lãnh đạo và quản lý giữa các bậc học, các trường
trong thị xã không đồng đều.
3


- Tính kế thừa của cán bộ quản lý chưa cao. Có trường 100% cán bộ
quản lý cùng nghỉ chế độ 1 năm; Phải đề bạt cả một Ban giám hiệu mới hoàn
toàn (Như TH Bắc Sơn trong những năm trước kia)
Công tác đề bạt, bổ nhiệm cán bộ chưa kịp thời. Có lúc, có nơi còn để
thiếu cán bộ chủ chốt trong một thời gian dài. (Phòng Giáo dục hơn 1 năm
mới bổ nhiệm phó phòng; Hơn nửa năm mới đề bạt Trưởng phòng, trường
THCS Quang Trung, TH Lam Sơn 1 khuyết 1CBQL trong gần 1 học kì)
Đội ngũ cán bộ quán lý giáo dục Bỉm Sơn (Những người có độ tuổi từ
50 -55) được hình thành từ nhiều nguồn khác nhau, hầu hết chưa đạt chuẩn về
quản lý nhà nước, phần lớn trưởng thành từ thực tiễn công tác giảng dạy trong
các nhà trường nên còn nặng về kinh nghiệm thực tiễn, thiếu lý luận quản lý
nhà nước. Do đó, gặp nhiều khó khăn khi tiếp cận và xử lý thông tin trong sự
nghiệp đổi mới.

Khoảng 15% số CBQL còn yếu về công tác quản lí tài chính, tài sản.
Khoảng 40% yếu về kĩ năng soạn thảo văn bản, truy cập, cập nhật
thông tin, quản lí hồ sơ nhà trường.
Khoảng 30% còn hạn chế về việc quản lí, chỉ đạo chuyên môn sâu.
Đặc biệt, công tác tham mưu, phối hợp của cán CBQLGD Bỉm Sơn
trong nhiều năm qua chưa tốt nên chưa huy động dược các nguồn lực xã hội
hóa giáo dục, tiến độ xây dựng trường chuẩn quốc gia chậm.
Một điều tưởng như nghịch lí nhưng thực tế, có khoảng 20% số CBQL
còn hạn chế về khả năng tổ chức, xây dụng kế hoạch; kĩ năng sống của một
bộ phận có phần hạn chế. Trong giao tiếp thiếu tự tin, dẫn đến vệc tuyên
truyền, vận động, thu hút quần chúng chưa cao.
Có thể nói, thực trạng đội ngũ cán bộ quản lý Bỉm sơn, còn một số
điểm chưa tương xứng với quy mô phát triển giáo dục và yêu cầu nâng cao
chất lượng giáo dục hiện nay.
*Nguyên nhân chính:
Nguyên nhân chính mang tính khách quan, phổ biến chung hiện nay là:
- Một phần là do công tác quy hoạch cán bộ có lúc, có nơi chưa kịp
thời, việc cất nhấc, đề bạt còn mang tính mùa vụ, tính quy hoạch chưa cao;
- Do bất cập trong đào tạo nên họ còn thiếu kiến thức về quản lý nhà
nước, pháp luật, quản lý kinh tế, do đó, trong qúa trình tổ chức thực hiện còn
nhiều lúng túng.
-Việc đánh giá, bố trí sử dụng cán bộ ở một số giai đoạn nhiều khi còn
chủ quan, chưa hợp lý, chưa phát huy được dân chủ, chưa mạnh dạn đề bạt
cán bộ trẻ, cán bộ nữ. Các chính sách đối với cán bộ như công tác phí, thi đua
khen thưởng còn bất hợp lý, thiếu công bằng, công tác luân chuyển cán bộ
thực hiện chưa thường xuyên, không thống nhất, thiếu đồng bộ.
- Công tác đào tạo, bồi dưỡng CBQL của Ngành GD&ĐT cũng như
công tác Bồi dưỡng, nâng cao trình độ LLCT cho CBQL GD Chất lượng và
hiệu quả đào tạo cán bộ còn chậm đổi mới, chưa sát với thực tế của các nhà


4


trường. Các lớp bồi dưỡng LLCT tổ chức ngay trong năm học, dẫn đến các
trường thường xuyên thiếu cán bộ quản lý vì "lãnh đạo đang đi học".
- Công tác đánh giá, quản lý cán bộ vẫn là khâu yếu ở các trường học,
xếp loại thi đua còn có biểu hiện nể nang, cào bằng, thiếu khách quan, chưa
thật sự công bằng. ( trong nhiều năm qua vẫn tồn tại một thực tế: có từ 95 100% CBQL đều đạt Chiến sĩ thi đua trong mỗi năm học.).Vì vậy, nhiều
CBQL tự bằng lòng, dậm chân tại chỗ, không nỗ lực phấn đấu, chậm đổi mới.
- Công tác quy hoạch luân chuyển cán bộ tuy có chuyển biến bước đầu
nhưng chưa đồng bộ, chưa đều ở các cấp, các ngành; chưa xây dựng được cơ
chế chính sách phát hiện, đào tạo, bồi dưỡng và sử dụng cán bộ dài hạn;
- Việc sắp xếp, bố trí các ê kíp lãnh đạo quản lý tại một số cơ sở giáo
dục chưa thật sự hợp lý nên hiện tượng mất đoàn kết nội bộ vẫn cũng xảy ra ở
một số trường.
- Do tính đặc thù của bậc học, 100% các trường TH: Cán bộ lãnh đạo,
quản lý đều là nữ, trong đó có 20% ở độ tuổi 50-54, chuẩn bị về hưu, có trình
độ đào tạo ban đầu là 10+ 3,THSP hoàn chỉnh, hoặc chuyển đổi từ phụ tá thí
nghiệp đi học hoàn chỉnh THSP, rồi tại chức lên ĐHSP nên số thời gian dành
cho công tác không thường xuyên ( Do phải đi học tại chức, đi học quản lí, đi
học TCLLCT v..v..., Một số CBQL không thực sự chuẩn về KTKN của bậc
học,việc chỉ đạo chuyên môn sâu có phần hạn chế;
- 30% các trường THCS: cán bộ quản lý là nam, mới được bổ nhiệm
trong thời gian gần đây, kinh nghiệm quản lý chưa nhiều.
- 40% số trường cả Ban giám hiệu đều có chuyên môn là tự nhiên hoặc
xã hội, khả năng chỉ đạo, kiểm tra chuyên sâu ( Hồ sơ, dự giờ bị hạn chế.)
- Công tác quy hoạch cán bộ quản lý giáo dục làm chưa tốt nên nguồn
thay thế nhân sự vào các đầu năm học còn chưa kịp thời.
- Do không có sự thống nhất về việc cho CBQL học tập nâng cao trình
độ lí luận chính trị giữa cấp ủy địa phương và phòng Giáo dục nên trong năm

học này, mỗi tháng có tới 10 ngày các trường MN, TH,THCS đều vắng từ 1-2
CBQL, gây khó khăn cho công tác quản lí ở các trường học, ảnh hưởng không
nhỏ đến nề nếp dạy học của các nhà trường.
Theo điều 19 của Điều lệ trường TH ban hành kèm theo Quyết định số
07/2007/QĐ–BGD&ĐT ngày 20/4/2007 của Bộ trưởng Bộ GD&ĐT quy định
Nhiệm vụ và quyền hạn của Hiệu trưởng, phó Hiệu trưởng như sau:
- Xây dựng và tổ chức bộ máy nhà trường;
- Thực hiện các nghị quyết, Quyết nghị của Hội đồng trường được quy định
tại khoản 2 Điều 20 của Điều lệ;
- Xây dựng kế hoạch và tổ chức thực hiện nhiệm vụ năm học;
- Quản lí giáo viên, nhân viên thực hiện công tác khen thưởng, kỉ luật đối với
giáo viên, nhân viên theo quy định của nhà nước; quản lí hồ sơ tuyển dụng
giáo viên, công nhân viên;
- Quản lí học sinh và các hoạt động của học sinh do nhà trường tổ chức; Xét
duyệt kết quả đánh giá xếp loại học sinh, kí xác nhận học bạ, kí xác nhận
5


hoàn thành chuwong trình tiểu học và quyết định khen thưởng, kỉ luật của học
sinh theo quy định của Bộ GD&ĐT;
- Quản lí tài chính, tài sản của nhà trường.
- Thực hiện các chế độ chính sách đối với giáo viên, nhân viên, học sinh, tổ
chức thực hiện Quy chế dân chủ trong hoạt động của nhà trường; Thực hiện
công tác xã hội hóa giáo dục trong nhà trường.
- Được đào tạo nâng cao trình độ, bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ và
hưởng các chế độ, chính sách theo quy định củ Pháp luật.
- Chịu trách nhiệm trước cấp trên về toàn bộ nhiệm vụ được quy định….
Để đảm nhiệm được vai trò và nhiệm vụ quan trọng đó đòi hỏi người
CBQLGD trong giai đoạn hiện nay phải đáp ứng được 18 tiêu chí của quy
định chuẩn Hiệu trưởng trường Tiểu học( Tại thông tư số 14/2010/TTBGDDT).

Thế nhưng, thực tế cho thấy: Hiện tại đội ngũ cán bộ nói chung, cán bộ
các trường tiểu học trên địa bàn thị xã Bỉm Sơn nói riêng vẫn còn khoảng hơn
30% số CBQLGD chưa thực sự đáp ứng đầy đủ yêu cầu của đổi mới Chương
trình giáo dục phổ thông, yêu cầu đổi mới công tác quản lí giáo dục.
Cụ thể:
- Các tiêu chí 1.2.3: Phẩm chất chính trị, đạo đức nghề nghiệp, lối sống, tác
phong : 100% CBQLGD đạt yêu cầu từ mức khá trở lên.
- Các yêu cầu thuộc Tiêu chí 4 đến tiêu chí 18 đều đạt trên mức trung bình, có
khoảng 40% đạt mức khá, để đạt được xuất sắc cần phải có khoảng thời gian
nhất định đủ để mỗi CBQL nỗ lực cố gắng cũng như để Ngành tiếp tục đào
tạo, bồi dưỡng thêm.
Đối chiếu với chuẩn Hiệu trưởng trường tiểu học, các CBQLGD của
chúng tôi còn bộc lộ những hạn chế sau:
- Tiêu chí 3: Giao tiếp ứng xử chỉ đạt trên mức trung bình. Điểm yếu nhất
của các Hiệu trưởng, hiệu phó là khả năng hợp tác, phối hợp với chính quyền
địa phương và cộng đồng giáo dục học sinh chưa tốt.
- Tiêu chí 5: Tự học, tự bồi dưỡng: chỉ đạt ở mức trung bình, ý thức tự học
tự bồi dưỡng của phần lớn CBQLGD chưa thường xuyên, hơn nữa chưa chưa
biết tư vấn và tạo điều kiện giúp đỡ cán bộ, giáo viên, nhân viên học tập, bồi
dưỡng và rèn luyện nâng cao phẩm chất chính trị, đạo đức, nâng lực chuyên
môn, nghiệp vụ sư phạm.
- Tiêu chí 6 : Về trình độ chuyên môn: mới chỉ đạt ở mức trung bình, chưa
cập nhật thường xuyên kiến thức phổ thông về chính trị, kinh tế, y tế, văn hóa
liên quan đến giáo dục tiểu học; Năng lực bồi dưỡng chuyên môn cho giáo
viên còn hạn chế.
- Tiêu chí 7: Nghiệp vụ sư phạm: còn hạn chế về khả năng ứng dụng công
nghệ thông tin, ngoại ngữ phục vụ cho hoạt động quản lí giáo dục.
- Tiêu chí 8: Hiểu biết nghiệp vụ quản lí:Vận dụng chưa thành thạo các kiến
thức cơ bản về khoa học quản lí trong lãnh đạo và quản lí nhà trường.


6


- Tiêu chí 9: Về việc Xây dựng và tổ chức thực hiện quy hoạch, kế hoạch
phát triển nhà trường : Việc tổ chức đánh giá rút kinh nghiệp chưa tốt.
- Tiêu chí 10: Quản lí tổ chức bộ máy, cán bộ, giáo viên, nhân viên: Công
tác đánh gía xếp loại, khen thưởng, kỉ luật còn mang tính hình thức, nể nang
nên chưa có tác dụng phát triển đội ngũ và thúc đẩy các hoạt động của nhà
trường. - Tiêu chí 11: Quản lí học sinh: còn hạn chế ở khâu sắp xếp lớp học
chưa đúng tỉ lệ, Số học sinh / lớp quá đông do thỏa mãn nhu cầu chọn lớp,
chọn thầy của
phụ huynh.
- Tiêu chí 12: Quản lí họạt động dạy học và giáo dục: Việc lưu giữ các văn
bản, hồ sơ kiểm tra, thanh tra, kiểm định chất lượng ở một số nhà trường chưa
tốt.
- Tiêu chí 13: Quản lí tài chính, tài sản nhà trường:còn yếu ở khâu quản lí
tài sản hiện có, việc thẩm định, kiểm kê tài sản chưa thường xuyên.
- Tiêu chí 14: Quản lí hành chính và hệ thống thông tin: Việc quản lí các
báo cáo đánh giá tác động của quản lí hành chính, hệ thống thông tin và chế
độ thông tin, báo cáo còn chưa tốt., việc cải tiến quản lí hành chính còn chậm.
- Tiêu chí 15: Tổ chức kiểm tra, kiểm định chất lượng giáo dục: Có lúc, có
nơi chưa thật nghiêm túc, việc tổ chức coi, chấm thi còn lỏng lẻo.
- Tiêu chí 16: Hoạt động dân chủ trong nhà trường: Việc tổ chức lấy ý kiến
đóng góp từ cán bộ giáo viên, nhân viên và phụ huynh còn nặng về hình thức,
chưa thực sự mang lại kết quả tốt cho hoạt động giáo dục nhà trường, Tồn tại
nhiều nhất là ở khâu phối hợp với các tổ chức chính trị, xã hội trong nhà
trường.
- Tiêu chí 17: Tổ chức phối hợp với gia đình học sinh: Về mặt tổ chức một
số hoạt động tuyên truyền trong cha mẹ học sinh chưa sáng tạo, việc quản lí
mối quan hệ thông tin hai chiều giữa giáo viên bộ môn, giáo viên chủ nhiệm

lớp với phụ huynh chưa thường xuyên, thiếu chặt chẽ.
- Tiêu chí 18: Phối hợp giữa nhà trường và địa phương: Còn nặng ở việc
đòi hỏi CSVC, cong tác tham mưu với cấp ủy, chính quyền địa phương về chủ
trương, biện pháp nhằm phát triển giáo dục tiểu học trên địa bàn còn chưa tốt.
B. Giải quyết vấn đề:
I. Các giải pháp thực hiện:
Lao động của các cán bộ quản lí giáo dục là lao động tổng hợp; Họ vừa
là nhà quản lí, vừa là nhà giáo dục, vừa là nhà chuyên môn và cũng đồng thời
là nhà hoạt động xã hội. Vì vậy, để đánh giá đúng khả năng quản lí của họ để
đưa ra những giải pháp hỗ trợ nhằm uốn nắn, bồi dưỡng, nâng cao chất lượng
quản lí cho các Hiệu trưởng, hiệu phó trong các trường tiểu học quả là không
dễ dàng.
Với chức năng tham mưu, giúp việc cho Trưởng phòng GD&ĐT, là
chuyên viên của phòng GD&ĐT, thường xuyên tiếp xúc và trực tiếp làm việc
7


với các Hiệu trưởng, hiệu phó các trường học qua các buổi tổ chức chuyên đề,
qua công tác thanh, kiểm tra, qua các Hội nghị xây dựng kế hoạch nhiệm vụ
năm học, hội nghị sơ, kết, tổng kết, qua tham dự các Hoạt động giáo dục
ngoài giờ lên lớp…, bằng cảm nhận, bằng việc đối chiếu với các tiêu chí về
quyền hạn, nhiệm vụ của CBQLGD, tôi nhận thấy các điểm mạnh và sự hạn
chế của mỗi đồng chí Hiệu trưởng, Hiệu phó ở mỗi mức độ, góc nhìn và mỗi
lĩnh vực quản lí khác nhau. Và trong quá trình phối hợp công tác, bản thân tôi
đã trực tiếp chỉ rõ những hạn chế của từng đồng chí Hiệu trưởng hoặc Hiệu
phó nào đó với những góp ý, điều chỉnh kịp thời, phù hợp.
Sau 11 năm kiên trì và thân tình, với vốn kinh nghiệm quản lí ít ỏi của
bản thân, tôi đã được các CBQL ở các trường TH Bỉm Sơn tin tưởng, tiếp
nhận sự đóng góp, chủ động bổ sung, sửa chữa và ngày càng vững vàng hơn
trong công tác quản lí của mình.

Vì vậy, trong đề tài này, tôi mạnh dạn nêu lên những suy nghĩ của mình
về công tác xây dụng đội ngũ cán bộ quản lí giáo dục, đặc biệt là nêu lên
những giải pháp mang tính tham mưu về việc góp phần nâng cao chất lượng
đội ngũ CBQLGD các trường tiểu học trên địa bàn Thị xã Bỉm sơn.
I.1. Tăng cường công tác kiểm tra chuyên đề, thanh tra toàn diện các nhà
trường, phát hiện những yếu kém, tồn tại trong nhận thức, trong quản lí
điều hành của CBQL để kịp thời uốn nắn và có kế họach bồi dưỡng phù
hợp, giúp các Hiệu trưởng, Hiệu phó trong các nhà trường sớm hoàn
thiện, nâng cao năng lực quản lí và hiệu quả quản lí.
Thiết nghĩ, đây là giải pháp quan trọng, có tính chất quyết định cho
việc lựa chọn nội dung, cách thức bồi dưỡng để hoàn thiện các tiêu chí chuẩn
CBQLGD.
Trong quá trình thanh, kiểm tra, Phòng GD&ĐT mới phát hiện ra
những tồn tại trong các hoạt động giáo dục của nhà trường, tìm nguyên nhân
của những tồn tại đó để có những đề xuất khắc phục.
Ví dụ: Thông qua kiểm tra việc xây dựng các loại Kế hoạch trong năm
học của một số trường tiểu học, chúng tôi đã đánh giá được khả năng tổ chức,
quản lí, xây dựng tầm nhìn, phát triển nhà trường của Hiệu trưởng ở một số
trường trong một vài năm trước đây mới chỉ dừng ở văn bản, việc công bố
công khai các loại kế hoạch đến cán bộ, giáo viên, nhân viên trong nhà trường
còn mang tính hình thức, chiếu lệ, chưa có sự bàn thảo, thống nhất cao về chỉ
tiêu, biện pháp và các điều kiện thực hiện. Sau nhiều lần phòng GD&ĐTđược
mẫu hóa các loại kế hoạch, được góp ý chi tiết về mục tiêu, giải pháp…
CBQL các trường tiểu học đã dần khắc phục được những tồn tại trên, Các kế
hoạch của từng trường đã mang tính khả thi, được sự tham gia và hưởng ứng
tích cực của các đối tượng liên quan. Từ chỗ, đầu năm các trường có xây
dựng và triển khai kế hoạch nhưng cuối kì, cuối năm lại không tổ chức đánh
giá, rút kinh nghiệm, hoặc nếu có thì chung chung, đến năm học này, hầu hết
các trường đã tổ chức đánh giá, rút kinh nghiệm việc thực hiện kế hoạch một
cách nghiêm túc.

8


Qua việc dự giờ, thăm lớp, kiểm tra hồ sơ tổ khối chuyên môn, kiểm tra
hồ sơ giáo viên… phần nào chúng ta đánh giá được việc chỉ đạo chương trình
dạy học của các CBQL ở mỗi nhà trường đạt đến mức độ nào? Đôi khi, chỉ
cần xem kĩ biên bản sinh hoạt của tổ khối chuyên môn, chúng tôi đã phát hiện
được Ban giám hiệu trường nào không quan tâm đến chất lượng sinh hoạt
chuyên môn, trường nào chậm đổi mới chương trình giáo dục phổ thông,
trường nào thực hiện nhanh, chậm chương trình, việc đánh giá xếp loaị
chuyên môn đã nghiêm túc chưa? Hoặc là chúng ta thẩm định lại bài kiểm tra,
xem sổ điểm … là có thể biết CBQL các trường đã thật sự sâu sát chuyên môn
chưa?
Chính nhờ vào việc tăng cường công tác thanh, kiểm tra các trường học
mà Phòng GD&ĐT mới có cách chỉ đạo các nhà trường đúng hướng, việc xây
dựng, tổ chức các chuyên đề trong năm học mới sạt thực, đáp ứng được nhu
cầu của các CBQL và của giáo viên, hiệu lực quản lí mới được nâng cao.
Ngược lại, nếu công tác thanh, kiểm tra của Phòng GD&ĐT lỏng lẻo,
không thường xuyên, chắc chắn sẽ không ít CBQL các trường sẽ lơ là, không
dành nhiều thời gian công sức cho việc tổ chức, thực hiện các kế hoạch giáo
dục. Đây là bài học xương máu mà Phòng GD&ĐT Bỉm Sơn đã rút ra được
bởi trong vài năm trở lại đây, biên chế của phòng giáo dục quá ít, không đủ
thời gian để bám nắm cơ sở, và tổ chức triển khai các chuyên đề chuyên môn,
dẫn đến chất lượng giáo dục một số trường tiểu học giảm sút, việc đổi mới
phương pháp dạy học còn chậm.
I.2. Tổ chức các lớp chuyên đề để tuyên truyền kiến thức pháp luật, nâng
cao trình độ lí luận chính trị, bồi dưỡng kĩ năng tin học, ứng dụng công
nghệ thông tin vào công tác quản lí và dạy học, các lớp bồi dưỡng, cho các
CBQLGD, chuyên đề đổi mới phương pháp dạy học, các chuyên đề chuyên
môn, cập nhật thông tin về chuẩn kiên thức, kĩ năng, giáo dục kĩ năng

sống, giáo dục tích hợp môi trường cho CBQLGD.
Như trên tôi đã trình bầy, đội ngũ cán bộ lãnh đạo và quản lý giáo dục ở
Thị xã Bỉm Sơn tuy đã đủ về số lượng nhưng không đồng bộ về chất lượng.
Trình độ đào tạo trước kia, nay không đáp ứng được yêu cầu của nội dung
giáo dục mới; phần đông số cán bộ chưa đào tạo bài bản về trình độ quản lý
nên còn yếu về khả năng quản lý tài chính. Đặc biệt, hiện nay, khoa học công
nghệ phát triển, cập nhật thông tin qua mạng.Thế nhưng hầu hết Cán bộ lãnh
đạo và cán bộ quản lý giáo dục chưa được đào tạo chương trình ngoại ngữ, tin
học, tối thiểu làm một văn bản cũng còn lúng túng. Do đó, hiện nay vấn đề
đào tạo, đào tạo lại và bồi dưỡng cán bộ nhằm bổ sung trình độ kiến thức,
năng lực chuyên môn và phẩm chất đạo đức đang đặt ra một cách bức xúc.
Một mặt, do trình độ năng lực của đội ngũ cán bộ chưa đáp ứng, một mặt do
đòi hỏi của tình hình và nhiệm vụ của công cuộc đổi mới đặt ra.
Vì vậy, ngoài việc thường xuyên bồi dưỡng lập trường quan điểm, đường
lối, chính sách của đảng , nhà nước qua các đợt triển khai nghị quyết, qua các
lớp chính trị,cần có kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng kiến thức về quản lý kinh tế,
9


quản lý hành chính, pháp luật, ngoại ngữ, tin học.... cho cán bộ đương chức và
cho cán bộ dự bị thông qua việc chọn cử cho các cán bộ lãnh đạo quản lý và
một số lực lượng trong nguồn cán bộ kế cận.
- Tổ chức có hiệu quả các chuyên đề quản lý, chuyên đề chuyên môn từ
cấp trường, cụm, thị xã một cách thường xuyên, có đánh giá thi đua giữa các
trường và đánh giá vai trò quản lý, tổ chức thực hiện của các cán bộ quản lý
giáo dục.
- Tăng cường kiểm tra chéo về các chuyên đề quản lý giáo dục, chuyên đề
đổi mới chương trình giáo dục phổ thông để kịp thời uốn nắn, bồi dưỡng năng
lực quản lý, thanh kiểm tra, chỉ đạo các hoạt động trong nhà trường của các
cán bộ quản lý giáo dục ở các nhà trường để tiện việc xem xét, phân loại cán

bộ quản lý giáo dục.
Hàng năm, Sở GD&ĐT, Các phòng GD&ĐT nên kiểm tra, thăm dò, nắm
bắt nhu cầu đào tạo và bồi dưỡng của cơ sở giáo dục để xây dựng kế hoạch tổ
chức các lớp chuyên đề hoặc phối hợp đào tạo, bồi dưỡng phù hợp, thỏa mãn
nhu cầu hiểu biết cho CBQLGD.
Đội ngũ CBQLGD của chúng ta hiện nay bất cập về trình độ đào tạo
nên về hình thức đạt chuẩn nhưng thực chất còn rất hổng về kiến thức chuyên
môn, kiến thức quản lí, xã hội và pháp luật,dẫn đến khả năng chỉ đạo chuyên
môn sâu còn hạn chế, Việc quản lí tài chính, tài sản còn mơ hồ, có lúc làm sai
nguyên tắc; kĩ năng giao tiếp hạn chế,việc tập hợp và thu hút quần chúng
chưa cao. Vì vậy,, việc lựa chọn nội dung chuyên đề, sắp xếp thời gian triển
khai hợp lí sẽ giúp ngành giáo dục lấp dần được khoảng trống còn thiêu hụt
trong mỗi CBQLGD.
Trong nhiều năm qua, tuy gặp nhiều khó khăn về vấn đè nhân sự nhưng
phòng GD Bỉm Sơn chúng tôi đã cố gắng thu xếp thời gian mở được một số
chuyên đề mang lại hiệu qủa cao.
Cụ thể như: Cách đây 5 năm, 100% cán bộ quản lí của chúng tôi đều
chưa biết sử dụng máy tính, việc rê chuột còn khó khăn, nhất là các đồng chí
lớn tuổi. Nhưng thấy dược sự cần thiết của việc ứng dụng công nghệ thông tin
vào quản lí và dạy học, chúng tôi đã lần phối hợp với trường Đại học Hồng
Đức lần lượt mở các lớp Kĩ năng Tin học văn phòng căn bản cho tất cả
CBQL, GV với 29 lượt học (bố trí vào thời gian hè, học buổi tối).
Đến nay, kết quả: 100% CBQL các trường đã biết sử dụng máy vi tính, soạn
thảo báo cáo, gửi thư điện tử, Trong đó , có khoảng 30% đã biết truy cập
INTENET, ứng dụng các phần mềm trong quản lí chất lượng giáo dục.
Hoặc việc mở các chuyên đề đổi mới phương pháp quản lí, đổi mới
phương pháp dạy học, chuyên dè bồi dưỡng học sinh giỏi… đã giúp các
CBQL hình dung được thế nào là đổi mới, đỏi mới như thế nào, điều kiện để
đổi mới, hiệu quả của đổi mới, từ đó, tự giác, tích cực hơn trong việc chỉ đạo
các tổ chuyên môn tại cơ sở thực hiện thường xuyên và vận dụng hiệu quả các

chuyên đề giáo dục do Sở và phòng GD-ĐT tổ chức, triển khai.

10


Cũng thông qua các chuyên đề Hội thảo đúc rút sáng kiến kinh nghiệm
mà các CBQL học tập được kinh nghiệm quản lí tài sản, kinh nghiệm nâng
cao chất lượng giáo dục toàn diện, chất lượng mũi nhọn trong nhà trường,
kinh nghiệm thu hút xã hội hóa giáo dục, kinh nghiệm xây dựng nề nếp tự
quản và tổ chức các HĐGDNGLL…
Việc tổ chức các lớp chuyên đề ở Bỉm Sơn chưa được nhiều nhưng sau
mỗi chuyên đề được tổ chức, chúng tôi thấy năng lực quản lí của cán bộ quản
lí ngày một được nâng lên.
I.3. Tổ chức các hội thi nhằm củng cố kiến thức quản lí và bồi dưỡng kinh
nghiệm quản lí.
- Tổ chức các hội thi "Cán bộ quản lý giỏi"; các cuộc thi "ý tưởng quản
lý"" nếu là nhà quản lý, Tôi sẽ...' dành cho cán bộ cốt cán chuyên môn, cán
bộ đoàn thể lực lượng nguồn. Cuộc thi này sẽ thực sự là " ngày hội" thu hút
được đông đảo cán bộ quản lý, giáo viên giỏi, cán bộ đoàn thể tham gia, giúp
các lãnh đạo, bộ phận tổ chức tham mưu tham khảo để đánh giá năng lực giao
tiếp, năng lực xử lý thông tin, năng lực giải quyết các vấn đề tình huống quản
lý, kiểm tra kiến thức chuyên môn, kiến thức quản lý... để đánh giá cán bộ
đương nhiệm, để tìm nguồn cán bộ quản lý lâu dài cho NgànhGiáo dục.
( Phòng GD&ĐT Bỉm Sơn đó tổ chức thi thí điểm cho CBQL bậc Mầm
non, thu hút các CBQL tham gia; Bước đầu đã để lại nhiều ấn tượng tốt đẹp.
Kế hoạch năm học 2011 -2012, Phòng GD&ĐT Bỉm Sơn sẽ tổ chức cho các
bậc TH, THCS theo hình thức thi trên))
II. Các biện pháp để tổ chức thực hiện:
II.1. Đối với phòng GD&ĐT:
Để góp phần khắc phục tình trạng yếu kém của đội ngũ CBQLGD, một

trong những giải pháp quan trọng của ngành GD&ĐT là: Đổi mới mạnh mẽ
công tác quản lý giáo dục các cấp và các nhà giáo theo hướng chuẩn hoá, hiện
đại hoá. Bố trí cán bộ quản lý giáo dục các cấp phù hợp với yêu cầu và năng
lực của cán bộ, có cơ chế thay thế khi không đáp ứng được yêu cầu. Đồng
thời phải xây dựng triển khai chương trình: xây dựng đội ngũ nhà giáo và cán
bộ quản lý giáo dục một cách toàn diện".
Một công việc hết sức quan trong và cần thiết của Ngành Giáo dục Bỉm
sơn là phải làm tốt công tác tham mưu với cấp uỷ, chính quyền Thị xã để :
xây dựng được một đội ngũ cán bộ quản lý giáo dục vừa hồng, vừa chuyên,
đáp ứng được các tiêu chuẩn cán bộ của Đảng nói chung, của Ngành giáo dục
nói riêng, phù hợp với điều kiện thực tế và hoạt động thực tiễn của điạ
phương, của Ngành giáo dục Thị xã….
Hiện nay,Phòng giáo dục Bỉm sơn đã xây dựng quy hoạch đội ngũ cán
bộ quản lý hiện có; chủ động xây dựng kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng cán bộ
QLGD của thị xã nhằm trẻ hoá đội ngũ, nâng cao chất lượng đội ngũ.; phấn
đấu đến 2010, đội ngũ cán bộ quản lý Bỉm sơn có trình độ tin học, ngoại ngữ
theo quy định Chuẩn nghề nghiệp Giáo viên TH. 100%, phấn đấu có 20% 25% có trình độ trên đại học.
11


- Phối hợp với khoa cán bộ quản lý Đại học Hồng Đức đầo tạo mới và đào tạo
lại một số cán bộ quản lý chưa qua đào tạo hoặc đào tạo trước kia để các cán
bộ quản lý giáo dục được cập nhật kiến thức quản lý.
- Làm tốt công tác tham mưu cho Thị Uỷ đưa chương trình bồi dưỡng đội ngũ
cán bộ quản lý vào công tác cán bộ của các cấp uỷ đảng, chính quyền: tiếp tục
bồi dưỡng lý luận và thực tiễn một cách thường xuyên và đồng bộ.
II.2. Đối với CBQLGD:
Trong công cuộc đổi mới, thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất
nước" Yêu cầu mỗi cán bộ nói chung, mỗi CBQLGD không chỉ có lòng nhiệt
tình, lòng hăng hái, mà còn phải có năng lực trí tụê, biết sáng tạo, chủ động

trong công việc của cuộc sống, của Ngành Giáo dục hết sức phong phú và
phức tạp luôn đòi hỏi phải giải quyết! Vì vậy, mỗi CBQLGD cần phải không
ngừng học hỏi, tích cực tự học, tự bồi dưỡng để nâng cao trình độ chuyên
môn, trình độ quản lí, mở mang kiến thức xã hội .
C. Kết luận:
I. Kết quả:

Bảng so sánh, đối chứng kết quả xếp loại
CBQLGD bậc Tiểu học thị xã Bỉm Sơn
( TS: 21 CBQLGD của 8 trường TH )

Tiêu chí

1. Phẩm chất chính trị, đạo
đức nghề nghiệp

Mức độ đạt được ( Tính theo số lượng )
Từ năm 2007- 2008 – Năm học 2010 -2011
2009 2010
Xuấ Kh TB Yếu Xuấ Kh T Yế
t sắc á

t
á
B
u
m sắc

m
4


10

7

0

8

13

0

0

6

12

3

0

9

13

0

0


3:Lối sống, tác phong

5

11

5

0

9

12

0

0

4:Giao tiếp và ứng xử

4

14

3

0

7


14

0

0

5: Học tập, bồi dưỡng

3

8

7

3

6

12

3

0

6:Trình độ chuyên môn

4

6


5

6

7

9

3

2

7: Nghiệp vụ sư phạm

5

7

5

4

7

10

3

1


2:Đạo đức nghề nghiệp.

12


8: Hiểu biết nghiệp vụ quản


3

6

7

5

5

9

5

2

9:Xây dựng và tổ chức thực
hiện quy hoach, kế hoạch
giáo dục phát triển nhà
trường.


3

6

7

5

6

9

4

2

10:Quản lí - Tổ chức bộ máy,
cán bộ, giáo viên, nhân viên
nhà trường.

4

6

8

3

6


9

4

2

11: Quản lí học sinh.

5

9

5

2

8

10

3

0

12: Quản lí hoạt động dạy
học và giáo dục

6

8


5

2

8

10

3

0

13: Quản lí tài chính, tài sản
nhà trường

4

7

7

3

6

9

5


1

14: Quản lí hành chính và hệ
thống thông tin

5

8

4

4

7

9

3

2

15: Tổ chức kiểm tra, kiểm
định chất lượng giáo dục.

5

8

5


3

7

9

3

2

16:Thực hiện dân chủ trong
hoạt động của nhà trường

7

9

3

2

8

11

1

1

17: Tổ chức phối hợp với gia

đình học sinh

6

8

5

2

8

10

2

1

18: Phối hợp giữa
trường và địa phương.

6

8

3

4

7


9

4

1

nhà

II. Kết luận chung:
Những cách thức mà tôi vừa trình bầy ở trên chỉ là những giải pháp tình
huống để giải khắc phục những tồn tại về đội ngũ CBQLGD do bất cập về
công tác lựa chọn, bổ nhiệm, bất cập về trình độ đào tạo do lịch sử để lại. Đó
cũng là sự tôn trọng đội ngũ CBQLGD hiện có.
Thế nhưng, để có một đội ngũ CBQLGD đáp ứng đầy đủ các tiêu chí của
Chuẩn Hiệu trưởng, đảm nhiệm tốt vai trò nhà quản lí, nhà giáo dục, nhà xã
hội, tôi xin mạnh dạn nêu ra những ý kiến đề xuất về việc Xây dựng và phát
triển đội ngũ CBQLGD trong thời gian tới (cũng có thể gọi là nhóm giải pháp
chiến lược ) như sau:
13


Một là: Chú trọng kiện toàn cơ quan tham mưu về công tác cán bộ
QLGD, Đổi mới lại công tác quy hoạch đội ngũ cán bộ QLGD:
Khi nghiên cứu chức năng của người lãnh đạo, quản lý, người ta đều
thống nhất rằng: chức năng tổ chức là một trong những chức năng cơ bản
nhất. Muốn lãnh đạo tập thể phải thông qua công tác tổ chức và bằng con
đường tổ chức. Chính vì thế, trên thực tế, chức năng tổ chức đã trở thành một
lĩnh vực công tác chuyên biệt - công tác tổ chức cán bộ. Phải coi công tác
tuyển chọn cán bộ là một việc làm thường xuyên để đảm bảo tính liên tục, kế

thừa và phát triển của tổ chức. Bộ phận tổ chức phải làm tốt công tác tham
mưu trong việc quy hoạch cán bộ cho ngành giáo dục.
Để khắc phục tình trạng "Mùa vụ ", thiếu ổn định, không kịp thời về công
tác cán bộ của ngành Giaó dục Bỉm sơn trong thời gian qua, Ngành Giáo dục
Bỉm sơn cần phải làm tốt công tác tham mưu với Thị Uỷ, UBND Thị xã để
làm tốt công tác Quy hoạch cán bộ. Bởi vì, có quy hoach tốt đội ngũ cán bộ
mới đảm bảo tính kế thừa và liên tục. Công tác quy hoạch cán bộ quản lý giáo
dục phải xây dựng từ yêu cầu nhiệm vụ chính trị của công cuộc đổi mới toàn
diện đất nước trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá, cũng như nhiệm
vụ chính trị của Ngành và của địa phương cơ sở.
Hai là: Làm tốt công tác đánh giá cán bộ, lựa chọn cán bộ QLGD:
Đánh giá cán bộ là khâu đầu tiên có ý nghĩa hết sức quan trọng vì nó ảnh
hưởng trực tiếp đến hiệu quả của các nội dung trong công tác cán bộ.
Riêng đối với cán bộ quản lý Giáo dục cần thiết phải được đánh giá về khả
năng ra quyết định quản lý giáo dục như thế nào, người đó khi ra quyết định
quản lý đã đảm bảo tính khách quan hay mang tính chủ quan, cẩn thận, chắc
chắn hay "bốc', vội vàng; sáng tạo, kịp thời hay thụ động, trì trệ, tự tin, quyết
đoán hay do dự, chờ đợi, mềm dẻo hay cứng nhắc?
Trong công tác đánh giá cán bộ quản lý giáo dục, ngoài việc xác định các
tiêu chuẩn, nội dung đánh giá còn cần phải đổi mới, hoàn thiện các phương
pháp đánh giá.cần đảm bảo sự khách quan, trung thực, có ý thức trách nhiệm,
nên thành lập một hội đồng đánh giá và coi đó là hình thức chủ yếu chịu trách
nhiệm để đánh giá cán bộ. Sự tham gia của tổ chức đảng, đoàn thể xã hội,
đảm bảo tính khách quan, toàn diện đúng đắn nhất về phẩm chất, năng lực của
cán bộ.
Tiếp theo công tác đánh giá cán bộ là công tác lựa chọn cán bộ để đặt vào
vị trí cần thiết trong tổ chức.
Để tránh những sai sót không đáng có, thông thường trước khi tuyển chọn,
người lãnh đạo và người quản lý các bộ phận cần tự trả lời câu hỏi: Có cần bổ
sung cán bộ thêm không?, nếu cần thì cần về việc gì? (Trường nào cần, cần

Hiệu trưởng hay Hiệu phó? ).
Cũng như công tác đánh giá cán bộ, công tác lựa chọn cán bộ quản lý giáo
dục cần phải đảm bảo theo nguyên tắc chung như: Nguyên tắc dân chủ,
nguyên tắc tính Đảng, nguyên tắc thống nhất giữa lãnh đạo chính trị và quản
lý kinh tế, nguyên tắc phát triển và một số nguyên tắc chuyên biệt khác như
14


nguyên tắc cá biệt, lịch sử cụ thể... Mặt khác khi lựa chọn cán bộ phải tính
đến các mặt như vùng, miền, cơ cấu, giới tính.Tuyệt đối không được "cực
đoan" trong lựa chọn, sắp xếp cán bộ; phải "Tôn trọng đội ngũ cán bộ quản lý
giáo dục hiện có".
Từ đó, tiến hành: Rà soát, phân tích đánh giá, sắp xếp, sử dụng tốt đội ngũ
cán bộ hiện có:
Trên cơ sở phân tích, đánh giá thực trạng đội ngũ cán bộ để có căn cứ
để điều chỉnh, sắp xếp hợp lý đội ngũ cán bộ quản lý giáo dục hiện có.
-Phát hiện những cán bộ có đủ tiêu chuẩn, có năng lực, có triển vọng
phát triển vọng đảm đương tốt nhiệm vụ để bố trí vào những điểm trọng yếu.
- Kiên quết đưa ra khỏi cơ quan lãnh đạo và quản lý những người vi
phạm đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của nhà nước, thoái hoá, biến
chất, tham nhũng, gây mất đoàn kết nội bộ. Đối những cán bộ có trình độ kiến
thức và năng lực yếu kém phải đưa đi đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ
hoặc điều chỉnh lại công tác cho phù hợp.
-Phát huy kinh nghiệm quản lý giáo dục của đội ngũ cán bộ hiện có, có thể
có sự uốn nắn, bổ sung kịp thời những khiếm khuyết của họ.
- Thực hiện luân chuyển cán bộ giữa các trường trong thị xã. Khi thực hiện
luân chuyển phải đảm bảo:
- Tăng cường cán bộ lãnh đạo,quản lý giáo dục có năng lực, giàu kinh
nghiệm về các trường khó khăn, chậm đổi mới.
- Điều tiết hợp lý khả năng phụ trách bộ môn, mang tính chuyên gia,

chuyên sâu giữa các ban giám hiệu.
- Cân đối tỉ lệ độ tuổi: Có người cao tuổi, công tác lâu năm, giàu kinh
nghiệm, có người trẻ tuổi có năng lưc, nhanh nhẹn, sáng tạo, tránh tình
Quan tâm đến sự dung hợp tâm lý, tạo được mối quan hệ bù trừ, tạo ra một
ê kíp lãnh đạo hoà hợp trong Ban giám hiệu các nhà trường. Có như vậy mới
khắc phục được các biểu hiện thiếu sự thống nhất trong mỗi ban giám hiệu,
gây mất đoàn kết nội bộ, làm giảm niềm tin của CBGV đối với CBQL.
Ba là: Đổi mới quan điểm đánh giá, lựa chọn, bố trí cán bộ QLGD:
Đánh giá cán bộ là một vấn đề hết sức hệ trọng, tế nhị, phức tạp trong
công tác cán bộ. Bởi vì, đánh giá đúng cán bộ sẽ bố trí, sử dụng đúng, phù
hợp với trình độ năng lực cuả cán bộ. Ngược lại, đánh giá sai sẽ gây sự thắc
mắc, dẫn đến mất đoàn kết nội bộ, làm thui chột tài năng cán bộ.Do đó, cần
phải có quan điểm mới trong cách nhìn nhận, đánh giá, lựa chọn, bố trí đề bạt
cán bộ quản lý giáo dục theo hướng thật sự trọng dụng tài năng. đánh giá
đúng cán bộ phải trên cơ sở căn cứ đánh giá và nội dung đánh gía cán bộ
(theo quy định số 50- QĐ/ TVV ngày 03- 05- 1999 của Bộ chính trị) và quy
định riêng của Ngành giáo dục.
Trong việc lựa chọn cán bộ quản lý giáo dục, một mặt phát hiện và lựa
chọn đúng những cán bộ có đủ đức và tài; mặt khác, phải kiên quyết bãi miễn
và đưa ra khỏi cương vị lãnh đạo, quản lý ở các trường, ở phong giáo dục
những cán bộ quản lý kém phẩm chất và năng lực, không đảm đương được
15


nhiệm vụ. Đồng thời bố trí lại những cán bộ phân công không hợp lý, mạnh
dạn bố trí những cán bộ trẻ đảm bảo tiêu chuẩn và sở trường; căn cứ vào kết
quả đánh giá, tuyển chọn để sử dụng cán bộ.
-Trong đề bạt, bố trí, sử dụng cán bộ quản lý giáo dục phải thực hiện
chế độ dân chủ, công khai và theo một quy trình đề bạt chặt chẽ, đảm bảo tính
khoa học, tính hiệu quả (Quy trình lấy phiếu tín nhiệm, đề bạt, bổ nhiệm,

miễn nhiệm, luân chuyển cán bộ )
Bố trí cán bộ phải đảm bảo tiêu chuẩn và đúng sở trường, đúng
người ,đúng việc và trọng dụng nhân tài; đề bạt đúng lúc, giao việc phải tương
xứng với năng lực. Trước khi đề bạt cần có một thời gian tập sự để xem xét
năng lực cán bộ. Thực hiện quy chế bầu cử có nhiệm kỳ, bổ nhiệm có thời
hạn.Có chế độ cán bộ được từ chức để nhận công việc thích hợp hơn.
Nói đến xây dựng đội ngũ cán bộ là nói đến việc đánh giá, lựa chọn,
sắp xếp con người trong tổ chức.
Con người lại là yếu tố trung tâm trong tổ chức. Để tổ chức tồn tại và
phát triển thì vấn đề quan trọng về mặt tâm lý cần phải được quan tâm. có như
vậy mới tạo ra sự dung hợp tâm lý giữa cá nhân với tập thể, với công việc, với
ngưòi lãnh đạo với các đồng nghiệp khác. Khi lựa chọn, sắp xếp cán bộ, cần
chú ý đến sự dung hợp tâm lý giữa các thành viên trong một tổ chức. Bởi sự
dung hợp tâm lý giữa các thành viên trong tổ chức là một trạng thái tâm lý xã
hội khách quan, phản ánh bản chất của các mối quan hệ trong tổ chức. Nếu
tạo ra được sự dung hợp tâm lý tối ưu thì sẽ nhân được sức mạnh của những
con người trong tổ chức gấp nhiều lần, nếu không có sự dung hợp sẽ dẫn tới
sự bất đồng, xung đột, làm cho tổ chức rời rạc, kém sức mạnh.
Thông thường có hai cách thức dẫn đến sự dung hợp tâm lý tương quan
và bù trừ.
Khi cần có sự thống nhất về mặt quan điểm (Về lao động, lợi ích xã
hội, tập thể, lối sống, hành vi ứng xử chung..) đòi hỏi sự tương quan., còn khi
muốn dung hợp về cá tính của cá thành viên thì đòi hỏi sự bù trừ. Bù trừ
không phải là đối lập mà tính nương tựa, bổ sung cho nhau. Hai loại khí chất
bình thản và nóng nảy nên bố trí làm việc cùng nhau, sẽ không loại trừ nhau
mà thực tế lại hỗ trợ, bổ sung cho nhau để đi đến hoàn thiện; Tương quan
nhân sự trong tổ chức đảm bảo cho tổ chức đó tồn tại và vận hành nên có ý
nghĩa hết sức quan trọng. Vì vậy,việc bố trí sắp xếp con người sao cho đúng
chỗ, đúng việc, phù hợp với đạo đức và khả năng của người đó.
Trong việc bố trí, sắp xếp bộ cán bộ quản lý giáo dục ở mỗi trường học

trong Thị xã, trong điều kiện có thể, chúng ta có thể bố trí như sau:,Với một
ban giám hiệu có 1 hiệu trưởng, 1 hiệu phó, có thể bố trí, sắp xếp theo tỉ lệ
sau:
Ban giám hiệu gồm:1 nam - 1 nữ; 1 cao tuổi, 1 trẻ tuổi, 1 " Sôi nổi: 1 "
trầm tính", 1 có năng lực chuyên môn sâu, 1 có kinh nghiệm quản lý giỏi.
Tuy nhiên, tuỳ đặc trưng đối tượng của bậc học để có sự sắp xếp cho
phù hợp:
16


- ở các Trường tiểu học đa số là nữ nên tỉ lệ nam - nữ khó thực hiện
được mô hình trên,, có thể thực hiện mối quan hệ bù trừ trừ, cần có sự xem
xét kỹ về mặt khí chất của từng cán bộ để có sự sắp xếp tương đồng.
- Các trường có Ban giám hiệu gồm 1 Hiệu trưởng, 2 Hiệu phó, có thể
bố trí theo cách trên, 1 người còn lại phải có phẩm chất, năng lực có thể hỗ trợ
hoặc đảm nhiệm nhiệm vụ chuyên môn sâu hoặc quản lý cơ sở vật chất, phụ
trách hoạt động Đoàn thể.
Bốn là: Đổi mới công tác thi đua khen thưởng, Đổi mới và hoàn thiện
chính sách cán bộ QLGD:
Trong điều kiện thực hiện nền kinh tế nhiều thành phần vận động theo
cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội chủ
nghĩa, chính sách cán bộ cần được nghiên cứu giải quyết kịp thời nhằm khắc
phục chính sách mang tính bình quân bao cấp, đặc quyền, đặc lợi;
Mặt khác, phải có chính sách thoả đáng đối với cán bộ thực sự có taì
năng, có cống hiến, có thành tích xuất sắc, khắc phục tình trạng chảy máu
chất xám... Sớm có quy định cải tiến chế độ tiền lương cho phù hợp với ngành
giáo dục, đảm bảo đời sống cho cán bộ, yên tâm công tác...
Trong khi chờ sự đổi mới chính sách cán bộ của nhà nước, Ngành giáo
dục Bỉm sơn phải chủ động làm tốt công tác xã hội hoá giáo dục, công tác
khuyến học..., làm tốt công tác tham mưu để huy động sức mạnh tổng hợp về

vật chất, tinh thần, động viên kịp thời thoả đáng các cán bộ có thành tích cao,
có cống hiến nhiều, góp phần nuôi và bồi dưỡng “cảm hứng quản lý” cho cán
bộ".
Từ năm học 2010 -2011 này, công tác thi đua, khen thưởng đã có sự
thay đổi, số lường chiến sĩ thi đua cơ sở đã hạn chế dưới 15%, vì thế, các
phòng GD&ĐT nên có sự đánh giá cán bộ quản lí chính xác, khách quan hơn;
Quan tâm đến việc biểu dương, khen ngợi các tập thể, cá nhân đã có nhiều cố
gắng ở một mặt nào đó, trong một phong trào thi đua nào đó để động viên kịp
thời sự nỗ lực, cố gắng của họ.
Mặt khác, Cần có chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ quản lý giáo
dục hợp lý (tổ chức các lớp bồi dưỡng vào thời gian hè...; miễn học phí, hỗ
trợ kinh phí đi học ...), có chế độ thi đua khen thưởng đối với cán bộ, tổ chức
thi cán bộ quản lý giỏi., khuyến khích sáng tạo, phát huy quyền hạn và trách
nhiệm cá nhân, tạo điều kiện cho cán bộ quản lý giáo dục hoàn thành xuất sắc
nhiệm vụ.
Một hình thức bồi dưỡng tại chỗ, mang tính háp dẫn và hiệu quả cao
nên làm vào dịp hè (lên kế hoach từ đầu năm để CB,GV nghiên cứu):Thi
CBQL giỏi. Hội thi này là dịp kiểm tra kiến thức về chuyên môn nhiệp vụ,
kiến thức quản lý , kinh nhiệm, nghệ thuật quản lý của cán bộ quản lý của
ngành.
Tóm lại: Thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá mở ra vô số cơ hội cho
mọi người có thể tiếp cận tức thời với thông tin và và liên hệ với nhau trên
một quy mô lớn chưa từng có. Người quản lý tâm huyết phải đòi hỏi bản thân
17


cố gắng gấp bội để tiếp cận và ứng dụng kiến thức tốt hơn. Người quản lý nhà
trường cần vất vả hơn, thông minh hơn.
Các nhà trường, các nhà giáo dục đứng trước trách nhiệm lớn lao là đào
tạo ra những con người mới, nguồn nhân lực mới, thế hệ quản lý mới cho nền

kinh tế mới - kinh tế tri thức. Đó là tiếng gọi thiêng liêng!
Các nhà lãnh đạo, các nhà tổ chức làm công tác tham mưu về công tác
cán bộ, các nhà quản lý giáo dục hãy" lắng nghe "những đòi hỏi của " Đổi
mới đất nước"; Hãy lắng nghe tiếng gọi của con tim đầy nhiệt thành cách
mạng, tin và theo Đảng... Để rồi: Nếu ta là người được đánh giá, lựa chọn, sắp
xếp, bố trí cán bộ thì ta thực hiện một cách khoa học, khách quan theo nguyên
tắc đúng đắn của Đảng, theo tư tưởng vĩ đại của Người!
Để rồi: Nếu là cán bộ quản lý giáo dục thì ta sẽ làm gì cho xứng với sự
lựa chọn của tổ chức, của Ngành, của nhân dân!

18


Lời cảm ơn.
********
Với tình cảm chân thành, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới các
Đồng chí Lãnh đạo Phòng Giáo dục, UBND Thị xã Bỉm Sơn, các đồng chí
cán bộ quản lý tại các trường Mầm non, Tiểu học, THCS trên địa bàn
Thị xã đã tạo điều kiện cho tôi thu thập thông tin và đóng góp ý kiến giúp
tôi hoàn thành đề tài SKKN này.
Do thời gian, năng lực còn nhiều hạn chế, đề tài SKKN không
tránh khỏi những thiếu sót, rất mong được sự chỉ bảo và đóng góp ý kiến
của các đồng chí trong HĐKH Phòng Giáo dục, Sở GD&ĐT và của các
bạn đồng nghiệp!
Bỉm Sơn, ngày 25 tháng 04 năm 2011
Tác giả:

Lê Thị Thảo

19



Tài liệu tham khảo:
1. Hồ Chí Minh về vấn đề giáo dục - NXBGD năm 1990
2. Bộ Giáo dục và đào tạo Chiến lược phát triển giáo dục và ĐT đến
2010( Hà nội 11/1999)
3. Bộ Giáo dục và đào tạo Chiến lược phát triển giáo dục và ĐT đến 2020
( Tài liệu tham khảo - Hà nội 1998)
4. Bộ Giáo dục - đào tạo- Kỷ yếu hội thảo về quản lý giáo dục.
5. Định hướng xây dựng và phát triển kinh tế- xã hội Thị xã Bỉm Sơn đến
2010
6. Nguyễn Gia Quý- Quản lý nguồn nhân lực - Tập bài giảng.
7.Giáo trình đường lối chính sách và quản lý giáo dục - đào tạo - Trường
QLGD-ĐT-Bộ Giáo dục - đào tạo-2003
8.Giáo trình " xây dựng Đảng"- học viện chính trị quốc gia-2002
9.Tư tưởng Hồ Chí Minh - nhà xuất bản chính trị Quốc gia.-2000
10.Tâm lý học quản lý dành cho người lãnh đạo -Học viện chính trị quốc gia
Hồ Chí Minh -2002.
11. Các văn kiện Hội nghị ban chấp hành Trung ương khoá VII,VIII,IX- NXB
chính trị Quốc gia.
12.Tài liệu nâng cao năng lực quản lí trường học – Học viện QLGD.
13. Tài liệu bồi dưỡng Hiệu trưởng - Học viện QLGD.
14. Hướng dẫn đánh giá, xếp loại, xếp loại Hiệu trưởng trường tiểu học
( Theo thông tư số 14/2011/TT – BGD&ĐT)

20


21




×