Tải bản đầy đủ (.ppt) (89 trang)

Bai 4 trung quoc thoi phong kien

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (4.28 MB, 89 trang )

Môn: Lịch Sử Thế Giới Trung Đại
Nhóm thuyết trình: Nhóm 2


CÁC NỘI DUNG CHÍNH
I-Tình hình chính trị.
1-Tóm lược biên niên các triều đại.
2.Sự hình thành xã hội phong kiến và tổ chức bộ máy Nhà nước.
II – Tình Hình Kinh Tế.
1. Nông nghiệp.
2. Thủ công nghiệp và thương nghiệp.
3 Chế độ ruộng đất.
3.1 Ruộng đất của nhà nước - Chế độ quân điền.
3.2 Ruộng đất tư nhân.
a/Tình hình ruộng đất tập trung vào tay đại địa chủ.
b/Chế độ điền trang.
c/Ruộng đất của chùa
d/Những chính sách hạn chế ruộng đất tư của nhà nước.
III Quan hệ giai cấp.
1. Giai cấp địa chủ.
2.Giai cấp nông dân.
3. Tầng lớp công thương.
4. Tầng lớp nô lệ.
IV. Phong Trào Nông Dân.
V. Văn Hóa và Khoa Học Kĩ Thuật.
1.Nho giáo.
2. Triết học.
3. Đạo đức.
4. Đạo giáo.
5. Sử học.
6. Văn học.


7. Khoa học kĩ thuật.
VI. Kết Luận.
VII. Tài Liệu Tham Khảo.


I. Tình Hình Chính Trị.
1. Nhà Tần:

221  206 TCN

2. Nhà Hán:

206 TCN  220

3. Thời Tam Quốc:

220  280

4. Thời Tây Tấn:

265  316

5. Thời Đông Tấn:

317  420

6. Thời Nam – Bắc Triều:
7. Nhà Tuỳ:

420  589

581  618

8. Nhà Đường:

618  907

9. Thời Ngũ đại:

907  960

10. Nhà Tống:

960  1279

11. Nhà Nguyên:

1271  1368

12. Nhà Minh:

1368  1644

13. Nhà Thanh:

1644  1911

1.NIÊN BIỂU CÁC TRIỀU ĐẠI PHONG KIẾN Ở TRUNG QUỐC


Bản đồ đường lưỡi bò của Trung Quốc trên biển Đông



2. Sự hình thành xã hội phong kiến và tổ chức bộ máy Nhà nước.

Khoảng 2000 năm TCN, trên lưu vực
sông Hoàng, xã hội có giai cấp đầu tiên
của Trung Quốc đã được hình thành.
Cư dân cổ Trung Quốc là những người
có nhiều kinh nghiệm làm thủy lợi, trông
kê, cao lương, dệt vải, đúc đồng. Từ thế
kỉ XV TCN, người Trung Quốc bắt đầu
biết sử dụng công cụ bằng sắt. Nghề
luyện sắt đã phát triển nhanh chóng.
Các nơi Nam Dương, Hàm Đan, Lâm
Tri đều trở thành trung tâm luyện sắt.
Việc sử dụng rộng rãi đồ sắt đã thúc
đẩy nông nghiệp phát triển và khai khẩn
thêm đất đai, mở rộng diện tích canh
tác, đẩy mạnh việc làm thủy lợi, giao
thông thuận lợi. Nhờ đó năng xuất lao
động lên cao, xã hội ngày càng biến đổi
sâu sắc.


Do sản xuất phát triển và đất đai được khai khẩn
ngày một tăng đã làm cho của cải tư hữu trong
tầng lớp quan lại và nông dân giàu tăng lên. Ngay
thời Chiến Quốc, ruộng đất tư ở Trung Quốc xuất
hiện ngày một nhiều. Họ đã dùng cả quyền lực để
chiếm đoạt ruộng đất công rồi biến thành ruộng

đất tư. Từ đó, một giai cấp mới hình thành từ
những quan lại và nông dân giàu có, gồm những
kẻ có nhiều ruộng đất tư gọi là địa chủ. Giai cấp
địa chủ ở Trung Quốc, cũng giống như ở các
nước phương Đông, bao gồm hai tầng lớp địa chủ
yếu là địa chủ quan lại và đại chủ thường.
Ngược lại, một số khá đông nông dân công xã
ngày càng nghèo túng, bị mất hết hay mất phần
lớn ruộng đất, phải xin nhận cấy thuê cho địa chủ.
Khi nhận ruộng, họ đã trở thành tá điền của địa
chủ và phải nộp một phần hoa lợi cho địa chủ gọi
là tô ruộng đất, thường bằng 5/10 thu hoạch. Đó là
tầng lớp nông dân lĩnh canh.


Như thế, từ khi chế độ tĩnh điền tan rã, công xã bị
rạn nứt, nông dân thời cổ cũng bị phân hóa. Một
bộ phận đã trở thành nông dân lĩnh canh, còn một
số nông dân vẫn giữ được đất đai của mình và trở
thành nông dân tự canh. Họ là những người cày
cấy trên ruộng đất của mình (hoặc được nhà nước
phong kiến cấp đất cho theo chính sách quân
điền). Họ là những người được tự do, nhưng vẫn
nộp thuế ruộng (thường bằng 1/10 thu hoạch) và
phải tham gia lao dịch cho Nhà nước.
Với sự hình thành giai cấp chính là địa chủ và nông
dân, quan hệ xã hội về chính trị và kinh tế đã thay
đổi. Trước kia, khi chế độ công xã còn tồn tại,
quan hệ chủ yếu là quan hệ bót lột của quý tộc đối
với nông dân công xã. Quan hệ đó giờ đây đã dần

dần nhường chỗ cho quan hệ bót lột tô của địa
chủ đối với nông dân lĩnh canh : quan hệ phong
kiến bắt đầu hình thành trong xã hội Trung Quốc.


Trong xã hội phong kiến Trung Quốc, Hoàng đế có quyền tuyệt
đối. Dưới Hoàng đế là hệ thống quan lại được tổ chức chặt chẽ
từ trug ương đến địa phương. Ở triều đình, dưới vua có các
chức quan, cao nhất là Thừa tướng giúp vua trông coi việc
chung, giải quyết việc chính trị và Thái úy trông coi việc binh.
Cùng với hai quan văn, quan võ còn còn có Ngự sử đại phu phụ
trách văn thư và giám sát các quan. Ba chức này gọi là Tam
công. Dưới nữa là Cửu khanh gồm 9 chức quan phụ trách các
công việc cụ thể khác nhau như: thuế, hình pháp, điền chương,
lễ nghi, tài chính… Hoàng đế còn có quân đội để duy trì trật tự
xã hội, trấn áp bên trong và bành trướng xâm lược ra bên ngoài.


Hoàng đế
Thừa tướng
Các quan văn

Thái uý
Các chức
quan khác

Các quan võ

Thái thú


Thái thú

(ở quận)

(ở quận)

Huyện lệnh
(ở huyện)

Huyện lệnh
(ở huyện)

Huyện lệnh
(ở huyện)

Huyện lệnh
(ở huyện)

SƠ ĐỒ TỔ CHỨC BỘ MÁY CHÍNH QUYỀN PHONG KIẾN.


Các hoàng đế Trung Hoa rất kêu ngạo về quyền
hành và sức mạnh của mình. Ỷ thế nước lớn, đông
dân, có nền văn minh phát triển cao, họ tự cho mình
là chúa tể của thiên hạ. Tham vọng bành trướng, bá
quyền luôn luôn có trong ý thức và hành động của
các hoàng đế Trung Quốc. Họ coi mình là trung tâm
thế giới, uy quyền “bao trùm thien hạ” “tỏa đến vạn
ban”, do đó họ muốn “muôn nước ở bốn phương
đều chạy đến thần phục, tụ họp dưới sân rồng”.

Từ đất gốc Trung Hoa (vùng trung lưu sông Hoàng),
các vua Tần rồi Hán lần lượt chiếm đoạt các vùng
xung quanh, đem quân đi thôn tính các nước láng
giềng, trong đó có các nước Việt cổ. Nhưng họ đã bị
người Âu Việt, Lạc Việt chống trả quyết liệt. Quân
Tần bị thua,, tướng Đồ Thư tử trận, buộc phải rút lui .
Ý đồ làm bá chủ thế giới của Trung Quốc đã bị thất
bại


Khởi nghĩa của Hai bà Trưng chống lại nhà Hán năm 40


II – Tình Hình Kinh Tế.
1. Nông nghiệp.

Dựa vào điều kiện tự nhiên thuận lợi với
những đồng bằng phì nhiêu màu mở, ngay
từ thời cổ đại, người Trung Quốc đã sớm
phát triển nền kinh tế nông nghiệp, thủ công
nghiệp và chăn nuôi, hình thành nên một
trung tâm văn minh rất sớm ở phương Đông.
Nông cụ bằng sắt được sử dụng tương đối
phổ biến từ thời Xuân Thu, nên sản xuất đã
phát triển, chế độ tư hữu ruộng đất bắt đầu
xuất hiện, chế độ tỉnh điền tan rã. Đến thời
Chiến Quốc, các công trình thủy lợi được
xây dựng ở nhiều nơi. Nghề luyện sắt đã có
những tiến bộ đã góp phần thủ công nghiệp
phát triển. Tiền tệ bằng kim loại thịnh hành.

Các thành thị lớn ở Trung Quốc như Lâm
Truy, Hàm Đan… đã ra đời ở Trung Quốc.
Bước vào thời phong kiến, các nghành
kinh tế của Trung Quốc phát triển hoặc suy
thoái tương ứng với sự thịnh suy có tính chất
chu kì của các triều đại.


Trong nông nghiệp, ruộng tư
ngày càng mở rộng ; bên cạnh
đó, ruộng công vẫn tiếp tục tồn
tại . Khi mới thiết lập triều đại của
mình, các vua phong kiến Trung
Quốc đều thi hành một số chính
sách nhằm khôi phục, phát triển
sản xuất và xoa dịu mâu thuẫn
giai cấp. Đó là việc kêu gọi nhân
dân lưu tán trở về quê củ làm ăn,
giảm nhẹ tô thuế, sưu dịch và
sửa chữa, xây dựng các công
trình thủy lợi ; đồng thời, kĩ thuật
sản xuất cũng không ngừng
được cải tiến, kinh nghiệp sản
xuất được viết thành sách và phổ
biến cho nhân dân. Diện tích gieo
trồng được mở rộng, do đó, năng
xuất và tổng sản lượng đều tăng.


Dưới thời Đường, kinh tế phát

triển cao hơn các thời đại
trước về mọi mặt. Đặc biệt nhà
Đường thực hiện thực hiện
việc lấy đất công và ruộng bỏ
hoang đem chia cho nông dân.
Đó là chế độ quân điền .
Ở thời Nguyên, nông nghiệp
cũng đạt được một số thành
tựu, nhất là nghề trồng bông.
Dưới thời Minh, nông nghiệp
có một số tiến bộ về kĩ thuật
gieo trồng, một số giống cây
trồng mới được đưa vào Trung
Quốc như thuốc lá. Đến nhà
Thanh, lúc đầu cũng rơi vào
cảnh tiêu điều cho đến thời
vua Càng Long nông nghiệp
mới được phục hồi.


Nhìn toàn bộ, nông nghiệp Trung
Quốc thời phong kiến có nhiều
thành tựu. Nhưng trong quá trình
phát triển, cùng với sự thịnh suy
có tính chất chu kì về chính trị,
nền nông nghiệp cùng các ngành
kinh tế khác cũng phát triển và
suy thoái một cách tương ứng.
Vì vậy, Mác đã nhận định: “… Ở
các nước Châu Á, nông nghiệp

bị suy sụp dưới sự cai trị của
chính phủ này, nhưng lại được
khôi phục dưới sự cai trị của một
chính phủ khác. Ở đây, thu
hoạch cũng là tùy ở chính phủ tốt
hay xấu, giống như các nước
Châu Âu mức thu hoạch là do
thời tiết tốt hay xấu”.


Nền thủ công nghiệp của Trung Quốc
sớm phát triển. Đầu thời phong
kiến, một số nghề tăng nhiều, quy
mô sản xuất mở rộng, kĩ thuật ngày
một tinh xảo.
Trước hết phải kể đến nghề luyện
sắt, đúc gang, luyện thép của Trung
Quốc. Người Trung Quốc biết dùng
đồ sắt từ sớm , là người đầu tiên
chế tạo ra gang , lại là người đầu
tiên luyện gang thành thép. Họ gọi
gang là “sinh thiết”, thép là “đại
thiết” và rèn sắt là “thục thiết”. Để
làm “chín” sắt, người Trung Quốc
đã biết phải làm mất đi một số chất
cơ bản mà người ta gọi là “sinh diệt
mệnh”. Cuối Hậu Chu, vua Thế Tông
(951-960) đã cho dựng một bức
tượng thú lớn cao 6m gọi là “đại
thiết sư” ở Thương Châu (Hà Bắc)

để kỉ niệm chiến thắng Hung nô
năm 954. Tãi Đương Dương (Hồ
Bắc), có tháp Ngọc Tuyền hoàn toàn
bằng gang cao 13m được dựng vào
năm 1601.


Đồ gốm cũng xuất hiện
sớm. Tại khu lăng mộ Tần
Thủy Hoàng, người ta đã
phát hiện 8000 binh mã là
tượng gốm hỗn hợp cả xa,
kị, bộ binh với hành ngủ
chỉnh tề, như dàn thành tế
trận. Đến thời Đường, nghệ
thuật gốm sứ có những
bước tiến mới. Đồ sứ ba
màu là sản phẩm nổi tiếng
trong và ngoài nước. Qua
thời Tống, đến thời Minh,
đồ gốm, sứ của Trung Quốc
đạt đến trình độ kỉ thuật và
chất lượng nghệ thuật cao.
Đến thế kỉ XV, khi đồ sứ của
Trung Quốc phát triển thì ở
Châu Âu thứ này còn gọi là
vật quý hiếm.


GỐM SỨ THỜI MINH



GỐM SỨ THỜI MINH


Nghề đóng thuyền ở Trung Quốc
cũng phát triển sớm. Họ đã đóng
được nhiều loại thuyền cao đến 5
tầng. Do vậy, mà hành hải Trung
Quốc cũng có bước tiến. Từ thời
Đường, qua thờ Tống, các hoạt
động giao thương trên biển được
mở rộng. Triều Minh đã tổ chức
nhiều cuộc thám hiểm hàng hải,
đưa các hạm đội và thủy thủ đến
tận Đông Phi.
Các nghề làm giấy, đồ sơn, dệt vải,
in… cũng đều phát triển từ rất
sớm, trong đó một số nghề giữ
vai trò quan trọng trong đời sống
xã hội ở Trung Quốc. Các hình
thức phường hội thủ công, cùng
với việc lập đền thờ những
người đầu tiên truyền nghề của
phường hội cũng đã xuất hiện.


Do nông nghiệp và thủ công nghiệp
sớm phát triển, nên nội thương và
ngoại thương của Trung Quốc

cũng có những bước tiến. Trung
Quốc không chỉ buôn bán với các
nước vùng Trung Á, mà buôn bán
với phương Tây theo “con đường
tơ lụa”. Con đường này được duy
trì trong 10 thế kỉ, nó đã góp phần
to lớn vào sự giao lưu kinh tế, văn
hóa với các dân tộc trên thế giới.
Hàng hóa khác bằng trúc, bằng
sứ… cùng với kĩ thuật nuôi tằm,
dệt lụa của Trung Quốc được đưa
sang Trung Á và Châu Âu. Ngược
lại, Trung Quốc còn du nhập nền
văn minh của các dân tộc khác.
Trên cơ sở phát triển của công
thương nghiệp, các thành thị của
Trung Quốc thời phong kiến cũng
trở nên đông đúc, nhộn nhịp.
Con đường tơ lụa


Con đường tơ lụa từ Trung Quốc đến Ấn Độ -Lưỡng Hà và Địa Trung Hải


Đến cuối thời Minh, mầm mống quan hệ sản
xuất tư bản chủ nghĩa bắt đầu xuất hiện.
Nhiều công trường thủ công được ra đời
trong các ngành luyện sắt, đồ sứ, làm
giấy…, các chủ xưởng là những người
giàu có nắm trong tay hàng vạn bạc vốn,

thuê hàng chục thợ. Những người thợ này
“làm công ăn lương” cho chủ của họ.
Quan hệ của họ là “chủ xưởng xuất vốn,
còn thợ thì xuất sức”. Hoạt động của
những người lái buôn vào cả lĩnh vực
nông nghiệp. Họ xuất vốn cho nông dân
trồng mía vào mùa xuân và thu lại bằng
đường vào mùa đông. Song cho đến thế kỉ
XIX, mầm mống tư bản chủ nghĩa còn nhỏ
yếu, chưa gây được ảnh hưởng trong xã
hội Trung Quốc. Nền kinh tế tự nhiên trước
sau vẫn chiếm địa vị thống trị. Các thành
phố lớn như: Tràng An, Lạc Dương (thời
Tùy, Đường), Bắc Kinh, Nam Kinh (thời
Nguyên, Minh, Thanh) mặc dù đông vui,
phồn thịnh nhưng vẫn là trung tâm chính
trị. Do sự rối loạn về chính trị có tính chất
chu kì, nên kinh tế công thương nghiệp
Trung Quốc, mặc dù đạt được nhiều thành
tựu to lớn và có những mặt đứng hàng
đấu thế giới (tơ lụa, sứ), vẫn không phát
triễn được nhanh chóng, thuận lợi.


3. Chế độ ruộng đất.
Thời cổ đại, cũng như ở các nước phương đông khác, ruộng
đất ở Trung Quốc thuộc quyền sở hữu của nhà nước. Đến
thời Xuân Thu-Chiến Quốc, chế độ thái ấp và chế độ tỉnh
điền dần dần tan rã, ruộng đất tư hữu bắt đầu ra đời và
không ngừng phát triển. Do vậy, từ thời Tần đến thời Thanh,

ở TQ có 2 hình thái sở hữu ruộng đất cùng tồn tại, đó là
ruộng đất của nhà nước và ruộng đất của tư nhân.
3.1 Ruộng đất của nhà nước-Chế độ quân điền.
Bộ phận ruộng đất thuộc quyền quản lí trực tiếp của nhà
nước trong sử sách TQ thường được gọi bằng các tên như :
Công điền,Vương điền ,quan điền. Nguồn gốc của loại
ruộng đất vôn do nha nước quản lí còn có ruộng đất vắng
chủ sau những thời kì chiến tranh bạo loạn. Do vậy, thông
thường trong thời kì đầu, các triều đại phong kiến TQ nắm
được rất nhiều ruộng đất. Trên cơ sở ấy, các triều đại 
phong kiến đem ruộng dất ban cấp cho các quý tộc, quan
lại, 1 bộ phận thì tổ chức thành đồn điền, điền trang để sản
xuất hoặc giao cho nông dân dưới hình thức quân điền để
thu thuế.


Trong chính sách xử lí ruộng đất công, đáng chú ý
nhất là chế độ quân điền tồn tại từ cuối TK V đến TK
VIII.Tuy về quy định cụ thể, chính sách quân điền
của các triều đại có ít nhiều khác nhau, nhưng tinh
thàn chung là :
Nhà nước đem ruộng đất do mình trực tiếp quản lí
chia cho nông dân cày cấy. (Thời Bắc Ngụy, đàn
ông từ 15 tuổi trở lên được cấp 40 mẫu ruộng trồng
lúa gọi là "lộ điền" và 20 mẫu ruộng trồng dâu; đàn
bà được cấp 20 mẫu ruộng trồ úa; nô tì cũng được
cấp như người tự do; bò cày được cấp mỗi con 30
mẫu. Nếu ruộng đất thuộc loại ruộng đất phải dể
nghỉ 1-2 năm thì được nhận gấp đôi hoặc gấp 3.
Thời Đường quy định, đàn ông từ 18 tuổi trở lên thì

được cấp 80 mẫu ruộng trồng lúa gọi là ruộng
"khẩu phần" và 20 mẫu ruộng trồng dâu gọi là
ruộng "vĩnh nghiệp"; cụ già, người tàn tật, ốm yếu
được cấp 40 mẫu ruộng khẩu phần, bà góa được
cấp 30 mẫu ruộng khẩu phần, nếu là chủ hộ thì
được cấp 1/2 suất của tráng đinh .)


×