Tải bản đầy đủ (.pdf) (127 trang)

Nghiên cứu đề xuất giải pháp phục hồi rừng phòng hộ ven bờ tại một số xã thuộc lưu vực sông cầu

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.85 MB, 127 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PTNT

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LÂM NGHIỆP

-----------------------

TRẦN THỊ THANH HƯƠNG

NGHIÊN CỨU ĐỀ XUẤT GIẢI PHÁP PHỤC HỒI RỪNG
PHÒNG HỘ VEN BỜ TẠI MỘT SỐ XÃ THUỘC
LƯU VỰC SÔNG CẦU

Chuyên ngành: Quản lý tài nguyên rừng
Mã số: 60.62.68

LUẬN VĂN THẠC SỸ KHOA HỌC LÂM NGHIỆP

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC

TS. PHÙNG VĂN KHOA

Hà Nội, 2010


1

ĐẶT VẤN ĐỀ
Có thể nói, chưa khi nào vai trò của rừng lại được “tôn vinh” như hiện nay trong bối cảnh biến đổi khí hậu toàn cầu. Điều này chứng tỏ rằng, ngoài các giá
trị về kinh tế, văn hóa, khoa học,… thì rừng có vai trò vô cùng quan trọng trong


bảo vệ môi trường, điều hòa khí hậu góp phần nuôi dưỡng sự sống trên trái đất.
Quả không sai, câu tục ngữ “Rừng vàng, biển bạc”. Bởi trên trái đất này, liệu
còn có gì quý hơn “vàng, bạc” ấy? Song những năm gần đây, sự bùng nổ dân số,
nhu cầu phát triển kinh tế, con người đang gia tăng sức ép vào rừng và tàn phá
tài nguyên rừng ngày càng nghiêm trọng.
Việt Nam được đánh giá là đất nước có tài nguyên rừng nhiệt đới vô cùng
phong phú và đa dạng nhưng đồng thời cũng là một trong những quốc gia có tốc
độ phục hồi rừng nhanh trên thế giới. Tuy nhiên, điều đáng quan ngại hiện nay là
sự suy thoái rừng tự nhiên, nhất là rừng tự nhiên phòng hộ đầu nguồn và ven bờ
sông suối lại đang ở mức báo động.
Lưu vực sông Cầu là một điển hình về sự mất rừng phòng hộ đầu nguồn
trong số đó với tốc độ mất rừng là 1 - 2%/năm, độ che phủ rừng của các tỉnh
thuộc vùng đầu nguồn lưu vực sông Cầu chưa đạt 30%, trong khi độ che phủ của
vùng cần thiết phải là trên 50% (Bộ Tài nguyên và Môi trường, Uỷ Ban sông
Cầu, 2000). Thêm vào đó là sự khai thác không hợp lý các nguồn tài nguyên:
đất, nước, khoáng sản,… để phục vụ phát triển dân sinh kinh tế của hàng triệu
dân trên toàn lưu vực đã gây ra các hiện tượng ô nhiễm, xói lở, bồi lấp thuỷ vực.
Bên cạnh đó, các nguồn tài nguyên thiên nhiên, cảnh quan hai bên bờ sông cũng
đang bị xuống cấp nghiêm trọng, gây ảnh hưởng sâu sắc đến cuộc sống của
người dân vùng ven bờ cũng như sự phát triển bền vững của toàn lưu vực sông
Cầu. Do vậy, việc khôi phục lại các đặc điểm tự nhiên của dòng sông và tiến
hành các giải pháp quản lý, đầu tư, bảo vệ lưu vực sông Cầu một cách bền vững
đang là vấn đề hết sức cấp thiết hiện nay. Một trong những giải pháp đó là phục
hồi rừng phòng hộ ven bờ sông Cầu. Đây là giải pháp được áp dụng phổ biến
trong phục hồi sông và quản lý lưu vực trên thế giới do có tính ưu việt rõ nét khi
so sánh với các giải pháp công trình truyền thống (làm kè đá, đổ bê tông, …)
như: là giải pháp phi công trình (non – structure); kinh phí thấp; gần với tự nhiên


2


(close - to - nature), thân thiện với môi trường; dễ thực hiện; đặc biệt là gần gũi
với người dân và góp phần làm đẹp cảnh quan sinh thái. Tuy nhiên, giải pháp
này lại ít được đề cập tới ở Việt Nam và gần như nó chưa được quan tâm đúng
mức.
Kết quả khảo sát sơ bộ ở hầu hết vùng ven bờ sông Cầu hiện nay đều cho
thấy, rừng phòng hộ ven bờ hay thảm thực vật ven bờ đã và đang bị suy thoái
nghiêm trọng, không còn khả năng phòng hộ hay bảo vệ môi trường như đúng
nghĩa của nó, tình trạng lũ lụt, xói mòn, sạt lở hai bên bờ sông đang ở mức báo
động. Vậy, thực trạng cụ thể của vấn đề ra sao? Khả năng phục hồi rừng phòng
hộ ven bờ sông Cầu như thế nào? Cấu trúc không gian và tổ thành loài cây như
thế nào cho phù hợp với các điều kiện đặc thù của địa phương?… đang là những
câu hỏi chưa có câu trả lời bằng các căn cứ khoa học. Do vậy, đề tài: “Nghiên
cứu đề xuất giải pháp phục hồi rừng phòng hộ ven bờ tại một số xã thuộc lưu
vực sông Cầu” được thực hiện với mong muốn sẽ trả lời được các câu hỏi trên
đây và góp phần cung cấp cho cộng đồng cái nhìn toàn diện hơn, sâu sắc hơn về
vai trò quan trọng của rừng phòng hộ ven bờ trên các lưu vực sông, từ đó làm cơ
sở để đề xuất các giải pháp phục hồi rừng phòng hộ ven bờ nhằm cố định bờ
sông, ổn định dòng chảy và giảm ô nhiễm nguồn nước trong lưu vực sông Cầu.
Những kết quả nghiên cứu của đề tài này sẽ là tài liệu tham khảo có giá trị
cho các nghiên cứu khác có liên quan, cho quá trình giảng dạy về rừng phòng hộ
và các giải pháp phục hồi sông suối của các cơ sở đào tạo, cũng như cho công
tác quản lý tổng hợp và bền vững các lưu vực sông ở Việt Nam.


3

PHẦN I
TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
Hiện nay, trong khoa học đã xuất hiện rất nhiều quan điểm, khái niệm khác

nhau về rừng phòng hộ ven bờ. Song một số khái niệm phổ biến gắn liền với các
tổ chức, các chuyên gia đầu ngành trong lĩnh vực này được ghi nhận như:
Rừng phòng hộ ven bờ được hiểu là khu vực có nhiều cây xanh, ở đó luôn
có cây bụi thảm tươi và các thảm thực vật khác trải dài, dọc theo hai bờ sông
suối. Hay đó là vùng đất nằm sát về hai phía bờ sông - nơi được quản lý bảo vệ
để duy trì tính nguyên vẹn của dòng nước và giảm tốc độ ô nhiễm đồng thời
cung cấp thức ăn, môi trường sống, điều hoà nhiệt độ cho các loài thuỷ sinh và
động vật hoang dã (Theo NRCS Planning & Design Manual, 2005). Còn theo
Julia C. Klapproth và James E. Jonhson (2000) lại có quan điểm rộng hơn, chi
tiết hơn và nhấn mạnh đến khía cạnh rừng phòng hộ ven bờ. Theo đó, đây là khu
đất trực tiếp nằm kề sát với sông suối, hồ hay các diện tích bề mặt nước. Ranh
giới giữa rừng phòng hộ ven bờ và vùng đất phía trên gần kề thường thoải và
khó nhận biết rõ. Dù vậy, nó được phân biệt bởi vị trí cao thấp khác nhau, vùng
ven bờ ẩm hơn và dễ bị ngập lụt - nơi thu hút đặc biệt bởi sự tập hợp nhiều cây
và con ở đó. Nhờ có sự tác động qua lại giữa các yếu tố đất đai, thổ nhưỡng, khí
hậu, thuỷ văn, thảm thực vật và sự quan tâm của cộng đồng. Rừng phòng hộ ven
bờ được nuôi dưỡng bởi nhiều quy luật tự nhiên quan trọng như: đặc điểm sinh
vật học, các chức năng sinh thái học,... và đặc biệt là các lợi ích của xã hội.
1.1. Trên thế giới
1.1.1. Nghiên cứu về rừng phòng hộ ven bờ
a. Về chức năng:
Trên thế giới, rừng phòng hộ ven bờ luôn được quan tâm rất đặc biệt, bởi
đây chính là kiểu hệ sinh thái đặc thù, đảm nhiệm nhiều chức năng và giá trị sinh
thái quan trọng mà không hệ sinh thái nào có được. Qua một số kết quả nghiên


4

cứu của Julia C. Klapproth và James E. Johnson (2000); PaulM. Mayer, Steven K.
Reynolds. Jr, Timothy J. Canfield, US. Environmental Protection Agency (2005) về

chức năng của rừng phòng hộ ven bờ cho phép chúng ta rút ra một số chức năng
cơ bản sau:
+ Chức năng phòng hộ và bảo vệ môi trường: bảo vệ đất vùng ven bờ
như giữ đất, giảm tình trạng xói mòn, sạt lở đất; làm tăng tính hiệu ích của
nguồn nước như ổn định dòng chảy, giảm các nguy cơ lũ lụt, ô nhiễm môi
trường nước,…
+ Chức năng bảo tồn: góp phần bảo tồn đa dạng sinh học nói chúng và
tính đặc trưng hệ sinh thái vùng ven bờ.
+ Chức năng cung cấp: rừng phòng hộ ven bờ là hệ sinh thái chuyển tiếp
giữa hệ sinh thái dưới nước và trên cạn nên có tính đa dạng sinh vật khá cao.
Do đó, đây là nơi cung cấp thức ăn, nơi ở của rất nhiều loài sinh vật trên cạn và
dưới nước. Đồng thời cũng là nơi cung cấp một phần lâm sản phục vụ nhu cầu
của cộng đồng địa phương.
+ Chức năng văn hóa, thẩm mỹ: góp phần làm đẹp sinh thái cảnh quan,
như là hình ảnh một dòng sông trù phú, xanh mát tạo nguồn cảm hứng thi ca
cho các văn, nghệ sỹ…
Trên đây là những chức năng đặc biệt quan trọng của rừng phòng hộ
ven bờ. Tuy nhiên, để có được vai trò trên, NRCS đã đưa ra một số khuyến nghị
về rừng phòng hộ ven bờ như sau:
- Không nên để nước chảy thành khe, rãnh qua rừng phòng hộ ven bờ.
- Vùng phòng hộ ven bờ cần thiết phải được khoanh vùng bảo vệ, nghiêm
cấm việc chăn thả vật nuôi tuỳ tiện trong đó.
- Trong quy hoạch rừng phòng hộ thì trước hết chúng ta cần phải ưu tiên
những thảm thực vật tự nhiên ven bờ, những loài cây bản địa bởi vì chúng có
khả năng thích nghi cao với điều kiện lập địa cũng như môi trường bán ngập của


5

vùng ven bờ. Những loài cây được trồng gần bờ sông, suối cũng có thể được sử

dụng trong rừng phòng hộ ven bờ.
Ngoài ra, các kết quả nghiên cứu của U.S. EPA (2005), Vitouse et al.
(1997) và Swakhamer et al. (2004) về khả năng chuyển hoá và khử Nitơ của
rừng phòng hộ ven bờ đã cho rằng: Nitơ là một nhân tố rất quan trọng trong các
hệ sinh thái dưới nước, vùng ẩm ướt, chúng thường tồn tại ở dạng NO3-, NH4+,
song nếu nồng độ Nitơ quá lớn sẽ là căn nguyên gây ô nhiễm, suy thoái môi
trường nước đồng thời làm suy giảm đa dạng sinh học và ảnh hưởng xấu đến sức
khoẻ con người. Nhưng thật kỳ diệu thay khi các nghiên cứu về lĩnh vực này
thêm một lần nữa đã chứng tỏ được chức năng chuyển hoá Nitơ, giảm ô nhiễm
nguồn nước rất hiệu quả của rừng phòng hộ ven bờ.
b. Về cấu trúc của rừng phòng hộ ven bờ
Như vậy, chức năng đặc biệt quan trọng của rừng phòng hộ ven bờ đã
được chứng minh bằng các căn cứ khoa học từ nhiều công trình nghiên cứu liên
quan khác nhau. Tuy nhiên, các nghiên cứu cũng chỉ ra rằng, vai trò sinh thái của
rừng phòng hộ ven bờ thường xuyên biến động và được coi như là một hàm số
với nhiều biến số. Hay nói cách khác là luôn tồn tại nhiều nhân tố cố hữu hay hy
hữu ảnh hưởng đến vai trò sinh thái của vùng ven bờ. Chẳng hạn, khả năng làm
giảm ô nhiễm nước của rừng phòng hộ ven bờ chịu ảnh hưởng của nhiều yếu tố
như: kích thước của vùng đệm, cấu trúc, tổ thành loài cây, đặc điểm đất đai, thổ
nhưỡng, địa hình, thuỷ văn, tiểu khí hậu,... của khu vực đó (Lin và cộng sự,
2002, theo trích dẫn của Liu, 2006). Vậy, vấn đề đặt ra là: liệu có mối quan hệ
chặt chẽ nào giữa đặc điểm và vai trò của rừng phòng hộ ven bờ? Độ rộng bao
nhiêu là đủ? Cấu trúc của vùng đệm như thế nào để cho hiệu quả tối ưu nhất?...
Để làm sáng tỏ cho vấn đề này, hiện nay trên thế giới đã có rất nhiều các nghiên
cứu về đặc điểm rừng phòng hộ ven bờ được ghi nhận, điển hình như:


6

- Theo NRCS và Planning & Design Manual, độ rộng của hệ sinh thái

rừng phòng hộ ven bờ có thể biến đổi linh hoạt tuỳ thuộc vào vị trí mà dòng sông
chảy qua, vào tiềm năng xói mòn và độ dốc của vùng đất tại đó. Ngoài ra, độ
rộng này còn tuỳ thuộc vào nhu cầu về hoàn cảnh môi trường sống, độ rộng
hành lang di chuyển của các loài động thực vật, các loài thuỷ sinh đang sống ở
đó và chức năng sinh thái tiên quyết nhất của vùng ven bờ ở đó. Kết quả nghiên
cứu cho thấy, phần lớn các chất lắng cặn bị giữ lại ngay trong khoảng 25% đầu
tiên của độ rộng vùng đệm. Độ rộng tối thiểu của vùng đệm phải là 7,6 m cho
khả năng lọc chất lắng cặn, dinh dưỡng, sỏi, đá. Song, để thảm thực vật vùng
đệm có thể hấp phụ, sàng lọc được thuốc bảo vệ thực vật, phân bón hoá học và
các hợp chất khó hoà tan khác thì độ rộng cần thiết của thảm thực vật ven bờ
phải lớn hơn 30 m. Kết luận này cũng trùng với kết quả nghiên cứu của Wenger
Fowler (2000). Trên quan điểm của NRCS, thì độ rộng rừng phòng hộ ven bờ
nói chung cho các trường hợp chỉ nên thiết kế vừa đủ cho việc thực hiện các
chức năng của nó, do đó độ rộng này vào khoảng 61m.
- Nghiên cứu của Jocobs (1985) và Lowrance (1992) đều xác nhận rằng, có
tới >85% nitrat và 78% lượng amoni được khử nếu độ rộng vùng đệm khoảng 30 –
50 m. Kết luận này tương tự với kết quả nghiên cứu của Schoonover và Wil-lard
(2003) về chức năng khử nitrate của rừng phòng hộ ven bờ là: với độ rộng 10 m,
rừng phòng hộ ven bờ có khả năng giảm được 61% lượng Nitrate có trong nước
ngầm tại đó. Cũng tương tự như vậy với 38m độ rộng rừng phòng hộ ven bờ thì khả
năng này sẽ tăng lên là 78%, ngoài ra vùng đệm này còn có thể khử được 52% lượng
Amonium (Vellidis et al, 2003)
- Barling và Moore (1994) đã nhấn mạnh hiệu quả ngăn chặn - khử thuốc
bảo vệ thực vật, chất hoá học, các hợp chất khó hoà tan, chất độc hại,... là không
cao nếu thiết kế rừng phòng hộ ven bờ nhỏ hơn 30 m.


7

- Khi nghiên cứu trên các loại rừng phòng hộ ven bờ khác nhau thì Parkin

et al. (2003) và Lynch et al. (1985) đều thống nhất rằng, hiệu quả đó sẽ gấp 2 - 3
lần nếu rừng phòng hộ ven bờ là rừng truởng thành hoặc rừng già.
Vậy thảm thực vật ven bờ nên là thảm cỏ hay là rừng? Và quan hệ giữa
các dạng sống của thực vật với hiệu quả của chúng được NRCS nghiên cứu và
tổng hợp như sau:
Bảng 1.1. Quan hệ giữa các dạng sống của thực vật ven bờ với mức độ hiệu quả tương ứng

Tác dụng
Giảm xói mòn
Lọc, ngăn chặn chất lắng cặn,
Lọc chất dinh dưỡng, thuốc trừ sâu,...
Môi truờng sống (MTS) dưới nước
Động vật trên đồng cỏ và thảo nguyên
Động vật rừng
Giá trị kinh tế
Phòng chống lũ lụt
Tính đa dạng sinh học

Cỏ
Thấp
Cao
Cao
Thấp
Cao
Thấp
Trung bình
Thấp
Thấp

Dạng sống

Cây bụi
Cao
Thấp
Thấp
Trung bình
Trung bình
Trung bình
Thấp
Trung bình
Trung bình

Cây gỗ
Cao
Thấp
Trung bình
Cao
Thấp
Cao
Trung bình
Cao
Cao

Bảng tổng hợp trên đã chỉ ra được sự khác nhau về mức độ hiệu quả của
các dạng sống là cỏ hay cây bụi và cây gỗ, mỗi dạng sống đều có những ưu
nhược điểm riêng. Vì vậy, mô hình rừng phòng hộ ven bờ tối ưu là sự kết hợp
hài hoà của các dạng sống này.
- Những nghiên cứu của Fisrwg (1998), NRCS (2002), Welch (1991),
Schult et al. (1995),... đều cho rằng, việc phục hồi và thành lập hệ sinh thái rừng
phòng hộ ven bờ là biện pháp tối ưu nhất trong bảo vệ chất lượng nước cũng như
trong quản lý lưu vực bền vững. Vì tiềm năng biến đổi và hấp phụ các chất dinh

dưỡng, chất lắng cặn,... đặc biệt của thảm thực vật nhờ hệ thống rễ cây và quá
trình sinh lý phức tạp của chúng.
Đồng thời, hầu hết các nghiên cứu đều thống nhất chung là xây dựng mô
hình rừng phòng hộ ven bờ thường có ba vùng chiến lược (Hình 1.1) là:


8

(1) Vùng trong cùng, cận kề với đất nông nghiệp hoặc rừng trồng đặc
trưng bởi trảng cỏ, cây bụi bảo vệ nhằm kiểm soát dòng chảy mặt, tăng tính
thấm cho đất và cũng có thể là nơi làm hàng rào bảo vệ các loài động vật ăn
cỏ vùng ven bờ;
(2) Tiếp sau đó là vùng rừng được phép tác động trong một giới hạn và
mức độ nhất định, đảm nhiệm chức năng chủ yếu là hấp thụ, làm lắng đọng và
chuyển hóa chất lắng cặn, các chất dinh dưỡng từ dòng chảy mặt và dòng
chảy dưới mặt đất;
(3) Ngoài cùng, ven sông suối là vùng cây rừng - cây phòng hộ chính
ven bờ, là những loài cây trưởng thành, phân bố tự nhiên ven bờ sông suối,
vùng có mức độ khai thác, tác động rất hạn chế.

Hình 1.1. Lát cắt mô hình rừng phòng hộ ven bờ
(Nguồn: EPA/600/R-05/118, 2005)

Ngoài ra, Amitha (2003) cũng nhấn mạnh, việc xây dựng các giải rừng
phòng hộ ven bờ sông suối đòi hỏi phải dựa trên những thông tin đầy đủ và thích
hợp về cơ cấu các loài cây và cấu trúc tổ thành giữa chúng trong từng điều kiện
cụ thể. Theo Klapporth (2000) thì, việc thiết kế các giải rừng phòng hộ ven bờ để


9


cải thiện chất lượng nước phải tính tới những tác động của điều kiện thuỷ văn,
đất đai, thổ nhưỡng, mức độ, nguồn gây ô nhiễm, đặc điểm lớp phủ thực vật ven
bờ và phương thức sử dụng đất ở những vùng ven bờ có liên quan.
1.1.2. Nghiên cứu về phục hồi rừng
Việc nghiên cứu phục hồi rừng trên thế giới được bắt đầu từ rất sớm. Năm
1930, Richard P.W. đã có những nghiên cứu đầu tiên về diễn thế tái sinh phục
hồi rừng, qua đó ông cho rằng, trong mỗi ô dạng bản, các cây tái sinh tự nhiên có
dạng phân bố cụm hoặc đều và thế hệ cây tái sinh có tổ thành giống hoặc không
giống lớp cây tầng cao. Đây là những nghiên cứu mở đầu rất quan trọng cho
khoa học phục hồi rừng, song nó chưa chỉ ra được những giải pháp cụ thể để
phục hồi rừng.
Tuy nhiên, khoa học nghiên cứu về phục hồi rừng mới thực sự phát triển
vào những năm 1950 trở lại đây. Điển hình là các nghiên cứu của Barnard
(1950), Smith (1952) ở Malaysia và nghiên cứu của Lamprecht ở Venezuela
(1954). Những kết quả nghiên cứu đó đều đi đến thống nhất rằng: cần lợi dụng
triệt để thảm thực vật hiện có với các điều kiện lập địa khác nhằm duy trì tái sinh
tự nhiên kết hợp với trồng bổ sung để phục hồi lại cấu trúc rừng gần giống ban
đầu (Trích theo Đặng Xuân Quý, 2005).
Khi nghiên cứu về rừng nhiệt đới châu Á, Van Steenis (1956) đã đưa ra
kết luận sau: tái sinh vệt thích hợp với những cây ưa sáng mọc nhanh, vòng đời
ngắn; cây tái sinh phân tán, liên tục phù hợp với các loài ban đầu chịu bóng hoặc
những loài ưa bóng (Trích theo Nguyễn Thị Ngọc, 2003).
Ngoài ra, vấn đề được quan tâm nhiều hơn cả trong quá trình nghiên
cứu về phục hồi rừng nhiệt đới, vẫn là hiệu quả lợi dụng tái sinh rừng của các
biện pháp kỹ thuật lâm sinh. Trong đó, phải kể đến hệ thống các phương pháp
xử lý và hiệu quả của nó đối với tái sinh rừng trong “Cơ sở sinh thái học và


10


kinh doanh rừng mưa” của G. Baur (1964).
Năm 1996, các nghiên cứu của Fedlmaner đã chỉ ra rằng, các nhân tố ảnh
hưởng tới quá trình tái sinh phục hồi rừng chủ yếu là: điều kiện lập địa, thành
phần loài, nguồn cây mẹ gieo giống,... Song đó mới chỉ là nghiên cứu tổng hợp
mà chưa chỉ ra được nhân tố nào ảnh hưởng mạnh mẽ nhất, và chưa đề cập đến
nhóm nhân tố quan trọng là kinh tế xã hội.
Năm 1975, khi phân tích sự phát triển của thảm thực vật thứ sinh,
Whitimore đã nhấn mạnh; khoảng thời gian để các khu rừng tái sinh hạt đạt
được tới trạng thái là rừng nguyên sinh có thể tới hàng trăm năm. Các khu rừng
thuần loài được tạo thành bởi những loài mà hạt của chúng có thể nảy mầm và
trụ được trên các khu đất trống vào thời điểm thích hợp và cần lợi dụng lớp cây
chồi, xử lý thực bì theo băng rạch tránh phát trắng để sớm tạo hoàn cảnh rừng.
Đặc biệt, các nghiên cứu về kỹ thuật làm giàu rừng cũng tương đối phát triển, từ
năm 1965 đã nghiên cứu và đưa ra khái niệm làm giàu rừng là bổ sung các loài
cây có giá trị kinh tế vào những nơi rừng đã phục hồi nhưng thiếu hụt loài cây có
giá trị. Đến năm 1989, Han Lamprecht và Aubreulle đã bổ sung thêm rằng, làm
giàu rừng là lựa chọn tối ưu nhất cho lâm phần ban đầu không đủ loài cây tái
sinh có giá trị kinh tế, từ đó đã xây dựng hoàn chỉnh phương pháp làm giàu rừng
theo rạch (Trích theo Bùi Thị Vân, 2005).
Theo J.Wyatt - Smith (1995), làm giàu rừng là sự bổ sung những loài
cây có giá trị kinh tế vào những nơi rừng đã phục hồi lớp cây che phủ thứ sinh
hoặc cây bụi nhưng thiếu hụt những loài cây có giá trị . Wan Yu Sof (1998)
cũng lưu ý khi chọn loài làm giàu rừng cần quan tâm đến các tiêu chí như: dễ
tạo cây tái sinh, tỉ lệ nảy mầm cao, ra hoa kết quả hàng năm, sinh trưởng
nhanh, đặc biệt thời kì đầu, chịu bóng nhẹ lúc non, có khả năng chịu đựng
được sự cạnh tranh các cây khác, tự tỉa cành tốt,... (Trích theo Trần Minh
Cảnh, 2009)



11

Ngoài ra, việc phân loại rừng - đối tượng phục hồi là cơ sở quan trọng cho
đề xuất các biện pháp phục hồi. Hiện nay, trên thế giới có 2 quan điểm phân loại
chính được ghi nhận là: quan điểm của E.F. Bruenig (1998) dựa vào đặc điểm
hiện trạng thảm thực vật che phủ, gồm 5 loại chính: các lâm phần rừng hỗn
loài tự nhiên bị khai thác quá mức, các lâm phần rừng thứ sinh ở các giai đoạn
phát triển khác nhau, các đám cây gỗ thứ sinh, trảng cỏ và các dạng thảm thực
vật khác trên các loại hình thổ nhưỡng khác nhau. Theo quan điểm phục hồi
rừng của tổ chức cây gỗ nhiệt đới quốc tế (ITTO, 2002) thì rừng thứ sinh
nghèo được phân chia làm 3 loại phụ đó là: rừng nguyên sinh bị suy thoái
(Degraded primary forest); rừng thứ sinh (Secondary forest); đất rừng bị thoái
hoá (Degraded forest land).
Các nghiên cứu trên, tuy ở những khía cạnh khác nhau song chủ yếu tập
trung vào các hướng chính là: nghiên cứu về tái sinh và động thái ở rừng thứ
sinh nghèo, phân loại rừng thứ sinh nghèo, các biện pháp kỹ thuật lâm sinh
tác động và hiệu quả của các biện pháp đó,… Đây chính là những cơ sở khoa
học, có ý nghĩa lớn lao, đặt nền móng cho khoa học phục hồi rừng nói chung và
phục hồi rừng phòng hộ ven bờ sông suối nói riêng ngày nay. Tuy nhiên, về khía
cạnh kinh tế xã hội - nhân tố có tác động lớn đến hiệu quả phục hồi rừng lại chưa
được các nhà nghiên cứu quan tâm nhiều.
1.1.3. Quản lý lưu vực có sự tham gia
Quản lý theo lưu vực sông là một hoạt động cần thiết và mang tính tất
yếu của thời đại ngày nay. Trong đó, theo Heinz I và cộng sự, 2007 để quản lý
lưu vực có hiệu quả thì việc phân quyền, khuyến khích sự tham gia của cộng
đồng địa phương là thực sự cần thiết. Richard Aspinall và cộng sự (2000) cũng
cho rằng, sự tham gia của người dân đã trở thành nhân tố đặc biệt quan trọng,
ảnh hưởng quyết định đến sự thành bại của các chương trình quản lý tổng hợp tài
nguyên nói chung và quản lý lưu vực sông nói riêng. Còn Klapporth (2000) thì



12

nhấn mạnh việc quản lý rừng phòng hộ ven bờ nên được xem như một phần của
chương trình quản lý sử dụng đất bền vững của địa phương đó. Đặc biệt những
nơi được cho là điểm nóng về mức độ ô nhiễm, tình trạng xói mòn, sạt lở đất thì
cần thiết phải tiến hành các biện pháp quản lý tổng hợp có sự tham gia (BMPs)
để bổ trợ cho rừng phòng hộ ven bờ.
Ngoài ra, trên thế giới đã có rất nhiều nghiên cứu về lâm nghiệp cộng
đồng nói chung, phục hồi rừng trên cơ sở cộng đồng và đã trở thành bài học
thành công của rất nhiều quốc gia như: Ấn Độ, Băngladet, Philippin, Thái
Lan,… Theo Poffenberger (2000) và Thakur (2001) thì sự thiếu tin tưởng giữa
người dân địa phương với cơ quan lâm nghiệp, thiếu chính sách minh bạch để
thực thi quản lý xã hội và quản lý rừng có người dân tham gia cũng là nguyên
nhân dẫn đến mất rừng. Còn Gymour và Fisher (1997) cho rằng các hoạt động
quản lý rừng cộng đồng có liên quan đến việc mở rộng trồng rừng trên diện
tích đã mất rừng, ở mức độ nào đó khá hơn là việc phối hợp quản lý hoặc
chuyển giao việc kiểm soát cho các cộng đồng (Chương “Lâm nghiệp cộng
đồn”, Cẩm nang Lâm nghiệp, 2006).
Vấn đề đặt ra là “Sự tham gia” đó đến đâu và ở mức độ nào thì hiệu quả?
Nghiên cứu của Creighton (2004, trích theo Matthew, 2007) đã giải quyết được
vấn đề đó bằng 4 cấp độ đánh giá sự tham gia của người dân là: (1) Được cung
cấp thông tin; (2) Được nghe về một quyết định nào đó trước khi nó ra đời; (3)
Được đóng góp ý kiến cho việc xây dựng quyết định; (4) Được quyền phủ quyết
hay tán thành quyết định đó.
1.2. Ở Việt Nam
1.2.1. Nghiên cứu về rừng phòng hộ ven bờ
Việc nghiên cứu về rừng phòng hộ ven bờ cũng như các giải pháp phục hồi
rừng phòng hộ ven bờ vẫn còn là khá mới và hạn chế ở Việt Nam. Phần lớn các
nghiên cứu trước đây mới chỉ tập trung vào phân cấp đầu nguồn mà chưa đặt vùng



13

ven bờ vào đúng vị trí tầm quan trọng của nó. Tuy nhiên, vào những năm 70 của thế
kỷ XX đã bước đầu có một số công trình nghiên cứu về thuỷ văn rừng ít nhiều đề cập
đến vấn đề này, mà một trong những nghiên cứu điển hình đó là:
- Nghiên cứu của Bùi Ngạnh, Nguyễn Danh Mô (1977) và Nguyễn Ngọc
Bích (1985) về sự biến đổi dòng chảy mặt của một số dạng rừng khác nhau. Các tác
giả đã đề xuất những mô hình bố trí đai rừng giữ nước trong vùng đất dốc và ven lưu
vực sông.
- Mặt khác, khi nghiên cứu về rừng phòng hộ ở các triền sông, Lê Đăng
Giảng và Nguyễn Hoài Thu (1981) đã đề nghị: cần phải thiết kế rừng phòng hộ ở
các triền sông sao cho phát huy tối đa khả năng giữ nước của nó. Song, đề tài
chưa đưa ra được một mô hình hay biện pháp cụ thể nào cho rừng phòng hộ ở
các triền sông.
- Ngày 15/06/1990, Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng đã ký Quyết định số 219CT về việc phê duyệt dự án đầu tư xây dựng vùng kinh tế phòng hộ xung yếu ven
hồ Hoà Bình, theo đó thì vùng ven hồ Hoà Bình có chiều dài 200km, rộng trung
bình 2km. Song, theo “Dự án đầu tư xây dựng hệ thống rừng phòng hộ đầu nguồn
sông Đà”, tháng 10 năm 1990 của Viện Điều tra Quy hoạch rừng thì vùng phòng
hộ xung yếu ven bờ hồ Hoà Bình chỉ được xác định trong phạm vi 200m. Điều
này chứng tỏ việc xác định ranh giới vùng phòng hộ ven hồ Hoà Bình là chưa
thống nhất và chưa có đầy đủ cơ sở khoa học (Trích theo Phùng Văn Khoa, 2009)
- Tác giả Vũ Anh Tuấn (2004), với luận án tiến sĩ: “Nghiên cứu biến động
của lớp phủ thực vật đến quá trình xói mòn trên lưu vực sông”, đã đánh giá lớp phủ
thực vật, đặc biệt độ che phủ của rừng phòng hộ ven bờ có quan hệ chặt đến rất chặt
tới xói mòn lưu vực. Đồng thời tác giả đã đề xuất theo dõi, quản lý xói mòn trên các
lưu vực sông bằng ảnh vệ tinh.
- Năm 2005, với luận văn Thạc sĩ khoa học Lâm nghiệp: “Nghiên cứu đặc
điểm vùng bán ngập của một số hồ trọng điểm ở miền Bắc Việt Nam và đề xuất



14

giải pháp trồng rừng phòng hộ ven hồ”, Âu Văn Bảy đã phân tích điều kiện lập
địa và đề xuất được mô hình trồng rừng ven hồ. Song đề tài chưa đề cập nhiều
đến các giải pháp về kinh tế xã hội nên tính thuyết phục của đề tài không cao.
- Nghiên cứu của GS. Phạm Song, Phó trưởng Ban thường trực Ban chỉ
đạo Quốc gia về cung cấp nước sạch và vệ sinh môi trường, chỉ ra rằng: 1ha
rừng ở ven bờ, về mùa lũ sẽ ngăn cản tối đa, khiến lượng đất đá đổ xuống dòng
sông là không đáng kể. Nhưng nếu 1ha thảm thực vật rừng này bị suy giảm thì
về mùa lũ lượng đất, đá đổ xuống dòng sông có thể lên đến 150 tấn/năm gấp
1500 lần…Vì vậy, nếu không có biện pháp phục hồi rừng phòng hộ ven bờ sông
suối thì kết quả là dòng sông đó sẽ bị ô nhiễm và dần bị lấp đầy (Bộ Tài nguyên
và Môi trường, Uỷ Ban sông Cầu, 2000).
- Gần đây (2006), một nghiên cứu được cho là khá mới và chuyên sâu về
rừng phòng hộ ven bờ ở nước ta, đó là luận án tiến sỹ: “Tổ thành loài cây và
động thái tăng trưởng của rừng phòng hộ ven bờ ở vùng Đông Bắc - Việt Nam”
của Vũ Thị Quế Anh. Với phương thức điều tra hệ thống theo các tuyến cắt
ngang dòng chảy, tác giả đã thống kê được các chỉ tiêu cấu trúc, tái sinh, tổ
thành loài cây, tính chất đất tại khu vực nghiên cứu. Tuy nhiên, đề tài cũng còn
một số hạn chế như: chưa đề cập đến vấn đề quy hoạch rừng phòng hộ ven bờ,
chưa phân tích được ảnh hưởng của các yếu tố về tự nhiên, kinh tế xã hội đến kết
quả nghiên cứu và các giải pháp về phục hồi hệ sinh thái rừng đặc thù này cũng
chưa được tập trung làm rõ (Trích theo Phùng Văn Khoa, 2009).
1.2.2. Nghiên cứu về phục hồi rừng
Những nghiên cứu về biện pháp phục hồi rừng ở nước ta đã diễn ra từ
những năm 50 của thế kỷ XX. Nhưng phải tới những năm 90 mới thực sự có
các công trình nghiên cứu chuyên sâu về phục hồi và diễn thế rừng. Đó là một
số công trình nghiên cứu tiên phong phải kể đến sau:



15

- Nghiên cứu phân loại đối tượng và đề xuất biện pháp phục hồi rừng
bằng khoanh nuôi, xúc tiến, tái sinh vùng lưu vực Sông Đà, Chương trình lâm
nghiệp tổng hợp, (Mã số 04.01), Giai đoạn 1986-1990.
- Năm 1993, khi nghiên cứu giải pháp phục hồi hệ sinh thái rừng ở miền
Nam, Việt Nam, nơi rừng bị nhiễm chất độc màu da cam, Thái Văn Trừng đã
kết luận rằng, để phục hồi loại rừng này cần thiết phải qua hai bước là: trồng loài
cây có khả năng tổng hợp Nitơ tự nhiên để giải phóng đất, sau đó chặt bỏ lớp cây
này rồi trồng cây rừng có giá trị. Cùng năm đó khi nghiên cứu rừng tái sinh tự
nhiên dưới tán rừng khộp ở Easup - ĐăcLăk, Đỗ Quang Điệp đã đưa ra kết luận:
độ tàn che của rừng, thảm mục, độ dày đặc của thảm tươi, điều kiện lập địa là
những nhân tố ảnh hưởng sâu sắc đến số lượng và chất lượng cây tái sinh.
- Nguyễn Ngọc Lung (1995) và Nguyễn Luyện (1992) đều cho rằng, hiệu
quả phục hồi rừng phụ thuộc vào nhiều yếu tố: điều kiện tự nhiên, đặc tính sinh
vật học của các loài, điều kiện kinh tế xã hội của khu vực đó.
- Trần Đình Lý và các cộng sự (1996) đã tiến hành hệ thống các biện
pháp kỹ thuật, đồng thời liệt kê được 155 loài cây bản địa cho việc khoanh
nuôi phục hồi rừng. Từ đó, các tác giả đã xây dựng lên quy phạm khoanh nuôi
phục hồi rừng. Đây là công trình đầu tiên ở Việt nam đề cập một cách hệ
thống từ cơ sở khoa học đến quy phạm khoanh nuôi phục hồi rừng ở Việt
nam. Nghiên cứu này mới chỉ dừng lại ở việc xây dựng quy phạm chưa xây
dựng được quy trình khoanh nuôi cụ thể cho từng vùng và từng loại hình rừng
cụ thể.
- Vũ Xuân Đê (1999) đã nghiên cứu và cho rằng: cần thiết phải hỗ trợ tái
sinh tự nhiên bằng tái sinh nhân tạo vì tiêu chuẩn cơ bản để xét đối tượng làm
giàu rừng là tái sinh tự nhiên không đủ khả năng đảm bảo cho rừng phục hồi với
chất lượng và trữ lượng cao (Trích theo Đặng Xuân Quý, 2003).



16

- Theo Võ Đại Hải và cộng sự, 2003 thì phục hồi rừng trước hết là phục
hồi lại thành phần chủ yếu của rừng là thảm thực vật cây gỗ, là một quá trình
sinh học gồm nhiều giai đoạn và kết thúc bằng sự xuất hiện một thế hệ mới
thảm cây gỗ bắt đầu khép tán. Quá trình phục hồi rừng sẽ tạo điều kiện cho sự
cân bằng sinh học xuất hiện, đảm bảo cho sự cân bằng này tồn tại liên tục và
cũng vì thế chúng ta có thể sử dụng chúng liên tục được.
Hầu hết các công trình nghiên cứu đều tập trung tìm hiểu quy luật của quá
trình diễn thế tái sinh phục hồi rừng, các vấn đề cơ bản của quá trình phục hồi
rừng tự nhiên. Những kết quả này sẽ là cơ sở khoa học nhằm xác định các biện
pháp phục hồi rừng. Song, để phục hồi rừng có hiệu quả rất cần thiết phải có quy
trình quy phạm cụ thể. Do vậy, QPN (Quy phạm ngành)14 - 92, kèm theo Quyết
định 200 QĐ - KT năm 1993 về quy trình quy phạm các biện pháp kỹ thuật lâm
sinh phục hồi rừng đã lần lượt được ban hành. Gần đây QPN 21 - 98 đã bổ sung
thêm các tiêu chuẩn mang tính lượng hoá nhằm xác định đối tượng, biện pháp,
thời gian và kết quả đạt được của hoạt động phục hồi rừng.
Một số kỹ thuật lâm sinh cho phục hồi rừng thứ sinh nghèo chủ yếu hiện
nay ở nước ta là:
- Kỹ thuật phục hồi rừng bằng khoanh nuôi bảo vệ: là giải pháp tân dụng
triệt để khả năng tái sinh và diễn thế rừng tự nhiên để tạo lại rừng, thông qua các
biện pháp ngăn chặn có tính chất hành chính với các tác động có hại từ bên
ngoài; chặt phá, chăn thả, đốt rừng,...
- Kỹ thuật xúc tiến tái sinh tự nhiên: là một biện pháp phục hồi rừng dựa
vào năng lực tái sinh tự nhiên của rừng nghèo hiện có (hạt hoặc chồi) là chính,
thông qua kỹ thuật người ta có thể trồng bổ sung mật độ và tổ thành cây tái sinh
để đảm bảo rừng được phục hồi tốt, đáp ứng các mục tiêu đề ra.
- Kỹ thuật phục hồi rừng bằng khoanh nuôi xúc tiến tái sinh, kết hợp

với làm giàu rừng: là giải pháp lợi dụng triệt để khả năng tái sinh, diễn thế tự
nhiên để phục hồi rừng thông qua các biện pháp bảo vệ, biện pháp kỹ thuật
lâm sinh và trồng bổ sung cần thiết
- Kỹ thuật làm giàu rừng: là biện pháp kỹ thuật lâm sinh nhằm cải thiện


17

tỷ lệ cây mục đích ở rừng thứ sinh nghèo (hoặc tỷ lệ cây tốt ở rừng trồng) mà
không loại bỏ thảm thực vật rừng cũ và các cây non mục đích có sẵn. (QPN
14 - 92, QPN 21 - 98, Phạm Xuân Hoàn và Hoàng Kim Ngũ, 2003).
Đồng thời cũng theo các quy phạm này, các đối tượng tác động được
phân loại dựa trên các tiêu chí như sau:
Bảng 1.2. Phân loại đối tượng tác động phục hồi rừng trong quy phạm lâm sinh
Tiêu chí
Gỗ lớn
Gỗ nhỏ
Rừng trồng, rừng tự nhiên tương đối đều tuổi sau khép tán. Rừng phục
hồi trên đất nương rẫy. Rừng hỗn loài tự nhiên không đều tuổi sau khai
Giải pháp
thác chọn không đúng kỹ thuật.
Cây cao phẩm chất Cây tái sinh có Cây cao
Cây tái sinh có triển
tôt (cây/ha).
triển vọng
phẩm chất
vọng (cây/ ha)
(cây/ha).
tôt
(cây/ha).

Nuôi dưỡng
≥ 150 – 200
≥ 500 - 600
≥ 500 ≥ 1000 - 1200
rừng.
600
Làm giàu
Không có triển vọng xúc tiến tái sinh thành công
rừng.
< 150
< 500
< 500
< 1000
Xúc tiến tái Có triển vọng xúc tiến tái sinh thành công
sinh.
< 150
> 500
< 500
> 1000
Khoanh nuôi Đất chưa có rừng, nương rẫy cũ, bãi phù sa mới bồi lấp mà quá trình tái
bảo vệ.
sinh diễn thế tự nhiên đáp ứng được nhu cầu kinh tế xã hội và môi trường.
Khoanh nuôi Đất đã mất rừng do khai thác kiệt. Nương rẫy bỏ hoá còn tính chất đất
xúc tiến tái
rừng. Trảng cỏ cây bụi xen cây gỗ, tầng đất dày trên 30 cm.
sinh có
Rừng Tre nứa phục hồi sau khai thác, nương rẫy, có độ che phủ trên 20%
trồng bổ
diện tích và phân bố đều.
sung.

Rừng phòng hội ở khu vực xung yếu và rất xung yếu có độ che phủ trên
40% và có khả năng tự phục hồi.
Cây con tái sinh mục
Gốc mẹ có khả năng tái
Cây mẹ gieo giống
đích (cây/ha).
sinh chồi (cây/ha).
tại chỗ (có nguồn
gieo giống lân cận).
≥ 300 + h > 50 cm
> 150
> 25
Trồng rừng.

Đất lâm nghiệp chưa có rừng, đất rừng sau khai thác trắng. Rừng đã áp
dụng các biện pháp kỹ thuật trên nhưng không thành công.

(Nguồn: QP 14 – 92 và QP 21 – 98, trích theo Trần Minh Cảnh, 2009)
Ngoài ra, về công tác trồng rừng phòng hộ cũng có nguyên tắc tương tự


18

với trồng rừng nói chung như: kỹ thuật chọn giống cây trồng, kỹ thuật trồng
rừng,… được trình bày chi tiết trong hai chương: “Cải thiện giống và quản lý
giống cây rừng ở Việt Nam” và “Trồng rừng” (Cẩm nang Lâm nghiệp, 2006).
Tuy nhiên, do có những tính chất và đặc trưng riêng mà trong quá trình trồng
rừng phòng hộ cần lưu ý một số vấn đề sau:
+ Làm đất, xử lý thực bì cần được tiến hành theo phương thức cục bộ
và theo đường đồng mức.

+ Tiêu chuẩn cây con trồng rừng phòng hộ, đặc biệt là giống cây trồng
bản địa phải cao hơn so với tiêu chuẩn cây con trồng rừng nhằm sớm tạo lập
được tiểu hoàn cảnh rừng, phát huy chức năng phòng hộ.
+ Phương thức trồng là hỗn giao, có thể kết hợp giữa cây phòng hộ
chính với các cây phù trợ hoặc cây bạn. Mật độ trồng thường phải dày hơn so
với rừng kinh tế.
+ Quá trình chăm sóc và nuôi dưỡng chỉ tiến hành làm cỏ, xới vun gốc,
loại bỏ cây sâu bệnh, dây leo; không phát luỗng cây bụi, không tỉa cành;…
chú ý chăm sóc cho tầng cây tái sinh nhằm dẫn dắt rừng theo hướng đa tầng,
có độ che phủ cao. (Nguồn: Chương “Quản lý rừng phòng hộ đầu nguồn và
rừng phòng hộ ven biển”, Cẩm nang Lâm nghiệp, 2006)
Bên cạnh đó, việc nghiên cứu phục hồi rừng vùng ven bờ, vùng bán
ngập ở Việt Nam hiện nay còn hạn chế, mới chỉ tập trung ở các vùng đất chua
phèn, như nghiên cứu của Huỳnh Hữu To (1999), của Đỗ Đình Sâm (1999),
đã xác định được các loài thích hợp cho các vùng này như: Tràm (Melaleuca
cajuputi), Gáo nước (Neolamarckia sp),… Một nghiên cứu gần đây (từ năm
2001-2007) của Trường Đại học Lâm nghiệp về “Xây dựng mô hình phục hồi
rừng trên đất bán ngập ven lòng hồ Hòa Bình” đã bổ sung thêm vào danh lục
các loài cây thích hợp cho vùng bán ngập như: Nhội (Bischofia javanica),
Dâu da xoan (Baccaurea sp),… ( Âu Văn Bảy, 2005). Tuy nhiên, đây là một
trong số rất ít nghiên cứu về phục hồi và phát triển vùng bán ngập, trong khi
với đặc điểm tự nhiên, nước ta có hàng trăm, hàng nghìn ha đất ven bờ bị mất
thảm thực vật, tình trạng xói lở, bồi lấp lòng sông, lòng hồ đang ở mức báo


19

động. Điều này, thêm một lần nữa chứng tỏ vấn đề nghiên cứu tiền khả thi
cho vùng ven bờ ở nước ta đang bị bỏ ngỏ và tính cấp thiết của đề tài.
1.2.3. Quản lý lưu vực có sự tham gia

Ở Việt Nam, hoạt động quản lý lưu vực nói chung và bảo vệ môi trường lưu
vực nói riêng có sự tham gia, đã được triển khai theo tinh thần Nghị quyết số
41/NQ-TW ngày 15/11/2004 của Bộ Chính trị về bảo vệ môi trường, và đã
đạt được những thành công nhất định. Song sự tham gia này còn nhiều hạn
chế, tiềm năng của cộng đồng vẫn chưa được phát huy đầy đủ, sự tham gia
của cộng đồng vào các quá trình ra quyết định và các hoạt động quản lý môi
trường lưu vực còn rất mờ nhạt và khá bị động (Uỷ ban sông Cầu, 2005).
Ngoài ra, sự tham gia trong lâm nghiệp cũng đang được Đảng và Nhà nước
đặc biệt quan tâm, chú trọng. Đó sự ra đời và phát triển của lâm nghiệp xã hội
(lâm nghiệp cộng đồng) có sự tham gia của người dân. Điều mà theo
FAO,1983 cho rằng, đó như là một sự hợp tác chặt chẽ của người dân tới mức
họ cảm thấy phải chịu trách nhiệm về thành công hay thất bại của một chương
trình, dự án nào đó. Đồng thời, theo D.Messerschnidt (1992, trích theo
Nguyễn Bá Ngãi, 2006) thì sự tham gia cần phải được thể hiện xuyên suốt qua
5 bước: xác định vấn đề; lập kế hoạch và quyết định; huy động nguồn lực và
thực hiện; chia sẻ lợi ích; giám sát và đánh giá.
Qua nghiên cứu phần tổng quan trên, chúng ta nhận thấy rằng: mặc dù
trên thế giới đã có những nghiên cứu khá đầy đủ về rừng phòng hộ ven bờ sông
suối, cũng như các biện pháp phục hồi trong quản lý lưu vực bền vững. Tuy
nhiên, ở Việt Nam các nghiên cứu này chưa nhiều nếu như không muốn nói là
đang bị bỏ ngỏ và chưa được quan tâm đúng mức. Vì vậy, việc nghiên cứu của
đề tài sẽ là rất cần thiết trong quản lý lưu vực bền vững ở Việt Nam hiện nay.
Đồng thời, những kết quả nghiên cứu tổng quan này sẽ là tài liệu tham khảo quý
báu trong quá trình triển khai, nghiên cứu đề tài.


20

PHẦN II
MỤC TIÊU, ĐỐI TƯỢNG, PHẠM VI, NỘI DUNG

VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Mục tiêu nghiên cứu
Đề xuất được giải pháp phục hồi rừng phòng hộ ven bờ tại một số xã
thuộc lưu vực sông Cầu, nhằm góp phần ổn định dòng sông và giảm ô nhiễm
nguồn nước.
2.2. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu chính của đề tài là rừng phòng hộ ven bờ tại một số
xã thuộc lưu vực sông Cầu.
2.3. Phạm vi nghiên cứu
- Nghiên cứu dựa trên hai cơ sở chính là: cơ sở kỹ thuật và cơ sở kinh tế xã hội
có liên quan từ đó đề xuất được giải pháp phục hồi rừng.
- Địa điểm: tại các sinh cảnh ven bờ sông Cầu được quy hoạch là đất nông, lâm
nghiệp với độ rộng 100 m (tính từ mép sông trở vào) tại các xã Nông Hạ - Chợ
Mới - Bắc Kạn, xã Văn Lăng - Đồng Hỷ - Thái Nguyên và xã Hợp Thịnh - Hiệp
Hòa - Bắc Giang.
- Thời gian: từ tháng 12/2008 - tháng 10/2010
2.4. Nội dung nghiên cứu
2.4.1. Nghiên cứu cơ sở kỹ thuật phục hồi rừng phòng hộ ven bờ sông Cầu tại
các khu vực nghiên cứu bao gồm:
1. Đặc điểm điều kiện địa hình; đất đai, thổ nhưỡng; khí hậu,
2. Đặc điểm xói lở ven bờ sông Cầu
3. Đặc điểm tài nguyên thực vật ven bờ sông Cầu (phân loại trạng thái
rừng, trữ lượng, độ tàn che, độ che phủ, cấu trúc, tổ thành,…)
4. Đặc điểm tài nguyên động vật ven bờ trong phạm vi nghiên cứu.
2.4.2. Nghiên cứu cơ sở kinh tế xã hội phục hồi rừng phòng hộ ven bờ sông
Cầu tại khu vực nghiên cứu bao gồm:
1. Sự ảnh hưởng của các hoạt động sản xuất kinh tế, các loại hình sử dụng
đất đến hiện trạng sông Cầu và công tác phục hồi rừng phòng hộ ven bờ.



21

2. Kiến thức bản địa cho nghiên cứu, phục hồi rừng phòng hộ ven bờ.
3. Nhận thức và ý thức của người dân và các cán bộ địa phương trong việc
bảo vệ cảnh quan, môi trường và phục hồi rừng phòng hộ ven bờ sông Cầu
4. Sự ảnh hưởng của một chính sách, pháp luật trong xây dựng và bảo
vệ rừng phòng hộ ven bờ sông Cầu.
2.4.3. Đề xuất một số giải pháp góp phần phục hồi rừng phòng hộ ven bờ
sông Cầu tại khu vực nghiên cứu
1. Đề xuất một số giải pháp kỹ thuật cho phục hồi rừng phòng hộ ven bờ
tại khu vực.
+ Các tiêu chí và chọn được loài cây trồng thích hợp cho công tác phục hồi
rừng phòng hộ ven bờ tại khu vực nghiên cứu.
+ Một số biện pháp kỹ thuật lâm sinh như: khoanh nuôi, xúc tiến tái sinh
tự nhiên, làm giàu rừng và trồng rừng mới thích hợp cho từng đối tượng sử dụng
đất, từng trạng thái rừng khác nhau.
2. Đề xuất một số giải pháp kinh tế xã hội cho phục hồi rừng phòng hộ
ven bờ tại khu vực.
+ Một số giải pháp kinh tế phục vụ việc xây dựng, bảo vệ và phát triển
rừng phòng hộ ven bờ trong khu vực.
+ Một số giải pháp xã hội góp phần xây dựng, phục hồi và quản lý tổng
hợp vùng ven bờ sông Cầu có sự tham gia của người dân.
2.5. Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện các nội dung trên, chúng tôi đã sử dụng các phương pháp
nghiên cứu sau:
2.5.1. Quan điểm phương pháp luận
Rừng phòng hộ là rừng được sử dụng với mục đích chủ yếu để bảo vệ
nguồn nuớc, bảo vệ đất chống xói mòn, chống sa mạc hoá, hạn chế thiên tai,
điều hoà khí hậu góp phần bảo vệ môi trường (Bộ Nông nghiệp và phát triển
nông thôn, 2004). Như vậy, việc nghiên cứu các biện pháp phục hồi rừng phòng

hộ đặc biệt là rừng phòng hộ ven bờ sông suối - nơi có ảnh hưởng trực tiếp đến


22

dòng chảy, nguồn nước và sự xói mòn của khu vực là rất quan trọng trong quản
lý lưu vực bền vững hiện nay. Trên quan điểm của các nhà sinh thái học thì phục
hồi rừng phòng hộ nói chung và rừng phòng hộ ven bờ sông suối nói riêng là
phục hồi lại toàn bộ cảnh quan, sinh thái rừng như vốn có của nó. Đồng thời giải
pháp kỹ thuật cho phục hồi rừng là dựa trên cơ sở các quy luật tái sinh, diễn thế
tự nhiên và các đặc điểm khác nhằm đưa ra các tác động phục hồi rừng theo mục
tiêu đề ra. Song, để phù hợp với quy luật của tự nhiên cho công tác phục hồi
rừng, đặc biệt là rừng phòng hộ ven bờ sông suối thực sự có hiệu quả, chúng ta
không chỉ đơn thuần dựa vào đặc điểm của đối tượng cần phục hồi mà còn dựa
vào nhiều yếu tố kinh tế xã hội khác. Vì vậy, đề tài sẽ tiến hành nghiên cứu cơ sở
kỹ thuật cũng như cơ sở kinh tế xã hội để từ đó đề xuất các biện pháp phục hồi
rừng phòng hộ ven bờ sông Cầu. Các bước nghiên cứu được thể hiện trong sơ đồ
(Hình 2.1)
Thu thập thông tin và tài liệu phục
vụ cho ý tưởng nghiên cứu

Phân tích, xử lý các thông tin đã
thu thập được

Xác định địa điểm, kế hoạch nghiên cứu
Điều tra, thu thập, xử lý và thảo luận
Cơ sở kỹ thuật
- Đặc điểm xói lở, bồi lấp lòng sông
- Điều kiện địa hình, đất đai, khí hậu
- Hiện trạng thảm thực vật ven bờ

sông Cầu tại khu vực nghiên cứu,...
- Hiện trạng tài nguyên động vật ven
bờ

Cơ sở kinh tế xã hội
- Ảnh hưởng của các hoạt động sản xuất;
sự phân bố dân cư... đến dòng sông
- Kiến thức bản địa trong nghiên cứu,
phục hồi rừng ven bờ
- Nhận thức, ý thức của người dân trong
xây dựng rừng phòng hộ ven bờ
- Ảnh hưởng của một số chính sách,
pháp luật trong phục hồi rừng phòng hộ
ven bờ....

Giải pháp phục hồi rừng phòng hộ ven bờ tại một số xã thuộc lưu vực sông Cầu
Hình 2.1. Sơ đồ các bước nghiên cứu


23

2.5.2. Phương pháp tiến hành
1. Phương pháp nghiên cứu tài liệu thứ cấp
Để hoàn thành những nội dung trên đề tài tiến hành nghiên cứu một số tài liệu sau:
+ Điều kiện tự nhiên: khí hậu thuỷ văn, địa hình, đất đai, thổ nhưỡng, tài nguyên
của khu vực nghiên cứu.
+ Điều kiện kinh tế - xã hội: cơ cấu ngành nghề, sản xuất hàng hoá; dân số,
phong tục tập quán,…
+ Văn bản, quy phạm về khoanh nuôi phục hồi rừng, kế hoạch, chiến lược phát
triển lâm nghiệp,… của địa phương

+ Hiện trạng tài nguyên rừng tại địa phương
2. Phương pháp chuyên ngành
a. Sơ thám
Sơ thám qua tìm hiểu tài liệu, hiện trường và phỏng vấn cán bộ địa
phương nhằm lập kế hoạch cụ thể, chuẩn bị cho điều tra chi tiết. Phương pháp
này cần đạt được kết quả sau:
+ Toàn cảnh về hiện trạng sử dụng đất, cảnh quan, môi trường ven bờ
sông Cầu tại địa phương.
+ Vị trí tương đối, đặc thù của các thôn, xóm (làng, bản)
+ Thu hẹp được không gian điều tra chi tiết.
b. Chi tiết
- Phương pháp điều tra theo tuyến (trong phạm vi độ rộng 100m ven
bờ sông Cầu tại khu vực nghiên cứu)
+ Khảo sát hiện trạng sử dụng đất ven bờ trong phạm vi nghiên cứu theo Mẫu
biểu 01


24

Mẫu biểu 01: Biểu khảo sát hiện trạng sử dụng đất


hiệu
điểm

Trạng thái

Độ dài
(m)


Độ
dốc

Độ rộng đất
Ghi chú
lâm nghiệp(m)

+ Điều tra tài nguyên động vật: trên tuyến điều tra tiến hành quan sát bằng
mắt thường, các thông tin được ghi vào Mẫu biểu 02:
Mẫu biểu 02: Biểu điều tra động vật theo tuyến

Tuyến điều tra:…………...................................Địa điểm:…………..................
Ngày điều tra:……………......Người điều tra:………........................................
Thời gian bắt đầu:……….. Thời gian kết thúc:……Quãng đường:..................
STT Tên loài gặp

Thời gian Số lượng Sinh cảnh

Dấu vết

Mô tả

+ Xác định tình hình sạt lở ven bờ sông Cầu tại khu vực nghiên cứu bằng
cách sử dụng thước dây, thước sào theo Mẫu biểu 03a
Mẫu biểu 03a: Biểu xác định hiện trạng sạt lở đất ven bờ.

Vị trí:............................................ Ngày điều tra:...............................................
TT điểm

Các chỉ số (m)

Chiều dài Độ rộng
Độ sâu

Địa điểm

Ghi chú

+ Trên cơ sở kết quả điều tra tại Mẫu biểu 03a tiến hành chọn một số điểm
(có độ dốc lớn và sạt lở nghiêm trọng) để xác định tốc độ sạt lở và xói mòn bề


×