Tải bản đầy đủ (.doc) (12 trang)

Thực trạng đội ngũ cán bộ quản lí giáo dục và chế độ chính sách nhà giáo đối với ngành giáo dục sơn la

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (161.09 KB, 12 trang )

THỰC TRẠNG ĐỘI NGŨ CÁN BỘ QUẢN LÝ GIÁO DỤC VÀ CHẾ ĐỘ
CHÍNH SÁCH NHÀ GIÁO ĐỐI NGÀNH GIÁO DỤC SƠN LA
Th.S. Lò Mai Cương
Phó phòng Tổ chức cán bộ
trường Cao đẳng Sơn La
Tóm tắt : Sơn La là tỉnh miền núi cao biên giới, diện tích tự nhiên 14.174 km
2
,
có 250 km đường biên giáp với nước Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào; gồm 11 huyện,
thành phố, 206 xã, phường, thị trấn, 3.174 bản, tiểu khu, tổ dân phố (trong đó có 88 xã,
1.119 bản đặc biệt khó khăn, được hưởng Chương trình 135 giai đoạn 2); dân số trên
một triệu người, gồm 12 dân tộc anh em cùng sinh sống.
Sự nghiệp giáo dục - đào tạo Sơn La trong những năm gần đây ngày càng phát
triển và hoàn thiện: Giáo dục phổ thông cơ bản đã ổn định; Quy mô giáo dục được mở
rộng, mạng lưới trường lớp ổn định và phát triển với nhiều loại hình; giáo dục vùng dân
tộc, vùng sâu, vùng xa ngày càng được đẩy mạnh; chất lượng giáo dục - đào tạo từng
bước được nâng lên; việc bồi dưỡng, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực được quan
tâm; cơ sở vật chất trang thiết bị trường học tiếp tục được bổ sung; công tác xã hội hoá
bước đầu thu được kết quả đáng trân trọng; tạo nên phong trào học tập sôi nổi trong các
tầng lớp xã hội.
I - THỰC TRẠNG
1. Những mặt mạnh
* Về chất lượng đội ngũ nhà giáo:
- Hầu hết nhà giáo có trình độ đào tạo đạt chuẩn và trên chuẩn, số chưa đạt chuẩn
giảm dần hàng năm.
- Về nghiệp vụ sư phạm: phần lớn nhà giáo đều đã qua đào tạo, bồi dưỡng nghiệp
vụ sư phạm. Trình độ tin học và ngoại ngữ của đội ngũ nhà giáo đã được nâng lên (đặc
biệt ở các cấp học cao và đối với giảng viên).
- Về cơ bản đội ngũ nhà giáo có ý thức chính trị, phẩm chất đạo đức nghề nghiệp
tốt;
* Công tác tuyển dụng, sử dụng và quản lý đội ngũ nhà giáo


Những năm qua, Bộ Giáo dục & Đào tạo đã phối hợp với các bộ, ngành tập trung
xây dựng và ban hành được một hệ thống văn bản chỉ đạo tương đối đồng bộ, tạo điều
kiện thuận lợi để các địa phương và các cơ sở giáo dục thực hiện tốt chế độ chính sách
đối với đội ngũ nhà giáo.
Công tác đánh giá phân loại nhà giáo đã có nhiều đổi mới, bước đầu phát huy
tính tích cực, tạo động lực và khuyến khích nhà giáo phấn đấu vươn lên.
* Về đội ngũ cán bộ quản lý giáo dục
Cơ bản đã từng bước đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới; đội
ngũ cán bộ quản lý giáo dục có nhận thức đúng đắn, phẩm chất chính trị vững vàng, đạo
đức tốt, có trình độ chuyên môn sư phạm cao, tâm huyết với nghề (phần đa là những nhà
giáo được bổ nhiệm, điều động sang làm công tác quản lý), có kinh nghiệm trong công
tác quản lý giáo dục.
2. Về những tồn tại yếu kém:
- Chất lượng giáo dục - đào tạo của ngành giáo dục tỉnh Sơn La so với toàn quốc
nhìn chung còn thấp, chưa đồng đều giữa các vùng. Tỷ lệ học sinh trúng tuyển vào các
trường đại học, cao đẳng chưa cao. Quy mô đào tạo nghề còn nhỏ; cán bộ khoa học kỹ
thuật trình độ cao, cán bộ là người dân tộc thiếu số còn thiếu nhiều, tỷ lệ lao động qua
đào tạo còn thấp. Cơ sở vật chất trường học vẫn còn thiếu thốn, số lượng phòng học tạm
chiếm tỷ lệ cao. Các phòng học bộ môn, phòng, chức năng, nhà hiệu bộ hầu như chưa
có. Công tác xã hội hoá giáo dục chuyến biến chưa mạnh mẽ, quá trình đa dạng hoá các
loại hình giáo dục ngoài công lập còn chậm.
- Mặt bằng chung về đời sống, đa số nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục công tác
ở vùng dân tộc, miền núi Sơn La còn gặp không ít khó khăn trong công tác cũng như
trong sinh hoạt, một trong những nguyên nhân là do đất nước còn nghèo, chính sách đãi
ngộ đối với đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục chưa thực sự hợp lý, chưa đáp
ứng được nhu cầu sinh hoạt và đời sống.
- Hiện tượng tiêu cực trong công tác quản lý vẫn còn.
- Khả năng sử dụng ngoại ngữ và ứng dụng công nghệ thông tin trong công tác
quản lý còn yếu. Đa số chưa được đào tạo có hệ thống về công tác quản lý, trình độ và
năng lực điều hành quản lý chưa thực sự đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ; tính chuyên nghiệp

thấp, làm việc chủ yếu dựa vào kinh nghiệm cá nhân nên chất lượng, hiệu quả công tác
chưa cao.
- Công tác sử dụng và quản lý đội ngũ cán bộ quản lý giáo dục còn nhiều khó
khăn, bất cập, như: chưa có giải pháp giải quyết thoả đáng chế độ chính sách đối với
những nhà giáo được điều động sang làm công tác quản lý; đời sống của phần đông cán
bộ quản lý giáo dục gặp khó khăn, điều kiện làm việc còn hạn chế nên nhiều người
- Biên chế giáo viên mầm non, THCS rất hạn chế, khó khăn;
- Chính sách luân chuyển nhà giáo và nghĩa vụ làm việc trong ngành giáo dục còn
thiếu cơ chế, chưa có biện pháp khả thi để triển khai thực hiện có hiệu quả.
- Nhận thức và trách nhiệm của một bộ phận nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục
chưa đầy đủ, còn né tránh, nể nang; việc đánh giá CBGV chưa thật chính xác, khách
quan, chưa phản ánh đúng thực chất về đội ngũ.
- Chế độ chính sách cho đội ngũ nhà giáo hiện còn nhiều hạn chế, vướng mắc,
như:
+ Nhiều quy định trong chế độ, chính sách đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng nhà giáo
đã ban hành từ lâu, không còn phù hợp, song chậm được bổ sung, sửa đổi.
+ Bất cập trong việc thực hiện các chính sách đãi ngộ đối với nhà giáo, điều kiện
làm việc còn hạn chế nên bản thân họ chưa thực sự yên tâm công tác, đã có hiện tượng
giáo viên xin nghỉ việc, chuyển chỗ, làm nghề khác, nhất là đội ngũ nhà giáo ở vùng sâu,
vùng xa, vùng biên giới của tỉnh Sơn La v.v…
- Năng lực và trình độ chuyên môn nghiệp vụ của nhiều nhà giáo còn hạn chế,
chưa thực sự đổi mới phương pháp giảng dạy, đặc biệt là nhà giáo công tác ở vùng sâu,
vùng xa, biên giới ít có điều kiện nâng cao trình độ, cập nhật kiến thức.
- Còn một bộ phận không nhỏ chưa đạt yêu cầu về năng lực sư phạm, trình độ tin
học và ngoại ngữ.
- Thiếu cơ sở vật chất, phương tiện dạy học, một số ít nhà giáo do chạy theo vật
chất đơn thuần, đã ảnh hưởng trực tiếp tới chất lượng giáo dục.
- Do ảnh hưởng mặt trái của cơ chế thị trường, một số giáo viên thiếu tu dưỡng,
rèn luyện, vi phạm đạo đức nghề nghiệp.
- Qui mô giáo dục phát triển nhanh, song các điều kiện đảm bảo như cơ sở vật

chất kỹ thuật, ngân sách, đội ngũ giáo viên… còn chưa đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ. Công
tác đào tạo nguồn nhân lực về cơ cấu, chất lượng còn nhiều bất cập, có nhiều chuyên
ngành thừa, song cũng còn rất nhiều chuyên ngành thiếu và có sự chênh lệch giữa các
dân tộc, các vùng, các ngành trong tỉnh. Công tác đào tạo chưa đồng bộ từ khâu qui
hoạch, bố trí sử dụng; nguồn cán bộ khoa học kỹ thuật có trình độ cao và các chuyên gia
đầu ngành thuộc các lĩnh vực còn thiếu nhiều. Các Trung tâm học tập cộng đồng phát
triển chậm. Sự năng động tham gia của các cấp, các ngành và sự chủ động đầu tư cho
các lĩnh vực giáo dục trong từng giai đoạn còn nhiều hạn chế; những quy định về chế độ
chính sách đối với nhà giáo cần được Nhà nước và các nhà hoạch định chính sách quan
tâm nghiên cứu, điều chỉnh.
3. Nguyên nhân của những tồn tại, yếu kém
- Trước hết là do công tác quản lý, chỉ đạo ở một số địa phương trong tỉnh còn
hạn chế.
- Một bộ phận cán bộ quản lý giáo dục chưa được đào tạo cơ bản và đồng bộ về
kiến thức quản lý, lý luận chính trị và còn thiếu kinh nghiệm chậm đổi mới về tư duy và
phương thức quản lý; công tác tham mưu kém hiệu quả.
- Một bộ phận giáo viên chậm đổi mới phương pháp giảng dạy; vẫn còn giáo viên
vi phạm các tệ nạn xã hội; năng lực và trình độ tiếp thu của học sinh còn chậm; Sự phối
hợp giữa gia đình - nhà trường - xã hội trong việc quản lý, giáo dục học sinh, sinh viên
chưa chặt chẽ.
- Sự kết hợp giữa các cấp, các ngành, các lực lượng trong xã hội với ngành giáo
dục - đào tạo chưa đồng bộ, khả năng đầu tư và đóng góp cho giáo dục - đào tạo chưa
đáp ứng đủ so với yêu cầu.
II. NHỮNG GIẢI PHÁP
1.Cần "Luật hoá" các quan điểm, chủ trương của Đảng về việc xây dựng và phát
triển đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục. Cụ thể là:
- Tôn vinh nhà giáo và nghề dạy học, nâng cao vị trí xã hội của nhà giáo, ưu tiên
giáo viên vùng núi, vùng đặc biệt khó khăn.
- Đào tạo đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục theo địa chỉ, xây dựng các
trường sư phạm để bảo đảm chất lượng, đủ số lượng nhà giáo ở mọi cấp học, trình độ

đào tạo, các đối tượng đặc biệt trong xã hội.
- Bồi dưỡng phẩm chất, năng lực, chuẩn hoá đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý
giáo dục.
- Chăm lo đời sống vật chất và tinh thần của đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý
giáo dục.
- Quản lý, sử dụng đãi ngộ đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục đặc biệt
ở vùng núi đặc biệt khó khăn.
2. Các chế độ chính sách đối với đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục cần
được luật hoá để bảo đảm giá trị pháp lý và hiệu lực thi hành cao, bảo đảm điều chỉnh
công bằng đối với tất cả đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục ở vùng núi, vùng
dân tộc thiểu số.
+ Về các chính sách, chế độ trong tuyển dụng, điều động, luân chuyển, sử dụng
và quản lý đối với nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục; quy hoạch, đề bạt, bổ nhiệm,
miễn nhiệm đối với các chức danh cán bộ quản lý giáo dục; các chính sách, chế độ bảo
hiểm bắt buộc (bảo hiểm y tế, bảo hiểm xã hội), tiền thưởng, phúc lợi và các khoản thu
nhập chính đáng khác (ngoài tiền lương) của đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo
dục.
+ Về tiền lương và thang, bảng lương nhà giáo; chế độ phụ cấp (phụ cấp ưu đãi,
phụ cấp thâm niên...) và bảo lưu chế độ cho nhà giáo khi được điều động công tác về các
cơ quan quản lý giáo dục.
+ Cần đặc biệt quan tâm về các chính sách, chế độ: đối với đội ngũ nhà giáo và
cán bộ quản lý giáo dục công tác ở các trường vùng núi, vùng dân tộc thiểu số, ở các
vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn; vùng biên giới; chính sách đối với
nhà giáo giảng dạy các chuyên ngành đào tạo, bộ môn đặc thù; chính sách kéo dài thời
gian làm việc trước khi nghỉ hưu đối với các nhà giáo cốt cán, có học hàm/học vị cao;
chính sách thu hút nhà giáo là người Việt Nam ở nước ngoài về nước tham gia giảng
dạy, nghiên cứu khoa học - chuyển giao công nghệ...).
+ Về phân cấp quản lý đối với đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục;
chương trình, phương thức và hệ thống các cơ sở đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ nhà giáo và
cán bộ quản lý giáo dục

+ Về đẩy mạnh xã hội hoá, hợp tác quốc tế trong phát triển đội ngũ nhà giáo và
cán bộ quản lý giáo dục; quỹ khuyến khích phát triển đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý
giáo dục.
+ Về khen thưởng, xử lý vi phạm, khiếu tố và giải quyết yếu tố liên quan đến đội
ngũ nhà giáo, cán bộ quản lý giáo dục.
3. Phải trú trọng yếu tố hợp lý trong việc luân chuyển đội ngũ nhà giáo và cán bộ
quản lý giáo dục lên công tác tại miền núi, các vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc
biệt khó khăn
Abstract
STATUS OF PLOLICIES FOR TEACHERS AND EDUCATIONAL LEADERS
IN SON LA PROVINCE
Med.Lo Mai Cuong
Deputy Chief of Personnel management Office
Son La Education College
Although Son La is a mountainous and disadvantaged province in Vietnam, its
provincial leaders have paid great attention on policies of recruiting, educating and
using to develop teachers and educational managers. Recently, the province has its all
teachers and educational managers are educated and trained by standards. However,
the quality of teachers and educational managers is still low and the working conditions
are not good enough. Policies for enhancing living standards for them have not had
good effects and their life is still difficult. The policies of articulating teachers and
educational managers create difficulties for them and other policies are limited that lead
to the limitation in recruiting, using teachers and educational managers. The author
suggests three groups of measures for preparing, educating and using teachers and
educational managers more effectively: 1) strengthen legal frameworks on these issues,
2) change payment form of teacher salary, paying great attention on mountainous
educators and 3) policies for management mechanisms of mountainous teachers,
managers.
ghị quyết Trung ương hai khoá VIII xác định: giáo dục - đào tạo là quốc sách hàng
đầu, là nhân tố quyết định tăng trưởng kinh tế và phát triển xã hội.

N
Trong giai đoạn cách mạng mới, chúng ta cần nhận thức đầy đủ yêu cầu của
nhiệm vụ mới; vấn đề then chốt là chiến lược con người, xây dựng nguồn nhân lực để
đáp ứng yêu cầu đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, làm cho dân giàu,
nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh phải là nhiệm vụ ưu tiên hàng đầu. Để
giải quyết thành công nhiệm vụ xây dựng đất nước theo những mục tiêu to lớn mà các
đại hội của Đảng đã đề ra, chúng ta phải phát huy cao độ truyền thống yêu nước và đoàn
kết dân tộc, đồng thời chúng ta rất cần trí tuệ khoa học và bản lĩnh chính trị vững vàng.
Do đó yếu tố quyết định hơn bao giờ hết là con người, con người được giáo dục, đào tạo
công phu để trở thành những công dân tự chủ, có nhân cách, có năng lực nghề nghiệp.
Đó là nguồn nhân lực mà đất nước đang cần.
Phát triển sự nghiệp giáo dục là trách nhiệm của toàn Đảng, toàn dân và của toàn
xã hội, trong đó đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục là lực lượng nòng cốt, giữ
vai trò quyết định trong việc bảo đảm chất lượng giáo dục.
Trong những năm qua, Nhà nước quan tâm xây dựng, phát triển đội ngũ nhà giáo
và cán bộ quản lý giáo dục theo hướng chuẩn hoá, bảo đảm đủ về số lượng, đồng bộ về
cơ cấu, nâng cao chất lượng, đặc biệt chú trọng nâng cao bản lĩnh chính trị, phẩm chất
đạo đức, lối sống, lương tâm nghề nghiệp và trình độ chuyên môn, nghiệp vụ của nhà
giáo, đáp ứng đòi hỏi ngày càng cao của sự nghiệp giáo dục trong công cuộc công
nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục là một
bộ phận của đội ngũ viên chức và có số lượng lớn, chiếm tới 80% viên chức cả nước. Vì
vậy, những quy định về chế độ chính sách đối với nhà giáo cần được Nhà nước và các
nhà hoạch định chính sách quan tâm nghiên cứu, điều chỉnh cho phù hợp với sự phát
triển chung của đất nước và toàn xã hội.
I.Thực trạng đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục tỉnh Sơn La
1. Nhận định chung:

×