Tải bản đầy đủ (.pdf) (78 trang)

Nghiên cứu vai trò hệ sinh thái rừng ngập mặn tới phát triển kinh tế của người dân huyện giao thủy tỉnh nam định

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (794.09 KB, 78 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PTNT

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LÂM NGHIỆP
---------------------

TRẦN NGỌC DIỆP

NGHIÊN CỨU VAI TRÒ CỦA HỆ SINH THÁI RỪNG NGẬP
MẶN TỚI PHÁT TRIỂN SINH KẾ CỦA NGƯỜI DÂN
HUYỆN GIAO THỦY- TỈNH NAM ĐỊNH

LUẬN VĂN THẠC SỸ KHOA HỌC LÂM NGHIỆP

Hà Nội, 2010


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PTNT

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LÂM NGHIỆP
-----------------

TRẦN NGỌC DIỆP

NGHIÊN CỨU VAI TRÒ CỦA HỆ SINH THÁI RỪNG NGẬP
MẶN TỚI PHÁT TRIỂN SINH KẾ CỦA NGƯỜI DÂN
HUYỆN GIAO THỦY- TỈNH NAM ĐỊNH


Chuyên ngành: Lâm học
Mã số: 60.62.60

LUẬN VĂN THẠC SỸ KHOA HỌC LÂM NGHIỆP

Người hướng dẫn khoa học: TS. Đỗ Anh Tuân

Hà Nội, 2010


1

ĐẶT VẤN ĐỀ
Rừng ngập mặn là một hệ sinh thái rừng có vai trò quan trọng đối với
sự sinh tồn và phát triển của loài người, là môi trường sinh thái và nguồn sinh
kế của các cộng đồng sống gần rừng. Bên cạnh những giá trị kinh tế trực tiếp
mà rừng đem lại như gỗ và lâm sản ngoài gỗ thì rừng ngập mặn còn có giá trị
sinh thái như là môi trường sống của nhiều loài thủy sinh, cung cấp một lượng
lớn nguồn lợi thủy sản nước mặn, có vai trò chắn sóng, chắn gió giúp bảo vệ
bờ biển, bảo vệ đất liền, nhà cửa, đất canh tác, hạn chế xâm mặn. Tuy nhiên,
do nhận thức về rừng nhìn chung chưa đầy đủ và toàn diện, chưa đánh giá
đúng các giá trị dịch vụ môi trường của rừng đem lại cho xã hội, chính vì thế
hệ sinh thái rừng ngập mặn không được quản lý, bảo vệ và phát triển theo
đúng vị thế và vai trò của nó, diện tích rừng ngày càng bị thu hẹp, rừng bị suy
giảm cả về số lượng và chất lượng. Để đảm bảo cho cuộc sống trước mắt,
người dân ven rừng không ngừng chặt phá rừng để nuôi trồng thủy sản, khai
thác quá mức các nguồn lợi từ rừng ... mà hậu quả từ việc mất rừng ngập mặn
lại ảnh hưởng tiêu cực đến chính nguồn sinh kế của họ. Vấn đề đặt ra là phải
nhận thức đầy đủ về vai trò và giá trị của rừng và giải quyết hài hòa được mối
quan hệ giữa hệ sinh thái rừng ngập mặn với sự phát triển sinh kế của người

dân vùng ven biển.
Giao Thủy là một huyện miền biển của tỉnh Nam Định có hệ sinh thái
rừng ngập mặn đặc trưng là nguồn sinh kế chủ yếu của người dân tại địa
phương. Các hộ gia đình ở đây phần lớn tham gia vào các hoạt động sản xuất
nông, lâm, ngư nghiệp; sinh kế của họ phụ thuộc vào tiềm năng và các nguồn
lợi sẵn có của hệ sinh thái rừng ngập mặn nơi đây. Để đảm bảo cuộc sống
người dân liên tục khai thác các nguồn lợi từ RNM như lấy củi, nuôi ong lấy
mật, phá rừng làm đầm nuôi tôm cua và các thủy sản khác .... một cách quá


2
mức. Trước thực trạng đó, nhằm góp phần nâng cao nhận thức của người dân
về tầm quan trọng của rừng ngập mặn tới chính đời sống của người dân từ đó
góp phần ổn định và phát triển bền vững hệ sinh thái rừng ngập mặn có sự
tham gia của người dân, gián tiếp đảm bảo sự phát triển sinh kế cho người
dân, tôi tiến hành thực hiện đề tài: “Nghiên cứu vai trò của hệ sinh thái rừng
ngập mặn tới phát triển sinh kế của người dân huyện Giao Thủy – Nam Định”


3
Chương 1
TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1.1.Rừng ngập mă ̣n
1.1.1 Rừng ngập mặn và phân bố rừng ngập mặn ở Việt Nam
Rừng ngâ ̣p mă ̣n (RNM) là kiể u rừng phát triể n trên vùng đấ t lầ y, ngâ ̣p
nước mă ̣n của vùng cửa sông, ven biể n, do ̣c theo các sông ngòi, kênh ra ̣ch có
nước lơ ̣ do thủy triề u lên xuố ng hàng ngày.
Viê ̣t Nam có bờ biể n dài khoảng 3.260 km và hê ̣ thố ng sông ngòi dày
đă ̣c chở phù sa đổ ra cửa sông, ven biể n, ta ̣o ra nhiề u baĩ lầ y thuâ ̣n lơ ̣i cho sự
hiǹ h thành các RNM. Theo nghiên cứu của Phan Nguyên Hồ ng (1991, 1993)

RNM ở Viê ̣t Nam đươ ̣c chia thành 4 vùng chính như sau [12]:
Vùng I: Ven biển Đông Bắc, từ mũi Ngọc đến mũi Đồ Sơn;
Vùng II: Ven biển đồng bằng Bắc Bộ, từ mũi Đồ Sơn đến mũi Lạch
Trường;
Vùng III: Ven biển Trung Bộ: Từ mũi Lạch Trường đến mũi Vũng
Tàu;
Vùng IV: Ven biển Nam Bộ, từ mũi Vũng Tàu đến mũi Nải, Hà Tiên.
Theo kết quả kiểm kê rừng toàn quốc, RNM Việt Nam tính đến ngày
21/12/1999 là 156.608 ha trong đó ở miề n Bắ c (gồ m vùng Đông Bắ c, Đồ ng
bằ ng sông Hồ ng, Bắ c Trung Bô ̣ và Nam Trung Bô ̣) là 46.811 ha chiế m
30,2%; ở Đông Nam Bô ̣ và thành phố Hồ Chí Minh là 26.092 ha chiế m 16,8
%; ở Đồ ng bằ ng sông Cửu Long là 82,387 ha chiế m 53% (hình 1.1). Trong đó
diện tích RNM tự nhiên là 59.732ha chiếm 38,1% và diện tích RNM trồng là
96.876ha chiếm 61,95%.


4

§«ng B¾c

82,387ha
54%

22,969ha
15%

§ång b»ng B¾c Bé
B¾c Trung Bé
Nam Trung Bé


26,092ha
17%
700ha
0%

20,842ha
13%
2,300ha
1%

§«ng Nam Bé vµ
Tp HCM
§ång b»ng s«ng
Cöu Long

Hiǹ h 1. Phân bố diện tích rừng ngập mặn theo khu vực
(Nguồn: Viện điều tra quy hoạch rừng, 2001)

1.1.2. Đa dạng sinh học của RNM
Đa dạng sinh học của hệ sinh thái RNM Việt Nam rất phong phú. Hệ
thực vật chủ yếu gồm 37 loài cây ngập mặn thực thụ và 72 loài cây tham gia
[13]. Các loài cây RNM được thống kế theo giá trị sử dụng gồm: 30 loài cung
cấp gỗ, than, củi; 14 loài cung cấp tannin; 21 loài làm dược liệu và để nuôi
ong; 24 loài có thể sử dụng làm phân xanh và 1 loài có khả năng cung cấp
dịch nhựa cho chế biến nước giải khát, đường, rượu.
Nguồn lợi thủy sản của vùng RNM cũng rất phong phú. Số loài cá nước
lợ vùng cửa sông, ven biển vùng RNM đã phát hiện là 516 loài. Ở cửa sông
Hồng, theo thống kê có 129 loài với 54 loài có giá trị kinh tế; ở cửa sông ven
biển Quảng Ninh đã phát hiện 193 loài với 86 loài có giá trị kinh tế (Vũ
Trung Tạng, 2003); vùng nước lợ ở các cửa sông Gành Hào, Bồ Đề, Bảy Háp

tỉnh Cà Mau đã phát hiện 69 loài với 40 loài có giá trị kinh tế (Sở Khoa học
công nghệ và Môi trường Cà Mau, 2003). Động vật đáy ở Quảng Ninh (Đông
Bắc) đã phát hiện 400 loài, trong đó có 113 loài thân mềm (Mollusca) và 65
loài giáp xác (Crustaceae); ở đồng bằng Sông Hồng phát hiện 135 loài trong
đó 55 loài thân mềm và 30 loài giáp xác.


5
Vùng RNM đã hình thành một số sân chim lớn như khu RAMSAR
Xuân Thủy, Bạc Liêu, Đầm Dơi – mũi Cà Mau với nhiều loài quý hiếm như
Cò lao xám (Mycteria cinerea), Cò quăm lớn (Thaumtibia gigantea), Cò nhạn
(Grus antigone Sharp) hoặc Bồ nông chân xám (Pelecanus philippinesis),
Giang Sen (Ibis leucocephalus), Cò Trung Quốc (Egretta eulophotes), ... Các
loài chim phát hiện ở khu RAMSAR Xuân Thủy là 215 loài trong đó có 53
loài di cư [12].
Các loài thú đã phát hiện được 28 loài, nhiều nhất là linh trưởng và có 7
loài được ghi trong sách đỏ Việt Nam và IUCN; Bò sát phát hiện được 54 loài
với 11 loài được ghi trong sách đỏ của Việt Nam và IUCN.
Một nguồn thực phẩm quan trọng khác trong RNM cho các loài thủy
sản, đặc biệt đối với tôm là các thực vật nổi (Phytoplanton) cũng rất phong
phú, nhất là các loài tảo như tảo Silic. Vùng ven biển Nam Hà cũ phát hiện
120 loài thực vật nổi, trong đó tảo Silic chiếm 119 loài [12].
1.1.3. Vai trò của RNM
RNM có vai trò to lớn trong việc bảo vệ môi trường, phát triển tài
nguyên và môi trường cửa sông, ven biển phục vụ cho kinh tế - xã hội và
cộng đồng [40].
RNM cung cấp một lượng gỗ lớn, củi, than cho các tỉnh đồng bằng ven
biển và đóng vai trò quan trọng trong đời sống người dân. Số liệu thống kê từ
năm 1936 – 1940, ở bán đảo Cà Mau RNM nơi đây đã cung cấp 1.035.000
stere củi; 72.903 tấn than gỗ và 10.040 m3 gỗ (Maurand, 1943).

Ở khu RNM Cần Giờ năm 1963 trước khi rừng bị rải chất độc hóa học
cũng đã khai thác 17.400 stere củi và 10.000 lá dừa nước (Viên Ngọc Nam,
2002) và năm 1992 lượng củi tỉa thưa cao nhất là 19.000 stere.


6
Trước 1985 nguồn tannin sử dụng trong quá trình thuộc da chủ yếu
cung cấp từ vỏ các loài Đước đôi (Rhizophoza apiculata) ở miền Nam và
Đước vòi (Rhizophora stylosa) ở miền Bắc.
Nuôi ong được phát triển tại một số khu vực RNM ở miền Bắc như
khu RAMSAR Xuân Thủy (Nam Định), RNM Tiền Hải, Thái Thụy (Thái
Bình), hàng năm thu khoảng 20 – 50 tấn mật ong.
RNM còn được khai thác dưới dạng du lịch sinh thái như khu dự trữ
sinh quyển Cần Giờ, Vườn quốc gia Đất Mũi, Khu dự trữ thiên nhiên Thạnh
Phú (Bến Tre), Vườn quốc gia Xuân Thủy (Nam Định), …
Về mặt môi trường, hệ sinh thái RNM có vai trò to lớn trong việc cố
định phù sa, lấn biển, chống xói lở bờ biển, hạn chế tác hại của sóng, gió, bão,
đặc biệt là các đai rừng phòng hộ ven biển ở miền Bắc và vùng Đồng bằng
sông Cửu Long. Kết quả nghiên cứu bước đầu cho thấy giá trị sử dụng gián
tiếp (đa dạng sinh học, thủy sản, bảo vệ môi trường…) của hệ sinh thái RNM
là rất to lớn so với giá trị sử dụng trực tiếp (gỗ, củi), chiếm từ 90 – 95% tổng
giá trị kinh tế của hệ sinh thái RNM (N. Alger và Trí NH, 1998; Nguyễn
Ngọc Bình, 2002). Vương Văn Quỳnh đã nhiều năm nghiên cứu về vai trò
môi trường của rừng ngập mặn, các nghiên cứu của ông đã chỉ rõ vai trò to
lớn của rừng ngập mặn trọng việc làm suy giảm động năng của sóng biển từ
đó có tác dụng bảo vệ bờ biển và các công trình ven biển.
1.2.

Sinh kế và tài nguyên rừng


1.2.1. Khái niệm sinh kế
Hiện nay có nhiều khái niệm về sinh kế khác nhau, tuy nhiên sinh kế có
thể được hiểu theo những cách chung nhất như sau:
Theo nghĩa tiếng Hán, sinh là sinh sống, kế là cách thức, phương thức,
biện pháp. Như vậy, sinh kế là cách để sống, làm thế nào để sống hay thường


7
được hiểu một cách nôm na, đơn giản: sinh kế là kế sinh nhai hay cách duy trì
sự sống.
Sinh kế gồm khả năng, tài sản (của cải dự trữ, tài nguyên, quyền chiếm
hữu luật định và thực tế) cùng các hoạt động cần thiết làm phương tiện sống
của con người. Sinh kế có thể được mô tả như tổng hợp nguồn lực và năng
lực liên quan đến các quyết định và hoạt động của con người nhằm cố gắng
kiếm sống và đạt được các mục tiêu cũng như mơ ước của mình (DFID,
2001). Một số tiêu chí bền vững trong sinh kế bao gồm: an toàn lương thực,
cải thiện điều kiện môi trường tự nhiên, cải thiện điều kiện môi trường cộng
đồng xã hội, cải thiện điều kiện vật chất, được bảo vệ tránh rủi ro và các cú
sốc[27].
Ta cũng có thể miêu tả một sinh kế như là sự kết hợp các hoạt động
được thực hiện để sử dụng các nguồn lực để duy trì cuộc sống. Các nguồn lực
có thể bao gồm các khả năng và kỹ năng cá nhân (nguồn lực con người), đất
đai, tiền tích luỹ và các thiết bị (nguồn lực tự nhiên, tài chính, và vật chất) và
các nhóm trợ giúp chính thức hay các hệ thống trợ giúp không chính thức tạo
điều kiện cho các hoạt động được diễn ra (nguồn lực xã hội).
1.2.2. Sinh kế và tài nguyên rừng
Sinh kế nông thôn và sự phát triển bền vững của sinh kế nông thôn
trong những năm gần đây được nhiều quốc gia và các tổ chức quốc tế quan
tâm đầu tư nhằm giảm tỷ lệ hộ nghèo ở nông thôn và nâng cao cuộc sống của
người dân đặc biệt là những vùng có người dân sống phụ thuộc vào rừng và

tài nguyên tự nhiên của địa phương.
Dự án CAMPFIRE (chương trình Cộng đồng Quản lý Các khu vực Tài
nguyên bản địa) ở ZIMBAWE đã được phát triển như là một nỗ lực nhằm
cung cấp cho các cộng đồng địa phương quyền tiếp cận, kiểm soát và chịu
trách nhiệm quản lý tài nguyên rừng trên đất đai của họ. Các mục tiêu liên


8
quan là tạo quyền cho các cộng đồng để thực hiện các quyết định về các tài
nguyên, đảm bảo cho họ tiếp nhận một sự chia xẻ công bằng các lợi ích từ
khai thác tài nguyên và tăng cường sự hỗ trợ định chế ở cấp cộng đồng. Các
hoạt động của chương trình bao gồm việc lập kế hoạch săn bắn và quản lý lửa
rừng của địa phương. Kiểm soát sự xâm nhập và các hoạt động khác liên quan
đến động vật hoang dã và phân phối thu nhập. Ở một số nơi, CAMPFIRE đã
tạo ra những thành công đáng kể, gia tăng thu nhập của các hộ gia đình và
cộng đồng, giảm sự xâm nhập và các vấn đề nảy sinh từ những sự tương tác
với tài nguyên rừng và tăng cường thái độ và phương thức bảo tồn của địa
phương (IIDE, 1994; Murombedzi, 1992; Murphree, 1996; Scoones và
Matose, 1993; Trích từ Hoàng Hữu Cải, 2006 [7] )
Theo Molnar (1983) động cơ để những người sử dụng tài nguyên đầu
tư vào việc quản lý nếu như tài nguyên có thể đáp ứng một phần quan trọng
nhu cầu của những người sử dụng, nếu các lợi ích này có thể thu nhập nhanh
chóng và đều đặn. Trường hợp này thấy rõ nhất trong một cuộc điều tra các
hệ thống bản địa dựa trên nhóm sử dụng ở Nepal. Kết quả của cuộc điều tra
cho thấy: các nhóm sử dụng này chỉ có khả năng quản lý tích cực khi tài
nguyên đủ phong phú và cung cấp những lợi ích đáng kể. Nếu những người
sử dụng cảm thấy rằng tài nguyên địa phương họ quá nghèo hay quá nhỏ để
có thể tạo ra lượng bù đắp cho các nỗ lực cần thiết để bảo vệ và quản lý nó,
họ không có động lực để đầu tư quản lý. Như vậy, rừng ở trạng thái sẵn sàng
đi vào sản xuất có khả năng tạo động lực lớn hơn cho sự quản lý tập thể ở địa

phương so với các lô trồng cây gỗ mới chỉ được tạo ra sau một vài năm (dẫn
theo Hoàng Hữu Cải, 2006 [7] ).
Ở Tây Bengal, chương trình các Ban Bảo vệ rừng thôn bản (VPC) đã
được thực hiện thành công ở các khu vực có nhiều rừng Sal, tái sinh nhanh và
sản xuất nhanh các lâm sản ngoài gỗ hơn là những nơi mà sự thu hoạch sản


9
phẩm phải tập chung vào các rừng trồng. Ngoài ra, việc quản lý nguồn tài
nguyên có khả năng mang lại hiệu quả cao hơn nếu tài nguyên gần với nhóm
sử dụng và có thể được giám sát dễ dàng. Một yếu tố khác nữa là hệ thống
quản lý tài nguyên phải dễ dàng áp dụng bởi các nhóm sử dụng (dẫn theo
Hoàng Hữu Cải, 2006 [7])
Ở nước ta từ trong những năm gần đây có nhiều tổ chức quốc tế như
Pháp, Đan mạch, Đức, Nhật, Hàn Quốc, Thụy Sỹ, EU, UNDP… thông qua
loại hình ODA nhằm hỗ trợ phát triển các vùng nông thôn và cải thiện các
nguồn sinh kế của người dân. Riêng trong 3 năm, từ năm 2002 - 2004 đã có
nhiều dự án do các nước và tổ chức quốc tế đã tham gia hỗ trợ cho các vùng
nông thôn còn gặp nhiều khó khăn trong đời sống nhằm nâng cao đời sống và
thu hẹp khoảng cách giàu nghèo giữa thành thị và nông thôn, giảm tỷ lệ hộ
đói nghèo và nâng cao cuộc sống cho những người nông dân.
Nhà nước ta cũng có nhiều chính sách để phát triển nông thôn như:
năm 2004, Bộ Nông nghiệp và PTNT quy định xây dựng lại chiến lược lâm
nghiệp quốc gia giai đoạn 2006 – 2020 nhằm cải thiện sinh kế nông thôn
thông qua các biện pháp bền vững, tăng thu nhập từ rừng và tài nguyên sẵn có
của địa phương cho người nghèo và những người sống tại địa phương [2].
Nhiều chương trình, dự án để phát triển lâm nghiệp và nông thôn, nâng cao
đời sống của vùng dân cư ven rừng đã và đang được thực thi như dự án 661,
chương trình nghiên cứu giáo dục đào tạo và phổ cập lâm nghiệp, chương
trình quản lý rừng bền vững, chương trình bảo vệ, bảo tồn rừng và dịch vụ

môi trường rừng.
Đinh Đức Thuận và các cộng sự (2005) đã nêu rõ vai trò của rừng với
nguồn sinh kế của các hộ gia đình (HGĐ) sống phụ thuộc vào rừng trong
nghiên cứu “lâm nghiệp giảm nghèo và sinh kế nông thôn”. Đề tài phân tích
ảnh hưởng của chính sách đến nguồn thu nhập của HGĐ từ đó đưa ra các giải


10
pháp để cung cấp các khuyến nghị cụ thể và phù hợp với thực tiễn tại địa
phương cho tiến trình hoạch định chính sách, làm thế nào để bảo vệ rừng và
các sản phẩm từ từng có thể đóng góp một cách bền vững vào việc cải thiện
cuộc sống của người dân sống phụ thuộc vào rừng ở nước ta [27]
Liên quan đến vai trò của RNM đối với việc phát triển sinh kế của
người dân, Lal P. N (1990), đã tiến hành nghiên cứu đánh giá lợi ích kinh tế
tại chỗ của HST RNM ở Fiji, bằng việc áp dụng cách tiếp cận dựa trên nguồn
thu nhập, phương pháp chi phí thay thế và trao đổi quyền sử dụng phi thị
trường. Kết quả nghiên cứu cho thấy lợi ích ròng sinh kế của người dân địa
phương trong sử dụng sản phẩm tại chỗ trong vùng RNM (rau, LSNG ...) hầu
như tương đương với các sản phẩm thương mại (ví dụ như gỗ, than củi ...).
Trong trường hợp có sử dụng kết hợp với nuôi trồng thủy sản thì lợi ích ròng
sinh kế tại chỗ lớn hơn rất nhiều [38].
Nguyễn Hoàng Trí và cộng sự (2002) đã tiến hành xây dựng khung
phân tích để lượng giá tổng giá trị kinh tế của HST RNM Cần Giờ TP HCM
nhằm làm rõ giá trị của khu dự trữ sinh quyển đối với lợi ích cộng đồng địa
phương. Kết quả cho thấy tổng lợi ích ròng sử dụng trực tiếp từ RNM tăng lên
đáng kể [42]
Lê Thanh Bình (2003) đã nêu ra được sự đa dạng, phong phú của các
loài động thưc vật vùng đất ngập mặn và nguy cơ suy giảm các loài động,
thực vật này do các hoạt động sản xuất nông, lâm, ngư của người dân trong
vùng từ đó đưa ra các giải pháp để phát triển bền vững hệ sinh thái đất ngập

mặn có sự tham gia của cộng đồng dân cư trong vùng hay chính là đảm bảo
bền vững các nguồn sinh kế của HGĐ trên đất ngập mặn [1].
Nói tóm lại, sinh kế thường gắn với các HGĐ, nguồn sinh kế của các
HGĐ từ các phương thức sản xuất khác nhau nên mức độ đảm bảo sinh kế
của các hộ bền vững ở mức độ khác nhau. Tuy nhiên hầu hết với các vùng


11
nông thôn trên đất ngập mặn thì sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp có đặc điểm
là nguồn thu nhập chính trong gia đình họ. Sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp
phụ thuộc vào điều kiện tự nhiên rất lớn, nên tính rủi ro cao ảnh hưởng tới
nguồn sinh kế của người dân. Ngoài các yếu tố về mặt xã hội, môi trường
cũng ảnh hưởng đến sản xuất và nguồn sinh kế của các HGĐ vùng đất ngập
mặn. Muốn đánh giá được nguồn sinh kế của các HGĐ có bền vững hay
không cần phải đánh giá tổng hợp các chỉ tiêu về các mặt kinh tế, xã hội, và
môi trường.


12

Chương 2
MỤC TIÊU - NỘI DUNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Mục tiêu nghiên cứu
Mục tiêu chung của đề tài là đánh giá vai trò của hệ sinh thái rừng ngập
mặn với việc phát triển sinh kế của người dân huyện Giao Thủy – Nam Định.
Các mục tiêu cụ thể là:
- Đánh giá một số đặc điểm cấu trúc và tính đa dạng sinh học của hệ
sinh thái rừng ngập mặn;
- Đánh giá sinh kế của người dân và sự phụ thuộc của người dân vào
rừng ngập mặn;

- Đề xuất một số giải pháp góp phần bảo vệ và phát triển hệ sinh thái
rừng ngập mặn đồng thời đảm bảo phát triển sinh kế của người dân.
2.2. Đối tượng và giới hạn nghiên cứu
2.2.1. Đối tượng nghiên cứu:
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là hệ sinh thái rừng ngập mặn và sinh
kế của người dân huyện Giao Thủy – Nam Định.
2.2.2. Giới hạn nghiên cứu:
- Giới hạn về nội dung: Do thời gian có hạn nên tác giả chỉ giới hạn
nghiên cứu trong phạm vi sau:
+ Đối với hệ sinh thái rừng ngập mặn chỉ nghiên cứu: đặc điểm cấu
trúc tổ thành, mật độ, tính đa dạng sinh học (đa dạng loài).


13
+ Đối với sinh kế của người dân: chỉ tiến hành nghiên cứu sinh kế từ
các hoạt động sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp của người dân hai xã Giao
Thiện và Giao Xuân.
+ Đối với vai trò của rừng ngập mặn: xem xét vai trò trực tiếp của rừng
như các thu nhập trực tiếp và vai trò gián tiếp đến nuôi trồng thủy hải sản và
bảo vệ môi trường.
- Giới hạn về không gian:
+ Nghiên cứu về RNM và sinh kế của đề tài chỉ tiến hành tại 2 xã Giao
Thiện và Giao Xuân thuộc vùng đệm của VQG Xuân Thủy
- Giới hạn về thời gian: Thời gian tiến hành trong 1 năm
2.3. Nội dung nghiên cứu
Để đáp ứng mục tiêu đã đề ra, đề tài tập trung vào các nội dung sau đây:

2.3.1. Nghiên cứu đặc điểm của hệ sinh thái rừng ngập mặn:
- Cấu trúc tổ thành: Mật độ, tổ thành
- Tính đa dạng sinh học: đa dạng loài động, thực vật.

2.3.2.Hiện trạng kinh tế xã hội và hệ thống sinh kế của người dân tại khu
vực nghiên cứu:
- Đặc điểm kinh tế xã hội
- Hiện trạng đất đai và sản xuất nông lâm nghiệp
- Hệ thống sinh kế chính của người dân:
+ Sinh kế từ sản xuất lâm nghiệp: khai thác gỗ củi, khai thác thủy sản
tự nhiên từ RNM, nuôi ong lấy mật...
+ Sinh kế từ sản xuất nông nghiệp: trồng lúa, trồng màu, chăn nuôi.


14
- Mức độ phụ thuộc của người dân vào rừng ngập mặn:
+ Sự phụ thuộc trực tiếp vào tài nguyên rừng;
+ Vai trò gián tiếp của rừng ngập mặn đối với sinh kế
- Thuận lợi, tồn tại, thách thức khi quản lý rừng ngập mặn trong quá
trình phát triển sinh kế.
2.3.3. Đề xuất giải pháp góp phần bảo vệ và phát triển hệ sinh thái rừng
ngập mặn đồng thời đảm bảo phát triển sinh kế cho người dân.
Đề xuất một số giải pháp góp phần bảo vệ và phát triển hệ sinh
thái rừng ngập mặn.
2.4. Phương pháp nghiên cứu
2.4.1.Quan điểm và phương pháp luận
Tài nguyên rừng và sinh kế là bộ phận không thể tách rời trong mối
quan hệ phát triển kinh tế và bảo vệ môi trường của các cộng đồng dân cư địa
phương, những người sống dựa vào việc sử dụng tài nguyên rừng. Tài nguyên
rừng không chỉ là nhân tố sản xuất quan trọng cho phát triển kinh tế mà còn là
môi trường sống của các cộng đồng dân cư, do vậy cần hài hòa hóa mối quan
hệ giữa phát triển kinh tế và bảo vệ tài nguyên thông qua việc sử dụng hiệu
quả và bền vững tài nguyên.
Vai trò của rừng được đánh giá thông qua giá trị của nó đối với đời

sống của người dân từ góc độ trực tiếp (trong cơ cấu thu nhập kinh tế hộ) và
từ góc độ gián tiếp (đến ảnh đến các hoạt động tạo thu nhập khác như nuôi
tôm cá, v..).
Quá trình nghiên cứu của đề tài được thực hiện theo sơ đồ sau:


15

Xác định mục tiêu và nội
dung nghiên cứu

Điều tra hiện trạng kinh
tế xã hội và sinh kế

Điều tra một số đặc điểm
lâm học của RNM

Đánh giá vai trò của
RNM đối với sinh kế

Đề xuất giải phát phát
triển sinh kế và quản lý
RNM bền vững

Hình 2.1: Các bước nghiên cứu đề tài
2.4.2. Phương pháp thu thập và sử lý số liệu
2.4.2.1. Phương pháp thu thập số liệu
a) Thu thập số liệu thứ cấp
- Các tài liệu cần thu thập
+ Các văn bản, chính sách pháp luật của nhà nước liên quan đến vấn đề

nghiên cứu;
+ Các tài liệu về điều kiện tự nhiên, các báo cáo hàng năm của xã,
huyện, tỉnh và Vườn quốc gia, chi cục kiểm lâm về dân sinh, kinh tế, xã hội
của khu vực nghiên cứu, báo cáo về công tác trồng, quản lý, bảo vệ và phát
triển rừng;


16
+ Các tài liệu về vấn đề nghiên cứu, các dự án liên quan được thực hiện
tại khu vực nghiên cứu.
b) Thu thập số liệu ngoài thực địa
Việc thu thập số liệu thực địa được tiến hành làm 2 đợt
Đợt 1: Khảo sát sơ bộ thực địa
Đi khảo sát sơ bộ toàn bộ huyện Giao Thủy về môi trường tự nhiên, hệ
sinh thái rừng ngập mặn và quan sát dân sinh để có cái nhìn tổng quát về điều
kiện tự nhiên - kinh tế - xã hội của huyện, từ đó lựa chọn 2 xã phù hợp với nội
dung nghiên cứu.
Làm việc với một số phòng ban chức năng của UBND huyện và UBND
2 xã để tìm hiểu về tình hình tài nguyên RNM, điều kiện dân sinh - kinh tế xã
hội - sinh kế của dân cư trong vùng.
Đợt 2: Điều tra thực địa
A, Điều tra lâm học:
Sau khi khảo sát thực địa và lựa chọn được địa điểm phù hợp, tiến hành
các bước điều tra lâm học để nắm được thực trạng rừng ngập mặn ở khu vực
nghiên cứu. Các bước tiến hành như sau:
- Lập tuyến điều tra: dọc theo tuyến đường dọc sông Ba Lạt;
Đối với rừng ngập mặn cây gỗ mọc dầy đặc rất khó tiếp cận, trong khi
đó không được phát tuyến, nên tuyến điều tra sẽ tiếp cận các lối mòn hình
thành do người dân đánh bắt thủy sản. Trên tuyến điều tra rộng 5m về hai
phía, ghi nhận toàn bộ tên các loài cây xuất hiện trên tuyến.

Ngoài ra tuyến điều tra còn được thực hiện dọc các đầm tôm, bờ đê vì
đây là nơi tập trung nhiều thành phần loài thực vật nhất.


17
Tùy từng điều kiện lập địa mà RNM có những thành phần khác nhau vì
vậy khi điều tra RNM ta tiến hành trên các điều kiện lập địa khác nhau (bãi
triều đang bồi ngập triều thường xuyên, bãi triều ngập triều trung bình, bãi
triều ngập triều cao, bãi triều ít khi ngập triều hoặc ta phân theo vùng nước
mặn, nước lợ)
Tại mỗi điều kiện lập địa, lập 3 ô tiêu chuẩn (OTC) với diện tích mỗi
OTC là 1000m2 (20mx50m). Các OTC được bố trí theo chiều từ biển vào đất
liền. Các OTC được lập bằng thước dây, góc vuông được xác định theo định
lý Phitago. Sau khi khép góc kiểm tra sai số thỏa mãn <=1/200 chu vi. Ranh
giới của các OTC được xác định bằng phương pháp đóng cọc căng dây.Trên
OTC tiến hành điều tra cấu trúc tổ thành và tính đa dạng sinh học loài;
Trong mỗi OTC lập 5 ô dạng bản (ODB), diện tích mỗi ODB là 100m2
(10 x10), chiều dài theo chiều từ phía bờ biển vào đất liền, chiều rộng bố trí
vuông góc với chiều dài. Sau khi lập được ODB, tiến hành thống kê các loài
cây có trong ODB ghi vào biểu sau:
Bảng 2.1: Mẫu thống kê các loài cây rừng ngập mặn
TT OTC

TT ODB

Loài cây

Ghi chú

B, Điều tra kinh tế - xã hội:

Sử dụng bộ công cụ PRA để thu thập thông tin và số liệu:
Phỏng vấn cán bộ xã, cán bộ Vườn quốc gia, cán bộ kiểm lâm nhằm
tìm hiểu tình hình chung về hiện trạng kinh tế - xã hội và sản xuất nông lâm
nghiệp; hệ thống sinh kế của người dân ở địa phương: dân số, mức sống, trình


18
độ học vấn, ngành nghề, các nguồn sinh kế, tình hình quản lý, bảo vệ và sử
dụng rừng, mức độ tác động vào rừng, hậu quả của việc chặt phá, khai thác
rừng quá mức… của người dân;
Phân loại hộ gia đình (HGĐ) nhằm đánh giá tình hình kinh tế HGĐ.
Kết quả phân loại làm cơ sở cho việc phỏng vấn hộ gia đình để thuận lợi cho
việc đánh giá mức độ phụ thuộc vào rừng của nhóm hộ trong quá trình phát
triển sinh kế. Phân loại theo 4 mức độ: giàu, khá, trung bình và nghèo dựa vào
tiêu chuẩn của Sở lao động thương binh xã hội tỉnh đề ra áp dụng với từng địa
phương và dựa trên hiểu biết, quan sát thực tế của người dân và sử dụng phiếu
điều tra để phân loại theo tiêu chí người dân đưa ra.
Phỏng vấn các nhóm hộ gia đình theo bảng hỏi: chọn 30 hộ thuộc cả 4
nhóm hộ để phỏng vấn
+ Nội dung: Phỏng vấn, trao đổi với người dân về:
Tình hình chung của hộ: chủ hộ, nguồn lao động, trình độ học vấn.
Sinh kế, nguồn thu nhập, hiện trạng sản xuất và phát triển sinh kế của họ.
Nguyên nhân và các hình thức tác động vào rừng của hộ gia đình
Hiểu biết của người dân về vai trò của RNM đối với môi trường và đa
dạng sinh học
Đánh giá chủ quan của họ về hiện trạng RNM, so sánh nguồn lợi do
rừng đem lại hiện nay với những năm trước.
Thuận lợi, khó khăn, thách thức trong quá trình phát triển sinh kế của
người dân.
Một số giải phát góp phần giải quyết mối quan hệ giữa bảo vệ, phát

triển hệ sinh thái rừng ngập mặn với phát triển sinh kế của họ.
Thảo luận nhóm nông dân, nhóm cán bộ quản lý nhằm đánh giá:


19
Mức độ phụ thuộc của người dân vào rừng và vai trò của rừng đối với
sự phát triển sinh kế của họ.
Những thuận lợi, tồn tại, thách thức trong việc giải quyết hài hòa mối
quan hệ giữa bảo vệ rừng và phát triển cộng đồng
Giải pháp nhằm giải quyết hài hoà mối quan hệ đó.
- Phân tích thuận lợi, tồn tại khi quản lý RNM trong quá trình phát triển
sinh kế.
2.4.2.2.Phuơng pháp sử lý và phân tích số liệu
Các số liệu thu thập được tổng hợp dưới dạng các bảng biểu, sơ đồ sau đó
được sử lý và phân tích định lượng bằng phần mềm SPSS 13.0.
- Xác định các chỉ tiêu cấu trúc tổ thành quần xã thực vật ở mỗi xã:
+ Mật độ quần xã (cây/ha)
+ Xác định hệ số tổ thành = nx10/N (n: số cá thể của 1 loài; N Tổng số
cá thể điều tra), từ đó thiết lập công thức tổ thành cho từng quần xã ở mỗi
khu vực nghiên cứu.
+ Xác định loài ưu thế
Phương pháp chuyên gia
Do đối tượng nghiên cứu rộng, mối quan hệ giữa phát triển rừng và phát
triển sinh kế là mối quan hệ rất khó giải quyết vì thế đề tài lựa chọn phương
pháp chuyên gia để bổ xung lấy ý kiến của những nhà quản lý để đánh giá
hiện trạng và tìm ra giải pháp giải quyết hài hòa mối quan hệ đó.


20
Chương 3

ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN - KINH TẾ - XÃ HỘI
CỦA KHU VỰC NGHIÊN CỨU
3.1.Điều kiện tự nhiên của khu vực nghiên cứu.
3.1.1. Vị trí địa lý
Giao Thủy là một huyện ven biển nằm ở cực Đông của tỉnh Nam Định,
nằm ở rìa đồng bằng châu thổ sông Hồng, cách thành phố Nam Định 45 km
về phía Nam. Với địa giới hành chính được xác định như sau:
- Phía Nam và Đông Nam tiếp giáp với Biển Đông
- Phía Tây Bắc giáp: huyện Xuân Trường
- Phía Tây Nam giáp: huyện Hải Hậu, ranh giới với hai huyện này là
con sông Sò, phân lưu của sông Hồng
- Phía Bắc và Đông bắc tiếp giáp với tỉnh Thái Bình mà ranh giới là
sông Hồng (chính bắc là huyện Kiến Xương, Đông Bắc là huyện Tiền Hải.
Cực Đông là cửa Ba Lạt của sông Hồng, Cực Nam là thị trấn Quất Lâm
3.1.2. Địa hình, đất đai, thổ nhưỡng.
3.1.2.1. Địa hình, địa thế
Giao Thủy là một huyện có địa hình khá bằng phẳng có bờ biển kéo dài
32 km và bãi biển rộng thuận lợi cho phát triển kinh tế biển. Bờ biển từ cửa
Ba Lạt đến xã Giao Hải nằm trong phạm vi bồi tụ chính của sông Hồng nên
có các bãi bồi rộng lớn. Đường nhô hẳn ra phía biển. Bãi triều sát cửa sông
rộng 7 – 8 km. Phía ngoài có các cồn cát nổi cao 1 -1,5m như Cồn Lu, Cồn
Xanh. Đây là các cồn cát đang tiếp tục được bồi đắp để mở rộng diện tích và
nâng cao cốt đất. Những điều đó giúp cho vùng đất này có điều kiện để trồng
rừng ngập mặn và phi lao ven biển.


21
3.1.2.2. Đất đai thổ nhưỡng:
Đất ở khu vực nghiên cứu chủ yếu là bùn phù sa và cát lắng đọng. Các
nhóm đất chưa ổn định, còn chịu ảnh hưởng mạnh mẽ của các yếu tố tự nhiên

bao gồm các nhóm chính: nhóm đất cát pha và thịt nhẹ, đất trung bình, đất thịt
nặng đến sét. Hàm lượng sét dẻo thường phổ biến và chiếm ưu thế ở các khu
vực xa bờ biển, nơi ít chịu ảnh hưởng của sóng triều. Ngược lại ở khu bãi
triều ven biển lại tích tụ chủ yếu thành phần cát, cát pha sét, khoáng vật chính
là Thạch anh và Fenpat.
Diện tích tự nhiên của huyện là 23.823,80ha, được bao bọc bởi sông và
biển. Huyện có 32km bờ biển, nằm giữa sông Hồng và sông Sò. Hàng năm 2
con sông này mang phù sa bồ đắp, mở rộng đất đai của huyện ra hướng biển
đông khoảng 200 ha đất bãi bồi màu mỡ. Đất đai của huyện được chia làm 2
vùng: vùng đồng nội 16.754,18 ha đã được ngọt hóa, thuận lợi cho việc canh
tác lúa nước. Vùng bãi bồi ven biển 6.339,66 ha thuận lợi cho phát triển nuôi
trồng thủy hải sản và trồng rừng ngập mặn.
3.1.3. Khí hậu thủy văn
Khí hậu
Huyện Giao Thủy nói chung và 2 xã nghiên cứu nói riêng nằm trong
vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa, chịu ảnh hưởng trực tiếp của khí hậu và chế
độ thủy triều vùng ven biển đồng bằng Bắc Bộ Việt Nam.
Khu vực nghiên cứu một năm có 2 mùa rõ rệt là mùa mưa từ tháng 4
đến tháng 10, mùa khô từ tháng 11 đến tháng 3 năm sau. Nhiệt độ không khí
trung bình năm là 23,10C, Tháng một nhiệt độ xuống thấp nhất khoảng 12,10C.
Nằm tiếp giáp với biển Đông, khu vực nghiên cứu thuộc vùng có lượng
mưa lớn của đồng bằng Bắc Bộ, lượng mưa bình quân là 1921mm/năm, phân
bố không đều giữa các tháng trong năm. Tháng thấp nhất là 22mm, tháng cao
nhất lên tới 331,1mm. Về mùa mưa, lượng mưa chiếm từ 80%-85% tổng


22
lượng mưa cả năm. Lượng mưa phân bố không đều ngay cả trong mùa mưa,
thường tập trung vào một số đợt mưa lớn kéo dài kèm theo bão lớn gây hại
nghiêm trọng đến hệ sinh thái rừng ngập mặn. Do lượng mưa kéo dài, lại gặp

lúc triều cường đã làm cho nước biển dâng cao tàn phá hệ thống đê biển và hệ
sinh thái rừng ngập mặn. Về mùa khô, lượng mưa chỉ chiếm từ 15%-20%
lượng mưa cả năm, thường xảy ra mưa phùn kéo dài. Thời gian này thiếu
nước ngọt, độ mặn nước biển tăng lên và đã làm ảnh hưởng đến sinh trưởng
của các loài thực vật.
Do sự điều hòa của gió biển nên sự biến đổi về độ ẩm trong năm là
không lớn lắm. Độ ẩm không khí trung bình năm là 84%, giao động từ 81% 87%. Lượng nước bốc hơi cả năm là 808mm.
Khu vực nghiên cứu chịu ảnh hưởng của 2 loại gió chính: Mùa hè chịu
ảnh hưởng của gió mùa Đông Nam với tốc độ trung bình 4m/s, khi có bão có
thể lên tới 50m/s (khoảng 180 km/h); mùa đông chịu ảnh hưởng của gió mùa
Đông Bắc với tốc độ trung bình 3,75m/s. Ngoài ra còn có gió đất – biển với
chu kỳ ngày đêm có tác dụng tốt đối với hệ sinh thái rừng ngập mặn. Gió bão
ở đây thường xuất hiện từ tháng 5 đến tháng 10. Trong các tháng 7, 8, 9 bão
thường xuất hiện với tần suất cao hơn. Bình quân mỗi năm có từ 3 – 5 cơn
bão tràn vào. Khi giông bão xuất hiện thường tạo những đợt gió cấp 7, cấp 8
có khi nên đến câp 10, cấp 11 gây nên biển động dữ dội, nước dâng cao, sóng
lớn gây thiệt hại đến tính mạng và tài sản của nhân dân. Cơn bão gây thiệt hại
cho địa phương gần đây nhất là cơn bão số 7 năm 2005. Khi tràn vào bờ biển,
cơn bão này có gió mạnh tới cấp 11, 12 giật trên cấp 12 phá hỏng nhiều đoạn
đê biển. Nước biển tràn vào nhấn chìm hàng trăm ha hoa màu cùng nhà cửa
và tài sản của nhân dân. Cuộc sống của người dân xáo trộn và thiệt hại vật
chất lên tới hàng chục tỷ đồng. Thực tế sau cơn bão cho thấy, nơi nào có rừng
phòng hộ che chắn thì hạn chế được nhiều thiệt hại, nơi nào không có rừng thì


23
thiệt hại rất lớn: đê bị sạt nghiêm trọng, các công trình và ao đầm nuôi trồng
thủy hải sản bị phá hủy, nước mặn tràn vào đồng ruộng, thiệt hại về tài sản rất
lớn, tính mạng con người bị đe dọa.
Thủy văn

Mạng lưới sông ngòi trên địa bàn đều nằm trong lưu vực sông Hồng
bao gồm 3 sông chính là sông Hồng, sông Vọp và sông Trà. Mật độ khá dày
đặc, bình quân 1,9 – 2,5km/km2. Tổng lượng nước lớn, hàng năm sông Hồng
đưa ra biển gần 100 tỉ m3 nước và hàng chục triệu tấn vật liệu cứng với hàm
lượng phù sa trung bình 1kg/m3 qua cửa sông Ba Lạt. Trầm tích bãi triều là
bùn sét pha cát mịn, tốc độ lắng đọng nhanh. Do hàng năm có lượng bùn cát
lớn vận chuyển ra biển nên tốc độ lấn biển diễn ra nhanh, trung bình 80 – 120
m/năm với chiều cao từ 5 – 10cm/năm.
Chế độ thủy triều ở vùng biển khá thuần nhất, phần lớn là nhật triều với
thời gian khoảng 25 ngày/tháng, có 5 - 7 ngày trong tháng là bán nhật triều,
biên độ 3 - 4m. Độ cao trung bình mức triều cường ở cửa Ba Lạt là 3,2m, mức
triều kiệt trung bình là 0,4. Khi triều cao sóng lớn thường gây nguy hiểm cho
đê biển, đe dọa các công trình ven đê. Đợt triều cường ngày 23 tháng 11 năm
2006 đã gây thiệt hại nặng nề cho vùng ven biển. Triều cường dâng cao, nước
biển tràn ngập vào ruộng đồng làm cho hàng loạt cây trồng bị chết, hàng loạt
hoạt động sản xuất bị ngừng trệ, đời sống nhân dân trong vùng gặp khó khăn.
Sóng biển là yếu tố dễ nhận nhất của động lực biển. Năng lượng sóng
biển là nguyên nhân trực tiếp làm xói mòn và sạt lở bờ biển, đê biển. Khi
sóng vỗ vào bờ biển hoặc đê biển và vỡ ra thì toàn bộ năng lượng của sóng
được truyền hết vào đó gây ra xói mòn và sạt lở. Do vùng bãi biển của khu
vực khá bằng phẳng và trống trải nên sóng khá lớn, độ cao của sóng thường từ
2,5 - 3m, độ cao nhất có lúc đạt 4,5m rất nguy hiểm cho đê biển. Vì vậy, cần


×