Tải bản đầy đủ (.pdf) (124 trang)

Nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn làm căn cứ đề xuất các giải pháp quy hoạch sử dụng đất phát triển sản xuất nông lâm nghiệp tại xã hòa thạch, huyện quốc oai, hà nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.27 MB, 124 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ NÔNG NGHIỆP & PTNT

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LÂM NGHIỆP
--------------------------------------------------

TRƯƠNG THU HOÀI

" NGHIÊN CỨU CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN LÀM
CĂN CỨ ĐỀ XUẤT CÁC GIẢI PHÁP QUY HOẠCH SỬ
DỤNG ĐẤT PHÁT TRIỂN SẢN XUẤT NÔNG LÂM NGHIỆP
XÃ HOÀ THẠCH, HUYỆN QUỐC OAI, HÀ NỘI”

LUẬN VĂN THẠC SỸ KHOA HỌC LÂM NGHIỆP

HÀ NỘI, 2010


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ NÔNG NGHIỆP & PTNT

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LÂM NGHIỆP

TRƯƠNG THU HOÀI

"" NGHIÊN CỨU CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN LÀM
CĂN CỨ ĐỀ XUẤT CÁC GIẢI PHÁP QUY HOẠCH SỬ
DỤNG ĐẤT PHÁT TRIỂN SẢN XUẤT NÔNG LÂM NGHIỆP
XÃ HOÀ THẠCH, HUYỆN QUỐC OAI, HÀ NỘI”



CHUYÊN NGÀNH: LÂM HỌC
MÃ SỐ: 60.62.60

LUẬN VĂN THẠC SỸ KHOA HỌC LÂM NGHIỆP

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS.TS. TRẦN HỮU VIÊN

HÀ NỘI, 2010


LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành chương trình đào tạo đại học và sau đại học trường Đại
học Lâm nghiệp Việt Nam, gắn việc đào tạo với thực tiễn sản xuất, tôi thực
hiện luận văn: “ Nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn làm căn cứ đề xuất
các giải pháp quy hoạch sử dụng đất, phát triển sản xuất nông lâm nghiệp
tại xã Hoà Thạch, huyện Quốc Oai, Hà Nội”
Tôi xin trân trọng cảm ơn Ban giám hiệu trường Đại học Lâm nghiệp,
Khoa sau đại học và các thầy cô giáo trường Đại học Lâm nghiệp, đặc biệt là
PGS.TS. Trần Hữu Viên, người hướng dẫn khoa học đã tận tình giúp đỡ tôi
trong quá trình thực hiện luận văn.
Nhân dịp này, tôi cũng xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới cán bộ
UBND xã Hoà Thạch đã tạo mọi điều kiện giúp đỡ tôi hoàn thành quá trình
nghiên cứu đề tài này.
Mặc dù làm việc rất nỗ lực nhưng do hạn chế về trình độ và thời gian
nghiên cứu nên luận văn không thể tránh khỏi những thiếu sót, rất mong nhận
được những ý kiến đóng góp của các thầy cô, các nhà khoa học và bạn bè
đồng nghiệp.
Tôi xin cam đoan tất cả các số liệu thu thập, kết quả tính toán, thông tin

được trích dẫn đầy đủ, rõ ràng.
Tôi xin trân thành cảm ơn!
Hà Nội, tháng 10 năm 2010
Tác giả

Trương Thu Hoài


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
ĐHLN

Đại học lâm nghiệp

BCR

Tỷ suất giữa thu nhập và chi phí

QSDĐ

Quyền sử dụng đất

CBA

Phương pháp phân tích chi phí và lợi ích

FAO

Tổ chức nông nghiệp và lương thực thế giới

CHXHCN


Cộng hoà xã hội chủ nghĩa

GTZ

Tổ chức hợp tác và phát triển của CHLB Đức

HĐBT

Hội đồng Bộ trưởng

HGĐ

Hộ gia đình

IRR

Tỷ lệ thu hồi nội bộ

KTXH

Kinh tế xã hội

KHSDĐ

Kế hoạch sử dụng đất

LN

Lâm nghiệp


LNXH

Lâm nghiệp xã hội

NLKH

Nông lâm kết hợp

NN

Nông nghiệp

NN&PTNT Nông nghiệp và phát triển nông thôn
NPV

Giá trị hiện tại của thu nhập ròng

PRA

Phương pháp đánh giá nông thôn có sự tham gia của người
dân

QHSDĐ

Quy hoạch sử dụng đất

RRA

Phương pháp đánh giá nhanh nông thôn


SALT

Hệ thống kỹ thuật canh tác trên đất dốc

UBND

Uỷ ban nhân dân


TNMT

Tài nguyên môi trường


DANH MỤC CÁC BIỂU
STT

Nội dung

biểu

Số
trang

3.1

Biểu chuyển dịch cơ cấu sử dụng đất từ năm 2005 đến năm 2010

48


3.2

Hiện trạng sử dụng đất xã Hoà Thạch

63

3.3

Lịch mùa vụ xã Hoà Thạch

69

3.4

Tổng hợp hiệu quả kinh tế của một số giống lúa

71

3.5

Tổng hợp hiệu quả kinh tế cây hoa màu trên 1ha/1năm

72

3.6

Tổng hợp hiệu quả kinh tế cây ăn quả trên 1ha/năm

72


3.7

Tổng hợp hiệu quả cây lâm nghiệp chính trên 1ha/10năm

73

3.8

Tổng hợp hiệu quả kinh tế cây công nghiệp trên 1ha/ 10năm

74

3.9

Tổng hợp lựa chọn cây trồng lâm nghiệp

75

3.10

Tổng hợp kết quả lựa chọn cây ăn quả, cây công nghiệp

77

3.11

Tổng hợp lựa chọn cây lúa, cây hoa màu

78


3.12

Tổng hợp kết quả lựa chọn vật nuôi

79

3.13

Phân tích điểm mạnh, điểm yếu, cơ hội và thách thức

82

3.14

Một số mục tiêu phát triển kinh tế xã hội đến năm 2020

86

3.15

Kết quả phân bổ quy hoạch sử dụng đất xã Hoà Thạch đến năm
2020

91

3.16

Phân bổ sử dụng đất sản xuất nông nghiệp xã Hoà Thạch đến năm
2020


92

3.17

Tỷ lệ phát triển dân số tự nhiên của các năm

95

3.18

Quy hoạch phân bổ đất chuyên dùng xã Hoà Thạch đến năm 2020

97

3.19

So sánh diện tích cơ cấu đất đai trước và sau khi quy hoạch

100

3.20

Kế hoạch sử dụng đất đai xã Hoà Thạch

102

3.21

Tổng hợp vốn và hiệu quả sản xuất nông lâm nghiệp trong chu kỳ

sản xuất 10 năm

112


DANH MỤC CÁC HÌNH VẼ
Hình vẽ:

STT
hình

Nội dung

Số
trang

01

Chuyển dịch cơ cấu sử dụng đất giai đoạn 2005-2010

49

02

Biến động đất đai trước và sau khi quy hoạch

100


1


ĐẶT VẤN ĐỀ
Trong nhiều thập kỷ qua, diện tích rừng ở nước ta đã và đang bị suy giảm
nghiêm trọng (Năm 1943, Việt Nam có 14,3 triệu ha rừng, độ che phủ là 43%, đến
năm 1990 chỉ còn 9,18 triệu ha, độ che phủ rừng 27,2%; thời kỳ 1980 - 1995, bình
quân mỗi năm mất 110 nghìn ha rừng. Năm 2006 diện tích rừng toàn quốc là
12.873.850 ha với độ che phủ rừng 38% và tính đến ngày 31/12/2009 diện tích rừng
toàn quốc là 13.258.843 ha, độ che phủ là 39,1%). Do nạn khai thác rừng bừa bãi,
đốt nương làm rẫy, du canh du cư đã làm cho diện tích đất trống đồi núi trọc ngày
càng tăng, môi trường sinh thái bị hủy hoại nghiêm trọng. Vì vậy, việc quản lý, bảo
vệ, khôi phục và phát triển tài nguyên rừng là công việc cần thiết nhằm chấm dứt
tình trạng mất rừng, nâng cao độ che phủ của rừng là mục tiêu của Đảng, Nhà nước
ta trong thời kỳ đổi mới.
Hiện nay, vai trò của rừng nói riêng hay ngành lâm nghiệp nói chung không
những được đánh giá ở khía cạnh kinh tế thông qua những sản phẩm trước mắt thu
được từ rừng mà còn tính đến lợi ích to lớn về xã hội, môi trường mà nghề rừng
đem lại. Nhưng sự tác động đến rừng và đất rừng không chỉ ảnh hưởng trực tiếp đến
nghề rừng và sự phát triển kinh tế xã hội tại khu vực có rừng mà còn tác động nhiều
mặt đến các khu vực phụ cận cũng như các ngành sản xuất khác. Do đó, để sử dụng
tài nguyên rừng và đất rừng lâu dài, bền vững thì việc xây dựng phương án sử dụng
nguồn tài nguyên này một cách hợp lý là yêu cầu cấp thiết đối với các nhà quản lý.
Hòa Thạch là xã mà người dân sống chủ yếu dựa vào lâm - nông nghiệp là
chính. Trong khi đó việc chuyển đổi cơ cấu kinh tế đặc biệt là cơ cấu cây trồng vật
nuôi còn nhiều lúng túng, hệ thống canh tác còn lạc hậu, người dân thiếu vốn sản
xuất, thiếu khoa học kỹ thuật.... Do đó, việc giúp xã phân bổ lại đất đai, lập kế
hoạch phát triển sản xuất lâm nông nghiệp kết hợp với kỹ thuật canh tác nông lâm
kết hợp nhằm tạo cho người dân tự giác ngộ phân tích và quan tâm đến hoàn cảnh
của mình từ đó thúc đẩy cộng đồng phát triển. Đồng thời giúp người dân đề xuất
được cơ cấu vật nuôi, cây trồng phù hợp với gia đình mình, với nền kinh tế thị
trường.



2

Xuất phát từ nhận thức thực tiễn trên nhằm góp phần xây dựng một số cơ sở
lý luận và thực tiễn của quy hoạch sử dụng đất cấp xã trên địa bàn nông thôn miền
núi và vận dụng phương pháp quy hoạch sử dụng đất có sự tham gia của người dân.
chúng tôi tiến hành thực hiện đề tài “ Nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn làm
căn cứ đề xuất các giải pháp quy hoạch sử dụng đất phát triển sản xuất nông lâm
nghiệp tại xã Hòa Thạch – huyện Quốc Oai - Hà Nội”


3

CHƯƠNG I
TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1.1. Trên thế giới
1.1.1. Những nghiên cứu liên quan tới cơ sở khoa học của quy hoạch sử dụng
đất cấp vĩ mô
Lịch sử về quy hoạch sử dụng đất đã trải qua hơn 100 năm nghiên cứu và
phát triển, những thành tựu về phân loại đất, xây dựng bản đồ đất đã được sử dụng làm
cơ sở quan trọng cho việc tăng năng suất và sử dụng đất đai một cách có hiệu quả.
Hệ thống canh tác (Farming System) là sự bố trí một cách thống nhất và ổn
định các ngành trong nông trại, được quản lý bởi hộ gia đình trong môi trường tự
nhiên, sinh học và kinh tế xã hội, phù hợp với các mục tiêu mong muốn và nguồn
lực của hộ (Shaner, Philip và Schemmedli, 1984) [29]. Hệ thống canh tác bao gồm
các nguồn lực (đất, lao động, vốn) được sử dụng cho các hoạt động trồng trọt, chăn
nuôi, nghề phụ để sản xuất các nông sản (lương thực, nguyên liệu thô, tiền mặt)
trong nông trại với điều kiện nhất định (Wilem C.Beet, 1990).
Trên thế giới mô hình sử dụng đất đầu tiên là du canh (Shifiting cultivation),

đó chính là những hệ thống nông nghiệp trong đó đất đã được phát quang một thời
gian, ngắn hơn thời gian bỏ hoá (Conklin, 1957)...du canh được xem là phương thức
canh tác cổ xưa nhất, nó ra đời vào cuối thời kỳ đồ đá mới, khi con người đã tích
luỹ được những kiến thức ban đầu về tự nhiên. Tuy nhiên, về chiến lược phát triển
kinh tế bền vững, du canh không được nhiều Chính phủ và cơ quan quốc tế coi
trọng. Bởi du canh được coi như sự phí phạm về sức người, tài nguyên đất đai, là
nguyên nhân chính gây nên xói mòn và thoái hoá đất, dẫn đến tình trạng sa mạc hoá
ngày càng nghiêm trọng.
Sau du canh là sự ra đời của các phương thức Taugya (canh tác đồi núi) ở
vùng nhiệt đới. Hệ thống Taugya được nhiều người biết đến với nhiều tên gọi khác
nhau, ở một số nước các tên gọi được biểu thị cho sự đặc biệt của phương thức du
canh. Ở Indonexia người ta gọi là Taubansang, ở Philipin người ta gọi là Kaigining,
ở Malaixia người ta gọi là Ladang, ở Srilanka là China,... Theo Von Hesmen (1966,


4

1970) và King (1979), hầu hết các rừng trồng ở vùng nhiệt đới đều được hình thành
từ phương thức này, đặc biệt là ở Châu Á và Châu Phi [32]. Taugya được xem như
một dấu hiệu báo trước cho các phương thức sử dụng đất sau này (Nair, 1978). Hệ
thống canh tác Taugya được cải tiến, sửa đổi và dần được hoàn thiện, phổ biến trên
toàn thế giới và được coi như là một hệ thống sử dụng đất có hiệu quả kinh tế lẫn
môi trường sinh thái. Theo FAO, 1990 đến nay đã có 117 nước trên thế giới áp
dụng phương thức này.
Như vậy, có thể thấy du canh là một hệ thống canh tác, trong đó các loài cây
nông nghiệp, lâm nghiệp sinh trưởng kế tiếp nhau. Còn Taugya bao gồm sự kết hợp
đồng thời của cả hai loài cây trong giai đoạn đầu của quá trình hình thành rừng
trồng. Đứng trên quan điểm quản lý, sử dụng đất thì cả hai quá trình trên đều có sự
tương đồng là những cây nông nghiệp được sử dụng một cách tốt nhất bởi độ phì
của đất được tăng lên chính là nhờ thảm mục của cây gỗ.

Theo FAO, hiện nay dân số thế giới đã trên 6 tỷ người, đang sử dụng 1,476
tỷ ha đất nông nghiệp. Trong đó đất có độ dốc trên 10o (đất đồi, núi) là 937 triệu ha
chiếm 63,5% (Sheng, 1988; Hudson, 1988; Cent, 1989).
Trong quá trình sử dụng con người đã làm thoái hoá khoảng 1,4 tỷ ha đất.
Theo Norman Mayer (1993), hàng năm trên toàn cầu mất khoảng 11 triệu ha đất.
Theo FAO đến năm 1980 các loại hình quảng canh và du canh trên toàn thế giới
chiếm đến 45% diện tích đất nông nghiệp. Đây là nguyên nhân chủ yếu gây nên tình
trạng xói mòn, thoái hoá đất làm giảm năng suất cây trồng. Do những yêu cầu của
mình, con người ngày càng xâm hại đến rừng, để lấy lâm sản và đất canh tác đã làm
cho diện tích đất rừng ngày càng thu hẹp, đe doạ đến môi trường sống. Diện tích
trồng rừng chỉ bằng 1/10 diện tích rừng bị mất, riêng ở Châu Á Thái Bình Dương
trong thời gian từ năm 1976 – 1980 mất 9 triệu ha rừng. Cũng trong khoảng thời
gian này ở Châu Phi mất khoảng 37 triệu ha rừng, Châu Mỹ mất khoảng 18,4 triệu
ha rừng. Do tình trạng mất rừng mà hiện tượng xói mòn, sa mạc hóa ngày càng diễn
ra nghiêm trọng (có khoảng 875 triệu người phải sống ở những vùng sa mạc hóa).
Sa mạc hóa đã làm mất đi mỗi năm khoảng 26 tỉ đô giá trị sản phẩm mỗi năm, hiện


5

tượng xói mòn mỗi năm làm thế giới mất đi 12 tỉ tấn đất (ước tính mất khoảng 50
triệu tấn lương thực, hàng ngàn hồ chứa nước ở vùng nhiệt đới đang bị cạn dần làm
tuổi thọ của nhiều công trình thủy điện vùng này bị rút ngắn tuổi thọ)
Theo dự báo của Tổ chức dân số thế giới, nếu tốc độ tăng trưởng dân số diễn
ra như hiện nay thì đến năm 2025 dân số thế giới trên 8 tỷ người, tập trung ở các
nước đang phát triển và kém phát triển. Nếu mức tiêu thụ lương thực theo đầu
người vẫn giữ nguyên như hiện nay thì sự tăng dân số thế giới đòi hỏi phải tăng
năng suất lương thực thô thêm 2,6 tỷ tấn vào năm 2025, tức là tăng 57% so với năm
1990. Nhưng nếu khẩu phần được cải thiện cho thế giới người nghèo đói (ước tính 1
tỉ người) thì nhu cầu lương thực thế giới phải tăng gấp đôi, tức 4,5 tỉ tấn nữa[6].

Nếu bằng con đường tăng năng suất cây trồng (năng suất các hạt ngũ cốc phải tăng
trên 80% trong thời kỳ 1990-2025), theo kỷ yếu của FAO và tính toán của Norman
E.BlorLaug thì nguồn lương thực hạt ngũ cốc thế giới chỉ mới đạt 3,97 tỉ tấn vào
năm 2025[6]. Trên thực tế thì đất đai mở mang có hạn và không thể đáp ứng được
với tốc độ gia tăng dân số tự nhiên trên toàn cầu. Vì vậy, để thoả mãn nhu cầu về
lương thực ngày càng cao, con người tìm cách giải quyết theo một trong hai hướng
chính đó là: Tăng năng suất cây trồng bằng việc tận dụng tối đa tiềm năng của các
loại đất, thâm canh tăng vụ và mở rộng diện tích cach tác. Để làm được điều đó thì
công tác điều tra, khảo sát, phân loại và đánh giá đất đai để tìm ra giải pháp sử dụng
đất có hiệu quả nhất trên cơ sở quy hoạch sử dụng đất hợp lí, chuyển dịch cơ cấu
cây trồng vật nuôi và đặc biệt là theo hướng nghiên cứu đánh giá tổng hợp tiềm năng
của đất đai cho các mục tiêu sử dụng bền vững đã trở thành một yêu cầu cấp bách.
Công cuộc tìm giải pháp nhằm nâng cao sản lượng lương thực và khắc phục
tình trạng thiếu hụt về lương thực đã thúc đẩy các nhà khoa học nghiên cứu tìm biện
pháp về sử dụng đất đai màu mỡ. Một trong những thành công của quá trình nghiên
cứu đó là đã tìm ra Hệ thống kỹ thuật canh tác trên đất dốc (SALT) nhằm sử dụng
đất dốc bền vững và được trung tâm đời sống nông thôn Bapstic Mintanao Philippin
tổng kết, hoàn thiện và phát triển từ giữa những năm 1970 đến nay [34].


6

- Mô hình SALT 1 (Sloping Agriculture Land Techlonogy) với cơ cấu 25%
cây lâm nghiệp + 25% cây lưu niên (NN) + 50% cây nông nghiệp hàng năm.
- Mô hình SALT 2 (Simple Agro - Livestock Techlonog) với cơ cấu 40%
NN + 20% LN + 20% chăn nuôi + 20% làm nhà ở và chuồng trại.
- Mô hình SALT 3 ( Sustainable Agro – Forest Land Techlonogy) với cơ
cấu 40% NN + 60% LN
- Mô hình SALT 4 (Small Agro - Fruit Likelihood Techlonogy) với cơ
cấu 60% LN + 15% NN +25% cây ăn quả.

Các mô hình canh tác nông nghiệp bền vững trên đất dốc có sự phối hợp hài
hoà giữa cây nông nghiệp, lâm nghiệp và chăn nuôi gia súc đều dựa trên cơ sở có sự
nghiên cứu phân bố các loại đất một cách hợp lý, khoa học nhằm tạo ra hiệu quả
kinh tế cao nhất và vững nhất về mặt môi trường sinh thái.
Kết quả tổng kết các tài liệu nghiên cứu và thử nghiệm phương pháp quy
hoạch phát triển địa phương chỉ ra rất nhiều cách tiếp cận: Tiếp cận Sodeo của Peter
Hildebrand (Hildebrand,1981); Tiếp cận “nông thôn - trở lại – nông thôn” của
Robert (Rhoades Rhoades, 1892); Tiếp cận của Robert Chambers; Tiếp cận “chẩn
đoán và thiết kế của ICRAF” (Raintree); Tiếp cận của L.W. Harrington. nhìn chung
các phương pháp tiếp cận đi theo hai hướng chính là: Tiếp cận từ trên xuống (Top –
down approach) và tiếp cận từ dưới lên ( Bottom – up approach). Cách tiếp cận thứ
nhất ngày càng bộc lộ những hạn chế, kém hiệu quả khi không có sự tham gia của
cộng đồng và khi các chương trình thực hiện ở cấp vĩ mô. Cách tiếp cận thứ 2 được
hình thành khi các nhà xã hội học chứng minh rằng sự “không thể thiếu được” vai
trò của nông thôn trong quản lý tài nguyên cộng đồng (Robert Chambers). Từ đó
“Quy hoạch trên cơ sở cộng đồng ” (Community-based Planning) bắt đầu xuất hiện.
khi nghiên cứu hệ thống canh tác năm 1990, FAO đã xuất bản cuốn “Phát triển hệ
thống canh tác”. Công trình đã chỉ rõ những ưu thế và hạn chế của 2 phương pháp
tiếp cận [34].
Từ cuối thập kỷ 70 nhiều nhà nghiên cứu đã quan tâm phát triển các phương
pháp thu thập thông tin cho quy hoạch với các nhóm thông tin chính như: Khí hậu,


7

độ dốc, địa mạo, thổ nhưỡng gồm cả thủy văn, đất, nước, tài nguyên nhân tạo như
hệ thống tưới tiêu, thảm thực vật. Các phương pháp điều tra đánh giá cùng tham gia
như đánh giá nhanh nông thôn (RRA), đánh giá nông thôn có sự tham gia (PRA),
phương pháp quá trình sáng tạo ( Creative Process), đặc biệt phương pháp phân tích
các hệ thống canh tác cho quy hoạch sử dụng đất vi mô được nghiên cứu rộng rãi.

Những nghiên cứu, thử nghiệm các phương pháp RRA vào thập kỷ 80 và PRA vào
đầu thập kỷ 90 trong phát triển nông thôn và kế hoạch sử dụng đất được thực hiện
trên 30 nước phát triển (Robert Chambers, 1994) đã cho thấy ưu thế của phương
pháp này trong quy hoạch. Một số kết quả thử nghiệm phân tích hệ thống canh tác
tại Châu Âu, Châu Phi và Nam Mỹ đã chứng minh hệ thống canh tác là công cụ
trong quy hoạch sử dụng đất cấp địa phương. LEFSA ( Land Evaluation and
Farming System Analysis) là phương pháp kết hợp giữa đánh giá đất đai và phân
tích hệ thống canh tác cho lập kế hoạch sử dụng đất cấp vi mô. Luning (1990),
Anaman (1994) và một số tác giả khác đã nghiên cứu và áp dụng LEFSA tại Thái
Lan. Tác giả Erwin, 1990 đã phân tích hệ thống canh tác là công cụ cho phân tích
các trở ngại trong hệ thống nông trại hộ gia đình, đề xuất mục tiêu quy hoạch, xác
định các kiểu sử dụng đất hiện tại và phương án sử dụng đất, đánh giá phương án sử
dụng đất khác nhau nhằm chọn ra phương án tốt nhất.
Những kết quả phân tích hệ thống canh tác xác nhận rằng phân tích hệ thống
canh tác là một công cụ của quy hoạch, lập kế hoạch sử dụng đất nông lâm nghiệp
cấp địa phương. Năm 1990 tổ chức FAO đã xuất bản cuốn Phát triển hệ thống canh
tác (Farming system development)[34]. Trong đó đã khái quát phương pháp tiếp
cận nông thôn trước đây là phương pháp tiếp cận một chiều từ trên xuống. Qua
nghiên cứu và thực tiễn đã đưa ra phương pháp tiếp cận mới nhằm phát triển các hệ
thống trang trại và cộng đồng nông thôn trên cơ sở bền vững.
1.1.2. Những nghiên cứu liên quan đến sử dụng đất cấp vi mô có sự tham gia
của người dân.
Vấn đề quy hoạch đất có sự tham gia của người dân đã được nhiều nhà khoa
học trên thế giới, trong nước nghiên cứu và công bố kết quả:


8

- Năm 1995, nhóm chuyên gia quốc tế về quy hoạch sử dụng đất được tổ
chức FAO thành lập nhằm xây dựng một quy trình quy hoạch sử dụng đất với 4 câu

hỏi:
1. Các vấn đề nào đang tồn tại và mục tiêu của quy hoạch là gì?
2. Có các phương án sử dụng đất nào đang tồn tại?
3. Phương án nào là tốt nhất?
4. Có thể vận dụng vào thực tế như thế nào?
- Tại hội thảo giữa trường Đại học lâm nghiệp Việt Nam với Trường tổng
hợp Kỹ thuật Dresden, vấn đề quy hoạch sử dụng đất có sự tham gia của người dân
đã được Holm Uibig đề cập khá đầy đủ và toàn diện. Tài liệu đã phân tích một cách
đầy đủ về mối quan hệ giữa các loại hình canh tác có liên quan như: Quy hoạch
rừng, vấn đề phát triển nông thôn, quy hoạch sử dụng đất, phân cấp hạng đất,
phương pháp tiếp cận mới trong quy hoạch sử dụng đất.
- Tại hội thảo quốc tế Việt Nam năm 1998 về vấn đề quy hoạch sử dụng đất
cấp làng bản đã được FAO đề cập khá chi tiết cả về mặt khái niệm lẫn sự tham gia
trong việc đề xuất các chiến lược quy hoạch sử dụng đất và giao đất cấp làng bản [6]
Trong tài liệu hội thảo VFC – TV dresden, 1998 của Dr. Habil Holm Uibrig
associate Selection concerus for Viet Nam, tác giả đề cập tới:
- Quy hoạch rừng
- QHSDĐ
- Phân cấp hạng đất
- Phương pháp tiếp cận mới trong QHSDĐ
Cũng trong chương trình hội thảo quốc tế tại Việt Nam (1998), tài liệu hội
thảo về QHSDĐ của FAO đã đề cập một cách chi tiết khái niệm sự tham gia và đề
xuất các chiến lược QHSDĐ và giao đất, về cơ bản chiến lược nêu lên:
- Sự tham gia của người dân trong hoạt động QHSDĐ và giao đất.
- Điều tra ranh giới làng, khoanh vẽ đất đang sử dụng, điều tra rừng và xây
dựng bản đồ đất.
- Thu thập số liệu và phân tích


9


- QHSDĐ và giao đất
- Xác định đất canh tác nông nghiệp
- Sự tham gia của người dân trong hợp đồng (khế ước) và chuyển nhượng đất
nông – lâm nghiệp.
- Mở rộng quản lý và sử dụng đất
- Kiểm tra và đánh giá
1.1.3. Những kết luận rút ra từ kinh nghiệm của thế giới
Từ các tài liệu nghiên cứu và kinh nghiệm quy hoạch sử dụng đất trên thế
giới cho phép rút ra một số khái niệm sau:
- Mặc dù đã có nhiều nghiên cứu và thử nghiệm về quy hoạch, phương pháp
chuyển giao sử dụng đất song nhìn chung các phương pháp đều phục vụ mục tiêu
phát triển kinh tế, chưa quan tâm tới lợi ích của người dân cũng như vấn đề đang
nóng bỏng hiện nay là đảm bảo an toàn sinh thái theo hướng phát triển bền vững
- Việt Nam có thể áp dụng những thành tựu nghiên cứu về quy hoạch sử
dụng đất trên thế giới song phải thực hiện một cách linh hoạt cho phù hợp với hoàn
cảnh cụ thể đối với từng cộng đồng nông thôn Việt Nam. Quy hoạch phát triển nông
lâm nghiệp phải dựa trên nền tảng là quy hoạch sử dụng đất, kết hợp quy hoạch từ
trên xuống bằng các định hướng chiến lược và ưu tiên phạm vi cùng với nhu cầu
của cộng đồng thông qua quy hoạch phát triển và xây dựng kế hoạch cấp thôn bản.
- Phương pháp cùng tham gia, phân tích hệ thống canh tác cần được vận
dụng vào đặc điểm kinh tế, văn hóa, xã hội và thể chế chính sách của Việt Nam.
- Hệ thống canh tác trên đất dốc, quan điểm sử dụng đất bền vững là những
giải pháp quan trọng và là cơ sở cho quy hoạch sử dụng đất cấp vi mô.
1.2. Ở Việt Nam
1.2.1. Một số nghiên cứu về cơ sở lý luận và thực tiễn của QHSDĐ
Ở Việt Nam những hiểu biết về nghiên cứu đất đai, quy hoạch sử dụng đất
được bắt đầu từ rất sớm. Từ thế kỷ 15, Lê Quý Đôn đã tổng kết kinh nghiệm của
mình về canh tác nông nghiệp trong “Vân Đài loại ngữ” khuyên nông dân áp dụng



10

luân canh cây họ đậu nhằm giúp người dân đạt năng suất cao nhất trong sản xuất
nông nghiệp.
Trong thời kỳ Pháp thuộc, các công trình nghiên cứu đánh giá và quy hoạch
sử dụng đất đã được các nhà khoa học Pháp nghiên cứu phát triển với quy mô rộng
lớn.
- Giai đoạn 1955 – 1975, công tác điều tra phân loại đã được tổng hợp một
cách có hệ thống trong phạm vi toàn miền Bắc. Nhưng đến sau 1975 các số liệu
nghiên cứu phân loại đất mới được thống nhất. Xung quanh chủ đề phân loại đất đã
có nhiều công trình khác triển khai thực hiện trên các vùng sinh thái (Ngô Nhật
Tiến, 1986; Đỗ Đình Sâm, 1994,...). Tuy nhiên, những công trình nghiên cứu trên
chỉ mới dừng lại ở mức độ nghiên cứu cơ bản, thiếu biện pháp đề xuất cần thiết cho
việc sử dụng đất, công tác điều tra phân loại đã không gắn liền với công tác sử dụng
đất. Những thành tựu về nghiên cứu đất đai trong giai đoạn trên là cơ sở quan trọng
góp phần vào việc bảo vệ, cải tạo, quản lý và sử dụng đất đai một cách có hiệu quả
trong cả nước.
Ở nước ta vấn đề QHSDĐ cấp vi mô có sự tham gia của người dân mới được
nghiên cứu và ứng dụng trong những năm gần đây. Cấp vi mô thực chất đã được đề
cập trong nhiều công trình nghiên cứu ở các mức độ khác nhau, cho đến nay những
nghiên cứu đó vẫn còn hết sức tản mạn và chưa có sự phân tích tổng hợp thành cơ
sở lý luận để có thể áp dụng vào thực tiễn. Công trình “Sử dụng đất tổng hợp và bền
vững”của Nguyễn Xuân Quát (1996) [22] đã phân tích tình hình sử dụng đất đai
cũng như mô hình sử dụng đất bền vững, mô hình khoanh nuôi và phục hồi rừng ở
Việt Nam, những điều kiện cần biết về đất đai. Đồng thời đề xuất tập đoàn cây
trồng thích hợp cho các mô hình sử dụng đất tổng hợp bền vững.
Tài liệu “Đất rừng Viêt Nam”, Nguyễn Ngọc Bình [1] đã đưa ra quan điểm
nghiên cứu và phân loại đất rừng trên cơ sở những đặc điểm cơ bản của đất rừng
Việt Nam.

Về luân canh, tăng vụ, trồng xen, trồng gối vụ để sử dụng hợp lý đất đai đã
được nhiều tác giả: Phạm Văn Chiểu, 1964, Bùi Huy Đáp, 1977; Vũ Tuyên Hoàng,


11

1987; Lê Trọng Cúc, 1971; Nguyễn Ngọc Bình, 1987; Bùi Quang Toản, 1991 đã đề
cập tới việc lựa chọn hệ thống cây trồng phù hợp trên đất dốc vùng đồi núi phía Bắc
Việt Nam.
Năm 1996, công trình “Quy hoạch sử dụng đất nông nghiệp ổn định ở vùng
trung du và miền núi nước ta”, Bùi Quang Toản đã đề xuất sử dụng đất nông nghiệp
vùng đồi núi và trung du. Hà Quang Khải, Đặng Văn Phụ (1997) trong chương trình
tập huấn hỗ trợ LNXH của Trường Đại học lâm nghiệp đã đưa ra khái niệm về hệ
thống sử dụng đất, đề xuất một số hệ thống và kỹ thuật sử dụng đất bền vững trong
điều kiện Việt Nam [11]. Trong đó các tác giả đã đi sâu phân tích về:
- Quan điểm về tính bền vững
- Khái niệm tính bền vững và phát triển bền vững
- Hệ thống sử dụng đất bền vững
- Kỹ thuật sử dụng đất bền vững
- Các chỉ tiêu đánh giá tính bền vững trong các hệ thống và kỹ thuật sử dụng
đất.
Nghiên cứu hệ thống canh tác ở nước ta được đẩy mạnh hơn từ sau khi đất
nước thống nhất. Tổng cục địa chính đã tiến hành quy hoạch đất đai 3 lần vào các
năm 1978, 1985 và 1994 [25]. Căn cứ vào điều kiện đất đai ngành lâm nghiệp đã
phân chia đất đai thành 5 vùng sinh thái.
Vấn đề hệ thống sinh thái và những quy định về quản lý sử dụng đất, cũng
như hệ thống quản lý đất các cấp được đề cập khá đầy đủ và chi tiết trong “Tóm tắt
báo cáo khảo sát đợt 1 về LNXH” nhóm luật và chính sách 1998 của Trường Đại
học lâm nghiệp [26]. Vấn đề hệ thống chính sách và những quy định về quản lý sử
dụng đất cũng như hệ thống quản lý sử dụng đất các cấp được đề cập khá đầy đủ và

chi tiết. Tài liệu tập huấn “Những quy định và chính sách về quản lý sử dụng đất “
của Trần Thanh Bình,1977 [2], Các chính sách có liên quan đến phát triển kinh tế
trang trại.
Vấn đề sử dụng đất đai gắn với việc bảo vệ độ phì nhiêu của đất và môi
trường ở vùng trung du miền núi phía Bắc Việt Nam, Lê Vĩ (1996) [30] đã nêu:


12

- Tiềm năng đất vùng trung du
- Hiện trạng sử dụng đất trung du
- Các kiến nghị về sử dụng đất bền vững
Quan điểm về vấn đề hệ thống và hệ thống sử dụng đất được đề cập trong
chương trình tập huấn dự án LNXH, Trường Đại học lâm nghiệp, các tác giả Hà
Quang Khải, Đặng Văn Phụ (1997) dựa trên quan điểm của hệ thống sử dụng đất
của FAO đã đề cập tới [34]:
- Lược sử về sử dụng đất
- Tình hình sử dụng đất ở nước ta hiện nay
- Những đặc điểm của hệ thống sử dụng đất
- Đánh giá hệ thống sử dụng đất
- Một số hệ thống sử dụng đất và cách tiếp cận
Qua việc nghiên cứu hệ thống nông nghiệp tại khu vực đồng bằng sông
Hồng, Đào Thế Tuấn 1989 [35] đã chỉ ra được vấn đề tồn tại, nguyên nhân của nó
và đề xuất các mục tiêu, giải pháp.
Trên cơ sở tổng hợp các luận điểm về các công trình nghiên cứu trong và
ngoài nước các tác giả Trần Văn Diễn, Phạm Tiến Dũng, Phạm Chí Thành, Trần
Đức Viên (1993) [36] đã xây dựng giáo trình hệ hống nông nghiệp. Ngoài phần hệ
thống hóa nông nghiệp, các tác giả đã đề xuất chiến lược phát triển, dự kiến cấu trúc
và thứ bậc hệ thống nông nghiệp, công trình hỗ trợ đắc lực cho công tác nông
nghiệp trên cả 2 phương diện lý luận và thực tiễn.

Năm 1994, Tổng cục địa chính xây dựng quy trình quy hoạch sử dụng đất
giai đoạn 1995 – 2000 trên quy mô cả nước. Trong đó, việc lập kế hoạch ra đất
nông nghiệp, nông nghiệp có rừng để sử dụng vào mục đích khác cũng được đề cập
tới [25]. Năm 1996, tác giả Trần An Phong nghiên cứu các mô hình sử dụng đất dốc
đã đi đến kết luận, biện pháp sử dụng đất có hiệu quả là bố trí một chế độ thâm cách
hợp lý, triệt để lợi dụng nước trời, áp dụng các biện pháp canh tác nhằm bảo vệ, giữ
gìn độ ẩm tối đa trong các lớp đất đảm bảo cây trồng phát triển tốt [18]. Năm 1997,
chương trình tập huấn dự án hỗ trợ LNXH của trường ĐH Lâm Nghiệp đã đề cập


13

đến các phương pháp tiếp cận có sự tham gia của người dân. Các tác giả: Lý Văn
Trọng, Nguyễn Bá Ngãi, Nguyễn Nghĩa Biên và Trần Ngọc Bình [23] đã phối hợp
với các chuyên gia trong và ngoài nước biên soạn tài liệu với những vấn đề chính sau:
- Các khái niệm và phương pháp tiếp cận trong quá trình tham gia.
- Các công cụ của phương pháp đánh giá nông thôn có sự tham gia của người
dân.
- Tổ chức quá trình đánh giá nông thôn
- Thực hành tổng hợp
Để làm cơ sở cho chiến lược sử dụng đất đai hợp lý có hiệu quả theo quan
điểm sinh thái và phát triển lâu dài, Nguyễn Huy Phồn (1997), trong luận án phó
tiến sỹ khoa học nông nghiệp đã tiến hành đánh giá các loại hình đất chủ yếu trong
nông-lâm nghiệp góp phần định hướng sử dụng đất vùng trung tâm của miền núi
Bắc bộ Việt Nam. Trên cơ sở đánh giá một cách tương đối có hệ thống về đất đai và
hiện trạng sử dụng đất nông – lâm nghiệp, tác giả đã xây dựng bản đồ thích nghi sử
dụng đất tỷ lệ 1/250000 đối với một số loại hình sử dụng đất bền vững phục vụ các
mục tiêu kinh tế và môi trường cho toàn vùng [20]
Tài liệu tập huấn về QHSDĐ và giao đất lâm nghiệp có sự tham gia của
người dân tác giả Trần Hữu Viên (1997) [28] đã xây dựng tài liệu tập huấn về quy

hoạch sử dụng đất và giao đất nông nghiệp có sự tham gia của người dân đã kết hợp
phương pháp quy hoạch sử dụng đất trong nước và của một số dự án quốc tế đang
áp dụng tại một số vùng dự án tại Việt Nam. Trong đó tác giả đã trình bày khái
niệm và nguyên tắc chỉ đạo QHSDĐ và giao đất cho người dân tham gia.
Trong tài liệu hướng dẫn công tác quy hoạch sử dụng đất và giao đất lâm
nghiệp có sự tham gia của người dân, Đoàn Diễm (1997) [4] đã tập trung vào các
chủ đề sau:
- Phương pháp quy hoạch sử dụng đất và giao đất lâm nghiệp ở Việt Nam
- Phương pháp quy hoạch sử dụng đất và giao đất lâm nghiệp của dự án
GCP/VIE/024/ITA.


14

- Những tồn tại của quy hoạch sử dụng đất, giao đất lâm nghiệp ở Việt Nam
và thế giới.
- Kiến nghị phương pháp quy hoạch sử dụng đất và giao đất lâm nghiệp đơn
giản có sự tham gia của người dân.
Tác giả Ngô Đình Quế, Đinh Thanh Giang, năm 2001 nghiên cứu về mô
hình canh tác nương rẫy hợp lý, nhằm nâng cao năng suất cây trồng, duy trì sản suất
của đất nương rẫy, thúc đẩy quá trình phục hồi độ phì đất bỏ hóa. Tác giả cũng kết
luận để áp dụng các mô hình cải tiến vào sản xuất cần phải sử dụng tổng hợp các biện
pháp kỹ thuật tiên tiến, các giống cây trồng mới có năng suất cao, phẩm chất tốt.
1.2.2. Một số nghiên cứu về việc vận dụng phương pháp quy hoạch sử dụng đất
vào thực tiễn ở Việt Nam
Trong những năm gần đây việc nghiên cứu và thử nghiệm về quy hoạch sử
dụng đất và giao đất lâm nghiệp được tiến hành với quy mô rộng rãi. Việc nghiên
cứu đầu tiên được tiến hành tại các xã: Tử Nê, huyện Tân Lạc, xã Hang Kia, Pà Cò
huyện Mai Châu, tỉnh Hòa Bình vào năm 1993 do Dự án đổi mới chiến lược pháp
triển lâm nghiệp thực hiện. Sau khi tổng hợp những bài học kinh nghiệm từ dự án

cho thấy công tác quy hoạch sử dụng đất được coi là nội dung chính cần được thực
hiện trước khi giao đất trên cơ sở tôn trọng tập quán nương rẫy cố định, lấy xã làm
đơn vị để lập kế hoạch và giao đất, có sự tham gia tích cực của người dân, Già
Làng, Trưởng bản và chính quyền xã. Cần phải có kế hoạch sử dụng chi tiết, tránh
được các mâu thuẫn của cộng đồng phát sinh sau quy hoạch.
Chương trình phát triển nông thôn miền núi Việt Nam – Thuỵ Điển giai đoạn
1996 – 2001 trên phạm vị năm tỉnh: Lào Cai, Yên Bái, Hà Giang, Tuyên Quang và
Phú Thọ đã tiến hành thử nghiệm công tác quy hoạch phát triển nông lâm nghiệp
cấp xã trên cơ sở kế hoạch phát triển cấp thôn bản và hộ gia đình. Công tác quy
hoạch sử dụng đất trong giai đoạn này đã căn cứ vào nhu cầu và nguyện vọng của
người sử dụng đất với cách tiếp từ dưới lên tạo ra kế hoạch có tính khả thi cao hơn.
Năm 1996, tác giả Vũ Văn Mễ và Desloges đã thử nghiệm phương pháp quy
hoạch sử dụng đất có sự tham gia của người dân Quảng Ninh [14] đã đề suất 6


15

nguyên tắc và các bước cơ bản trong quy hoạch sử dụng đất trong đó cấp xã đóng
vai trò phát triển trong phương pháp quy hoạch. Các nguyên tắc đó là:
- Kết hợp hài hòa giữa ưu tiên của Quốc gia và nhu cầu, nguyện vọng của
người dân địa phương
- Tiến hành trong khuôn khổ luật pháp hiện hành và các nguồn lực hiện có
tại địa phương.
- Đảm bảo tính công bằng, chú ý đến cộng đồng dân tộc miền núi, nhóm
người nghèo và vai trò của phụ nữ.
- Đảm bảo phát triển bền vững
- Đảm bảo nguyên tắc cùng tham gia
- Kết hợp hướng tới mục tiêu phát triển cộng đồng.
Khi thử nghiệm các phương pháp này cho các tỉnh Thừa Thiên Huế, Gia Lai,
Sa Đéc tác giả đã cho rằng quy hoạch cấp xã phải dựa trên tình trạng sử dụng đất

hiện tại, tiềm năng sản xuất của đất, các quy định của Nhà nước và nhu cầu, nghĩa
vụ của nhân dân. Xem xét mọi vấn đề liên quan đến đất đai và sử dụng tài nguyên.
Cho thấy cách tiếp cận tổng hợp và toàn diện này phù hợp với xu thế chung của thế
giới hiện nay về áp dụng các phương pháp quy hoạch tổng hợp.
Trong 2 năm 1996, 1997 trong quá trình triển khai dự án quản lý nguồn nước
hồ Yên Lập có sự tham gia của người dân tại huyện Hoành Bồ, tỉnh Quảng Ninh,
tác giả thử nghiệm phương pháp lập kế hoạch có sự tham gia của người dân để quy
hoạch lâm –nông nghiệp cho 3 xã: Bằng Cả, Quảng La và Dân Chủ, phương pháp
PRA được sử dụng để quy hoạch lâm – nông nghiệp và xây dựng dự án cấp xã cho
5 lĩnh vực: Quy hoạch lâm nghiệp, cây ăn quả, cho quản lý rừng phòng hộ, quy
hoạch trồng trọt, quy hoạch chăn nuôi và đồng cỏ, kế hoạch phát triển thủy lợi lập
kế hoạch mạng lưới tín dụng thôn bản hỗ trợ dự án xã. Sau 3 năm thực hiện thấy
bản quy hoạch phù hợp với tình hình hiện tại là cơ sở vững chắc cho lập kế hoạch
tác nghiệp hàng năm. Tuy nhiên, những hạn chế do thiếu nghiên cứu về đất, phân
tích hệ thống canh tác dẫn đến việc lựa chọn cây trồng chưa hợp lý. Kinh nghiệm


16

này đang được đúc rút cho giai đoạn tiếp theo của dự án được triển khai trên 4 xã
mới.
Trong 2 năm 1996, 1997 trong quá trình triển khai dự án quản lý nguồn nước
hồ Yên Lập có sự tham gia của người dân tại huyện Hoành Bồ, tỉnh Quảng Ninh,
tác giả thử nghiệm phương pháp lập kế hoạch có sự tham gia của người dân để quy
hoạch lâm –nông nghiệp cho 3 xã: Bằng Cả, Quảng La và Dân Chủ, phương pháp
PRA được sử dụng để quy hoạch lâm – nông nghiệp và xây dựng dự án cấp xã cho
5 lĩnh vực: Quy hoạch lâm nghiệp, cây ăn quả, cho quản lý rừng phòng hộ, quy
hoạch trồng trọt, quy hoạch chăn nuôi và đồng cỏ, kế hoạch phát triển thủy lợi lập
kế hoạch mạng lưới tín dụng thôn bản hỗ trợ dự án xã[10]. Đây là tài liệu sửa đổi
lần thứ 2 có nhiều bổ sung vào tài liệu năm 1994, nó đáp ứng phần nào về hướng

dẫn cơ bản, về nội dung và nguyên tắc. Những yêu cầu về chuyên môn và phương
pháp trong hướng dẫn này còn mang nhiều phương pháp điều tra truyền thống phù
hợp với điều tra rừng trước đây. Bản hướng dẫn này cần hoàn thiện theo hướng
dừng lại ở những nguyên tắc và phương pháp cơ bản, không nên có bản hướng dẫn
chi tiết dẫn đến ngộ nhận rằng việc quy hoạch lâm nông nghiệp cấp địa phương theo
một chu trình cứng.
Chương trình hợp tác Việt - Đức, về phát triển lâm nghiệp xã hội Sông Đà
năm 1997 ở các tỉnh miền núi phía Bắc Việt Nam đã nghiên cứu và thử nghiệm
phương pháp quy hoạch sử dụng đất và giao đất lâm nghiệp tại 2 xã của huyện Yên
Châu tỉnh Sơn La và huyện Tủa Chùa tỉnh Lai Châu (nay là tỉnh Điện Biên) trên cơ
sở hướng dẫn của Chi cục Kiểm lâm với cách làm 6 bước đã lấy cấp thôn bản làm
đơn vị quy hoạch và giao đất lâm nghiệp và áp dụng tiếp cận LNXH đối với cộng
đồng dân tộc vùng cao.
Kết quả nghiên cứu “Đề tài” của Nguyễn Bá Ngãi [15] cùng với nhóm tư vấn
của dự án khu vực Lâm nghiệp Việt Nam – ADB đã nghiên cứu và thử nghiệm
phương pháp quy hoạch và xây dựng tiểu dự án cấp xã. Mục tiêu là đưa ra một
phương pháp quy hoạch lâm – nông nghiệp cấp xã có sự tham gia của người dân để


17

xây dựng tiền Dự án lâm – nông nghiệp cho 50 xã của 4 tỉnh: Thanh Hoá, Gia Lai,
Phú Yên và Quảng Trị [19].
Trong đầu những năm 1990, vấn đề quy hoạch sử dụng đất nông lâm nghiệp
được nhiều tác giả đề cập và nghiên cứu. Nghiên cứu của Reichenberg, Bo (1992)
[24] cho rằng Việt Nam chưa có quy hoạch sử dụng đất cấp vi mô, được xây dựng
dựa trên cơ sở xem xét tất cả các khía cạnh của tất cả các ngành trong tương lai.
Trong giai đoạn 2000 - 2005, Dự án phát triển nông lâm Sơn La, Lai Châu
do Liên minh Châu Âu tài trợ bằng nguồn vốn ODA, Mục tiêu của dự án là cải
thiện an toàn lương thực ở khu vực miền núi phía Bắc Việt Nam thông qua việc sử

dụng bền vững và hữu ích nguồn tài nguyên thiên nhiên ở hai tỉnh Sơn La và Lai
Châu. Những hoạt động chính của dự án đó là: Quy hoạch sử dụng đất và giao đất,
quản lý rừng đầu nguồn và phân loại đất lâm nghiệp, cải thiện giống cây trồng trên
nương, cải tiến chăn nuôi, tăng cường dịch vụ khuyến nông và đào tạo.
Dự án phát triển nông thôn Cao Bằng, Bắc Cạn thực hiện các hoạt động quy
hoạch sử dụng đất nông lâm nghiệp, tăng cường kỹ năng nông lâm kết hợp cho 41
bản với 1.155 người tham gia bao gồm các kỹ thuật viên nông nghiệp, quản lý trồng
trọt và lập kế hoạch phát triển thôn bản, đồng thời phát triển được 612 mô hình ở
Bắc Cạn và 89 mô hình ở Cao Bằng.
Trong những năm gần đây, các chương trình và dự án nông lâm nghiệp như
dự án PAM, dự án trồng rừng Việt - Đức (KWF) tại Lạng sơn, Bắc Giang, Thanh
Hoá, Quảng Ninh….do GTZ tài trợ cũng đã sử dụng triệt để phương pháp đánh giá
nông thôn có sự tham gia. Về mặt lý luận, một số đề tài nghiên cứu của Đinh Văn
Đề, Nguyễn Hữu Tân, Nguyễn Bá Ngãi [19], Nguyễn Phúc Cường….cũng đã tiến hành ở
một số địa phương, có những đánh giá và kết quả có ý nghĩa thực tiễn nhất định.
Các nhà khoa học trong và ngoài nước đều cho rằng quan điểm quy hoạch sử
dụng đất nông lâm nghiệp cấp địa phương nên đi theo hướng sau:
- Tiến hành nghiên cứu khả năng chuyển từ quy hoạch nông lâm nghiệp chủ
yếu dựa trên chức năng sử dụng đất sang dựa trên tiềm năng đất đai.


18

- Rà soát và xem lại hệ thống chính sách nhằm hướng tới đa mục đích sử
dụng đất bằng đa dạng hoá các hoạt động sản xuất trong mỗi bản quy hoạch của
cộng đồng.
- Gắn 2 quá trình quy hoạch và giao đất và coi đó là hai bộ phận có quan hệ
chặt chẽ để làm cơ sở cho quy hoạch sử dụng đất nông lâm nghiệp ở mỗi địa
phương và cộng đồng.
- Nghiên cứu và thử nghiệm phương pháp cùng tham gia trong quá trình quy

hoạch, phát triển sản xuất nông lâm nghiệp, xác định và phân tích rõ các chủ thể
trong quy hoạch sử dụng đất nông lâm nghiệp cấp xã.
1.2.3. Những kết luận rút ra từ nghiên cứu và kinh nghiệm của Việt Nam
Đánh giá, phân tích các nghiên cứu và thử nghiệm về quy hoạch sử dụng đất
ở Việt Nam có thể rút ra một số kết luận sau:
Việt Nam đã có nghiên cứu khá đầy đủ về quy hoạch sử dụng đất cấp vĩ mô
song cấp vi mô còn nhiều hạn chế, mới nghiên cứu chủ yếu đối tượng đất phục vụ
cho sản xuất mà chưa chỉ ra được vai trò quan trọng của môi trường sinh thái.
Phương pháp quy hoạch còn nhiều hạn chế và thiếu thống nhất, phương pháp
quy hoạch có sự tham gia của người dân đã được áp dụng ở một số địa phương
nhưng chưa tổng kết xác định đối tượng cụ thể tham gia và vai trò của họ.
Thiếu sự gắn kết giữa quy hoạch nông lâm nghiệp và các ngành (Giao thông,
thuỷ lợi, xây dựng….). Đây là nguyên nhân cơ bản dẫn đến mâu thuẫn và chồng
chéo trong các nội dung quy hoạch sử dụng đất. Các quy hoạch này thiếu tính dự
báo dài hạn nên nhiều bản quy hoạch phải liên tục bổ sung, điều chỉnh gây mất ổn
định trong chỉ đạo và quản lý.
Mâu thuẫn giữa một bên là cá nhân, hộ gia đình thiếu đất sản xuất với một
bên là các tổ chức lâm nghiệp của nhà nước được giao nhiều đất nhưng quản lý sử
dụng không hiệu quả.
Kết quả nghiên cứu về sử dụng đất dốc mới chỉ áp dụng cho đối tượng đất
sản xuất nơi người dân có trình độ canh tác khá cao, còn những nơi vùng sâu, vùng


×