BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PTNT
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LÂM NGHIỆP
--------------------------------
LÊ THỊ THANH MAI
NGHIÊN CỨU CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN LÀM CĂN CỨ
ĐỀ XUẤT PHƯƠNG ÁN QUY HOẠCH SỬ DỤNG ĐẤT PHÁT TRIỂN
SẢN XUẤT NÔNG LÂM NGHIỆP TẠI XÃ HỢP HÒA,
HUYỆN LƯƠNG SƠN, TỈNH HÒA BÌNH
LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC LÂM NGHIỆP
HÀ NỘI, 2010
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PTNT
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LÂM NGHIỆP
--------------------------------
LÊ THỊ THANH MAI
NGHIÊN CỨU CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN LÀM CĂN CỨ
ĐỀ XUẤT PHƯƠNG ÁN QUY HOẠCH SỬ DỤNG ĐẤT PHÁT TRIỂN
SẢN XUẤT NÔNG LÂM NGHIỆP TẠI XÃ HỢP HÒA,
HUYỆN LƯƠNG SƠN, TỈNH HÒA BÌNH
Chuyên ngành: Lâm học
Mã số: 60.62.60
LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC LÂM NGHIỆP
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
PGS.TS. Trần Hữu Viên
HÀ NỘI, 2010
1
ĐẶT VẤN ĐỀ
Đất đai - nguồn tài nguyên thiên nhiên vô cùng quý giá, một trong các
yếu tố cơ bản của một nền sản xuất xã hội - là tư liệu sản xuất đặc biệt, là địa
bàn dân cư phát triển dân sinh kinh tế xã hội (KTXH), bao gồm không gian tự
nhiên và không gian nhân văn. Các hoạt động sinh kế của con người có tác
động trực tiếp và gián tiếp lên đất đai. Vì vậy, sử dụng hợp lý đất đai là yêu
cầu cần thiết cho sự phát triển bền vững. Chỉ có quy hoạch sử dụng đất
(QHSDĐ) hợp lý, đất đai mới có thể đáp ứng được yêu cầu đó.
QHSDĐ là một hệ thống các biện pháp kinh tế, kỹ thuật và pháp chế
của Nhà nước về tổ chức sử dụng đất đầy đủ, hợp lý, có hiệu quả cao thông
qua việc phân phối và tái phân phối quỹ đất, tổ chức sử dụng đất như một tư
liệu sản xuất cùng với các tư liệu sản xuất khác gắn liền với đất và nâng cao
hiệu quả sử dụng đất, hiệu quả sản xuất xã hội, tạo điều kiện bảo vệ đất và
bảo vệ môi trường [20].
Vì vậy, việc tổ chức, quản lý sao cho phù hợp với từng địa bàn cụ thể,
đảm bảo sử dụng đất đai, tài nguyên hợp lý, có hiệu quả và bền vững, an toàn
sinh thái là nhiệm vụ của QHSDĐ. Muốn QHSDĐ hiệu quả, cần thực hiện từ
những đơn vị hành chính nhỏ nhất như cấp xã bởi cấp xã là đơn vị quản lý
hành chính nhỏ nhất trong hệ thống chính quyền, có vai trò quan trọng trong
ổn định KTXH và an ninh quốc phòng.
Tại các xã miền núi, sự đa dạng về văn hóa và trình độ sản xuất đã tạo
nên không gian nhân văn vô cùng đa dạng; các hoạt động sinh kế của người
dân địa phương có tác động không nhỏ vào không gian tự nhiên trên địa bàn
họ sinh sống, nhất là thông qua hoạt động sản xuất nông lâm nghiệp, các tác
động này càng trở nên rõ nét.
Mặc dù vậy, công tác QHSDĐ cấp xã hiện nay vẫn còn một số tồn tại
về phương pháp tiếp cận, công tác điều tra cơ bản, cơ sở thực tiễn của đất đai.
2
Do vậy, việc nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn làm căn cứ để xây
dựng phương án QHSDĐ, PTSX nông lâm nghiệp cho một xã là nội dung có
ý nghĩa thiết thực trong hoàn cảnh hiện nay.
Hợp Hòa là xã thuộc khu vực II miền núi của huyện Lương Sơn, tỉnh
Hòa Bình, có phần đông là người dân tộc Mường sinh sống từ lâu đời, việc sử
dụng đất đai của đại bộ phận nhân dân trong xã là nông lâm nghiệp theo
phong tục tập quán canh tác thuần nông lâu đời, thực tiễn sử dụng đất nông
lâm nghiệp còn manh mún và chưa đồng bộ. Bên cạnh đó, việc người dân
chưa có nhận thức đầy đủ về pháp luật đất đai, sử dụng đất theo phong tục, sở
thích và canh tác không đúng kỹ thuật đã ảnh hưởng không tốt đến hiệu quả
của SDĐ và môi trường. Vì thế, việc quy hoạch phân bổ lại quỹ đất trên địa
bàn xã sao cho vừa đáp ứng được yêu cầu KTXH, nâng cao đời sống nhân
dân và cân đối được nhu cầu sử dụng đất đai là hết sức cần thiết để đảm bảo
môi trường sinh thái và các nguồn tài nguyên được sử dụng bền vững.
Xuất phát từ những nhu cầu thực tiễn trên, đề tài: "Nghiên cứu cơ sở lý
luận và thực tiễn làm căn cứ đề xuất phương án quy hoạch sử dụng đất,
phát triển sản xuất nông lâm nghiệp tại xã Hợp Hòa, huyện Lương Sơn,
tỉnh Hòa Bình" được thực hiện.
Trong khuôn khổ của một luận văn tốt nghiệp, đề tài chỉ giới hạn ở việc
vận dụng cơ sở lý luận của QHSDĐ và nghiên cứu cơ sở thực tiễn cho việc đề
xuất phương án QHSDĐ, PTSX nông lâm nghiệp, PTSX kinh tế hộ gia đình
phù hợp với điều kiện tự nhiên, KTXH tại xã Hợp Hòa, huyện Lương Sơn,
tỉnh Hòa Bình.
3
Chương 1
TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
Trên thế giới và Việt Nam có nhiều công trình nghiên cứu về QHSDĐ,
PTSX nông lâm nghiệp. Mặc dù có các nghiên cứu ở các mức độ rộng hẹp
khác nhau nhưng những nội dung chủ yếu được các nhà khoa học quan tâm
chính là các yếu tố về phát triển bền vững (PTBV); các nghiên cứu này đều
hướng đến mục đích chung là SDĐ và PTSX nông lâm nghiệp đáp ứng được
các yêu cầu: Có hiệu quả về mặt kinh tế, lợi ích về xã hội, thích hợp về môi
trường sinh thái.
1.1. Trên thế giới
1.1.1. Quy hoạch vùng lãnh thổ
Quy hoạch vùng lãnh thổ là hệ thống các biện pháp xây dựng một cơ
cấu kinh tế hợp lý với cơ cấu đất đai và sử dụng có hiệu quả các nguồn tài
nguyên, các công trình KTXH, văn hóa, nguồn lao động, tăng cường xây
dựng cơ sở hạ tầng, phát triển lực lượng sản xuất để phát triển kinh tế, xây
dựng nông thôn mới và xã hội mới. Quy hoạch vùng lãnh thổ là khoa học về
quản lý tài nguyên mang cả 3 tính chất kinh tế, kỹ thuật và pháp lý; là cơ sở
để lập dự án đầu tư phát triển kinh tế và xây dựng nông thôn mới [19]. Trên
thế giới, đã có nhiều nước tiến hành quy hoạch vùng lãnh thổ với các cách
thức khác nhau, tiêu biểu là các quốc gia Bungari, Pháp, Thái Lan.
1.1.1.1. Quy hoạch vùng ở Pháp
Các hoạt động sản xuất trong quy hoạch vùng ở Pháp theo các hướng
sau: Sản xuất nông nghiệp theo các phương thức trồng trọt gia đình, công
nghiệp với các mức thâm canh cao độ, thâm canh trung bình và cổ điển; hoạt
động khai thác rừng; hoạt động đô thị, khai thác chế biến; nhân lực theo các
dạng thuế thời vụ, các loại lao động nông - lâm nghiệp; cân đối xuất nhập, thu chi
và các cân đối khác. Quy hoạch nhằm mục đích khai thác lãnh thổ theo hướng
tăng thêm giá trị sản phẩm của xã hội.
4
1.1.1.2. Quy hoạch vùng ở Bungari
Mục đích của quy hoạch vùng lãnh thổ ở quốc gia này là: Sử dụng hiệu
quả nhất lãnh thổ của đất nước, lãnh thổ là môi trường thiên nhiên phải bảo
vệ; lãnh thổ thiên nhiên không có vùng nông thôn, sự tác động của con người
vào đây rất ít; lãnh thổ là môi trường thiên nhiên có mạng lưới nông thôn, ít
có sự can thiệp của con người, thuận lợi cho kinh doanh về du lịch; lãnh thổ là
môi trường nông nghiệp có mạng lưới nông thôn và có sự can thiệp của con
người, thuận lợi cho sản xuất nông nghiệp; lãnh thổ là môi trường nông
nghiệp không có mạng lưới nông thôn nhưng có sự tác động của con người;
lãnh thổ là môi trường công nghiệp với sự can thiệp tích cực của con người.
- Nội dung của quy hoạch vùng lãnh thổ Bungari là: Cụ thể hóa, chuyên
môn hóa sản xuất nông nghiệp; phối hợp giữa sản xuất công nghiệp và sản
xuất nông nghiệp theo ngành dọc; xây dựng các mạng lưới công trình phục vụ
công cộng và sản xuất; tổ chức đúng đắn mạng lưới khu dân cư và phục vụ
công cộng liên hợp trong phạm vi hệ thống nông thôn; bảo vệ môi trường
thiên nhiên, tạo điều kiện tốt cho nhân dân lao động, sinh hoạt.
1.1.1.3. Quy hoạch vùng ở Thái Lan
Công tác quy hoạch vùng lãnh thổ được chú ý từ những năm 1970. Hệ
thống quy hoạch được tiến hành theo 3 cấp: Quốc gia, vùng, địa phương.
Trong đó vùng (Region) được coi như là một á miền (Supdivision) của đất
nước, đó là điều cần thiết để phân chia quốc gia thành các á miền theo các
phương diện khác nhau như : Phân bố dân cư, địa hình, khí hậu…
- Quy mô diện tích của vùng phụ thuộc vào diện tích của đất nước.
- Quy hoạch phát triển vùng tiến hành ở cấp á miền được xây dựng theo
2 cách sau: Sự bổ sung của kế hoạch Nhà nước được giao cho vùng, những
mục tiêu và hoạt động được xác định theo cơ sở vùng. Quy hoạch vùng được
giải quyết căn cứ vào đặc điểm của vùng, các kế hoạch vùng được đóng góp
vào xây dựng kế hoạch quốc gia.
5
1.1.2. Quy hoạch lâm nghiệp
Sự phát triển của quy hoạch lâm nghiệp gắn liền với sự phát triển kinh tế
tư bản chủ nghĩa.
Đầu thế kỷ XVIII, phạm vi quy hoạch lâm nghiệp mới chỉ giải quyết
việc “Khoanh khu chặt luân chuyển” chia đều cho từng năm theo trữ lượng
hoặc diện tích phục vụ cho phương thức kinh doanh rừng chồi, chu kỳ khai
thác ngắn.
Sau Cách mạng công nghiệp (thế kỷ IXX), "Phương thức kinh doanh
rừng hạt" với chu kỳ khai thác dài và phương thức “Chia đều” của Hartig ra
đời thay thế cho các phương pháp trước đó. Hartig đã chia đều chu kỳ khai
thác thành nhiều thời kỳ lợi dụng, trên cơ sở đó khống chế lượng chặt hàng
năm. Đến năm 1816, xuất hiện "Phương thức luân kỳ lợi dụng" của H. Cotta,
Cotta chia chu kỳ khai thác thành 20 thời kỳ lợi dụng và cũng lấy đó để khống
chế lượng chặt hàng năm. Sau đó phương pháp “Bình quân thu hoạch” ra đời
và đến cuối thế kỷ XIX, xuất hiện phương pháp “Lâm phần kinh tế” của
Judeich.
Phương pháp “Bình quân thu hoạch” và “Cấp tuổi” chịu ảnh hưởng
của “Lý luận rừng tiêu chuẩn”, tức là rừng phải có kết cấu tiêu chuẩn về tuổi
cũng như về diện tích, trữ lượng, vị trí và đưa các cấp tuổi cao vào diện tích
khai thác. Hiện nay, phương pháp kinh doanh rừng này được dùng phổ biến ở
các nước có tài nguyên rừng phong phú. Còn phương pháp “Lâm phần kinh
tế” và phương pháp “Lâm phần” không căn cứ vào tuổi rừng mà dựa vào đặc
điểm cụ thể của mỗi lâm phần để tiến hành phân tích, xác định sản lượng và
biện pháp kinh doanh. Cũng từ phương pháp này, còn phát triển thành
“Phương pháp kinh doanh lô” và “Phương pháp kiểm tra” [21].
1.1.3. Quy hoạch phát triển nông lâm nghiệp (QHNLN)
1.1.3.1. Lược sử QHNLN
Ngay từ thế kỳ XVII, QHNLN đã được xác nhận như một chuyên
ngành bắt đầu từ các quy hoạch vùng. Vào thời gian này, quy hoạch quản lý
6
rừng và lâm sinh ở Châu Âu được xem như một lĩnh vực phát triển ở mức cao
trên cơ sở QHSDĐ (Olschowy, 1975).
Đến thế kỳ XIX, với các khái niệm "lập địa hợp lý", "năng suất sử
dụng" (Weber, 1921) đã mở đầu thời kỳ quy hoạch phát triển nông nghiệp
trên cơ sở QHSDĐ theo địa lý với vùng sản xuất là nền tảng của quy hoạch
vùng cho sản xuất lâm nông nghiệp.
Tại châu Âu, vào thập kỷ 30 và 40 của thế kỷ XX, quy hoạch ngành giữ
vai trò lấp chỗ trống của quy hoạch vùng được xây dựng vào đầu thế kỷ. Năm
1946 Jacks G.V đã cho ra đời chuyên khảo đầu tiên về phân loại đất đai với
tên “Phân loại đất đai cho QHSDĐ”. Đây cũng là tài liệu đầu tiên đề cập đến
đánh giá khả năng của đất cho QHSDĐ [8]
Năm 1966, Hội đất học và Hội nông học Mỹ cho ra đời chuyên khảo về
hướng dẫn điều tra đất, đánh giá khả năng của đất và ứng dụng trong
QHSDĐ. Ngoài ra còn một số chuyên khảo khác cũng ra đời đề cập đến “môi
trường con người” trong đánh giá khả năng thích hợp của đất cho quy hoạch
nông nghiệp và lâm nghiệp [8].
Tại Đức, tài liệu “khái niệm về SDĐ khác nhau” đã được xuất bản bởi
Haber (1972) được coi là lý thuyết sinh thái về QHSDĐ dựa trên quan điểm
về mối quan hệ hợp lý giữa tính đa dạng của hệ sinh thái cũng như sự ổn định
của chúng với năng suất và khả năng điều chỉnh.
Từ năm 1967 Hội đồng nông nghiệp Châu Âu đã phối hợp với tổ chức
FAO tổ chức nhiều hội nghị về Phát triển nông thôn và QHSDĐ. Các hội nghị
đều khẳng định rằng quy hoạch các ngành sản xuất như nông nghiệp, lâm
nghiệp, chế biến nhỏ… phải dựa trên cơ sở quy hoạch đất đai. Năm 1969,
1975 các chuyên gia tư vấn họp tại Rome (Italia) và Geneve (Thụy Sỹ) để
thảo luận về phương pháp luận quy hoạch nông thôn [8].
7
1.1.3.2. Các nghiên cứu về phương pháp QHNLN cấp địa phương
Phương pháp QHNLN cấp địa phương có thể được khái quát bằng 2
cách tiếp cận chủ yếu: Tiếp cận từ trên xuống (Top –down Approach) và tiếp
cận từ dưới lên (Botton-up Approach). Cách tiếp cận thứ nhất được hình
thành từ khi có quy hoạch ra đời cho đến nay. Cách tiếp cận thứ hai được hình
thành khi các nhà xã hội học chứng minh rằng cộng đồng nông thôn có vai trò
không thể thiếu trong lập kế hoạch và quản lý tài nguyên của cộng đồng. Từ
đây, thuật ngữ “Quy hoạch dựa vào cộng đồng” (community-based planning)
bắt đầu xuất hiện [8].
Gilmour (1997) đã phân biệt hai loại tiếp cận, đó là tiếp cận kinh điển
(classical approach) và tiếp cận lấy người dân làm trung tâm (people’s
centered approach) Những nghiên cứu của ông về quy hoạch và quản lý rừng
cộng đồng ở Nepal chứng tỏ những ưu thế về tiếp cận mới trong xây dựng và
thực hiện kế hoạch phát triển cộng đồng [8].
Từ cuối những năm 1970, các phương pháp điều tra đánh giá cùng
tham gia được nghiên cứu rộng rãi như: Đánh giá nhanh nông thôn (RRA),
phương pháp quá trình sáng tạo, phân tích HTCT cho QHSDĐ vi mô. vào
những năm 1980 và đầu những năm 1990 của thế kỷ XX, những thử nghiệm
các phương pháp RRA trong phát triển nông thôn và lập kế hoạch SDĐ được
thực hiện trên 30 nước phát triển cho thấy ưu thế của các phương pháp này
trong lập kế hoạch lâm nông nghiệp cấp thôn bản [9].
Luning (1990) lần đầu tiên nghiên cứu kết hợp đánh giá đất đai với
phân tích HTCT cho QHSDĐ. Năm 1994, FAO đã công bố quy trình kết hợp
đánh giá đất đai với phân tích HTCT cho QHSDĐ (LEFA), hạn chế là đòi hỏi
hệ thống thông tin phân tích lớn, khó áp dụng cho quy hoạch địa phương.
Theo Erwin (1999), phân tích HTCT là công cụ cho phân tích các trở ngại
trong hệ thống nông trại hộ gia đình để xác định mục tiêu quy hoạch, xác định
các kiểu SDĐ hiện tại và phương pháp SDĐ mới, đánh giá phương án SDĐ
khác nhau nhằm mục đích lựa chọn phương án một cách tốt nhất [8].
8
1.1.3.3. Các nghiên cứu xây dựng quy trình QHSDĐ
FAO (1976) đã đề xuất cấu trúc khung QHSDĐ với 10 điểm chính.
Trong đó phân loại đánh giá và đề xuất các kiểu và dạng SDĐ được xét như là
các bước chính trong quá trình quy hoạch.
Năm 1980, Buchwald đề xuất quá trình quy hoạch 8 bước, trong đó có
những nghiên cứu đánh giá về sinh thái và KTXH được đề cập tách biệt ở các
bước khác nhau. Điểm hạn chế này tạo nên sự thiếu tính liên ngành trong quy
hoạch. Maydell (1984) cho rằng 4 điểm chính trong quá trình QHNLN các
nước nhiệt đới là: Phân tích xu hướng nghĩa là phân tích hiện trạng và phát
triển; xác định mục tiêu và nhiệm vụ; phân tích phương pháp; tiến hành đánh
giá [8]. Năm 1985, một nhóm chuyên gia tư vấn quốc tế được FAO thành lập
nhằm xây dựng một quy trình QHSDĐ.
Wikingson (1985) nghiên cứu QHSDĐ theo khía cạnh luật pháp, ông
đề nghị một hệ thống luật pháp thích hợp cần được phát triển nhằm mục đích:
Cung cấp chính sách và mục tiêu rõ ràng của Nhà nước về đất đai, thiết lập
các tổ chức SDĐ phù hợp, yêu cầu sử dụng theo quy trình kế hoạch và kỹ
thuật, tăng cường sự thông hiểu về SDĐ và khuyến khích xây dựng cơ chế
giám sát và cưỡng chế’’ [8].
Theo Purnell (1988), mục tiêu của QHSDĐ là thiết lập các kế hoạch
thực tiễn có khả năng sử dụng tốt nhất các loại đất đai nhằm tăng sản xuất
quốc gia, cải thiện đời sống, bảo vệ môi trường, đạt các lợi ích xã hội và giải
trí. 4 câu hỏi nền tảng của quy hoạch đất đai: Các vấn đề nào đang tồn tại và
mục tiêu quy hoạch là gì? Có các phương án SDĐ nào? Phương án nào tốt
nhất? Có thể vận dụng vào thực tế như thế nào?
Xem xét đến các khía cạnh riêng, có thể dẫn ra một số quy trình quy
hoạch được nhiều chương trình, dự án áp dụng, theo Zimmermann (1989) tổ
chức GTZ của Đức đưa ra và thử nghiệm quy trình quy hoạch tại nhiều nước,
trong đó có dự án Lâm nghiệp xã hội Sông Đà của Việt Nam. Quy trình này
9
dựa trên quá trình phân tích tình hình, chuẩn đoán hiện trạng và phân tích mục
tiêu (ZOPP) được sử dụng. Năm 1987, Spitzer đề xuất các bước QHSDĐ đa
mục tiêu, trong đó nhấn mạnh xác định mục tiêu và chọn phương pháp lập kế
hoạch như sau: Chuẩn đoán trong thu thập thông tin và dự đoán cơ hội, tư vấn
trong đánh giá, lập kế hoạch và điều phối, thực hiện trong điều phối và giám
sát [8].
1.1.3.4. Lược sử hình thành và phát triển các HTCT nông lâm nghiệp trên thế
giới
Trên thế giới, hoạt động canh tác nông nghiệp đã được hình thành từ
lâu trong lịch sử. Từ hoạt động canh tác này mà các HTCT nông nghiệp dần
được hình thành.
Hệ thống nông nghiệp là sự biểu hiện không gian của sự phối hợp các
ngành sản xuất và kỹ thuật do một xã hội thực hiện để thỏa mãn các nhu cầu.
Nó biểu hiện một sự tác động qua lại giữa một hệ thống sinh học - sinh thái và
môi trường tự nhiên là đại diện và một hệ thống xã hội - văn hóa, qua các hoạt
động xuất phát từ những thành quả kỹ thuật (Vissac, 1979) [14].
Hệ thống trồng trọt là hoạt động sản xuất cây trồng trong một nông hộ.
Hệ thống cây trồng là tổ hợp cây trồng bố trí theo không gian và thời gian với
các biện pháp kỹ thuật được thực hiện [14].
HTCT là một phức hợp của đất đai, cây trồng, vật nuôi, lao động và các
nguồn lợi đặc trưng khác trong một ngoại cảnh mà nông hộ quản lý theo sở
thích, khả năng và kỹ thuật có thể có trong một phạm vi nhất định để tạo ra
sản phẩm nông nghiệp thỏa mãn nhu cầu ăn, mặc của con người [4].
Du canh là HTCT đầu tiên trên thế giới. Đây là kiểu SDĐ nông nghiệp
trong đó đất được phát quang để canh tác trong thời gian ngắn hơn thời gian
bỏ hóa (Conklin, 1957). Cho đến nay, phương thức này vẫn được sử dụng phổ
biến ở các vùng nhiệt đới. Tuy nhiên về chiến lược PTBV, du canh không
10
được nhiều Chính phủ và cơ quan quốc tế coi trọng bởi vì du canh được coi là
phí phạm về sức người và tài nguyên đất đai, là nguyên nhân gây mất rừng, là
nguyên nhân chính gây nên tình trạng xói mòn và thoái hóa đất xảy ra nghiêm
trọng (Grinnell, 1977) [14].
Trên cơ sở giải quyết những nhược điểm của phương thức du canh đã
có một số mô hình, HTCT mới ra đời. Trong các PTCT nông nghiệp, canh tác
nông lâm kết hợp (NLKH) là một PTCT lâu đời trên thế giới.
Theo King (1987), thời trung cổ ở châu Âu đã tồn tại một tập quán phổ
biến là chặt và đốt rồi sau đó tiếp tục trồng cây thân gỗ cùng với cây nông
nghiệp. HTCT này vẫn tồn tại ở Phần Lan cho đến cuối thế kỷ XIX và vẫn
còn ở một số vùng của Đức cho đến tận những năm 1920 [23]. Trong khi đó
nhiều PTCT truyền thống ở châu Á, châu Phi và khu vực nhiệt đới châu Mỹ
đã có sự phối hợp cây thân gỗ với cây nông nghiệp để nhằm mục đích chủ
yếu là hỗ trợ cho sản xuất nông nghiệp và tạo ra các sản phẩm phụ khác như
gỗ, củi, đồ gia dụng…
Taungya được coi là một PTCT NLKH có thể chấp nhận được cả về
mặt hiệu quả kinh tế và môi trường sinh thái bằng sự kết hợp đồng thời cả hai
loại cây nông nghiệp và cây công nghiệp. Vào cuối thế kỷ XIX, hệ thống
Taungya bắt đầu phát triển rộng rãi ở Myanmar dưới sự bảo hộ của thực dân
Anh. Trong các đồn điền trồng gỗ tếch (Techtona grandis) người lao động
được phép trồng cây lương thực giữa các hàng cây chưa khép tán để giải
quyết nhu cầu lương thực hàng năm. Sau đó phương thức này được áp dụng
rộng rãi ở Ấn Độ và Nam Phi [22].
Blandford (1988) đã mô tả Taungya dường như là một PTCT cũ được
áp dụng mà ở đó điều kiện hoàn cảnh rừng được tái tạo trên những trang trại
của người nông dân và theo đó người ta thu được những hiệu quả có ích từ
cấu trúc rừng. Chính vì vậy các hệ thống Taungya cần phải được xem như là
11
một hệ thống quản lý SDĐ có ý nghĩa cho phát triển nông nghiệp (Nair, 1995)
[23].
Tuy nhiên, dưới sức ép ngày càng lớn của việc gia tăng dân số thì
Taungya tỏ ra không thích hợp. Vấn đề đặt ra là phải có những phương thức
mới, những mô hình SDĐ mới có hiệu quả và bền vững hơn. Một trong
những nghiên cứu thành công là việc tìm ra HTCT trên đất dốc (Slopping
Agricultural Land Technology - SALT) đã được Trung tâm phát triển Nông
thôn Bapsip Midanao Philippines tổng kết và phát triển từ những năm 1970.
Trải qua thời gian dài nghiên cứu và hoàn thiện, đến năm 1992 các nhà khoa
học đã cho ra đời 4 mô hình tổng hợp về kỹ thuật canh tác trên đất dốc và đã
được các tổ chức quốc tế, nhiều quốc gia ghi nhận và áp dụng là SALT 1,
SALT 2, SALT 3, SALT 4.
- SALT 1 (Sloping Agricultural Land Technology) là mô hình tổng hợp
canh tác trên đất dốc với thành phần 25% cây lâm nghiệp, 25% cây nông
nghiệp và 50% cây hàng năm.
- SALT 2 (Simple Agro - livestock Land Technology) là mô hình kỹ
thuật canh tác nông súc đơn giản với 40% nông nghiệp, 20 % lâm nghiệp,
20% chăn nuôi, 20% làm nhà ở và chuồng trại.
- SALT 3 (Sustainable Agro - forest Land Technology) là mô hình canh
tác nông lâm nghiệp bền vững với 60% cây lâm nghiệp, 40% cây nông
nghiệp. Mô hình này đòi hỏi đầu tư cao cả về nguồn lực và vốn liếng cũng
như sự hiểu biết.
- SALT 4 (Small Agro - fruit likelihood Technology) là mô hình kỹ
thuật canh tác sản xuất nông lâm nghiệp kết hợp cây ăn quả trên quy mô nhỏ
với thành phần 60% cây lâm nghiệp, 15% cây nông nghiệp, 25% cây ăn quả.
Đây là mô hình đòi hỏi phải đầu tư cao nguồn lực, vốn cũng như kiến thức, kỹ
năng và kinh nghiệm [22].
12
Ở Thái Lan trong hơn hai thập kỷ qua đã thực hiện dự án phát triển
làng lâm nghiệp (forest village) ở vùng Đông Bắc với mục tiêu là: Giải quyết
ổn định vấn đề KTXH đối với người du canh thông qua việc SDĐ, sản xuất
lương thực, chất đốt và các nhu cầu khác. Thực hiện kế hoạch định cư tự
nguyện trên cơ sở xây dựng các cơ sở hạ tầng, dịch vụ và xã hội, giúp đỡ
người dân PTSX.
Ở Inđônêxia, từ năm 1972 việc lựa chọn đất trồng cây lâm nghiệp đều
do công ty lâm nghiệp của nhà nước tổ chức, nông dân được cán bộ của công
ty hướng dẫn trồng cây nông nghiệp, lâm nghiệp. Sau khi trồng cây nông
nghiệp 2 năm người dân bàn giao lại rừng cho công ty, sản phẩm nông nghiệp
họ toàn quyền sử dụng.
Tóm lại, các công trình nghiên cứu về QHSDĐ trên thế giới đã có
nhiều thử nghiệm và đề xuất nhằm đưa ra phương pháp QHSDĐ hiệu quả.
Các nghiên cứu và quy trình QHNLN trên thế giới đã là cơ sở cho việc nghiên
cứu và áp dụng trong điều kiện của Việt Nam. Trong đó phương pháp nổi bật
là phương pháp PRA trong quá trình QHSDĐ cấp vi mô; QHSDĐ chính là
nền tảng cho QHNLN cấp xã trên cơ sở giải quyết hài hòa những ưu tiên của
cấp trên với nhu cầu của cộng đồng phù hợp với cơ sở pháp lý của Việt Nam.
Từ đây chúng ta cũng có thể coi những tài liệu nghiên cứu đó là các cơ sở lý
luận và thực tiễn để vận dụng trong công tác quy hoạch, SDĐ hợp lý ở Việt
Nam. Tuy nhiên, trong các nghiên cứu này chưa xây dựng một lý thuyết hoàn
chỉnh về QHNLN cấp địa phương, đặc biệt là QHNLN cấp xã.
1.2. Ở Việt Nam
1.2.1. Một số nghiên cứu về cơ sở lý luận và thực tiễn của QHSDĐ
Ở Việt Nam, các vấn đề về nghiên cứu đất đai, QHSDĐ đã được bắt
đầu từ năm 1930, sau đó được hoàn thiện dần theo thời gian.
13
Trong giai đoạn 1955 - 1975, công tác điều tra, phân loại đất đã được
tổng hợp một cách có hệ thống trên toàn miền Bắc. Nhưng đến sau năm 1975,
các số liệu nghiên cứu về phân loại đất mới được thống nhất cơ bản.
Xung quanh chủ đề phân loại đất đã có nhiều công trình khác nhau
triển khai thực hiện trên các vùng sinh thái (Ngô Nhật Tiến, 1986, Đỗ Đình
Sâm, 1994…). Tuy nhiên, những công trình nghiên cứu trên mới chỉ dừng lại
ở mức độ nghiên cứu cơ bản, thiếu những để xuất cần thiết cho việc SDĐ.
Công tác điều tra phân loại đã không gắn liền với công tác SDĐ.
Nhiều tác giả như Phạm Văn Chiểu (1964), Lê Trọng Cúc (1971), Bùi
Huy Đáp (1977), Vũ Tuyên Hoàng (1987), Nguyễn Ngọc Bình (1987), Bùi
Quang Toản (1991) đã đề cập tới vấn đề luân canh tăng vụ trồng xen, trồng
gối vụ để sử dụng hợp lý đất đai. Theo các tác giả trên thì việc lựa chọn hệ
thống cây trồng trên đất dốc là rất thiết thực với vùng đồi núi Việt Nam.
Trong giai đoạn trước năm 1993, QHSDĐ được thực hiện bởi tổ
chuyên môn trong từng ngành. Căn cứ vào định hướng phát triển kinh tế của
nhà nước, nhiệm vụ phát triển kinh tế của từng địa phương mà có các quy
hoạch tầm vĩ mô.
TS. Lê Sỹ Việt và TS. Trần Hữu Viên (1999) đã đề cập đến việc quy
hoạch lâm nghiệp cho các đơn vị thuộc cấp quản lý lãnh thổ và cấp quản lý
sản xuất kinh doanh [21].
TS. Hà Quang Khải, Đặng Văn Phụ (1997) đã đưa ra khái niệm về hệ
thống SDĐ và đề xuất một số hệ thống và kỹ thuật SDĐ bền vững trong điều
kiện Việt Nam; đi sâu phân tích các vấn đề về hệ thống SDĐ bền vững, kỹ
thuật SDĐ bền vững, chỉ tiêu đánh giá tính bền vững trong các hệ thống, kỹ
thuật SDĐ.
Chương trình tập huấn dự án hỗ trợ đào tạo lâm nghiệp xã hội của
trường ĐH Lâm nghiệp theo phương pháp PRA đã phối hợp các chuyên gia
trong và ngoài nước biên soạn tập tài liệu với những vấn đề chính: Các khái
14
niệm và phương pháp tiếp cận trong quá trình thao gia; các phương pháp,
công cụ PRA; tổ chức quá trình đánh giá nông thôn; thực hành tổng hợp [9].
Chương trình hợp tác lâm nghiệp giữa Việt Nam và Thụy Điển (1991 1995) ở 5 tỉnh Tuyên Quang, Lào Cai, Yên Bái, Vĩnh Phú, Hà Giang (chương
trình FCP) với 5 dự án trang trại lâm nghiệp xã hội cấp trang trại tỉnh được
thành lập trực thuộc Sở nông lâm nghiệp tỉnh (AFD) và một số dự án hỗ trợ
khác như phổ cập, quản lý SDĐ, phát triển kinh doanh và nghiên cứu.
Chương trình này được coi là một cách tiếp cận có sử dụng phương pháp
PRA hiệu quả. Phương pháp luận về phổ cập của chương tình FCP chính là
"đánh giá nông thôn có sự tham gia của người dân và quản lý SDĐ"
(PRALUM) [8].
TS. Trần Hữu Viên (1997) trong tài liệu tập huấn về QHSDĐ đã kết
hợp phương pháp QHSDĐ trong nước và một số dự án quốc tế đang áp dụng
tại một số vùng có dự án tại Việt Nam. Tác giả đã trình bày về khái niệm và
những nguyên tắc chỉ đạo QHSDĐ và giao đất có người dân tham gia.
Đỗ Đình Sâm, Ngô Đình Quế, Vũ Tấn Phương (2005) đã xây dựng hệ
thống đánh giá đất lâm nghiệp Việt Nam, nghiên cứu và áp dụng đánh giá đất
lâm nghiệp ở Việt Nam với việc đánh giá tiềm năng sản xuất đất lâm nghiệp
của vùng đồi núi, vùng ven biển, vùng ngập mặn và vùng chua phèn của đồng
bằng sông Cửu Long, tổng hợp đánh giá tiềm năng sản xuất đất lâm nghiệp;
đánh giá và phân chia lập địa trong lâm nghiệp cho các cấp vĩ mô, trung gian,
vi mô. Cũng trong công trình nghiên cứu này, các tác giả đã xây dựng tiêu chí
và chỉ tiêu đánh giá đất lâm nghiệp cấp xã phục vụ cho công tác trồng rừng
[12]
PGS.TS Trần Hữu Viên (2005) đã tổng kết những nội dung cơ bản: Cơ
sở lý luận của QHSDĐ gồm các khái niệm về đất đai và vai trò của nó đối với
sự tồn tại và phát triển của xã hội loài người; nghiên cứu khái niệm về
15
QHSDĐ, bản chất và quy luật phát triển của QHSDĐ. QHSDĐ cấp vĩ mô nêu
rõ vị trí, vai trò và căn cứ để lập QHSDĐ cấp vĩ mô, chi tiết những nội dung
và trình tự xây dựng QHSDĐ cấp vĩ mô. QHSDĐ cấp vi mô gồm nội dung
QHSDĐ cấp xã, phương pháp thực hiện các nội dung công việc trong
QHSDĐ, QHSDĐ cấp vi mô theo phương pháp PRA [20].
TS. Đoàn Công Quỳ (2006) đã xây dựng cơ sở khoa học của công tác
QHSDĐ đất bao gồm những vấn đề chung về QHSDĐ, trình bày công tác
điều tra cơ bản phục vụ QHSDĐ, vấn đề QHSDĐ đất cấp xã và đã đưa ra 3
bài tập về tổng hợp kết quả điều tra cơ bản, xây dựng bản đồ hiện trạng SDĐ
và bản đồ QHSDĐ, dự báo nhu cầu SDĐ phục vụ QHSDĐ cấp xã [11].
TS. Nguyễn Đình Hợi (2006) đã khái quát hóa vai trò của đất đai đối
với sự phát triển của KTXH, trình bày và phân tích chế độ quản lý nhà nước
về đất đai ở nước ta, trình bày nội dung quản lý nhà nước một số loại đất, nêu
cơ sở lý luận chung về quy hoạch đất đai và nêu nội dung của QHSDĐ [6].
Nhìn chung, các kết quả nghiên cứu của các tác giả trên cũng chính là
những cơ sở lý luận và các phương pháp thực tiễn đã được chúng tôi kế thừa
có chọn lọc và áp dụng trong đề tài này.
1.2.2. Các công trình nghiên cứu và quan điểm về QHNLN cấp xã
1.2.2.1. Quan điểm
Vào đầu thập kỷ 90 của thế kỷ XX, các vấn đề QHNLN cấp xã được
nhiều tác giả đề cập và nghiên cứu. Năm 1990, Tổng cục quản lý ruộng đất có
ban hành bản hướng dẫn QHSDĐ vi mô theo thông tư số 106/ĐKTĐ. Nhiều
tỉnh thực hiên quy hoach vi mô theo hướng dẫn này. Tuy nhiên khi triển khai
đã gặp những khó khăn do phương pháp chưa thống nhất. Mặc dù vậy, quy
hoạch vi mô cũng đã là tiền đề để thay đổi quan điểm về quy hoạch cấp xã
trong những năm tiếp theo [8].
16
Các nghiên cứu của Reichenberg (1992) và các nghiên cứu trong nước
đều cho rằng Việt Nam chưa có QHSDĐ, quy hoạch nông nghiệp và lâm
nghiệp cấp vi mô được xây dựng trên cơ sở xem xét mọi khía cạnh của tất cả
các ngành trong tương lai. Do vậy việc tiến hành QHNLN còn thiếu cơ sở để
thực hiện.
Reichenberg (1992) khi khảo sát 5 tỉnh Trung tâm miền núi phía Bắc
Việt Nam đã cho rằng quy hoạch vi mô ở Việt Nam được nghiên cứu để phát
triển khái niệm quy hoạch cấp xã trên 4 khía cạnh:
- Phủ toàn bộ đất đai trong xã, nghĩa là QHNLN dựa trên QHSDĐ trên
toàn bộ diện tích hành chính xã.
- Phối hợp các kế hoạch và các hoạt động giữa các cơ quan Nhà nước,
nghĩa là khi quy hoạch phải đề cập đến quy hoạch của các ngành do cơ quan
quản lý nhà nước quản lý.
- QHSDĐ phục vụ cho giao đất và cấp giấy chứng nhận để SDĐ tốt
hơn, tạo điều kiện cho cộng đồng tiến hành quy hoạch PTSX nông nghiệp,
lâm nghiệp, chăn nuôi, cơ sở hạ tầng.
- Chuẩn bị và phê duyệt quy hoạch đất theo đúng luật định [8] .
Nguyễn Bá Ngãi (2001) cho rằng quan điểm QHNLN cấp địa phương
nên theo các hướng sau:
- Tiến hành nghiên cứu và thực thi khả năng kết hợp QHNLN dựa vào
chức năng SDĐ với đánh giá tiềm năng đất đai.
- Rà soát và xem xét lại hệ thống chính sách nhằm hướng tới đa mục
đích SDĐ bằng việc đa dạng hóa các hoạt động sản xuất trong mỗi bản quy
hoạch của cộng đồng.
- Gắn hai quá trình quy hoạch đất đai với giao đất và coi là hai bộ phân
có quan hệ chặt chẽ để làm cơ sở cho quy hoạch sản xuất nông lâm nghiệp ở
mỗi địa phương, mỗi cộng đồng.
17
- Nghiên cứu và thử nghiệm các phương pháp cùng tham gia trong quá
trình quy hoạch phát triển nông lâm nghiệp, xác định và phân tích rõ các chủ
thể trong QHNLN cấp xã.
Vũ Văn Mễ và Desloges (1996) đã đưa ra một khái niệm mới là sự
tham gia của người dân. Các tác giả cho rằng điểm quan trọng là phải thu hút
được người dân tham gia vào tất cả các giai đoạn trong quá trình QHSDĐ và
giao đất lâm nghiệp ngay từ khi bắt đầu tùy phạm vi và mức độ theo nội dung
hoạt động và giai đoạn tiến hành.
1.2.2.2. Các nghiên cứu và thử nghiệm
Theo Nguyễn Văn Tuấn (1996) QHSDĐ được coi là nội dung chính và
được thực hiện trước khi giao đất trên cơ sở tôn trọng tập quán nương rẫy cố
định, lấy xã làm đơn vị để lập kế hoạch và giao đất, có sự tham gia tích cực
của người dân.
Năm 1993, nghiên cứu và thí điểm đầu tiên về QHSDĐ cấp xã được
thực hiện ở xã Tử Nê, huyện Tân Lạc và xã Hang Kia, Pà Cò huyện Mai
Châu, tỉnh Hòa Bình do Dự án đổi mới chiến lược phát triển lâm nghiệp thực
hiện. Bản đánh giá về QHSDĐ xã Tử Nê cho thấy cần phải có một kết hoạch
SDĐ chi tiết thì mới đáp ứng được yêu cầu, tránh được những mâu thuẫn
trọng cộng đồng phát sinh sau quy hoạch.
Chương trình Phát triển nông thôn miền núi Việt Nam - Thụy Điển giai
đoạn 1996 - 2001 trên phạm vi 5 tỉnh Lào Cai, Bắc Giang, Hà Giang, Tuyên
Quang và Phú Thọ đã tiến hành thử nghiệm công tác quy hoạch phát triển
nông lâm nghiệp cấp xã trên cơ sở kế hoạch phát triển cấp thôn bản và hộ gia
đình.
Năm 1998, tỉnh Lào Cai đã xây dựng mô hình sử dụng PRA để tiến
hành QHSDĐ, tỉnh Hà Giang đã xây dựng quy hoạch và lập kế hoạch SDĐ 3
cấp: xã, thôn và hộ gia đình. Trong năm này trên vùng dự án đã có 78 thôn,
18
bản được QHSDĐ và đã căn cứ vào nhu cầu và nguyện vọng của người SDĐ
với cách tiếp cận từ dưới lên tạo ra kế hoạch có tính khả thi cao. Tuy nhiên
chưa tạo ra sự gắn kết chặt chẽ giữa chủ trương của Nhà nước với nhu cầu,
nguyện vọng của cộng đồng trong phương án quy hoạch được xây dựng.
Vào những năm 1996, 1997, trong quá trình triển khai dự án quản lý
nguồn nước hồ Yên Lập có sự tham gia của người dân tại Hoành Bồ, Quảng
Ninh, Nguyễn Bá Ngãi đã thử nghiệm phương pháp PRA để quy hoạch lâm
nông nghiệp cho 3 xã: Bằng Cả, Quảng La và Dân Chủ để xây dựng dự án
cấp xã thôn. Sau 3 năm thực hiện cho thấy, bản quy hoạch tương đối phù hợp
với tình hình hiện tại. Đây là cơ sở vững chắc cho lập kế hoạch tác nghiệp
hàng năm, Một trong những hạn chế của dự án là do nghiên cứu về đất đai
chưa đầy đủ trong phân tích HTCT dẫn đến việc lựa chọn cây trồng chưa thực
sự phù hợp.
Vũ Văn Mễ và Desloges (1996) đã thử nghiệm phương pháp QHSDĐ
có người dân tham gia tại Quảng Ninh đồng thời đề xuất 6 nguyên tắc và các
bước cơ bản trong QHSDĐ cấp xã là: Kết hợp hài hòa giữa ưu tiên của Chính
phủ và nhu cầu, nguyện vọng của nhân dân địa phương; tiến hành trong
khuôn khổ luật định hiện hành và các nguồn lực hiện có của địa phương; đảm
bảo tính công bằng, chú ý đến cộng đồng các dân tộc miền núi, nhóm người
nghèo và vai trò của phụ nữ; đảm bảo PTBV; đảm bảo nguyên tắc cung tham
gia; kết hợp hướng tới mục tiêu phát triển cộng đồng. Khi thử nghiệm phương
pháp này cho các tỉnh Thừa Thiên Huế, Gia Lai và Sa Đéc đã cho thấy rằng
quy hoạch cấp xã phải dựa trên tình trạng SDĐ hiện tại, tiềm năng sản xuất
của đất, các quy định của Nhà nước và nhu cầu, nghĩa vụ của nhân dân.
Năm 1996, trên cơ sở tổng kết kinh nghiệm thực tiễn từ nhiều địa
phương khác nhau, Cục Kiểm lâm đã cho ra tài liệu hướng dẫn “Nội dung
trình tự tiến hành giao đất lâm nghiệp trên địa bàn xã”. Dự án lâm nghiệp xã
19
hội Sông Đà trên cở sở hướng dẫn này đã xây dựng phương pháp QHSDĐ và
giao đất lâm nghiệp cấp xã của 2 huyện Yên Châu (Sơn La) và Tủa Chùa (Lai
Châu). Trong đó cấp thôn bản đã được chọn là đơn vị quy hoạch phù hợp với
đặc thù vùng cao. Kết quả này cũng phù hợp với kết quả nghiên cứu xã hội và
cộng đồng của Donovan (1997) ở miền Bắc Việt Nam [8].
Nguyễn Bá Ngãi và nhóm tư vấn của Dự án khu vực lâm nghiệp Việt
Nam -ADB (1999, 2000) đã nghiên cứu và thử nghiệm phương pháp xây
dựng tiền dự án cấp xã. Mục tiêu là đưa ra một phương pháp QHNLN cấp xã
có sự tham gia của người dân để xây dựng tiểu dự án lâm nghiệp cho 50 xã
của 4 tỉnh Thanh Hóa, Gia Lai, Phú Yên và Quảng Trị.
Nguyễn Bá Ngãi (2001) đã nghiên cứu cơ sở khoa học và thực tiễn cho
quy hoạch phát triển lâm nông nghiệp cấp xã vùng Trung tâm miền núi phía
Bắc Việt Nam. Đề tài được tiến hành nghiên cứu điểm tại 3 xã là Tân Nguyên
(huyện Yên Bình, Yên Bái), Thượng Long (huyện Yên Lập, Phú Thọ), Đức
Ninh (huyện Hàm Yên, Tuyên Quang).
Trong nghiên cứu, tác giả đã đưa ra một số quan điểm và cơ sở lý luận
cho nghiên cứu quy hoạch phát triển lâm nông nghiệp cấp xã như: Quan điểm
duy vật biện chứng, quan điểm sinh thái - kinh tế - nhân văn; quan điểm quy
hoạch phát triển tổng hợp và bền vững; quan điểm kết hợp giữa định hướng vĩ
mô của nhà nước với nhu cầu của người dân trong quy hoạch phát triển lâm
nông nghiệp. Phương pháp quy hoạch phát triển lâm nông nghiệp cấp xã là
kết hợp các phương pháp đánh giá đất đai với phương pháp phân tích HTCT
(FSA) để đánh giá tiềm năng đất đai, xây dựng bản đồ lập địa cấp xã, phân
tích và lựa chọn hệ thống cây trồng; sử dụng hiệu quả phương pháp PRA
trong nghiên cứu đề xuất phương án quy hoạch phát triển nông lâm nghiệp.
Tác giả cũng đã chỉ ra được trong tiến hành QHSDĐ cấp xã cần phải tiến
hành phân chia 3 loại rừng và phân cấp phòng hộ.
20
1.2.3. Các nguyên tắc cơ bản của QHSDĐ
1.2.3.1. Các nguyên tắc cơ bản mang tính định hướng của QHSDĐ
QHSDĐ là một hiện tượng KTXH, do vậy nó cũng cần tuân theo
những nguyên tắc nhất định. QHSDĐ phải tuân theo các quy luật phát triển
khách quan của phương thức sản xuất xã hội, đây chính là yếu tố quyết định
nội dung và phương pháp QHSDĐ ở mỗi quốc gia.
QHSDĐ ở nước ta tuân theo những nguyên tắc cơ bản mang tính định
hướng như sau:
- Chấp hành quyền sở hữu Nhà nước về đất đai, củng cố và hoàn thiện
các đơn vị SDĐ. Nguyên tắc này là cơ sở của mọi hoạt động và biện pháp có
liên quan đến quyền SDĐ, là nguyên tắc quan trọng nhất trong hoạt động
QHSDĐ. Đây là căn cứ quan trọng để Nhà nước có điều kiện tập trung chỉ
đạo PTSX, củng cố và hoàn thiện phương thức sản xuất xã hội chủ nghĩa
trong phạm vi cả nước, trên tất cả các khu vực lãnh thổ, trong tất cả các
ngành, trong đó đặc biệt là nông lâm nghiệp [20].
- SDĐ tiết kiệm, bảo vệ đất và bảo vệ thiên nhiên. Đất đai là có giới hạn
trong khi đó dân số và nhu cầu của con người về mọi mặt ngày càng cao do
vậy SDĐ tiết kiệm là một nguyên tắc bắt buộc trong QHSDĐ. Mặt khác, đất
đai nếu được sử dụng đúng và hợp lý thì chất lượng đất sẽ được duy trì và
ngày càng tốt lên; ngược lại nếu sử dụng không hợp lý sẽ làm đất thoái hóa
biến chất, làm giảm năng suất, sản lượng cây trồng, ảnh hưởng xấu đến môi
trường sinh thái tự nhiên. Do vậy trong SDĐ, phải chú ý ngăn ngừa quá trình
xói mòn đất, chống ô nhiễm đất và bảo vệ các yếu tố của môi trường thiên
nhiên [20].
- Sử dụng tài nguyên đất vì lợi ích của nền kinh tế quốc dân nói chung
và từng ngành nói riêng, trong đó ưu tiên cho ngành nông nghiệp. Bất cứ sự
phát triển một ngành kinh tế nào cũng có nhu cầu SDĐ ở các mức độ khác
21
nhau. Do vậy trong QHSDĐ phải căn cứ vào điều kiện tự nhiên, KTXH, quỹ
đất và chiến lược phát triển, nhu cầu đất của các ngành để có phương án phân
bổ SDĐ hợp lý, hiệu quả nhất, tạo cho các ngành đều có đầy đủ điều kiện để
phát triển [20].
- Tạo ra những điều kiện tổ chức lãnh thổ để thực hiện những nhiệm vụ
kế hoạch của Nhà nước, của riêng ngành nông nghiệp và từng đơn vị sản xuất
cụ thể. Căn cứ vào chiến lược phát triển KTXH và an ninh quốc phòng của
đất nước, chiến lược phá triển của từng ngành và quy hoạch phát triển của
từng đơn vị, QHSDĐ phải đảm bảo tương quan tỷ lệ hợp lý giữa các ngành,
các vùng lãnh thổ, phân bổ hợp lý sức sản xuất, tạo ra những điều kiện tổ
chức lãnh thổ đảm bảo phát triển tổng hợp các vùng kinh tế và trong từng đơn
vị sản xuất, đặc biệt là trong lĩnh vực sản xuất nông lâm nghiệp [20].
- Tạo ra những điều kiện tổ chức lãnh thổ để nâng cao hiệu quả sản
xuất trên cơ sở các phương pháp quản lý kinh tế tiên tiến để nâng cao độ màu
mỡ của đất, nâng cao trình độ canh tác và hiệu quả sử dụng máy móc.
QHSDĐ phải được phối hợp chặt chẽ với việc tổ chức sản xuất để tạo ra điều
kiện tốt nhất cho sự phát triển và nâng cao trình độ lao động. QHSDĐ trong
nông lâm nghiệp phải tạo ra các điều kiện để áp dụng các biện pháp kỹ thuật
tiên tiến, có hiệu quả cao để nâng cao độ màu mỡ của đất và trình độ kỹ thuật
canh tác. Vì vậy khi giải quyết các nội dung của QHSDĐ phải dựa trên các
hình thức tổ chức lao động tiến bộ nhất, trình độ cơ giới hóa và khoa học công
nghệ tiên tiến [20].
- Khi QHSDĐ phải tính đến các điều kiện tự nhiên, KTXH của từng
vùng, từng đơn vị, xí nghiệp SDĐ. Mỗi vùng, mỗi đơn vị SDĐ đều có những
đặc điểm riêng về điều kiện tự nhiên, KTXH. Nếu không tính đến các điều
kiện đó thì không thể tổ chức sử dụng hợp lý đất đai. Các yếu tố của điều kiện
tự nhiên có ảnh hưởng trực tiếp đến sinh trưởng, phát triển và năng suất, sản
22
lượng của các loại cây trồng vật nuôi. Bên cạnh đó, các yếu tố của điều kiện
KTXH cũng là những yếu tố ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả kinh tế, hiệu
quả xã hội và tính ổn định của sản xuất. Do vậy QHSDĐ cần dựa trên những
thông tin chính xác về điều kiện tự nhiên của đối tượng quy hoạch để tổ chức
SDĐ hợp lý, nâng cao hiệu quả sản xuất.
1.2.3.2. Các nguyên tắc cơ bản của QHSDĐ cấp xã
Theo PGS.TS Trần Hữu Viên (2005) [ 20]: QHSDĐ và kế hoạch SDĐ
chi tiết trên địa bàn xã phải tuân thủ các nguyên tắc khi tiến hành lập QHSDĐ
và kế hoạch SDĐ cho các đơn vị, đồng thời tuân thủ các nguyên tắc chỉ đạo
khi tiến hành QHSDĐ và lập kế hoạch SDĐ có sự tham gia của người dân.
Đặc biệt phải tuân thủ các nguyên tắc chung sau đây:
- Phù hợp với điều kiện tự nhiên, KTXH của vùng và của xã; phù hợp
với quy hoạch tổng thể KTXH, an ninh quốc phòng trên địa bàn huyện, đồng
thời sử dụng được nhu cầu SDĐ, nhu cầu phát triển các ngành, các đơn vị đối
tượng SDĐ cấp dưới trên địa bàn xã.
- Phân bổ đất đai phải đảm bảo hợp lý, đúng mục đích, đúng đối tượng
sử dụng để đem lại hiệu quả cao về mọi mặt.
- Phân bổ đất đai phải đáp ứng kịp thời nhu cầu phát triển KTXH, an
ninh quốc phòng trong giai đoạn trước mắt và lâu dài, phù hợp với lợi ích
kinh tế của Nhà nước và các chủ SDĐ.
- SDĐ tiết kiệm và có hiệu quả, khai thác hợp lý tài nguyên đất đai đi
đôi với việc bảo vệ môi trường sinh thái, cải tạo và bồi dưỡng nâng cao độ
màu mỡ của đất đảm bảo sản xuất ổn định và ngày càng phát triển, đồng thời
bảo vệ, tôn tạo các di tích lịch sử văn hóa, danh lam thắng cảnh trên địa bàn.
- Dân chủ và công khai trong quy hoạch và kế hoạch SDĐ và phải tiến
hành kịp thời, được phê duyệt trong năm cuối của kỳ trước để đảm bảo tính
khả thi trong việc thực hiện quy hoạch, kế hoạch SDĐ.
23
1.2.4. Tình hình quản lý đất đai tại xã Hợp Hòa qua các thời kỳ
1.2.4.1.Giai đoạn trước Luật đất đai 2003
- Trước khi có Luật đất đai năm 1993, đất đai thuộc quyền quản lý và
sử dụng của các hợp tác xã nông nghiệp. SDĐ không theo quy hoạch, hiệu
quả thấp, gây lãng phí đất và làm cho đất ngày càng suy thoái. Phương pháp
thống kê phân loại, quản lý đất đai không cố định, không hợp lý nên không
nắm chắc, quản lý không chặt quỹ đất của địa phương.
- Từ khi Luật đất đai năm 1993 có hiệu lực, đặc biệt là khi Tổng cục
Địa chính được thành lập theo Nghị định số 12/CP ngày 22/2/1994, các chủ
trương chính sách của Đảng và Nhà nước về đất đai đã được xã thực hiện và
thu được kết quả khả quan như:
+ Hoàn thiện công tác đo đạc lập bản đồ địa chính, từng bước hoàn
thiện công tác quản lý đất đai theo quy hoạch, kế hoạch.
+ Hoàn thiện công tác giao đất, giao rừng theo theo Nghị định 02/CP
ngày 15/01/1994 của Chính phủ về việc giao đất, giao rừng cho các tổ chức,
hộ gia đình và cá nhân sử dụng lâu dài.
+ Công tác thống kê đất đai trong toàn xã được thực hiện thường xuyên,
công tác cấp giấy chứng nhận quyền SDĐ được thực hiện nghiêm túc.
Nhìn chung, trong giai đoạn này công tác quản lý Nhà nước về đất đai
đã được cải thiện, chặt chẽ. Bên cạnh đó vẫn còn nhiều hạn chế như:
+ Chưa xây dựng được quy hoạch SDĐ cấp xã. Công tác xây dựng quy
hoạch, kế hoạch SDĐ chưa được đầu tư đúng mức, tính khả thi chưa cao.
+ Công tác kiểm kê, thống kê chỉnh lý biến động chưa được cập nhật
thường xuyên.
+ Các chính sách, các văn bản pháp luật đã được triển khai thực hiện
nhưng vẫn còn chậm và không triệt để.