Tải bản đầy đủ (.pdf) (126 trang)

Nghiên cứu hiệu quả sản xuất kinh doanh và định giá doanh nghiệp sau cổ phần hoá tại công ty cổ phần tập đoàn tân mai tỉnh đồng nai

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.04 MB, 126 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PTNT

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LÂM NGHIỆP

PHẠM VĂN TUẤN

NGHIÊN CỨU HIỆU QUẢ SẢN XUẤT KINH DOANH
VÀ ĐỊNH GIÁ DOANH NGHIỆP
SAU CỔ PHẦN HÓA TẠI CÔNG TY
CỔ PHẦN TẬP ĐOÀN TÂN MAI - TỈNH ĐỒNG NAI

LUẬN VĂN THẠC SỸ KINH TẾ

Đồng Nai, 2012


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PTNT

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LÂM NGHIỆP

PHẠM VĂN TUẤN

NGHIÊN CỨU HIỆU QUẢ SẢN XUẤT KINH DOANH
VÀ ĐỊNH GIÁ DOANH NGHIỆP
SAU CỔ PHẦN HÓA TẠI CÔNG TY
CỔ PHẦN TẬP ĐOÀN TÂN MAI - TỈNH ĐỒNG NAI


CHUYÊN NGÀNH: KINH TẾ NÔNG NGHIỆP
MÃ SỐ: 60.31.10

LUẬN VĂN THẠC SỸ KINH TẾ
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
TS. TRẦN HỮU DÀO

Đồng Nai, 2012


1

ĐẶT VẤN ĐỀ
1. Sự cần thiết
Trong quá trình hội nhập quốc tế, mỗi quốc gia đều muốn tạo cho mình
một tiềm lực mạnh về kinh tế, khoa học và công nghệ để làm đòn bẩy nâng
mình lên một vị thế mới, một tầm cao mới so với khu vực và thế giới. Trước
những sức ép như vậy, đổi mới thực sự là sự lựa chọn duy nhất giúp Việt
Nam thoát khỏi cơ chế tập trung bao cấp và từng bước xây dựng nền kinh tế
thị trường năng động, nhạy bén hơn.
Bên cạnh những nỗ lực hoàn thiện ngày càng tốt hơn các chính sách
tiền tệ, chính sách tài khóa và tạo lập một môi trường đầu tư thông thoáng,
cũng như ra sức phát triển mạnh thị trường chứng khoán trở thành kênh
huy động vốn hiệu quả cho nền kinh tế... nhằm xây dựng cho mình một chỗ
đứng trong khu vực và thế giới; với chính sách mở cửa thị trường, thúc đẩy
cạnh tranh, hội nhập kinh tế quốc tế và cho phép nhiều DN thuộc các thành
phần kinh tế tham gia sản xuất sản phẩm và cung cấp dịch vụ thì việc tiến
hành CPH là thật sự cần thiết để nâng cao hiệu quả hoạt động của DNNN,
từ đó đưa kinh tế nhà nước thực sự giữ vai trò chủ đạo và cùng với kinh tế
tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân.

Chính vì vậy, tại Hội nghị TW lần thứ 2 khoá VII (1991) đã đề ra chủ trương
CPH DNNN. Đây được coi là cột mốc quan trọng trong quá trình đổi mới tư
duy về quản lý kinh tế và cơ cấu sở hữu trong hệ thống DN.
Thực tế, qua những năm thực hiện CPH hóa đã thật sự tạo ra động
lực giúp các DN phát triển có hiệu quả hơn, theo đó quan hệ sản xuất
không ngừng được đổi mới, hoàn thiện, phù hợp với tính chất, trình độ của
lực lượng sản xuất; thúc đẩy cạnh tranh và tăng cường hợp tác cùng phát
triển giữa các DN. Không những vậy, CPH còn góp phần phát triển thị


2

trường chứng khoán - một yếu tố không thể thiếu trong nền kinh tế thị
trường.
Chính vì nhận thức được những lợi ích của CPH và đặc biệt trong bối
cảnh Việt Nam đã ra nhập tổ chức thương mại thế giới (WTO) thì vấn đề cổ
CPH DNNN cần phải được nghiên cứu và càng phải được thực
hiện một cách mạnh mẽ, quyết liệt hơn.
Vì những lý do nêu trên tôi đã chọn đề tài: “Nghiên cứu hiệu quả sản
xuất kinh doanh và định giá doanh nghiệp sau cổ phần hóa tại Công ty
Cổ phần Tập đoàn Tân Mai –Tỉnh Đồng Nai” làm luận văn tốt nghiệp cao
học kinh tế Nông nghiệp của mình.
2. Mục tiêu nghiên cứu
2.1. Mục tiêu tổng quát
Nhằm đánh giá, tổng kết quá trình CPH và hoàn thiện phương pháp xác
định giá trị DN khi CPH tại CTCP Tập đoàn Tân Mai.
2.2. Mục tiêu cụ thể
+ Hệ thống hóa cơ sở lý luận và thực tiễn về CPH DNNN.
+ Nghiên cứu đánh giá thực thực trạng quá trình CPH tại CTCP Tập
đoàn Tân Mai.

+ Đề xuất một số ý kiến góp phần hoàn thiện phương pháp xác định giá
trị DN tại CTCP Tập đoàn Tân Mai nói riêng và các DNNN nói chung.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
+ Đối tượng nghiên cứu
Quá trình CPH tại CTCP Tập đoàn Tân Mai.
+ Phạm vi nghiên cứu


3

Về không gian: CTCP Tập đoàn Tân Mai – TP Biên Hòa – Tỉnh Đồng
Nai.
Về thời gian: Từ khi công ty hợp nhất thành CTCP tập đoàn Tân Mai
đến nay (năm 2008 đến năm 2010).
4. Nội dung nghiên cứu
+ Hệ thống hóa cơ sở lý luận về CPH DNNN.
-

Cơ sở lý luận về CPH.

-

CPH DNNN trong lâm nghiệp.

-

Những nghiên cứu liên quan.

+ Đánh giá thực trạng quá trình CPH DNNN tại CTCP Tập đoàn Tân
Mai.

-

Công tác chuẩn bị CPH.

-

Xây dựng phương án CPH.

-

Triển khai thực hiện phương án CPH.

+ Đánh giá tình hình và kết quả hoạt động SXKD của công ty sau khi
hợp nhất và thực hiện phương án cổ phần.
-

Tình hình sử dụng đất đai.

-

Tình hình sử dụng lao động.

-

Tình hình sử dụng vốn SXKD.

-

Đánh giá hiệu quả SXKD….


+ Đề xuất một số ý kiến góp phần hoàn thiện phương pháp xác định giá
trị DN và thực hiện phương án CPH tai CTCP Tập đoàn Tân Mai.


4

Chương 1
TỔNG QUAN VỀ VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1.1. Sư ̣ cầ n thiế t phải cổ phầ n hóa Doanh nghiêp̣ Nhà nước
1.1.1. Doanh nghiê ̣p Nhà nước
Theo luâ ̣t DNNN do Quố c hô ̣i nước Cô ̣ng hòa xã hô ̣i chủ nghiã Viêṭ
Nam thông qua ngày 26/11/2003, và có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2004
thì DNNN đinh
̣ nghĩa như sau: “DNNN là tổ chức kinh tế do Nhà nước sở
hữu toàn bộ vốn điều lệ hoặc có cổ phần, vốn góp chi phối, được tổ chức dưới
hình thức Công ty nhà nước, CTCP, công ty trách nhiệm hữu hạn”.
Như vâ ̣y DNNN là tổ chức kinh tế đươ ̣c nhà nước thành lâ ̣p để thực hiêṇ
những mu ̣c tiêu do nhà nước giao. Và vì DNNN do nhà nước đầ u tư vố n nên
tài sản trong doanh nghiêp̣ là thuô ̣c sở hữu nhà nước còn DN chỉ quản lý, sử
du ̣ng tài sản theo quy đinh
̣ của chủ sở hữu là nhà nước.
DNNN có tư cách pháp nhân, có các quyề n và nghiã vu ̣ dân sự, tự chiụ
trách nhiê ̣m về toàn bô ̣ hoa ̣t đô ̣ng kinh doanh trong pha ̣m vi số vố n do DN
quản lý. Nghiã là DNNN chiụ trách nhiê ̣m hữu ha ̣n về nơ ̣ và các nghiã vu ̣ tài
sản khác trong pha ̣m vi số tài sản do DN quản lý.
1.1.2. Quan niê ̣m cổ phầ n hóa Doanh nghiê ̣p Nhà nước và những ưu
điểm của công ty cổ phầ n
CPH DNNN là việc các DNNN bán cổ phần của mình cho công chúng
và công nhân viên trong công ty để huy động nguồn vốn trong công chúng,
CPH là cách gọi tắt của việc chuyển đổi các DNNN thành CTCP.

Thực chất của quá trình CPH là đa dạng hóa sở hữu, là quá trình chuyển
dịch quyền sở hữu từ phía Nhà nước sang các thành phần kinh tế khác trong
nền kinh tế quốc dân.


5

Theo luật DN năm 2005, CTCP là DN, trong đó:
- Vốn điều lệ được chia thành nhiều phần bằng nhau gọi là cổ phần.
- Cổ đông có thể là tổ chức, cá nhân; số lượng cổ đông tối thiểu là ba và
không hạn chế số lượng tối đa.
- Cổ đông chỉ chịu trách nhiệm về các khoản nợ và nghĩa vụ tài sản khác
của DN trong phạm vi số vốn đã góp vào DN.
- Cổ đông có quyền tự do chuyển nhượng cổ phần của mình cho người khác.
- CTCP có tư cách pháp nhân kể từ ngày được cấp Giấy chứng nhận
đăng ký kinh doanh.
- CTCP có quyền phát hành chứng khoán các loại để huy động vốn.
1.1.3. Sự cầ n thiế t phải cổ phầ n hóa Doanh nghiê ̣p Nhà nước ta ̣i Viê ̣t
Nam
Việc chuyển DNNN thành CTCP là một đòi hỏi bức xúc của nền kinh tế thị
trường vừa phù hợp trong lộ trình phát triển đổi mới vừa tham gia hội nhập nền
kinh tế toàn cầu. Mục tiêu của công tác này nhằm huy động vốn của toàn xã hội,
tạo ra loại hình DN có nhiều chủ sở hữu, phát huy quyền làm chủ của các cổ
đông trong việc đầu tư và giám sát DN, thậm chí bổ sung cả nguồn nhân lực cho
bộ máy lãnh đạo của đơn vị, từ đó tạo động lực mạnh mẽ và cơ chế quản lý năng
động cho DN trong đầu tư đổi mới công nghệ, mở rộng thị trường và sử dụng
đồng vốn có hiệu quả [25].
CPH DNNN là một chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước nhằm nâng
cao hiệu quả kinh tế của các DNNN. Sau gần 20 năm thực hiện CPH DNNN,
có nhiều ý kiến đánh giá khác nhau về quá trình này. Nhiều vấn đề lý luận và

tư duy kinh tế đang đặt ra cần giải quyết để nâng cao hiệu quả của quá trình
CPH trong thời gian tới.


6

CPH DNNN là một hình thức cụ thể của tiến trình xã hội hoá sản xuất. Nhờ
sự xuất hiện CTCP mà vốn được tập trung nhanh chóng. Thực hiện tốt CPH
DNNN sẽ làm tăng sức mạnh của kinh tế nhà nước, làm chỗ dựa cho nhà nước
điều tiết nền kinh tế vĩ mô. Mặt khác, nó cũng là một giải pháp để tăng tính năng
động trong kinh doanh và phát huy tính tích cực, tự chủ của DN.
Ở nước ta, phần lớn các DNNN được hình thành do ý chí chủ quan của
các cơ quan nhà nước chứ không phải do yêu cầu khách quan của trình độ
phát triển của lực lượng sản xuất. Đây là nguyên nhân sâu xa dẫn đến sự hoạt
động kém hiệu quả của hầu hết các DN ấy. Do vậy, việc sắp xếp lại các
DNNN là vấn đề lớn mà Đảng và Nhà nước ta đặc biệt quan tâm, trong đó có
việc CPH một số lớn DNNN. CPH DNNN ở nước ta là quá trình chuyển sang
một hình thức quản lý hiện đại hơn, bên cạnh vai trò chi phối của nhà nước,
có sự tham gia của các thành phần khác. Đảng và Nhà nước ta khẳng định
CPH không phải là tư nhân hóa vì CPH hướng tới tháo gỡ khó khăn về vốn,
về cơ chế cho DNNN hiện có, không nhằm thu hẹp sở hữu nhà nước trong
nền kinh tế quốc dân. Từ năm 1992 đến nay, quan điểm của Đảng ta về CPH
DNNN ngày càng sáng tỏ, ngày càng phù hợp hơn với sự phát triển kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Những quan điểm, chủ trương của Đảng và Nhà nước về CPH DNNN
được thể chế hoá thành các qui phạm pháp luật và được thực thi từng bước.
Đảng và Nhà nước coi CPH là một giải pháp căn bản không những giúp
DNNN thu hút vốn mà còn tạo điều kiện cho DNNN làm ăn hiệu quả hơn.
Thống kê cho thấy, tính đến đầu năm 2009, cả nước đã thực hiện sắp xếp
được 5.556 DN và 8 tổng công ty Nhà nước, trong đó CPH được 3.854 DN và

bộ phận DN (chiếm 69,4% tổng số DN đã sắp xếp), giao 196 DN, bán 155
DN, khoán và cho thuê 30 DN, sáp nhập hợp nhất 531 DN, còn lại các hình


7

thức khác là 790 DN. Qua CPH nguồn vốn nhà nước tại DN đã được đánh giá
lại khách quan và chính xác hơn, đồng thời huy động thêm nguồn vốn khá lớn
từ các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước để đầu tư đổi mới công nghệ, mở
rộng SXKD, nâng cao sức cạnh tranh của DN và tạo điều kiện thúc đẩy sự
hình thành, phát triển thị trường chứng khoán ở nước ta [19], [20].
Hơn nữa, chính CPH cũng đã giúp Nhà nước thu về hàng ngàn chục tỷ
đồng nhờ vào việc bán bớt phần vốn của mình tại các DNNN, từ đó có vốn để
đầu tư cho các dự án trọng điểm cần thiết. Ngoài ra, CPH cũng góp phần vào
việc hình thành các DN có quy mô lớn, đa ngành, đa lĩnh vực và đặc biệt là góp
phần quan trọng vào việc đổi mới tư duy kinh tế, hài hòa được lợi ích của Nhà
nước - DN và người lao động.
Tóm lại, việc CPH DNNN là một yếu tố, một xu hướng tất yếu khách
quan. CPH thúc đẩy quá trình xã hội hóa nền kinh tế hàng hóa thị trường, phát
triển lực lượng lao động, nâng cao vai trò vị thế của người lao động, đảm bảo
tính công bằng, nâng cao đời sống cho người lao động và hoàn thiện nền kinh
tế thị trường còn non trẻ ở nước ta.
1.1.4 Mục tiêu, bản chất và ý nghĩa của CPH DN nhà nước
1.1.4.1. Mục tiêu
Chuyển đổi những DN mà Nhà nước không cần giữ 100% vốn sang loại
hình DN có nhiều chủ sở hữu; huy động vốn của các nhà đầu tư trong nước và
nước ngoài để nâng cao năng lực tài chính, đổi mới công nghệ, đổi mới
phương thức quản lý nhằm nâng cao hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh
tế.
Phát huy vai trò làm chủ thực sự của người lao động và các cổ đông.

Tăng cường sự giám sát của các chủ đầu tư đối với DN. Đảm bảo hài hoà lợi
ích của Nhà nước, DN, nhà đầu tư và người lao động trong DN.


8

Thực hiện công khai, minh bạch theo nguyên tắc thị trường; khắc phục
tình trạng CPH khép kín trong nội bộ DN; gắn với phát triển thị trường vốn,
thị trường chứng khoán.
1.1.4.2. Bản chất
CPH một bộ phận các DNNN là một chủ trương lớn, quan trọng của
Đảng và nhà nước ta trong quá trình đổi mới nền kinh tế. Thực chất của CPH
là đa dạng các loại hình sở hữu, là quá trình chuyển dịch quyền sở hữu từ phía
nhà nước sang các thành phần kinh tế khác trong nền kinh tế quốc dân. Thông
qua quá trình bán cổ phần của DNNN cho các cổ đông để thu hút vốn đầu tư,
áp dụng công nghệ mới vào SXKD, bảo đảm hiệu quả kinh tế của các DN.
Khi CTCP được thành lập sẽ tránh được sự can thiệp có tính chất hành
chính của chính quyền địa phương các cấp. Bởi vì khi CPH tài sản trong DN
không chỉ là đơn thuần là sở hữu nhà nước mà của nhiều thành phần kinh tế
khác nữa. Công ty có thể chủ động thực hiện các quy định có liên quan đến
SXKD trong công ty mà không chịu sự chỉ đạo của các kế hoạch nhà nước
giao như trước đây.
1.1.4.3. Ý nghĩa
Việc CPH DNNN là một chủ trương quan trọng của Đảng và nhà nước
ta, nó có giá trị định hướng giúp cho các DN khai thác khả năng và phát huy
được thế mạnh của mình. Việc thực hiện CPH có ý nghĩa to lớn trong quá
trình phát triển nền kinh tế cũng như lợi ích của xã hội, như:
- Về phía nhà nước sẽ giảm đi gánh nặng ngân sách bao cấp cho một số
lượng lớn những DN làm ăn thua lỗ. Hạn chế những tệ nạn khác như: Tham
nhũng, quan liêu trong những DNNN.

- Sau khi tiến hành CPH một bộ phận các DNNN còn giữ 100% vốn thì


9

nhà nước có thể thu hồi một lượng lớn từ các DN đó thông qua việc bán cổ
phần tại DN cho các thành phần kinh tế khác. Nhà nước có thể đem nguồn
vốn thu hồi được này đầu tư cho các DN trọng điểm thuộc các lĩnh vực: an
ninh quốc phòng, hoặc để xây dựng, phát triển cơ sở hạ tầng trong xã hội.
- Về phía DN, những người tham gia mua cổ phần đều trở thành những
người chủ DN. Lợi ích và trách nhiệm của họ được gắn liền với nhau, họ sẽ
có quyền chủ động định đoạt các hoạt động SXKD của mình theo nhu cầu thị
trường trong khuôn khổ pháp luật cho phép. Từ đó loại bỏ được những suy
ngĩ có tính rụt rè, e ngại trước đây, mở ra một thời kỳ mới của những người
dám nghĩ dám làm.
- Trong các DNNN trước đây, SXKD nhằm mục đích phục vụ xã hội
nhiều hơn, nên nhiều khi làm ảnh hưởng đến các quá trình SXKD trong DN
làm kìm hãm sự phát triển của DN khi CPH, mục tiêu đầu tiên của DN là lợi
nhuận, mục tiêu này có tác dụng thúc đẩy tăng năng suất lao động, cải tiến
chất lượng mặt hàng với những chủng loại nhằm đáp ứng nhu cầu thị trường,
để cuối cùng đem lại lợi nhuận cho DN [25].
- Ngoài ra lợi ích của người lao động trong DN cũng được đảm bảo, họ được
tạo điều kiện để có công ăn việc làm, được mua cổ phần ưu đãi, người lao động
nghèo còn được trả chậm trong vòng một năm mà không cần trả lãi.
1.2. Kinh nghiệm CPH DNNN
1.2.1. Trên thế giới
1.2.1.1. CPH ở nhóm các nước tư bản phát triển[20]
Trong thập kỷ 80, các nước tư bản phát triển, đặc biệt là ở các nước Tây
Âu và Hoa Kỳ, CPH được chú ý như là một quá trình giảm bớt sự can thiệp
trực tiếp của Nhà nước và tiến hành CPH DNNN nhằm nâng cao hiệu quả của



10

nền kinh tế thị trường hỗn hợp đã được hình thành với việc thiết lập khu vực
kinh tế nhà nước ngày càng rộng lớn từ sau chiến tranh thế giới thứ hai. Chính
sách CPH bao trùm ở các nước này dựa trên quan điểm cho rằng việc tổ chức
đời sống kinh tế của xã hội tuân theo các quy luật thị trường, thương mại hóa
sản xuất và cạnh tranh bình đẳng có hiệu quả hơn là tuân theo các quan hệ chỉ
tập trung và thể chế hành chính.
Trong việc thực hiện CPH, Chính phủ mỗi nước đã lựa chọn các phương
pháp tiến hành CPH các DNNN sao cho không làm suy yếu khu vực kinh tế nhà
nước, mà trái lại, củng cố cho xứng đáng với vai trò của nó trong nền kinh tế
nhằm thực hiện một loạt chức năng kinh tế vĩ mô vì lợi ích kinh tế của toàn xã hội.
Xét về quy mô, khu vực kinh tế nhà nước sau khi tiến hành CPH có sự
thu hẹp, tuy nhiên sự suy giảm này không làm thay đổi vai trò của khu vực
kinh tế nhà nước trong những ngành, những lĩnh vực quan trọng như: năng
lượng, giao thông vận tải, bưu điện, truyền hình, viễn thông, các ngành có
hàm lượng vốn và khoa học công nghệ cao như hàng không, điện tử.
Quá trình CPH ở các nước đã có nền kinh tế thị trường phát triển được
thực hiện chủ yếu dưới các hình thức: bán đấu giá hay bán trực tiếp, thường
áp dụng đối với các DN vừa và nhỏ trong các lĩnh vực dịch vụ công cộng và
thương mại; bán cổ phiếu trên thị trường chứng khoán, áp dụng với các công
ty lớn.
Các công ty quốc doanh sau khi đã CPH, hình thành dạng CTCP hỗn
hợp nhà nước – tư nhân đã chuyển sang sử dụng và huy động các nguồn vốn
thay vì nhận qua Ngân sách Nhà nước như trước đây, cho phép giảm bớt gánh
nặng tài trợ ngân sách, đặt các DN này trên cơ sở điều tiết của quan hệ thị
trường, giành vị trí xứng đáng trong việc đáp ứng các nhu cầu xã hội với chất
lượng cao, hợp thị hiếu chứ không phải có được nhờ vị trí độc quyền mà nhà



11

nước ban cho.
Như vậy, có thể nhận thấy nét đặc trưng quá trình CPH ở các nước công
nghiệp phát triển là hình thành các công ty hỗn hợp nhà nước – tư nhân hoạt
động trên cơ sở thị trường và luật pháp của nhà nước. Thông qua quá trình
CPH, sự hợp tác và xâm nhập lẫn nhau giữa khu vực kinh tế nhà nước và khu
vực kinh tế tư nhân, kể cả ở cấp công ty xuyên quốc gia đang hoạt động trên thị
trường thế giới là một trong những con đường nâng cao hiệu quả nền kinh tế thị
trường hỗn hợp ở các nước công nghiệp phát triển hiện nay.
1.2.1.2. CPH ở nhóm các nước đang phát triển thuộc khu vực Châu Á
[20]
Quá trình CPH ở các nước Châu Á khác với các nước Châu Phi và Châu
Mỹ la-tinh là các khoản nợ nước ngoài không phải là lý do chính để tiến hành
CPH các DNNN. Mặt khác, nền kinh tế ở các nước trong khu vực này có tốc
độ phát triển nhanh và ổn định trong nhiều năm, các xí nghiệp quốc doanh ở
các nước này phần lớn đều hoạt động trên cơ sở thị trường và nhằm mục tiêu
lợi nhuận. Vì vậy, mục tiêu chính của CPH ở các nước này là Nhà nước rút
khỏi các lĩnh vực hoạt động xét thấy không cần thiết phải nắm giữ và suy trì
sự độc quyền nhà nước mà chuyển giao cho khu vực tư nhân nhằm thực hiện
cạnh tranh để nâng cao hiệu quả. Mục tiêu nữa của CPH của các nước là phát
triển thị trường chứng khoán trong nước, thể hiện nổi bật là ở các nước Hàn
Quốc, Singapore, Malaysia,... Số tiền thu được từ quá trình bán các cổ phần
của nhà nước sẽ được bù vào các khoản ngân sách dành đầu tư cho các cơ sở
hạ tầng và các ngành kinh tế chiến lược mà nhà nước thấy cần có sự tham gia
và kiểm soát.
- Kinh nghiệm của Hàn Quốc
Vào những năm 60 của thế kỷ XX, CPH các DNNN đã được thực hiện.



12

Đến nay, Hàn Quốc đã CPH được 35 DNNN có quy mô lớn và hàng trăm
DNNN có quy mô vừa và nhỏ. Riêng năm 1978, chính phủ Hàn Quốc đã bán
68% cổ phần cho 25 hãng buôn, thu được 167 triệu USD. CPH cũng được thực
hiện thông qua bán cổ phiếu ở các sở giao dịch chứng khoán, trong đó vừa bán
cổ phiếu cho các nhà đầu tư bình thường, vừa bán cổ phiếu cho công chúng có
thu nhập thấp. Quá trình CPH các DNNN ở Hàn Quốc ngoài những nét chung
có một số đặc điểm mang tính đặc thù sau:
+ Thứ nhất, CPH các DNNN đã tiến hành rất thận trọng. Điều đó được biểu
hiện ở cách thức triển khai CPH thông qua tiến hành thí điểm ở một số DN. Từ
thí điểm, Hàn Quốc tiến hành đánh giá, rút kinh nghiệm sau đó mới mở rộng trên
phạm vi toàn quốc. Điều đó còn thể hiện ở tốc độ CPH khá chậm. Qua 3 đợt
CPH: đợt 1 từ năm 1960 - 1973; đợt 2 từ năm 1974 - 1983 và đợt 3 từ năm 1984
đến nay số lượng các DNNN quy mô lớn được CPH chỉ có 35 DN. Tuy nhiên,
CPH lại tập trung vào các DN quy mô lớn và giữ vị trí độc quyền, hoạt động trên
phạm vi cả nước.
+ Thứ hai, mục tiêu CPH không chỉ thu hút vốn, giảm bớt gánh nặng của
ngân sách nhà nước… mà còn nhằm phân phối giá trị tài sản của các DNNN cho
quần chúng có thu nhập thấp và giảm bớt sự mất công bằng xã hội. Để thực hiện
mục tiêu này, Hàn Quốc có những phương thức triển khai bán cổ phiếu đặc biệt,
với việc phân chia cổ phiếu bán ra cho người cần ưu đãi. Cụ thể: Người lao động
hiện đang làm việc tại DNNN và người nghèo được mua 20% giá trị cổ phiếu
bán ra. Cổ phiếu ưu đãi được bán thấp hơn giá trị, trong đó người nghèo được
mua với giá bằng 30% giá trị cổ phiếu bán ra, người về hưu được mua với giá
bằng 75% giá trị cổ phiếu bán ra.
+ Thứ ba, thông qua CPH việc hữu sản hóa người lao động, trước hết là
lao động trong các DNNN CPH đã được thực hiện. Nhờ đó, đã tăng cường sự



13

tham gia quản lý của người lao động vào quá trình hoạt động SXKD. Bộ máy
quản lý của DN sau CPH và phương thức quản lý các DNNN ở Hàn Quốc sau
CPH đã thay đổi.
- Kinh nghiệm của Malaixia
Quá trình CPH các DNNN ở Malaixia có muộn hơn, được bắt đầu từ năm
1983. Lý do và mục tiêu CPH các DNNN của Malaixia có nhiều điểm giống
Việt Nam, chủ yếu do sự mở rộng quá mức khu vực kinh tế nhà nước, gây ra sự
mất cân đối kinh tế vĩ mô làm cho thâm hụt ngân sách lớn.
Việc CPH các DNNN ở Malaixia được chia thành 3 bước:
+ Tiến hành thương mại hóa DN.
+ Chuyển các DNNN hoạt động theo luật công ty.
+ Xây dựng các DNNN đáp ứng những tiêu chuẩn nhất định thành
những tập đoàn kinh tế mạnh có khả năng cạnh tranh cao trên thị
trường quốc tế.
Phương thức tiến hành CPH cũng thông qua phát hành cổ phiếu trên thị
trường chứng khoán
Việc tiến hành CPH, đặc biệt việc phát hành cổ phiếu cũng có những ưu
đãi đối với các nhà đầu tư trong nước và các nhà đầu tư nước ngoài có công
nghệ hiện đại, sản xuất theo hướng xuất khẩu. Mức cổ phần tối đa bán cho các
nhà đầu tư nước ngoài là 25%, với mục đích để các nhà đầu tư nước ngoài
không gây ảnh hưởng quá lớn đối với hoạt động của DN.
Kết quả CPH các DNNN ở Malaixia là khá to lớn. Việc chuyển một
phần các DNNN vào khu vực kinh tế tư nhân đã giảm bớt gánh nặng của nhà
nước đối với DN. Đã chuyển sang các CTCP 96.000 công nhân, bán cổ phần
được 6 tỷ USD, thu hút thêm 35,5 tỷ USD ở 24 CTCP từ các DNNN sau



14

CPH. Số tiền nhà nước thu được đã sử dụng cho các hoạt động khác 2 tỷ USD
chuyển giao 374 công trình cho tư nhân [20]. Số tiền các DN niêm yết cổ
phiếu trên thị trường chứng khoán sau CPH đã giúp các DN đầu tư mở rộng
sản xuất, tăng cường năng lực cạnh tranh, nâng cao hiệu quả kinh doanh.
- Kinh nghiệm của Singapore
CPH ở Singapore còn được thực hiện muộn hơn Malaixia, bắt đầu từ
năm 1986 và kéo dài 10 năm thì cơ bản hoàn thành.
Việc thực hiện CPH các DNNN ở Singapore khá bài bản với việc thành
lập Ủy ban CPH khu vực kinh tế nhà nước, xây dựng chương trình CPH hoàn
chỉnh và hệ thống, phù hợp với điều kiện của đất nước. Singapore cũng tiến
hành thí điểm CPH các DNNN đang làm ăn có lãi ở một số lĩnh vực, sau đó
tổng kết, cuối cùng mới triển khai rộng sang các DNNN ở các lĩnh vực khác.
Mục tiêu CPH các DNNN ở Singapore khá đa dạng, trong đó mục tiêu cơ
bản là hạn chế sự độc quyền của các DNNN ở một số lĩnh vực, chấm dứt kiểu
cạnh tranh không trung thực, cạnh tranh hình thức của các DNNN. CPH DNNN
không để xảy ra thâm hụt ngân sách và vẫn duy trì tích lũy ở những mức độ cao.
Trên thực tế sau những bước triển khai có tính vĩ mô, tháng 6/1989 trong số
15 DNNN đăng ký CPH đã có 6 DNNN đăng ký bán 100% vốn cổ phần của
Nhà nước. Các hãng còn lại thực hiện bán một phần cổ phần sở hữu của nhà
nước như hãng Hàng không quốc gia Singapore giảm phần vốn của nhà nước từ
61% xuống còn 56%, công ty vận tải Neptune giảm từ 74% xuống còn 54%,
Ngân hàng Singapore vốn nhà nước từ 48% còn 44%. Sau 1 năm thực hiện CPH
các DNNN số vốn nhà nước được thu hồi là 1,28 tỷ USD. Đến năm 1996,
chương trình CPH các DNNN đã cơ bản được hoàn thành, sớm hơn dự hiến 2 -3
năm. Kết quả CPH cũng rất khả quan, nhờ CPH các DNNN ở những ngành, lĩnh
vực không then chốt, những ngành có khả năng thu lợi nhuận cao, chính phủ



15

Singapore có điều kiện tập trung vốn đầu tư vào các lĩnh vực mang tính chiến
lược, những nơi tư nhân không đầu tư vì lợi nhuận thấp. Vai trò của các DNNN
còn lại có điều kiện phát huy tác dụng, các DNNN này trở thành công cụ kinh tế
vĩ mô để cơ cấu lại nền kinh tế và phát triển nền kinh tế quốc gia.

1.2.1.3. Kinh nghiệm CPH ở các nước có nền kinh tế chuyển đổi [20]
* Kinh nghiệm của Trung Quốc
Trong quá trình chuyển đổi từ kinh tế kế hoạch hóa tập trung sang kinh
tế thị trường Trung Quốc là một trong các nước sớm nhận thấy những hạn chế
của các DNNN như: Hiệu quả kinh tế thấp hơn các loại hình kinh tế khác,
nhiều DN ở tình trạng thua lỗ và tình trạng này có xu hướng ngày càng tăng;
tình trạng thất thoát tài sản nhà nước ngày càng tăng và trở nên nghiêm trọng;
máy móc thiết bị nói riêng, trình độ công nghệ nói chung của các DNNN rất
thấp, lạc hậu rất nhiều so với các nước kinh tế phát triển; các DNNN ngoài
chức năng kinh tế còn phải đảm nhiệm nhiều chức năng xã hội. Hệ thống các
DNNN quá lớn với khoảng 348.000 DNNN. Tình trạng trên dẫn đến gánh
nặng nợ nần của các DNNN ngày càng lớn ngân sách nhà nước phải chịu,
trong khi đó nguồn ngân sách nhà nước có hạn và cần chi dùng cho nhiều
mục tiêu phát triển kinh tế xã hội khác. Trung Quốc cũng sớm nhận thấy con
đường thoát khỏi khó khăn do các DNNN mang lại là mở cửa nền kinh tế, đổi
mới hệ thống DNNN, chuyển một số DNNN thành các CTCP qua tiến hành
CPH các DNNN. Việc tiến hành CPH các DNNN ở Trung Quốc được tiến
hành khá khoa học. Bởi vì nó được thực hiện theo một lộ trình tuân thủ các
vấn đề mang tính lý thuyết và phù hợp với điều kiện cụ thể của từng ngành,
lĩnh vực. Việc triển khai cũng được tiến hành thí điểm trên phạm vi hẹp sau
đó rút kinh nghiệm ở các đơn vị ở các cấp, các ngành nghiên cứu học tập.



16

Cuối cùng, CPH các DNNN mới được triển khai trên phạm vi rộng. Điều đặc
biệt của Trung Quốc so với các nước khi tiến hành CPH các DNNN là vai trò
của nhà nước trong xây dựng kế hoạch, lộ trình và sử dụng các biện pháp
mạnh của quản lý hành chính nên kết quả của CPH các DNNN đạt được rất
cao. Cụ thể:
+ Trong những năm 1991 - 1995 đã có tới 13.500 DN đã CPH xong.
Việc CPH xong một khối lượng lớn các DNNN đã tạo cho chính phủ có
nguồn thu ngân sách khá lớn. Chỉ tính 700 DN bán cổ phiếu trên thị trường đã
thu được 500 tỷ nhân dân tệ, bằng 7,3% GDP của Trung Quốc năm 1996. Với
97 công ty bán cổ phiếu loại B ra thị trường trong nước và 38 công ty bán cổ
phiếu ra thị trường quốc tế đã thu được 13 tỷ USD. Nhà nước đã sử dụng
nguồn vốn quan trọng này vào các dự án cải tạo và đầu tư vào các công trình
trọng điểm của nền kinh tế đất nước. Gánh nặng đối với các DNNN sau khi
CPH đã được loại bỏ. Tạo thêm được 10.000 việc làm mới trên thị trường
chứng khoán, 31 triệu người đã mua cổ phiếu - một lượng tiền lớn trong dân
cư đã được thu hút vào các hoạt động kinh doanh của các DNNN khi CPH.
+ CPH đã tạo điều kiện thuận lợi cho các DN chuyển đổi quản lý, chuyển
đổi hướng SXKD nâng cao hiệu quả hoạt động của DN. Sở hữu nhà nước đã
chuyển sang hình thức sở hữu khác, những lý do để nhà nước can thiệp trực
tiếp vào quá trình kinh doanh của DN không còn. CTCP (sản phẩm của CPH
các DNNN) có điều kiện phát huy vai trò tự chủ, tự chịu trách nhiệm trong hoạt
động SXKD, những yêu cầu tối cần thiết của DN khi chuyển sang nền kinh tế
thị trường.
+ Sau CPH, các DN đã có điều kiện để tổ chức lại bộ máy quản lý theo
hướng tinh giản, gọn nhẹ, năng động.
+ Theo cơ chế hoạt động của các CTCP, các DNNN sau CPH không chỉ



17

tuân thủ pháp luật kinh doanh và các chính sách của chính phủ mà còn chịu sự
giám sát chặt chẽ của các cổ đông (những người bỏ tiền mua cổ phiếu, góp
vốn cho DN hoạt động) mà đại diện là Hội đồng quản trị. Sức ép đó buộc DN
phải có những đổi mới trong quản lý và trong hoạt động kinh doanh. Phải trực
tiếp tìm hiểu thị trường, chấp nhận và chủ động trong cạnh tranh, tự tìm cách
tồn tại và phát triển khi không còn sự nâng đỡ của nhà nước, khi được quyền
chủ động. DN đã năng động hơn, thận trọng hơn khi đưa ra những quyết định
về kinh doanh.
+ Từ những đổi mới trong hoạt động kinh doanh, các DN sau CPH đã
mạnh lên. CPH đã tạo ra những điều kiện để Trung Quốc thực hiện chiến lược
xây dựng các tập đoàn kinh tế lớn, có khả năng cạnh tranh mạnh với các tập
đoàn kinh tế của nước ngoài.
* Kinh nghiệm của Liên bang Nga và các nước Đông Âu
Có thể coi việc thực hiện những cải cách kinh tế những năm 60 - 70 của
thế kỷ XX ở các nước Đông Âu theo hướng của kinh tế thị trường là những
bước khởi đầu của đổi mới các DNNN nói riêng nền kinh tế kế hoạch hóa tập
trung nói chung. Tuy nhiên, ở các nước này, đổi mới triệt để nền kinh tế, trong
đó có đổi mới các DNNN được tiến hành những năm 80 - 90 của thế kỷ XX.
Có những điểm khác với một số nước có nền kinh tế chuyển đổi ở Châu
Á, các nước ở Đông Âu và Cộng hòa Liên bang Nga coi trọng chuyển đổi
DNNN sang các công ty tư nhân, tiến hành tư nhân hóa các DNNN là chủ
yếu. CPH DNNN theo hướng tư nhân hóa được coi là một trong các điểm
then chốt và nội dung cơ bản của tiến trình đổi mới ở các nước này. Nó được
coi như là “liệu pháp sốc” và thực hiện triệt để ở Ba Lan, Tiệp Khắc (cũ),
Hungari. Mục đích của “liệu pháp sốc” nhằm thực hiện các biện pháp mạnh
để có được kết quả tức thì, giúp chuyển biến mau lẹ về chế độ sở hữu. Hy



18

vọng cải cách sở hữu nhanh chóng sẽ huy động được vốn, kỹ thuật và kinh
nghiệm quản lý của các nhà DN tư nhân trong xây dựng kinh tế.
Tuy nhiên, CPH các DNNN ở các nước Đông Âu và Nga diễn ra trong
bối cảnh các Đảng Cộng sản không còn cầm quyền, các nước đều thực hiện
chế độ đa đảng. Các nước đều muốn thông qua chương trình này để tận dụng
viện trợ của các chính phủ Phương Tây, nhằm thúc đẩy quá trinh chuyển đổi
nền kinh tế. Bản thân “liệu pháp sốc” được đi kèm với nguồn tài trợ cho quá
trình chuyển đổi thông qua Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF), Ngân hàng thế giới
(WB) và Liên minh Châu Âu. Những bối cảnh và điều kiện cùng với các điều
kiện cụ thể của từng nước đã làm phong phú thêm quá trình CPH DNNN vốn
đã rất đa dạng và phức tạp. Tuy nhiên, nghiên cứu cụ thể CPH các DNNN ở
khu vực này có thể đưa ra các nhận xét sau:
+ Về đối tượng CPH: CPH các DNNN được thực hiện ở tất cả các ngành
kinh tế. Mặc dù thực hiện “liệu pháp sốc”, nhưng các nước Đông Âu và Nga
đều giữ các DNNN ở các ngành kinh tế có vị trí quan trọng, quyết định đến
nền kinh tế như những ngành hạ tầng cơ sở, những ngành định hướng phát
triển kinh tế xã hội như bưu chính viễn thông, giao thông vận tải, điện lực,
khai khoáng…
+ Về tốc độ của CPH: các nước đều tiến hành với tốc độ cao đối với các
DN được xác định của CPH nhằm giảm tối đa sở hữu nhà nước trong các
DNNN. Tuy nhiên, khi thực hiện tự do hóa nền kinh tế nhanh chóng các vấn
đề quản lý vĩ mô chưa có sự chuyển biến kịp nhiều vấn đề kinh tế xã hội tiêu
cực có cơ hội nảy sinh. Ở nước Nga, sau khi tự do hóa nền kinh tế, kinh tế
ngầm phát triển và hoành hành, nhà nước khó kiểm soát quá trình kinh tế - xã
hội. CPH không phát huy được tác động như mong muốn, hậu quả là sự suy
sụp về tài chính ở nước Nga ngày càng trở nên trầm trọng với mức tỷ số



19

chứng khoán 20%/ ngày. Tình trạng đó kéo dài hàng năm, đến tháng 8 năm
1998, thị trường tài chính Nga cơ bản bị sụp đổ. Thu nhập bằng tiền của
người Nga chỉ bằng 1/10 thu nhập của người dân Mỹ. Các nước khác mức độ
không trầm trọng như nước Nga, nhưng tác động tích cực do CPH các DNNN
những năm đó cũng không như mong muốn.
+ Về hình thức CPH: Hình thức CPH khá đa dạng. Có nhiều hình thức
được áp dụng như phát hành cổ phiếu nhân dân, bán cổ phiếu giá thấp cho
người lao động đang làm việc ở các DNNN CPH. Việc bán cổ phiếu được
thực hiện trực tiếp hoặc thông qua các tổ chức kiểm toán trung gian. Đối với
các DN vừa và nhỏ, hình thức chủ yếu là bán cổ phiếu trực tiếp cho người lao
động đang làm việc hoặc đấu thầu cho thuê bằng hợp đồng quản lý. Đối với
DNNN có quy mô lớn, do muốn CPH trong thời gian ngắn nhưng sức mua cổ
phiếu của công dân không lớn nên một số nước như Ba Lan, Cộng hòa Séc,
Cộng hòa Slovaky… đã chia tài sản cho công dân dưới dạng các giấy chứng
nhận sở hữu giá trị thấp hoặc cho không. Vì vậy, tốc độ CPH đã được đẩy
nhanh; việc bù đắp cho các công dân về những đóng góp của họ trước đây cho
DN được thực hiện.
+ CPH được thực hiện đồng thời với khuyến khích các DN tư nhân mới.
Vì vậy, những vấn đề phát sinh tiêu cực sau CPH có điều kiện phát triển. Tuy
nhiên, nhiều nước cũng đưa ra các điều luật, các chính sách chú trọng đến các
vấn đề cá biệt như giải pháp kinh doanh tư nhân, các điều kiện hoạt động kinh
tế độc lập của công dân, điều tiết thị trường vốn nên các vấn đề tiêu cực cũng
đã từng bước được hạn chế.


20


1.2.1.4. Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam [20], [25]
Nghiên cứu quá trình CPH các DNNN của một số nước trên thế giới có
thể rút ra những bài học kinh nghiệm để có thể vận dụng vào quá trình CPH
các DNNN ở nước ta như:
+ Một là, CPH đã được thực hiện phổ biến ở hầu hết các nước và vùng
lãnh thổ trên thế giới, nhất là ở những nước có nền kinh tế chuyển đổi và
những nước có nền kinh tế kém phát triển.
Thực chất quá trình CPH là xử lý mối quan hệ giữa kinh tế Nhà nước với
kinh tế ngoài Nhà nước, giảm bớt mức độ sở hữu và sự can thiệp trực tiếp của
nhà nước đối với các hoạt động SXKD của DN. Thực hiện chức năng quản lý
nhà nước về kinh tế theo đặc trưng của nền kinh tế thị trường, giảm bớt độc
quyền, sự bao cấp nặng nề của nhà nước làm gánh nặng của nhà nước với DN
về kinh tế giảm xuống, nâng cao vai trò chủ động của DN. Đó là sự vận động
tích cực nhằm đưa nền kinh tế thoát khỏi sự trì trệ, kém năng động và kém hiệu
quả. Vì vậy, đó là sự vận động phùa hợp và cần thiết. Từ tổng kết này, một lần
nữa khẳng định chủ trương đổi mới các DNNN nói chung, CPH chúng nói
riêng của Đảng và nhà nước ta là đúng đắn.
+ Hai là, CPH có mối quan hệ chặt chẽ đến các DN sau CPH. Các nước
thực hiện CPH với quy mô, tốc độ, phương pháp tiến hành có khác nhau. Đó
là việc triển khai phù hợp với yêu cầu của CPH các DNNN. Tuy nhiên, thực
tế cho thấy: những nước có thời gian CPH ngắn, kết quả cổ phần tốt là những
nước đã xác định thời gian, mục tiêu, cách thức tiến hành phù hợp với điều
kiện và hoàn cảnh cụ thể của nước đó. Thường thì những nước có cách thức
tiến hành vững chắc, xây dựng thành chương trình, chuẩn bị các điều kiện về
pháp lý và tổ chức, nghiên cứu lựa chọn mục tiêu, xây dựng bộ máy chỉ đạo,
thực hiện, xác lập các giải pháp tiến hành, kiểm tra giám sát, điều chỉnh, tiến


21


hành các bước từ thí điểm, tổng kết đúc rút kinh nghiệm sau đó mới triển khai
rộng thì kết quả CPH tốt, các vấn đề nảy sinh sau CPH ít.
+ Ba là, muốn CPH thành công cần phải có sự vào cuộc và phối hợp chặt
chẽ giữa chính phủ và các bộ, ban ngành với các DNNN, đối tượng của CPH.
Trong sự phối hợp trên, vai trò của chính phủ và các bộ, ban, ngành trong việc
xây dựng chiến lược, xác định mục tiêu, phương thức tiến hành, xác định các
DNNN cần CPH, xác định tỷ lệ cổ phần của nhà nước sau CPH, phương pháp
tính giá trị DN… Vai trò của các DNNN trong việc chủ động triển khai các chủ
trương và biện pháp CPH DN mình. Thường các DN có đội ngũ cán bộ năng
động, có khả năng kinh doanh có hiệu quả muốn thực hiện CPH. Những DN có
đội ngũ cán bộ kém năng động, kinh doanh thua lỗ không muốn triển khai
CPH.
Để CPH các DNNN đạt được kết quả tốt các DN phải thông suốt từ giám
đốc đến những người lao động; các nước đều có cơ quan chính phủ đặc trách về
CPH. Cơ quan này được tổ chức thống nhất từ cấp nhà nước đến các bộ, ban,
ngành và các DN. Cơ quan này phải quản lý toàn bộ chương trình CPH DNNN,
đồng thời phải kiểm tra, giám sát, điều chỉnh, tổng kết, bổ sung và tạo mọi điều
kiện để thực hiện chương trình CPH đã xác lập.
+ Bốn là, để CPH thành công cần xác lập môi trường pháp lý hoàn chỉnh,
xác định vai trò, chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của các tổ chức tham gia
vào quá trình CPH. Đặc biệt, cần xây dựng pháp luật hoàn chỉnh cho quá trình
CPH diễn ra thuận lợi, hạn chế những tiêu cực phát sinh sau CPH. Thực tế cho
thấy ở những nước có nền kinh tế phát triển hệ thống pháp luật phát triển khá
đồng bộ và hoàn chỉnh, không có sự phân biệt giữa các DN thuộc các thành phần
kinh tế khác nhau. Các DNNN không sợ sau khi CPH DN bị lép vế so với khi
chưa CPH... CPH đã diễn ra rất thuận lợi. Vì vậy, các nước đang phát triển,


22


những nước có nền kinh tế chuyển đổi là những nước có hệ thống pháp luật chưa
thuận lợi cho tiến hành CPH. Đối với những nước này, xây dựng hệ thống pháp
luật hoàn chỉnh, xác lập môi trường kinh tế vĩ mô ổn định là một trong các điều
kiện để CPH thành công.
+ Năm là, để CPH thành công, để thu cho ngân sách nguồn vốn, cần phải
đầu tư chi phí ban đầu cho quá trình CPH; cần có những hỗ trợ cho người lao
động để giải quyết các vấn đề xã hội nảy sinh do CPH và sau CPH. Rõ ràng,
để thực hiện CPH cần có những chi phí hoạt động cho các hoạt động của các
tổ chức và cá nhân tham gia vào quá trình CPH. Đặc biệt cần chi phí khá lớn
khi bán cổ phiếu ưu đãi cho người lao động, cho tầng lớp dân cư có thu nhập
thấp. Cần có khoản chi phí cho đào tạo và đạo tạo lại người lao động ở các
DN CPH; khoản chi phí để chi trả bảo hiểm xã hội; trợ cấp thôi việc do không
đáp ứng yêu cầu sau CPH... Tất cả những khoản trên đều thuộc ngân sách nhà
nước. Kinh nghiệm cho thấy, nước nào khi tiến hành cổ phần chấp nhận các
khoản chi phí trên sẽ tạo được sự đồng thuận của người lao động và DN. CPH
diễn ra thuận lợi, các vấn đề nảy sinh sau CPH đã từng bước được giải quyết
ngay chính trong quá trình CPH.
+ Sáu là, để CPH không làm suy yếu tiềm lực kinh tế của nhà nước dẫn đến
suy yếu chức năng quản lý kinh tế của nhà nước, hầu hết các nước đều lựa chọn
các DN của các ngành, các lĩnh vực không then chốt, không có tính chất quyết
định đến nền kinh tế để CPH. Đặc biệt, các nước đều sử dụng nguồn vốn thu
được sau CPH để đầu tư tăng tiềm lực kinh tế của nhà nước.
+ Bảy là, CPH các DNNN đều tạo những tác động tích cực đến nền kinh
tế, nhưng cũng đặt ra những vấn đề kinh tế xã hội cần phải xử lý. Nếu không
xử lý kịp thời sẽ giảm những ưu việt do CPH mang lại.


23

1.2.2. Tại Việt Nam

1.2.2.1. Quá trình CPH DNNN ở Việt Nam
CPH DNNN là một chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước, có nhiều tác
động đến sự phát triển kinh tế của đất nước, đời sống người lao động và
những vấn đề xã hội khác nên được tiến hành một cách thận trọng với những
bước thí điểm ban đầu vào năm 1990 trên cơ sở pháp lý là Quyết định số
143/HĐBT ngày 10 tháng 5 năm 1990. Sau đó, Chính phủ đã ban hành nhiều
Chỉ thị, Nghị quyết về vấn đề này, như: Chỉ thị số 202 ngày 6 tháng 8 năm
1992; Chỉ thị số 84 ngày 4 tháng 3 năm 1993 của Thủ tướng Chính phủ; Nghị
định số 28/NĐ-CP ngày 7 tháng 5 năm 1996; Nghị định số 25/CP ngày 26
tháng 3 năm 1997; Thông báo số 63 TB/TW ngày 4 tháng 4 năm 1997 của Bộ
Chính trị; Nghị định số 44/NĐ-CP ngày 29 tháng 6 năm 1998; Nghị định số
64/2002/NĐ-CP ngày 19 tháng 6 năm 2002; Chỉ thị số 45 ngày 22 tháng 10
năm 2004 của Bộ Chính trị đẩy mạnh thực hiện Nghị quyết Trung ương 3,
khóa IX về sắp xếp, đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả DNNN, Nghị
định 109/2007/NĐ-CP [11] và mới đây là Nghị định 59/2011/NĐ-CP ngày 18
tháng 7 năm 2011 về việc chuyển DN 100% vốn nhà nước thành CTCP [15].
Quá trình tiến hành CPH các DNNN đã trải qua một số giai đoạn sau
[25]:
- Từ năm 1992 đến tháng 6 năm 1998. Những DN tự nguyện và làm ăn
có lãi được lựa chọn để thí điểm tiến hành CPH. Trong giai đoạn này, cả nước
CPH được 30 DN, trong đó 5 DN được CPH theo cơ chế, chính sách thí điểm
quy định tại Quyết định số 202/CT của Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng, 25 DN
được CPH theo cơ chế chính sách của Nghị định 28/CP của Chính phủ.
- Giai đoạn từ khi Chính phủ ban hành Nghị định số 44/1998/NĐ-CP đến
ngày 31 tháng 12 năm 1999. Trong thời gian này, có thêm 340 DNNN và bộ


×