Tải bản đầy đủ (.pdf) (85 trang)

NGHIÊN CỨU ĐỀ XUẤT GIẢI PHÁP HƯỚNG NGHIỆP CHO HỌC SINH PHỔ THÔNG TẠI HUYỆN BẢO LÂM TỈNH LÂM ĐỒNG

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (659.19 KB, 85 trang )

1












































BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM KỸ THUẬT
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH


LUẬN VĂN THẠC SĨ
VŨ THẢO MY


NGHIÊN CỨU ĐỀ XUẤT GIẢI PHÁP HƯỚNG NGHIỆP
CHO HỌC SINH PHỔ THÔNG TẠI HUYỆN BẢO LÂM
TỈNH LÂM ĐỒNG








NGÀNH : GIÁO DỤC HỌC - 601401
Hướng dẫn khoa học :
TS. ĐẶNG THỊ PHƯƠNG PHI










Tp. Hồ Chí Minh, tháng 10 năm 2011


2
MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài
1. Hiện nay, trong giai đoạn đẩy mạnh CNH - HĐH đất nước và hội nhập
quốc tế, nguồn lực con người Việt Nam càng trở nên có ý nghĩa quan trọng, quyết
định sự thành công của công cuộc phát triển đất nước. Giáo dục ngày càng có vai
trò và nhiệm vụ quan trọng trong việc xây dựng một thế hệ người Việt Nam mới,
đáp ứng yêu cầu phát triển KT - XH. Để có nguồn lực tham gia vào hoạt động
chung của XH thì công tác HN là một trong những hoạt động có vai trò quan trọng
chiến lược. HN nhằm góp phần phân bố hợp lý và sử dụng hiệu quả các nguồn nhân
lực, vốn quý của đất nước để phục vụ cho sự phát triển KT - XH, do vậy HN đã có

một ý nghĩa quan trọng trong quá trình phát triển nguồn nhân lực của quốc gia.
HN cho HSPT đã được Đảng và Nhà nước ta coi trọng, đã có nhiều chủ
trương, quyết định ban hành để thực hiện hoạt động này như Quyết định 126 /CP
của Chính phủ, Điều 27 của Luật giáo dục năm 2005…Ngay từ những năm đầu của
thế kỷ 21, GDHN và dạy NPT được quan tâm và đưa vào chương trình giáo dục phổ
thông từ lớp 9 THCS đến lớp 12 THPT. Vì lẽ đó, Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc
lần IX đã nhấn mạnh, coi trọng công tác HN và phân luồng HS trung học, chuẩn bị
cho thanh thiếu niên đi vào lao động NN phù hợp với chuyển dịch cơ cấu kinh tế
trong cả nước và từng địa phương
2. Hoạt động GDHN có tầm quan trọng đặc biệt : GDHN giúp HS có sự lựa
chọn NN đúng hướng, sự lựa chọn không tự phát theo phong trào mà có sự tham gia
tư vấn của các chuyên gia, các phần mềm tư vấn HN, hướng học trên cơ sở năng
khiếu, năng lực bản thân, gia cảnh, nhu cầu của thị trường lao động …Vì vậy, hoạt
động này góp phần điều chỉnh sự mất cân đối về cơ cấu lao động hiện nay như
“thừa thầy thiếu thợ”, thiếu nguồn lao động chất lượng cao khi nền kinh tế hội nhập
trong bối cảnh toàn cầu hóa.
Nhà trường phổ thông được coi là bộ phận cực kỳ quan trọng của hệ thống
giáo dục quốc dân, tác động một cách có tổ chức, khoa học đến quá trình hình thành
3
nhân cách của thanh thiến niên. Bằng mục đích giáo dục tương ứng với từng lứa
tuổi, từng trình độ nhận thức, giáo dục phổ thông tạo ra tiền đề cần thiết về mặt trí
tuệ và thể chất cho những giai đoạn phát triển tiếp theo của mỗi con ngươi. Nếu như
mục đích của việc hình thành nhân cách cho thanh thiếu niên trong chế độ xã hội
chủ nghĩa nước ta là tạo cho các em khả năng tham gia tích cực, sáng tạo vào lao
động xã hội, thì hướng nghiệp, phần nội dung gắn bó hữu cơ trong giáo dục toàn
diện của nhà trường phổ thông sẽ thực hiện nhiệm vụ phát triển nhận thức của tuổi
trẻ đối với hoạt động tương lai của họ, phù hợp với những nhu cầu phát triển kinh tế
- xã hội của địa phương, của đất nước trong những điều kiện lịch sử cụ thể.
3. Tại huyện Bảo Lâm, tỉnh Lâm Đồng, khi làm hồ sơ tuyển sinh ĐH, CĐ
hầu hết HS còn rất bỡ ngỡ, lúng túng trong việc định hướng nghề, chọn nghề, HS

không có những hiểu biết tối thiểu về thế giới NN nói chung, không biết rõ muốn
tìm một nghề nào đó thì cần phải tìm hiểu những yếu tố nào của nghề. Do đó rất
khó khăn để chọn trường, chọn ngành để thi. Những HS cũng biết rằng kỳ thi đại
học ít có khả năng đỗ song vẫn đi thi theo phong trào, theo chúng bạn hoặc vì sĩ
diện của bản thân và gia đình. Thể hiện rõ ở việc làm hồ sơ đăng ký dự thi ĐH, CĐ
năm 2010, tỷ lệ số hồ sơ trên HS là 1,83 trên toàn huyện, như vậy trung bình mỗi
HS chọn gần hai trường tương đương hai ngành để thi. Mặt khác, mong muốn của
gia đình, cha mẹ HS cũng ảnh hưởng và chi phối việc lựa chọn nghề của các em. Đa
số cha mẹ HS quan niệm rằng : vào ĐH là con đường duy nhất để thoát nghèo, dễ
có vị thế cao trong XH, mang lại vinh dự cho gia đình.
Từ những lý do nêu trên, người nghiên cứu chọn đề tài : “Nghiên cứu đề
xuất giải pháp hướng nghiệp cho học sinh THPT tại huyện Bảo Lâm, tỉnh Lâm
Đồng”.
2. Mục đích nghiên cứu :
Nghiên cứu đề xuất những giải pháp hữu hiệu nhằm HN cho HS THPT trên
địa bàn huyện Bảo Lâm, tỉnh Lâm Đồng.
3. Khách thể và đối tượng nghiên cứu
3.1. Khách thể nghiên cứu
4
+ Những tài liệu, chính sách của Bộ GD - ĐT, Sở GD - ĐT Lâm Đồng về
hoạt động HN.
+ HS các trường THPT ở huyện Bảo Lâm, tỉnh Lâm Đồng.
+ PHHS các trường THPT ở huyện Bảo Lâm, tỉnh Lâm Đồng.
+ CB, GV các trường THPT ở huyện Bảo Lâm, tỉnh Lâm Đồng.
3.2. Đối tượng nghiên cứu
Hoạt động hướng nghiệp cho HS trung học phổ thông tại huyện Bảo Lâm.
4. Nhiệm vụ nghiên cứu và giới hạn đề tài
4.1. Nhiệm vụ nghiên cứu
1. Hệ thống hóa cơ sở lý luận của hoạt động HN cho HSPT.
2. Đánh giá thực trạng hoạt động HN cho HS THPT tại huyện Bảo Lâm.

3. Đề xuất giải pháp cho hoạt động HN cho HS THPT tại huyện Bảo Lâm,
Lâm Đồng.
4.2. Giới hạn phạm vi của đề tài
Người nghiên cứu tiến hành nghiên cứu hoạt động GDHN cho học sinh
THPT tại các trường THPT trên địa bàn huyện Bảo Lâm, Lâm Đồng. Quan tâm và
nghiên cứu các giai đoạn của công tác HN là giáo dục nghề và tư vấn HN.
5. Phương pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp tham khảo tài liệu
Nghiên cứu các tài liệu, sách báo, các văn bản, báo cáo tổng kết của Sở GD-
ĐT Lâm Đồng, Phòng GD -ĐT Bảo Lâm, báo cáo tổng kết năm học của các trường
THPT trên địa bàn, báo cáo định hướng phát triển KT-XH của huyện Bảo Lâm, hồ
sơ giảng dạy của GV, Ban giám hiệu ….
5.2. Phương pháp phỏng vấn
Trao đổi, nói chuyện với các đồng nghiệp, nhất là các CBQL, GV để nắm bắt
thông tin liên quan đến đề tài.
5.3. Phương pháp điều tra thực tiễn
Hình thức điều tra : phiếu hỏi, phân tích, so sánh đối chiếu kết quả điều tra
để tìm ra những thông tin cần thiết theo hướng nghiên cứu luận văn.
5
5.4. Phương pháp thống kê
Sử dụng các phép toán thống kê trong nghiên cứu .
5.5. Phương pháp chuyên gia
Sử dụng các phiếu hỏi các chuyên gia trong lĩnh vực giáo dục, cán bộ quản
lý cấp Sở, phòng chuyên môn…
6. Những đóng góp khoa học của luận văn
6.1. Về mặt lý luận
Hệ thống hóa cơ sở lý luận về hoạt động GDHN ; Phân tích mối quan hệ
giữa hoạt động HN và xu hướng chọn nghề của HS, kết quả phân luồng HS để phát
triển nguồn nhân lực của địa phương.
6.2. Về mặt thực tiễn

Đề xuất giải pháp khả thi góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động GDHN, đáp
ứng nhu cầu về định hướng nghề nghiệp của HS THPT trên địa bàn, định hướng
phân luồng HS theo yêu cầu phát triển nguồn nhân lực trên địa bàn.
7. Cấu trúc của luận văn
Ngoài các phần Mở đầu, Kết luận và khuyến nghị ; Danh mục tài liệu tham
khảo và Phụ lục, nội dung chính của luận văn gồm 3 chương sau đây :
CHƯƠNG 1 : CƠ SỞ LÝ LUẬN
1.1. Lịch sử vấn đề nghiên cứu về hướng nghiệp
1.1.1. Lược sử nghiên cứu về hướng nghiệp ở ngoài nước
1.1.2. Lược sử nghiên cứu về hướng nghiệp ở trong nước
1. 2. Các văn bản chỉ đạo hoạt động hướng nghiệp
1.2.1. Các văn bản của trung ương
1.2.2. Các văn bản của Bộ GD - ĐT về GDHN
1.2.3. Các văn bản của địa phương
1.3. Hoạt động giáo dục hướng nghiệp
1.3.1. Khái niệm hướng nghiệp
1.3.2. Ý nghĩa của hướng nghiệp
1.3.3. Mục tiêu, nhiệm vụ của giáo dục hướng nghiệp
6
1.3.4. Nội dung của giáo dục hướng nghiệp cấp THPT
1.3.5. Cơ sở khoa học của hướng nghiệp
1.3.5.1. Cơ sở tâm lý học
1.3.5.2. Cơ sở điều khiển học
1.3.5.3. Cơ sở giáo dục học
1.4. Đặc điểm tâm sinh lý của học sinh phổ thông (từ 16 – 18 tuổi) :
1.3.1. Về thể chất
1.3.2. Về tâm lý
CHƯƠNG 2 : HOẠT ĐỘNG HƯỚNG NGHIỆP CHO HỌC SINH THPT TRÊN
ĐỊA BÀN HUYỆN BẢO LÂM , TỈNH LÂM ĐỒNG
2.1. Khái quát địa bàn nghiên cứu

2.1.1. Đặc điểm địa lý, dân số và lao động
2.1.2. Tình hình kinh tế xã hội
2.1.3. Thực trạng về giáo dục – đào tạo
2.2. Thực trạng hoạt động hướng nghiệp của huyện
2.2.1. Thực trạng hoạt động Giáo dục hướng nghiệp
2.2.2. Xu hướng chọn nghề của học sinh
2.2.3. Thực trạng phân luồng học sinh sau THPT
2.3. Kết quả nghiên cứu hoạt động hướng nghiệp học sinh THPT của huyện
CHƯƠNG 3 : GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ HƯỚNG NGHIỆP TẠI
HUYỆN BẢO LÂM,TỈNH LÂM ĐỒNG
3.1. Những giải pháp cơ bản
3.2. Kiểm chứng tính khả thi của các giải pháp









7
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN

1.1. Lịch sử nghiên cứu về hướng nghiệp
1.1.1. Lược sử nghiên cứu về hướng nghiệp ở ngoài nước
Jarpues Đelors, Chủ tịch Ủy ban quốc tế về giáo dục thế kỷ XXI của
UNESCO khi phân tích “ Những trụ cột của giáo dục” đã viết : “Học tri thức, học
làm việc, học cách chung sống và học cách tồn tại, đó là bốn trụ cột mà Ủy ban đã

trình bày và minh họa như những nền tảng của giáo dục”. Theo tác giả, vấn đề HN,
học nghề của HSPT là trụ cột thứ hai. Tác giả đã nhấn mạnh việc HS có cơ hội phát
triển năng lực của mình bằng cách tham gia các hoạt động NN song song với việc
học văn hóa.
Ở các nước có nền giáo dục tiên tiến, công tác HN rất được coi trọng và
đươc khởi sự ngay từ những năm đầu của cấp trung học :
Cấp trung học cơ sở :
Dự nghiệp: Giới thiệu tổng quan các ngành nghề thông dụng để giúp các HS
phát hiện sơ bộ xu hướng NN của mình.
Hướng nghiệp: Cho các HS được học thử các nghề được phát hiện ở giai
đoạn dự nghiệp để củng cố hoặc điều chỉnh xu hướng NN chính xác hơn.
Cấp trung học phổ thông :
Huấn nghiệp : Theo kết quả ở giai đoạn HN, nhà trường sẽ chính thức đào
tạo nghề theo đúng xu hướng NN của HS, để giúp các em HS đủ sức vào đời ngay
sau khi tốt nghiệp trung học hoặc tạo đà thuận lợi cho việc học tiếp lên.
* Ở nước Anh :
HS của chương trình giai đoạn từ 11-14 tuổi và giai đoạn từ 14-16 tuổi có thể
lựa chọn NN của mình theo bảng danh mục và khi hoàn thành chương trình HN này
HS sẽ nhận được một chứng chỉ để làm cơ sở cho việc nhận được bằng quốc gia.
Mục đích của giáo dục phổ thông là nhằm trang bị cho HS vốn kiến thức tiếp thu
chương trình đào tạo HN và giáo dục đại học ở những giai đoạn sau. Tất cả HS từ
8
16 tuổi đều phải có 2 tuần thử việc ở các công ty địa phương như là một phần của
chương trình đào tạo HN chung . [1; tr.287]
* Cộng hòa Liên bang Đức:
Đa số các thanh niên sau khi tốt nghiệp cấp phổ cập giáo dục đều theo học từ
2 đến 3,5 năm ở hai nơi là trong xí ngiệp và trường dạy nghề (được gọi là hệ thống
kép : Duales System). Cơ sở của việc đào tạo trong hệ thống kép này là “các nghề
đào tạo được công nhận” (Die anerkannten Ausbidungsberrufe), lớp trẻ dưới 18 tuổi
chỉ được phép đào tạo trong những nghề đó mà thôi.[1; tr.346]

* Hoa Kỳ :
Mục tiêu của giáo dục nước Mỹ là nâng cao hơn nữa chất lượng giáo dục,
tăng cường kết quả học tập của HS nhằm đảm bảo cung cấp một lực lượng lao động
có trình độ ; có khả năng cạnh tranh và thích ứng linh hoạt trong điều kiện nền kinh
tế toàn cầu Người ta đã đưa ra nhiều hướng giải quyết và đưa ra nội dung cần tăng
cường với các chiến lược quan trọng, trong đó tăng cường mối liên hệ giữa trường
trung học với doanh nghiệp theo hướng chuyển dần thành trường đào tạo chuyên
nghiệp. Một phần của chiến lược này là tạo cơ hội cho HS tham gia làm việc bán
thời gian tại xí nghiệp [1;tr.356].
* Nhật Bản :
Các trường THPT được nhóm thành : chương trình phổ thông, chương trình
dạy nghề và chương trình phối hợp toàn diện. Các chương trình dạy nghề dành ít
thời gian hơn học các môn văn hóa và tất nhiên nhấn mạnh các môn hướng vào
nghề đặc thù. Ngay ở lớp học đầu tiên bậc THPT nền giáo dục Nhật Bản đã quan
tâm đến công tác HN cho các em HS tùy theo chương trình có môn học đặc thù dể
các em hướng vào NN tương lai. [1; tr.453]
1.1.2. Lược sử nghiên cứu về hướng nghiệp ở trong nước
Các nghiên cứu về lĩnh vực HN, theo danh mục các đề tài luận văn thạc sĩ Giáo
dục học của trường Đại học Sư phạm Kỹ thuật TP Hồ Chí Minh từ 1993 đến năm
2010 đã có những đề tài sau :
9
- Nguyễn Toàn, Hiện trạng và định hướng công tác tư vấn cho học sinh tại
các Trung tâm Kỹ thuật Hướng nghiệp dạy nghề ở thành phố Hồ Chí Minh,
năm 1997.
- Nguyễn Thị Bạch Phượng, Nghiên cứu hướng chọn nghề của học sinh
THPT, năm 1998.
- Trịnh Xuân Thu, Nghiên cứu sự thích ứng nghề của sinh viên Khoa Kỹ thuật
Công ngiệp - Trường Cao đẳng Sư phạm thành phố Hồ Chí Minh, năm 1998.
- Liêu Thị Thùy Trang, Nghiên cứu động cơ chọn nghề Sư phạm của sinh viên
Trung tâm Giáo dục thường xuyên tỉnh Trà Vinh, năm 1999.

- Phạm Đức Khiêm, Nghiên cứu về định hướng NN học sinh THPT nhằm phân
luồng học sinh vào các trường THCN tại thành phố Hồ Chí Minh, năm 2005.
- Phạm Hồng Thắng, Khảo sát thực trạng và đề xuất giải pháp hoạt động
hướng nghiệp học sinh THPT tại tỉnh Gia Lai, năm 2008.
- Phan Thị Kim Hồng, Nghiên cứu đề xuất các giải pháp hướng ngiệp cho đối
tượng thanh thiếu niên tỉnh Ninh Thuận, năm 2010.
Bên cạnh các luận văn thạc sỹ trên, về lĩnh vực hoạt động HN cũng được
nghiều nhà khoa học nghiên cứu như :
- Phan Thị Tố Oanh, Nghiên cứu nhận thức và dự định chọn nghề của học sinh
THPT, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội, năm 1996 (Luận án Phó tiến sĩ Khoa học
sư phạm tâm lý.
- Nguyễn Toàn và cộng tác viên, Nghiên cứu một số giải pháp khả thi trong
việc ứng dụng triển khai công tác hướng nghiệp cho học sinh phổ thông cấp 2 -3 ở
Thành phố Hồ Chí Minh, Sở Khoa học Công nghệ - Môi trường và Sở Giáo dục đào
tạo Thành phố Hồ Chí Minh, năm 1998.
- Lý Ngọc Sáng, Đề xuất giải pháp tăng cường công tác tư vấn giáo dục
truyền thông về hướng nghiệp, triển khai ứng dụng và hoàn thiện một số trắc
nghiệm nghề cho học sinh phổ thông theo yêu cầu thị trường lao động Thành phố
Hồ Chí Minh, năm 2003.
10
- Võ Hưng, Tổ chức đưa kết quả nghiên cứu đề xuất xây dựng bộ công cụ trắc
nghiệm vào phục vụ công tác tư vấn hướng nghiệp cho học sinh phổ thông ở Thành
phố Hồ Chí Minh, Sở Khoa học CN-MT Thành phố Hồ Chí Minh, năm 2005.
- Hồ Thiệu Tùng, Lê Thị Thanh Mai, Xây dựng website định hướng chọn
ngành, trường đại học, cao đẳng dự thi phù hợp với sở thích và năng lực,năm 2007.
Các đề tài nghiên cứu trên đã đưa ra một số giải pháp về định hướng NN cho
HSPT tại các thành phố lớn như Hà Nội, TP Hồ Chí Minh. Nhưng tại các tỉnh miền
núi, cao nguyên, với những điều kiện riêng thì công tác HN cho HS chưa được đề
cập nhiều trong các công trình nghiên cứu của các nhà khoa học.
Ngoài các đề tài nghiên cứu khoa học, các Hội thảo chuyên đề mang tính

quốc gia quốc tế về HN cũng được tổ chức với sự tham gia của nhiều nhà chuyên
môn, các nhà giáo dục. Cụ thể :
Vào năm 2002, tại Hà Nội đã tổ chức Hội thảo: “Giáo dục phổ thông và
Hướng nghiệp - Nền tảng để phát triển nguồn nhân lực đi vào công nghiệp hóa,
Hiện đại hóa đất nước”. Có nhiều bài viết của các nhà khoa học, nhà nghiên cứu
kinh nghiệm tham gia hội thảo. Các bài viết, tham gia thực sự là những nghiên cứu,
tổng kết có giá trị về lý luận và thực tiễn của giáo dục phổ thông và HN. Đồng thời
cũng chỉ ra các giải pháp nhằm làm cho GDHN và giáo dục phổ thông phục vụ tốt
nhất cho việc chuẩn bị nguồn nhân lực trong thời kỳ CNH - HĐN và hội nhập quốc
tế của đất nước.
Trong Hội thảo: “Đối ngoại Pháp - Á về các vấn đề và hướng đi cho giáo
dục hướng nghiệp tại Việt Nam”, tại Khoa Sư phạm - Đại học Quốc gia Hà Nội phối
hợp với Viện nghiên cứu Nghiên cứu quốc gia về Lao động hướng nghiệp - Cộng
hòa Pháp ngày 11/01/2005, nhiều tham luận của các nhà khoa học trong và ngoài
nước đã trình bày sâu sắc các nội dung, hướng đi cần thiết để thực hiện thắng lợi
nhiệm vụ GDHN tại Việt Nam.
1.2. Các văn bản chỉ đạo về hoạt động hướng nghiệp
1. 2.1. Các văn bản của trung ương
* Các Chỉ thị, Nghị quyết của Đảng, Nhà nước về giáo dục HN
11
Quan điểm nhất quán trong các Nghị quyết của Đảng đó là :“ Học đi đôi với
hành, lý luận gắn liền với thực tiễn, nhà trường gắn liền với xã hội ” .
- Năm 1979, Nghị quyết 14 của Bộ chính trị Ban chấp hành Trung ương
khóa IV về cải cách giáo dục đã khẳng định hướng nghiệp là bộ phận khắng khít với
giáo dục đào tạo.
- Văn kiện Đại hội IX đã nhấn mạnh : “…Coi trọng công tác hướng nghiệp
và phân luồng học sinh sau trung học, chuẩn bị cho thanh thiếu niên đi vào lao
động nghề nghiệp phù họp với sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong cả nước và từng
địa phương”. [17; tr.109]
- Văn kiện Đại hội X cũng nêu : “… Hoàn chỉnh và ổn định lâu dài hệ thống

giáo dục quốc dân ; chú trọng phân luồng đào tạo sau THCS ; đảm bảo liên thông
giữa các cấp đào tạo …” . [18; tr.207]
* Các Văn bản của Chính phủ đề cập đến giáo dục HN và phân luồng HS :
- Nghị quyết số 109/CP giao cho ngành dạy nghề giúp trường phổ thông
trong công tác hướng nghiệp.
- Quyết định số 126/CP ngày 19/3/1981 về công tác hướng nghiệp trong nhà
trường phổ thông và sử dụng hợp lý HS tốt nghiệp ra trường.
- Điều 27 của Luật giáo dục năm 2005 - Khoản 3, Điều 4 có ghi : “Giáo dục
tiểu học ; Có học vấn phổ thông ở trình độ cơ sở và những hiểu biết ban đầu về kỹ
thuật hướng nghiệp để tiếp tục học THPT,THCS nhằm gúp học sinh củng cố phát
triển những kết quả của trung học cơ sở hoàn thiện học vấn THPT và có những
hiểu biết thông thường về kỹ thuật hướng nghiệp và điều kiện phát huy khả năng
năng lực cá nhân lựa chọn hướng phát triển tiếp tục học đại học, cao đẳng, trung
cấp học nghề đi vào cuộc sống lao động…”.
- Điều 3 - Nghị định 75/2006 NĐ- CP về hướng dẫn thi hành Luật giáo dục
năm 2005 có ghi :
+ HN trong GD là hệ thống các biện pháp ngoài nhà trường để giúp HS có
kiến thức về NN và có khả năng lựa chọn NN trên cơ sở kết hợp nguyện vọng sở
trường của cá nhân với nhu cầu sử dụng lao động trong XH
12
+ Phân luồng trong GD là biện pháp tổ chức các hoạt động GD trên cơ sở
thực hiện HN trong GD, tạo điều kiện để HS tốt nghiệp THCS, THPT tiếp tục học ở
cấp cao hơn, học trung cấp, học nghề hoặc lao động phù hợp với năng lực, phù hợp
điều kiện cụ thể của cá nhân và nhu cầu của XH, góp phần điều tiết cơ cấu ngành
nghề của lực lượng lao động phù hợp nhu cầu phát triển của đất nước.
1.2.2. Các văn bản của Bộ giáo dục - Đào tạo về GDHN
- Chỉ thị số 33/2003/CT-BGD-ĐT ngày 23/7/2003/ của Bộ trưởng bộ GD -
ĐT về việc tăng cường giáo dục HN cho HSPT. Chỉ thị nêu rõ “Giáo dục hướng
nghiệp là một bộ phận của nội dung giáo dục triển khai thực hiện sinh hoạt hướng
nghiệp ở các trường THCS, THPT và Trung tâm KTTH - HN theo tài liệu hướng

dẫn của Bộ GD - ĐT giúp học sinh đặc biệt là học sinh cuối cấp, tìm hiểu thế giới
nghề nghiệp, thị trường lao động và đánh giá về năng lực của bản thân ,hướng dẫn
học sinh lựa chọn nghề nghiệp, lựa chọn ngành học phù hợp với năng lực cá nhân
và yêu cầu của xã hội”.
- Hướng dẫn thực hiện nhiệm vụ của giáo dục - lao động HN 2004-2005 cuả
Bộ GD- ĐT đã đề cập : “Nâng cao nhận thức của cán bộ quản lý và giáo viên về
việc tăng cường giáo dục hướng nghiệp cho học sinh phổ thông, mở rộng và nâng
cao chất lượng hoạt động, sinh hoạt hướng nghiệp và tư vấn hướng nghiệp cho học
sinh phổ thông… nâng cao chất lượng và mở rộng việc dạy nghề phổ thông một
cách vững chắc tiếp tục củng cố và phát triển Trung tâm KTTH- HN ”.
- Nghị quyết số 16/2006/QĐ-BGĐ-ĐT ngày 06/5/2006 V/v Ban hành
chương trình giáo dục phổ thông, chương trình phổ thông gồm chương trình chuẩn
của 23 môn học, hoạt động GDHN và hoạt động dạy NPT.
- Quyết nghị số 68/2008/QĐ-BGĐ-ĐT từ ngày 09/12/2008 V/v Ban hành
quyết định về công tác hướng nghiệp, về vấn đề việc làm trong các cơ sở giáo dục
đại học và trung cấp chuyên nghiệp do Bộ GD-ĐT ban hành.
- Công văn số 7078/ BGD-ĐT ngày 12/8/2005 về Hướng dẫn thực hiện
nhiệm vụ lao động hướng nghiệp trong trường phổ thông.
1.2.3. Các văn bản của Sở GD – ĐT Lâm Đồng
13
- Công văn số 955/ SGD, ngày 08/9/2006 của Sở GD-ĐT Lâm Đồng V/v
thực hiện nhiệm vụ các trường phổ thông.
- Công văn số 604/ SGD, ngày 15/6/2008 của Sở GD-ĐT Lâm Đồng V/v
Định hướng tuyển sinh nghề, TCCN, GDTX.
- Công văn số 1287/ SGD, ngày 28/7/2008 của Sở GD-ĐT Lâm Đồng V/v
Dự thảo Hội nghị Giáo dục Nghề PT.
1.3. Hoạt động giáo dục hướng nghiệp
1.3.1. Khái niệm hướng nghiệp
Có nhiều cách hiểu HN khác nhau với tiêu chí, mục tiêu quan sát và góc độ
chuyên môn khác nhau.

Theo từ điển Tiếng Việt : “Hướng nghiệp là thi hành những biện pháp nhằm
đảm bảo sự phân bố tối ưu (có chú ý tới năng khiếu, năng lực, thể lực) nội dung
theo ngành và loại lao động giúp đỡ hợp lý lựa chọn ngành nghề”.[13; tr.458]
Theo Từ điển Giáo dục học định nghĩa : “Hướng nghiệp là hệ thống các biện
pháp giúp đỡ học sinh làm quen tìm hiểu nghề, lựa chọn, cân nhắc nghề nghiệp với
nguyện vọng năng lực sở trường của mỗi người với nhu cầu và điều kiện thực tế
khách quan của xã hội” [12,tr.209]. Công tác HN có ý nghĩa kinh tế xã hội rất lớn
giúp cho thanh niên có cơ hội phát huy được năng lực, nâng cao được hiệu quả lao
động, say mê sáng tạo trong NN, mặt khác giúp tránh thay đổi NN nhiều lần, hạn
chế các hậu quả xấu do NN không phù hợp mang lại.
Trên quan điểm tiếp cận hướng nghiệp dưới góc độ XH học, tác giả Phạm
Tất Dong khái niệm HN như là một hệ thống tác động của XH về giáo dục, về y
học, kinh tế học nhằm giúp cho thế hệ trẻ chọn được nghề phù hợp với hứng thú,
năng lực, nguyện vọng, sở trường của cá nhân, vừa đáp ứng nhu cầu nhân lực của
các lĩnh vực sản xuất trong nền kinh tế quốc dân. [14]
Về khía cạnh tác động của HN đối với sự phát triển KT - XH, HN được hiểu
là khái niệm chung của một trong những vực văn hóa - xã hội, thực hiện dưới hình
thức quan tâm của XH và đào tạo nghề cho thế hệ đang lớn lên, hỗ trợ và phát triển
những thiên hướng và thực hiện đồng bộ các biện pháp chuyên môn tác động đến
14
con người trong việc tự xác định NN và lựa chọn hình thức tối ưu để có việc làm, có
tính đến nhu cầu và năng lực của con người, kết hợp với hoàn cảnh KT - XH trong
thị trường lao động .[15]
Từ những quan niệm trên, HN là tổng thể những tác động giúp con người
định hướng đến một nghề hay một số nghề nhất định, đảm bảo được sự phù hợp
giữa khả năng, yêu cầu của cá nhân với yêu cầu của XH. Trẻ em cần được HN liên
tục, thường xuyên bằng nhiều hình thức, nhiều con đường Chúng ta cần quan tâm
để thế hệ trẻ chọn nghề theo hứng thú, sở thích và mong muốn. HS ngày càng nhận
thức sâu sắc nghĩa vụ lao động, nhu cầu nhân lực mà XH đặt ra. Do đó HN phải
được cả XH quan tâm, không nên để cho trẻ chọn nghề một cách tự phát, ngẫu

nhiên. HN dẫn thế hệ trẻ đi vào thế giới NN, giúp họ phát huy được hết năng lực
trong thế giới đó và có được cuộc sống thỏa mãn với lao động NN sau này.
1.3.2. Ý nghĩa của hướng nghiệp
- Ý nghĩa giáo dục của công tác HN : thông qua giáo dục HN, HS có hứng
thú và động cơ NN đúng đắn, có lý tưởng NN đối với lao động. Vì vậy, HN trong
giáo dục là sự làm quen và tiếp xúc với nghề, quá trình tiếp cận với kỹ thuật và
công nghệ sản xuất làm quen với lao động NN. HN còn tạo ra khả năng hình thành
ở HS óc tư duy, sáng tạo, sự khéo tay, tư duy kỹ thuật.
- Ý nghĩa kinh tế của công tác HN : Hằng năm chúng ta có một lực lượng HS
sau khi tốt nghiệp THCS, THPT đi vào lao động sản xuất, nếu được HN tốt thì số
này sẽ đi vào hệ thống lao động NN, góp phần phân công lao động XH từ đó nâng
cao năng suất lao động, đẩy mạnh sản xuất góp phần phát triển nền kinh tế của đất
nước nói chung và của địa phương nói riêng.
- Ý nghĩa chính trị của công tác HN : Trong thời gian tới, đất nước cần
nguồn nhân lực cho các lĩnh vực hoạt động sản xuất của nền kinh tế quốc dân. Công
tác HN nếu được quan tâm đúng mức sẽ góp phần phân luồng HS tốt nghiệp các
cấp, phân hóa HS theo năng lực. HN đóng vai trò chiến lược giáo dục, chiến lược
nhân lực trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc.
15
- Ý nghĩa xã hội của công tác HN : Làm tốt công tác HN, định hướng thế hệ
trẻ vào cuộc sống lao động, ổn định công việc, nhất là đối với số HS bỏ học, hoặc
học xong PT. HN góp phần ổn định XH, tạo nếp sống văn minh lành mạnh cho từng
gia đình và toàn XH.
1.3.3. Mục tiêu, nhiệm vụ của giáo dục hướng nghiệp
1.3.3.1. Mục tiêu của HN
PGS. Đặng Danh Ánh cho rằng mục tiêu chủ yếu của HN là phát hiện và bồi
dưỡng tiềm năng sáng tạo của cá nhân, giúp họ hiểu mình, hiểu yêu cầu của nghề,
chuẩn bị cho thanh thiếu niên sự sẵn sàng tâm lý đi vào những nghề mà các thành
phần kinh tế đang cần nhân lực, trên cơ sở bảo đảm sự phù hợp nghề. Không có sự
phù hợp nghề thì không thể có sự sẵn sàng tâm lý được .[16]

1.3.3.2. Nhiệm vụ của HN
Nhiệm vụ của HN trong Quyết định 126/ CP 19/3/1981 về công tác hướng
nghiệp trong nhà trường phổ thông và sử dụng hợp lý HS tốt nghiệp ra trường đã
chỉ rõ : Công tác hướng nghiệp trong nhà trường phổ thông nhằm mục đích bồi
dưỡng, hướng dẫn việc chọn nghề của học sinh cho phù hợp với yêu cầu phát triển
của xã hội đồng thời phù hợp với năng khiếu cá nhân.
Công tác hướng nghiệp ở các trường gồm các nhiệm vụ sau đây :
- Giáo dục thái độ lao động đúng đắn
- Tổ chức cho học sinh thực tập làm quen với một số nghề
- Tìm hiểu năng khiếu, khuynh hướng nghề nghiệp của từng học sinh để khuyến
khích, hướng dẫn, bồi dưỡng khả năng nghề nghiệp thích hợp nhất
- Động viên hướng dẫn học sinh đi vào những nghề, những nơi đang cần lao động
trẻ tuổi có văn hóa.
Cụ thể hóa nhiệm vụ của HN như sau :
* Đối với trường PT : HN cho HSPT là bước khởi đầu quan trọng của quá
trình phát triển nguồn nhân lực của đất nước.
Nhiệm vụ đầu tiên là qua HN, giúp các em được làm quen với những nghề
cơ bản trong XH, những nghề có vị trí then chốt trong nền kinh tế quốc dân, những
16
nghề cần thiết phải phát triển ở ngay địa phương mình. Nhiệm vụ này được thể hiện
trong suốt những năm còn ngồi trên ghế nhà trường. Qua đó giúp các em có điều
kiện tìm hiểu nghề trong XH đặc biệt là nghề của địa phương. Từ sự làm quen này,
sẽ giúp cho các em trả lời câu hỏi : Trong giai đoạn hiện nay, những nghề nào đang
cần phát triển nhất, thái độ đối với nghề như thế nào là đúng, v.v Đồng thời, HS
còn biết được những yêu cầu tâm sinh lý mà nghề đặt ra, những điều kiện vào học
nghề v.v… Tóm lại, nhiệm vụ thứ nhất là hình thành ở HS những biểu tượng đúng
đắn về những nghề cần phát triển.
Nhiệm vụ thứ hai là hướng dẫn phát triển hứng thú NN, trong quá trình tìm
hiểu nghề, ở HS sẽ xuất hiện và phát triển hứng thú NN. Người làm HN sẽ hướng
dẫn sự phát triển hứng thú của các em trên cơ sở phân tích những đặc điểm, điều

kiện, hoàn cảnh riêng của các em. Hứng thú là một động lực hết sức quan trọng để
con người gắn bó với nghề. Vì vậy, hứng thú được coi như một chỉ số quan trọng
hàng đầu để xét sự phù hợp nghề của con người. Ở một số nước, người ta đề ra
nguyên tắc: Không bố trí vào nghề nếu không có hứng thú với nghề. Trong XH,
không ít nghề ở ngoài sự định hướng của HS. Nhưng khi thấy được hết tầm quan
trọng của một nghề, có những HS đã dứt khoát chọn nghề ấy, và cảm thấy thoải mái
hoặc hài lòng với sự lựa chọn của mình, từ đó nảy nở hứng thú với nghề.
Nhiệm vụ thứ ba là giúp HS hình thành năng lực NN tương ứng : Người ta
chỉ có thể yên tâm sống lâu dài với nghề nếu họ có năng lực chuyên môn thực sự,
đóng góp được sức lực, trí tuệ một cách hữu hiệu với nghề của mình. Xét đến cùng,
ai cũng muốn có năng suất lao động cao, có uy tín trong lao động NN. Mặt khác,
NN cũng không chấp nhận những người thiếu năng lực. Vì vậy, trong quá trình HN,
phải tạo điều kiện sao cho HS hình thành năng lực tương ứng với hứng thú NN đã
có. Đối với HSPT, con đường hình thành năng lực NN là tổ chức lao động sản xuất
kết hợp với dạy nghề, HS sẽ đươc thử sức trong các hình thức hoạt động nói trên, từ
đó năng lực NN sẽ nảy nở và phát triển.
Nhiệm vụ cuối cùng của HN là giáo dục cho HS thái độ lao động, ý thức tôn
trọng NLĐ thuộc các ngành nghề khác nhau, ý thức tiết kiệm và bảo vệ của công…
17
Đây là những phẩm chất nhân cách không thể thiếu được ở NLĐ trong XH của
chúng ta. Có thể coi đây là nhiệm vụ giáo dục đạo đức và lương tâm NN, là nhiệm
vụ chủ yếu đối với thế hệ trẻ. Cùng với các nhiệm vụ trên, nhiệm vụ này góp phần
vào việc làm cho những phẩm chất nhân cách của NLĐ được hài hòa và cân đối.
Tóm lại, HN có mục đích cơ bản là hướng dẫn và chuẩn bị cho thế hệ trẻ sẵn
sàng đi vào các ngành nghề mà đất nước hay ở từng địa phương đang cần. Quá trình
giáo dục HN phải làm cho HS có những hiểu biết cần thiết về thị trường lao động,
biết cách lựa chọn NN có cơ sở khoa học, được làm quen với nghề để có hứng thú
và thái độ đúng đắn, yêu quý nghề, và điều quan trọng là HS có được tình cảm, thói
quen lao động để tiến tới có thể biết làm một số nghề truyền thống cần duy trì và
phát triển ở địa phương.

* Đối với XH, các tầng lớp dân cư :
Do tình hình các nghề và việc làm hiện nay thường xuyên thay đổi cho nên
hoạt động HN không còn giới hạn ở trường PT mà cần thiết mở rộng cho các tầng
lớp dân cư khác nhau.
Nhiệm vụ XH cơ bản của HN là : Tìm một nghề phù hợp nhất với những khả
năng của cá nhân và thỏa mãn nhu cầu nhân lực cho tất cả các lĩnh vực NN ở cấp độ
quốc gia. Cá nhân cần được thông tin đầy đủ về yêu cầu, sự thỏa mãn và khó khăn
của mỗi một nghề mình đang quan tâm.
Về các nhiệm vụ của HN, K.K. Platonov đã đưa ra “Tam giác hướng
nghiệp” như sau :
Định hướng
nghề

Các nghề và đặc điểm
yêu cầu của chúng

Thị trường
lao động

Tư vấn nghề Phẩm chất, năng lực, Tuyển chọn nghề
hoàn cảnh cá nhân


Sơ đồ 1.1 : Tam giác hướng nghiệp của K.K. Platonov
18
* Định hướng nghề nghiệp cho HS
Định hướng NN là việc thông tin cho học sinh các thông tin về sự phát triển
của các nghề trong XH, đặc biệt là những nghề đang cần nhu cầu nhân lực, về
những yêu cầu tâm sinh lý mà nghề đặt ra, tình hình phân công lao động trong XH,
về hệ thống trường đào tạo nghề …dựa vào mục tiêu chiến lược về phát triển

KTXH trong những năm tới hoặc về lâu dài. Ngoài đối tượng chính là HS cũng cần
cung cấp thông tin cho PH nhằm mục đích phối hợp trong HN được thống nhất. Sau
khi định hướng cho HS sẽ tiến hành cho các em có những điều kiện làm quen với
một số nghề, tham gia lao động một số buổi với từng nghề để kiểm nghiệm hứng
thú, năng lực của bản thân các em.
Định hướng nghề gồm : Giáo dục nghề nghiệp và tuyên truyền nghề nghiệp.
- Nhiệm vụ của giáo dục nghề nghiệp :
+ Giúp học sinh làm quen với một số nghề cơ bản, phổ biến của địa phương và
xã hội, đồng thời tìm hiểu xu thế phát triển các ngành nghề cùng với những yêu cầu
tâm sinh lý do ngành, nghề đó đặt ra cho người lao động.
+ Tạo điều kiện ban đầu để học sinh phát triển năng lực tương ứng với hứng thú
nghề nghiệp đã hình thành.
+ Giáo dục học sinh thái độ lao động đúng đắn, uốn nắn những biểu hiện lệch
lạc trong dự định chọn nghề cuả học sinh.
- Nhiệm vụ của tuyên truyền nghề nghiệp :
+ Làm cho học sinh chú ý đến những nghề đang phát triển có nhu cầu cấp thiết
về nhân lực, đang cần lực lượng lao động trẻ (công nhân kỹ thuật, công nghiệp,
giao thông, du lịch, dịch vụ, doanh nghiệp )
+ Giới thiệu các gương lao động dũng cảm, sáng tạo trong sản xuất và đời sống
Xã hội, qua đó điều chỉnh hứng thú, động cơ chọn nghề của học sinh.
* Tư vấn nghề
Khoản 1, điều 20 Bộ luật Lao động của nước ta đã ghi “Mọi người có quyền
tự do chọn nghề và học nghề phù hợp với nhu cầu việc làm của mình”. Vì thế mỗi
thanh thiếu niên có quyền lựa chọn con đường vào đời, vào nghề một cách tự
19
nguyện tự giác mà XH dành cho mình. Đại đa số HSPT sau trung học của chúng ta
không đánh giá được năng lực của mình, cũng không biết rõ mình thích nghề gì.
Những câu hỏi: đi đâu ? học trường nào ? làm nghề gì ? sau khi tốt nghiệp THCS,
PHTH thường là những phương trình có nhiều ẩn số, là những câu hỏi gay cấn khó
giải đáp nhất. Các em đó đang cần được tư vấn chọn nghề, mặt khác không ít HS đã

bước vào trường chuyên nghiệp mới vỡ lẽ rằng “mình chọn nhầm nghề”.
Tư vấn nghề là một hệ thống những biện pháp tâm lý giáo dục nhằm đánh
giá toàn bộ năng lực thể chất và trí tuệ của thanh thiếu niên, đối chiếu các năng lực
có với những yêu cầu do nghề đặt ra đối với người lao động, có cân nhắc đến nhu
cầu nhân lực của địa phương và xã hội, trên cơ sở đó cho họ những lời khuyên về
chọn nghề có căn cứ khoa học, loại bỏ những trường hợp may rủi, thiếu chín chắn
trong khi chọn nghề.
Tư vấn chọn nghề được hiểu là hình thức tác động HN thông qua các lời
khuyên, góp ý của GV và những nhà chuyên môn đối với việc chọn nghề của HS.
Tư vấn nghề được hiểu như là một chuỗi hành động tìm hiểu các cá nhân, từ đó làm
cho các cá nhân bộc lộ rõ khả năng, đặc điểm, phẩm chất, tâm lý của mình. Trên cơ
sở đó, những người tư vấn đối chiếu với những yêu cầu, nhu cầu NN để đưa ra
những lời khuyên có cơ sở khoa học giúp HS lựa chọn NN phù hợp với bản
thân.[16]
- Nhiệm vụ của tư vấn nghề
+ Chẩn đoán những thuộc tính và phẩm chất quan trọng về mặt nghề nghiệp.
+ Đối chiếu cấu trúc tâm lý của nhân cách và của hoạt động nghề nghiệp.
+ Xác định con đường tiếp tục phát triển nhân cách.
- Các kiểu tư vấn nghề
+ Tư vấn thông tin hướng dẫn nhằm giới thiệu với thanh thiếu niên nội
dung nghề mà mình định chọn.
+ Tư vấn chẩn đoán nhằm bộc lộ hứng thú, thiên hướng, năng lực và những
phẩm chất nghề chuyên biệt của con người trên cơ sở nghiên cứu và đo đạc
nhân cách con người một cách toàn diện. Mục đích của tư vấn chẩn đoán là
20
xác định trong những lĩnh vực hoạt động nào con người có thể lao động thành
công nhất, tức là đem lợi ích tối đa cho xã hội, động thời đưa lại niềm vui và sự hài
lòng cho bản thân người lao động.
+ Tư vấn y học nhằm bộc lộ sự phù hợp giữa trạng thái sức khoẻ của con người
với yêu cầu của nghề mà con người lựa chọn.

+ Tư vấn hiệu chỉnh được tiến hành trong trường hợp ý định nghề nghiệp của
con người không phù hợp với khả năng và năng lực thực tế của họ.
Trong điều kiện nhà trường PT, chẩn đoán nghề và tư vấn nghề luôn luôn
gắn kết với nhau, trong đó chẩn đoán nghề là cơ sở để nhà trường lựa chọn nội
dung. Đối tượng tư vấn đề xuất : Nhu cầu, ước muốn ,ý định thì chủ thể tư vấn sẽ
cung cấp : Những thông tin có liên quan tới nhu cầu, ước muốn, ý định của đối
tượng, sơ bộ khẳng định sự đúng sai đối với nhu cầu của đối tượng, đưa ra những
lời khuyên bổ ích cho đối tượng.
Tư vấn có 2 mức độ :
Tư vấn sơ bộ : CB, GV tư vấn là có những hiểu biết về yêu cầu đòi hỏi của
một số ngành nghề ở một số trường hoặc địa phương, về nhu cầu nhân lực, về năng
lực của cá nhân HS, từ đó cho các em một lời khuyên nên học nghề gì và học ở đâu.
Ở dạng tư vấn này không cần đòi hỏi phải có các chuyên gia tư vấn nghề cao, am
hiểu lĩnh vực tâm sinh lý.
Tư vấn chuyên sâu : Loại này phức tạp, đòi hỏi phải tiến hành trên cơ sở
khoa học thực sự, đảm bảo tính chính xác. Ở dạng tư vấn này cần phải có các
chuyên gia tư vấn nghề cao và am hiểu lĩnh vực tâm sinh lý
* Tuyển chọn nghề
- Khái niệm : Tuyển chọn nghề là xác định xem các đội tượng dự tuyển có sự
phù hợp với một nghề cụ thể hay không để có quyết định tuyển hay không tuyển
vào học hay làm việc. Tuyển chọn nghề đi từ nghề / nhóm nghề đến con người,
xuất phát từ nghề/ nhóm nghề để chọn người vào học hay làm việc. Trong khi đó tư
vấn nghề lại xuất phát từ con người để đí đến nghề nghiệp.
- Ý nghĩa của tuyển chọn nghề
21
+ Tuyển chọn nghề giúp cho việc ngăn ngừa hay giảm bớt tai nạn lao động, đặc
biệt trong giao thông vận tải.
+ Tuyển chọn nghề giúp con người đến được với nghề mà họ phù hợp, thành
công trong nghề, yên tâm và gắn bó với nghề.
Trường PT có nhiệm vụ cung cấp tư liệu về đặc điểm nhân cách của từng HS

khi ra trường (đạo đức, học tập văn hoá, đánh giá học sinh dưới góc độ HN và bàn
giao học sinh ra trường ). Nhà trường góp ý kiến cho việc tuyển sinh vào các
trường đào tạo nghề và tuyển chọn người lao động vào các lĩnh vực kinh tế xã hội
được thuận lợi, chính xác, khoa học.
Xác định mức độ phù hợp với những đòi hỏi, tiêu chuẩn cụ thể của nghề.
Đây là công việc của các doanh nghiệp, các cơ quan Nhà nước, các trường ĐH, CĐ,
THCN …là nơi tuyển chọn lao động, tuyển sinh đào tạo nghề quan hệ mật thiết với
công tác định hướng tư vấn, nên các trường ĐH, CĐ, TCCN phải giúp trường phổ
thông làm công tác HN.
1.3.4. Nội dung của giáo dục hướng nghiệp cấp THPT
Nội dung chính là định hướng phát triển KT - XH địa phương, cả nước như :
+ Nhu cầu về thị trường lao động.
+ Thông tin về NN và cơ sở đào tạo.
+ Năng lực bản thân, hoàn cảnh truyền thống NN của gia đình.
+ Lập kế hoạch lựa chọn hướng đi và chọn nghề sau khi tốt nghiệp THPT.
Những nội dung này được thể hiện thành những chủ đề trong chương trình
và được các tác giả viết sách giáo viên thể hiện qua các nội dung sách .
Nội dung chương trình lớp 10, 11 giúp các em tìm hiểu về thông tin NN cụ
thể, nội dung lớp 12 tập trung vào việc thông tin đào tạo và định hướng phát triển
kinh tế nhằm giúp cho việc quyết định chọn nghề.
1.4. Nghề nghiệp
1.4.1. Khái niệm nghề nghiệp
* Khái niệm về chuyên môn : chuyên môn là một lĩnh vực lao động sản xuất
hẹp, trong đó con người bằng sức mạnh thể chất và tinh thần của mình làm ra những
22
giá trị vật chất như những vật dụng sinh hoạt hàng ngày, lương thực, thực phẩm,
công cụ lao động …hoặc những giá trị tinh thần như sách báo, phim ảnh, âm nhạc
… như là phương tiện cần cho sự tồn tại và phát triển của xã hội. [37; tr 3]
* Khái niệm về việc làm : việc làm là công việc được giao theo NN, có thù
lao và chế độ đảm bảo đời sống lâu dài. Luật Lao động ban hành ngày 23 tháng 6

năm 1994 quy định : “Mọi hoạt động tạo ra nguồn thu nhập, không bị pháp luật
cấm đều được thừa nhận là việc làm”. Như vậy, NN được coi là việc làm nhưng
không phải việc làm nào cũng được coi là NN. Giữa việc làm và NN có những điểm
chung là do con người bỏ sức lao động ra để tạo ra sản phẩm từ đó tạo thu nhập, NN
phải có sự gắn bó lâu dài với công việc chuyên môn, có trình độ, kỹ năng, kỹ xảo
nhờ quá trình đào tạo dài hạn hoặc ngắn hạn.
* Khái niệm về nghề nghiệp : NN là một thuật ngữ để chỉ một hình thức lao
động trong xã hội, theo sự phân công lao động mà con người sử dụng sức lao động
của mình để tạo ra những sản phẩm vật chất, tinh thần cho XH. Con người thông
qua hành nghề để duy trì và phát triển cuộc sống cá nhân, đồng thời góp phần xây
dựng XH, đất nước. Và NN là sự tổ hợp những chuyên môn có quan hệ cùng loại
với nhau, trong một nghề có nhiều chuyên môn khác nhau và các chuyên môn này
bổ sung cho nghề đó.
Bất cứ nghề nghiệp nào cũng hàm chứa trong nó một hệ thống giá trị : tri
thức lý thuyết nghề, kỹ năng, kỹ xảo nghề, truyền thống nghề, đạo đức phẩm chất
nghề, hiệu quả do nghề mang lại. Những giá trị này có thể được hình thành theo con
đường tự phát (do tích luỹ kinh nghiệm trong quá trình sống với cộng đồng mà có)
hoặc theo con đường tự giác (do được đào tạo trong các cơ sở trường, lớp dài hạn
hay ngắn hạn).
Hoạt động trong bất kỳ nghề nghiệp nào, mỗi cá nhân phải tiêu tốn một số
lượng vật chất (sức lực) và tinh thần (trí tuệ) nhất định. Cá nhân sống bằng nghề
nào thì lượng tiêu hao về sức lực và trí tuệ cho dạng lao động đó là lớn nhất. Chính
vì thế, nghề được coi như đối tượng hoạt động cơ bản trong một giai đoạn nào đó
23
của đời sống cá nhân và trong đa số các trường hợp, nó gắn bó với cả cuộc đời con
người, nhiều khi còn truyền từ đời này sang đời khác.
* Giáo dục nghề phổ thông : được hiểu là hoạt động giáo dục NN nhằm cung
cấp kiến thức, kĩ năng, kĩ thuật ban đầu cho HSPT, giúp HS thấy được những đòi
hỏi của nghề đối với người lao động về phẩm chất và năng lực, từ đó có sự lựa chọn
nghề và định hướng học tập phù hợp nhất.

1.4.2. Đặc điểm hoạt động của nghề nghiệp
Hoạt động NN gồm những đặc điểm sau :
- Đối tượng lao động : Đối tượng lao động là hệ thống những thuộc tính, những mối
quan hệ qua lại của các sự vật, hiện tượng, các quá trình mà ở cương vị lao động
nhất định con người phải vận dụng chúng.
- Mục đích lao động : là kết quả mà XH đòi hỏi, trông đợi ở người lao động, nó có
thể ở các công việc thao tác chủ yếu phải hoạt động trong nghề và các sản phẩm thu
được khi hành nghề.
- Công cụ lao động : công cụ lao động không chỉ là những công cụ gia công mà còn
gồm những phương tiện làm tăng năng lực nhận thức của con người về các đặc
điểm của đối tượng lao động, làm tăng sự tác động của con người đến đối tượng đó.
Như vậy, các công cụ đo lường, máy móc, cũng như những quy tắc thực hành, lý
luận cũng được xem là công cụ lao động.
- Điều kiện lao động : là những đặc điểm của môi trường tự nhiên và môi trường
XH mà trong đó công việc NN của con người được diễn ra.
- Sản phẩm lao động : là tất cả các giá trị vật chất và giá trị tinh thần mà quá trình
lao động sản sinh ra.
1.4.3. Phân loại nghề
* Bản mô tả nghề
Công cụ rất cần thiết cho công tác tư vấn HN là nắm được bản mô tả nghề,
hay còn gọi là bản họa đồ nghề. Về thực chất, đó là bản mô tả nội dung, tính chất,
phương pháp, đặc điểm tâm sinh lý cần phải có, những điều cần tránh khi lao động
trong nghề. Được giải thích cặn kẽ về nghề, người chọn nghề sẽ có những định
24
hướng cần thiết cho việc lựa chọn nghề của mình. Bản mô tả nghề thường có các
mục sau đây :
- Tên nghề và những chuyên môn thường gặp trong nghề. Cùng với việc trình bày
này, người ta còn giới thiệu qua lịch sử phát triển của nghề.
- Nội dung và tính chất lao động của nghề. Ở mục này bản mô tả nghề thường miêu
tả việc tổ chức lao động, những sản phẩm làm ra, những phương pháp lao động,

những phương tiện kỹ thuật dùng trong sản xuất, những phần việc lao động chân
tay và lao động trí óc nơi sản xuất…
- Những điều kiện cần thiết để tham gia lao động trong nghề.
+ Có văn bằng tốt nghiệp THCS trước khi học nghề. Những môn học nghề đòi
hỏi trình độ khá trở lên;
+ Những trình độ đào tạo khác nhau trong nghề;
+ Những kỹ năng, kỹ xảo học tập và lao động phải có ngay những ngày đầu
tham gia lao động nghề nghiệp. Những kỹ năng kỹ xảo sử dụng công cụ lao động
hàng ngày.
+ Những chống chỉ định y học : những đặc điểm tâm lý và sinh lý không đảm
bảo cho việc học nghề và hành nghề. Những bệnh, tật mà nghề không chấp nhận.
- Những điều kiện bảo đảm cho người người lao động làm việc trong nghề
+ Tiền lương tối thiểu và thang lương trong nghề.
+ Chế độ bồi dưỡng độc hại, làm ca kíp, làm việc ngoài giờ
+ Chế độ bôi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ để nâng cao tay nghề. Sự tiến bộ
trong nghề nghiệp;
+ Những phúc lợi mà người lao động được hưởng
- Những nơi có thể theo học nghề:
+ Những trường đào tạo công nhân cho nghề
+ Những trường trung học chuyên nghiệp thuộc lĩnh vực nghề
+ Những trường đại học có đào tạo kỹ sư, cử nhân… cho nghề (Ghi rõ địa điểm
trường, các khoa đào tạo của trường, thời gian đào tạo trong trường, những chế độ
học tập, học bổng và học phí)
25
- Những nơi có thể làm việc sau khi học nghề : Tên một số cơ quan xí
nghiệp, doanh nghiệp; địa chỉ của các cơ sở đó.hiện nay, ở nước ta chưa có cơ quan
chuyên nghiên cứu và xuất bản các họa đồ nghề. Do vậy, khi tiến hành hướng
nghiệp, nhất là khi tư vấn chọn nghề, các cơ sở đào tạo phải tự xây dựng những họa
đồ nghề với sự trợ giúp của cá cơ quan chuyên môn, các thầy thuốc, thầy giáo dạy
nghề…

Bản mô tả nghề của từng nhóm nghề chính, đặc điểm nghề, yêu cầu của nghề
trong XH, địa phương đang cần và nhu cầu nhân lực hàng năm của các nghề. Thông
tin mô tả nghề giúp HS mở rộng hiểu biết về bức tranh NN làm cơ sở chọn nghề
một cách đúng đắn, khoa học. XH càng phát triển thì NN cũng càng phong phú,
cùng với sự thay đổi công cụ sản xuất và sư phân công lao động, nhiều nghề mới
được hình thành đồng thời với một số nghề cũ bị mất đi hay có sự thay đổi cả về
hình thức lẫn nội dung công việc. Khoa học kỹ thuật phát triển cũng kéo theo tính
chất lao động thay đổi nhất là về công cụ sản xuất. Do đó kéo theo việc đào tạo
nghề cho NLĐ cũng cần thay đổi.
- Phân loại nghề : hiện nay cũng chỉ mang tính tương đối, có nhiều hệ thống
phân loại nghề tùy vào thuộc vào mục đích, tiêu chí phân loại, cách sử dụng … cả
trong nước và quốc tế.
Tại Việt Nam, có thể thấy một số hệ thống phân loại đáng chú ý như sau : Hệ
thống phân loại các nhóm nghề, các nghề theo cấu trúc nền kinh tế quốc dân, gồm
có nhóm ngành trong lĩnh vực sản xuất vật chất và nhóm ngành sản xuất phi vật
chất. Nhóm ngành lĩnh vực sản xuất vật chất bao gồm công nghiệp, nông nghiệp,
xây dựng, giao thông, thương nghiệp. Nhóm ngành sản xuất phi vật chất gồm các
ngành giáo dục, y tế, văn hóa, tài chính, quản lý nhà nước.
Hệ thống phân loại các ngành nghề, nhóm nghề và nghề trong tài liệu về
danh mục các nghề trong trường đào tạo. Trong danh mục này có 394 nghề được
chia thành 58 nhóm thuộc 19 ngành khác nhau. Danh mục này thích hợp với yêu
cầu thống nhất tổ chức, quản lý đào tạo ở hệ thống các trường dạy nghề và là tài
liệu hướng dẫn lựa chọn nghề trên toàn quốc.

×