Tải bản đầy đủ (.doc) (58 trang)

triết lý dân là gốc trong tư tưởng nguyễn trãi

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (251.78 KB, 58 trang )

Mục lục
Phần mở đầu................................................................................................................................1
1.Tính cấp thiết của việc chọn đề tài khóa luận......................................................................1
2.Tình hình nghiên cứu của khóa luận....................................................................................3
3.Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của khóa luận................................................................4
4.Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của khóa luận.................................................................4
5.Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của khóa luận....................................................4
6.Đóng góp của khóa luận.......................................................................................................5
7.Kết cấu của khóa luận...........................................................................................................5
Chương 1:....................................................................................................................................6
Cơ sở hình thành và triết lý “dân là gốc”....................................................................................7
trong tư tưởng của Nguyễn Trãi..................................................................................................7
1.1. Những nhân tố khách quan của sự hình thành triết lý “dân là gốc” của Nguyễn Trãi.....7
1.2. Nhân tố chủ quan............................................................................................................20
1.3. Một số nội dung cơ bản về triết lý “dân là gốc” của Nguyễn Trãi.................................22
Chương 2:..................................................................................................................................34
Những giá trị lịch sử của triết lý “dân là gốc”...........................................................................34
của Nguyễn Trãi........................................................................................................................34
2.1. Những giá trị to lớn của triết lý “dân là gốc” ở thời đại của Nguyễn Trãi.....................35
2.2. Giá trị lịch sử của triết lý “dân là gốc” ở tư tưởng Nguyễn Trãi đối với lịch sử dân tộc
Việt Nam................................................................................................................................40
Phần kết luận.............................................................................................................................53
Danh mục tài liệu tham khảo.....................................................................................................55

Phần mở đầu
1.
Tính cấp thiết của việc chọn đề tài khóa luận
Lịch sử của dân tộc ta là lịch sử của một dân tộc với truyền thống đấu
tranh giữ nước lâu đời, phải luôn chống chọi với những cuộc chiến tranh xâm
1



lược ác liệt của những đế chế hùng mạnh, tàn bạo. Chính từ nền tảng ấy là gốc
rễ, cội nguồn kết tinh tính dân tộc và tính nhân dân sâu sắc đậm chất riêng thuộc
nền văn hóa Việt Nam. Những đóng góp mang tính quyết định của nhân dân, sức
mạnh của sự cố kết dân tộc đã dẩy lùi mọi sức mạnh hiếu chiến như mạch nguồn
không ngừng chảy trong huyết quản mỗi con người Việt. Và chính từ đấy cũng
là “mảnh đất” hình thành, phát triển nên cách nhìn, phương thức hành động
trong nhìn nhận, đánh giá sự việc của dân tộc hay còn được coi là triết học Việt
Nam. Song tư tưởng triết học Việt Nam chưa thực sự phát huy hết vai trò của
mình vì còn có sự “non nớt” trong đức kết, khái quát vấn đề. Và chính vì thế nên
khi nhìn nhận về triết học Việt Nam đã có ý kiến cho rằng triết học Việt Nam chỉ
là sự rập khuôn tư tưởng của Trung Quốc và Ấn Độ nhưng có chút cải biên. Đấy
chỉ đơn thuần là sự nhìn nhận mang tính phiến diện, góc cạnh vì các học thuyết
lớn từ Trung Quốc và Ấn Độ chủ yếu là tri thức về chính trị- xã hội. Trong khi
đó tư tưởng triết học Việt Nam lại mang xu hướng tiếp biến các tư tưởng triết
học du nhập bên ngoài kết hợp cùng xu hướng tự thân nội tại như điều kiện địa
lý-xã hội, lối tư duy truyền thống… Hai xu hướng này cùng song song tồn tại,
chi phối lẫn nhau theo tiến trình lịch sử lâu dài của dân tộc, đặc biệt là từ thế kỷ
X, sau khi dân tộc ta đã giành được độc lập dân tộc và bước vào kỷ nguyên Đại
Việt. Vấn đề đặt ra không kém phần nặng nề được đặt ra là nghiên cứu, chỉ ra
được triết lý trong tư tưởng của các nhà tư tưởng Việt Nam. Lịch sử Việt Nam đã
cho thấy “tuy mạnh yếu có lúc khác nhau nhưng hào kiệt không thời nào thiếu”
qua sự kế tiếp nhau của các nho sĩ uyên thâm với những triết lý sống mãi trong
lòng dân tộc. Nguyễn Trãi là một thiên tài trong số những tên tuổi kiệt xuất của
thế kỷ XV. Con người ấy được biết tới không chỉ là một nhà chính trị, nhà quân
sự đầy tài trí mà còn là nhà tư tưởng lớn.
Tư tưởng của Nguyễn Trãi không được tổng hợp nên các tác phẩm có tính
hệ thống mà từ lịch sử sống động, chân thực tạo cảm hứng cho ông viết nên
những bài thơ, bài phú,.. mang đậm nét hiện thực với những giá trị tư tưởng sâu
sắc nhất, tinh túy nhất. Ông đã để lại cho dân tộc Việt Nam nói riêng, cho toàn

thể nhân loại nói chung những giá trị tư tưởng quý giá và là nhân chứng sống
động về một giai đoạn lịch sử nước Việt. Nguyễn Trãi đã kế thừa những truyền
thống quý giá và cao đẹp của lịch sử hàng ngàn năm dựng nước và giữ nước. Kể
2


từ ngày đất nước giành lại độc lập sau hơn nghìn năm bị giặc phương Bắc xâm
lược, Nguyễn Trãi là sự kết tinh những tinh hoa của thời đại, mà hai triều Lý và
Trần là tiêu biểu. Vậy nên việc nghiên cứu để thấy được cốt lõi tinh thần triết lý
ở Nguyễn Trãi là việc vô cùng quan trọng, mang tính cấp thiết. Triết lý “dân là
gốc” là viên ngọc quý trong kho tàng tư tưởng ông để lại cho nhân loại, chính
triết lý ấy đã làm cho tên tuổi ông vươn lên hơn hẳn so với những đại biểu cùng
thời. Trong phạm vi đề tài này hướng tới chính là làm rõ triết lý “dân là gốc” và
những giá trị lịch sử của triết lý ấy.
2.
Tình hình nghiên cứu của khóa luận
Khi bàn về những đóng góp của Nguyễn Trãi, đã có một lượng lớn bài
viết, công trình nghiên cứu đề cập tới của nhiều tác giả, nhà nghiên cứu khác
nhau. Trước đó cần kể tới đó là tác giả Trần Huy Liệu với tác phẩm: Nguyễn
Trãi- một nhân vật vĩ đại trong lịch sử dân tộc Việt Nam, nhà xuất bản văn-sửđịa, Hà Nội, 1962 đã chỉ ra cái nhìn tổng quan nhất về những đóng góp và công
lao của Nguyễn Trãi. Nguyễn Văn Bình có bài viết: Nhân cánh nhà nho trong
con người Nguyễn Trãi, tạp chí Triết học, số 4, tháng 8-1998 đã hướng tới giải
thích những nét riêng tiêu biểu ở cốt cách một nhà nho luôn nặng lòng trăn trở vì
dân, vì nước thoát ra khỏi cái bóng của Tống Nho nặng nề kinh viện, cứng
nhắc…Và phải không thể không nói tới tác giả Võ Xuân Đàn với tác phẩm Tư
tưởng Nguyễn Trãi trong tiến trình lịch sử Việt Nam, nhà xuất bản văn hóa thông
tin, Hà Nội, 1996. Tác phẩm này đã đi sâu và tập hợp thành hệ thống những
đóng góp to lớn, đầy đủ trong việc khảo cứu về Nguyễn Trãi ở lĩnh vực chính trị,
tư tưởng. Đặc biệt là Võ Xuân Đàn đã thống kê được những công trình nghiên
cứu, những chuyên khảo bàn về tư tưởng thân dân của Nguyễn Trãi. Đấy là “11

công trình của 12 tác giả đề cập tới tính “cách mạng” trong tư tưởng của Nguyễn
Trãi mà trước đó không có và sau nhiều thế kỉ mới xuất hiện trở lại và phát
triển”. Ngoài ra trong suốt quá trình nghiên cứu về đề tài này có điều kiện tiếp
xúc, tham khảo và tìm hiểu các bài viết, các tác phẩm của các tác giả như: “Tư
tưởng yêu nước thương dân của Nguyễn Trãi” được viết bởi Nguyễn Thu
Nghĩa, “Nguyễn Trãi –khí phách và tinh hoa của dân tộc”của Vũ Khiêu, “Về tư
tưởng triết học của Nguyễn Trãi”do tác giả Doãn Chính viết, “Bàn về một số yếu
tố triết học trong tư tưởng của Nguyễn Trãi” của Triệu Quang Minh, “Mấy suy
3


nghĩ về tư tưởng của Nguyễn Trăi một “Tấm lòng sáng tựa Sao Khuê” của
Hoàng Ngọc Vĩnh... Nhìn chung các công trình khảo cứu, nghiên cứu và các bài
viết ấy về Nguyễn Trãi mới chủ yếu mang tính tổng quát, thâu tóm về các mặt tư
tưởng với tính chất các quan niệm về chính trị, đạo đức, nhân sinh như tư tưởng
nhân nghĩa, tư tưởng yêu nước, tư tưởng thân dân của Nguyễn Trãi. Vấn đề triết
lý “dân là gốc” ở tư tưởng Nguyễn Trãi không hẳn là mới nhưng chưa tới mức
đã cũ mà còn nhiều điều để khám phá, đánh giá và nhìn nhận nhất là ở điều kiện
mới, xu hướng vận động đa chiều của thế giới hiện nay đang đặt ra cho chúng ta
thì thành tựu vẫn còn rất hạn chế.
Từ những tài liệu tham khảo và những đóng góp khác nhau của các tác
giả đã làm được, tôi đi tới khái quát và dựa trên đó để tiến hành nghiên cứu đề
tài này. Và cũng chính xuất phát từ nhận thức đó về tình hình nghiên cứu triết lý
“dân là gốc” của Nguyễn Trãi trong thực tế nên đề tài này không chỉ dừng lại ở
việc mô tả, giải thích triết lý “dân là gốc” mà hướng tới nhiệm vụ nghiên cứu để
làm toát lên được nguồn gốc, nội dung và giá trị thực tiễn của triết lý “dân là
gốc” trong suốt tiến trình phát triển của dân tộc .
3.
Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của khóa luận
Mục đích nghiên cứu của khóa luận là: Cố gắng làm rõ triết lý “dân là

gốc” ở Nguyễn Trãi với những giá trị lịch sử của nó.
Nhiệm vụ nghiên cứu của khóa luận là:
- Chỉ rõ cơ sở hình thành của triết lý “dân là gốc” trong tư tưởng Nguyễn
Trãi.
- Vạch ra những nội dung cơ bản ở triết lý “dân là gốc” của Nguyễn Trãi
- Làm rõ những giá trị lịch sử của triết lý “dân là gốc” của Nguyễn Trãi
trong lịch sử dân tộc.
4.
Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của khóa luận
- Đối tượng nghiên cứu: triết lý “dân là gốc” trong tư tưởng của Nguyễn
Trãi
- Phạm vi nghiên cứu: Những tìm hiểu về triết lý “dân là gốc” ở tư tưởng
Nguyễn Trãi qua các tác phẩm còn có tới nay.
5.
Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của khóa luận
4


- Cơ sở lý luận: Dựa trên nền tảng lý luận là phép biện chứng duy vật, đặc
biệt là biện chứng duy vật về lịch sử để tiến hành nghiên cứu đề tài.
- Phương pháp nghiên cứu: Phương pháp chung là các nguyên tắc nghiên
cứu tư tưởng triết học rút ra từ phép biện chứng duy vật. Đây là đề tài nghiên
cứu tư tưởng triết học cụ thể của một nhà tư tưởng cụ thể nên còn vận dụng
phương pháp nghiên cứu lịch sử triết học với nguyên lý về quan hệ giữa tồn tại
xã hội và ý thức xã hội. Phương pháp cụ thể là phương pháp logic-lịch sử,
phương pháp phân tích-tổng hợp, phương pháp so sánh, phương pháp đối hiếu.
6.
Đóng góp của khóa luận
-Thông qua nghiên cứu đề tài này, khóa luận muốn góp phần làm rõ một
cách có hệ thống về nguồn gốc, nội dung triết lý “dân là gốc” ở tư tưởng Nguyễn

Trãi cùng những giá trị lịch sử của nó không chỉ ở thời đại Nguyễn Trãi, mà với
dân tộc Việt Nam nói riêng và cho cả thế giới nói chung.
- Khóa luận này có thể làm tài liệu tham khảo cho tất cả những ai quan
tâm đến vấn đề “dân là gốc”.
7.
Kết cấu của khóa luận
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo thì khóa luận
gồm có hai chương :
Chương 1: Cơ sở hình thành và triết lý “dân là gốc” trong tư tưởng của
Nguyễn Trãi.
1.1. Những nhân tố khách quan của sự hình thành triết lý “dân là gốc” của
Nguyễn Trãi
1.1.1. Bối cảnh quốc tế và trong nước cuối thế kỷ XIV đầu thế kỷ X
1.1.2. “Dân là gốc” của Nho giáo
1.1.3. Truyền thống nhân ái cao cả và cố kết cộng đồng cao của dân tộc
Việt Nam
1.2. Nhân tố chủ quan
1.3. Một số nội dung cơ bản về triết lý “dân là gốc” của Nguyễn Trãi
1.3.1. Phạm trù “Dân” và vai trò vị trí của Dân trong tư tưởng Nguyễn
Trãi
1.3.2 “Dân vi quý” và “Dân là gốc” trong sự nghiệp dựng và giữ nước
của Nguyễn Trãi.
5


1.3.3. Nhân nghĩa của Nguyễn Trãi trên hết, trước hết là vì dân
1.2.4. “An dân” và hướng tới xã hội lý tưởng người dân hưởng ấm no,
hạnh phúc.
Chương 2 : Những giá trị lịch sử của triết lý “dân là gốc” của Nguyễn Trãi
2.1. Những giá trị to lớn của triết lý “dân là gốc” ở thời đại của Nguyễn

Trãi
2.1.1. Trên phương diện lý luận
2.1.2. Trên phương diện thực tiễn
2.2. Giá trị lịch sử của triết lý “dân là gốc” ở tư tưởng Nguyễn Trãi đối với
lịch sử dân tộc Việt Nam
2.2.1. Là một giá trị tiêu biểu của chủ nghĩa yêu nước truyền thống của
Việt Nam
2.2.2. Là một bài học quan trọng của đất nước trong công cuộc mới hiện
nay

Phần nội dung
Chương 1:
6


Cơ sở hình thành và triết lý “dân là gốc”
trong tư tưởng của Nguyễn Trãi
1.1. Những nhân tố khách quan của sự hình thành triết lý “dân là
gốc” của Nguyễn Trãi
1.1.1. Bối cảnh quốc tế và trong nước cuối thế kỷ XIV đầu thế kỷ XV
- Bối cảnh quốc tế:
Mỗi con người đều mang dấu ấn của thời đại mình đang sống nên hiểu
được đúng về giai đoạn lịch sử mà nhà tư tưởng ấy đang sống ta mới nắm bắt
đúng chiều sâu tư tưởng họ hướng tới. Phương Tây vào cuối thế kỷ XIV đầu XV
bước vào giai đoạn chuyển mình đầy dữ dội của xã hội trung đại. Nét nổi bật
hơn hẳn chính là “cuộc đấu tranh chống phong kiến đang trỗi dậy mạnh mẽ dưới
hình thức những cuộc chiến tranh nông dân, những phong trào thị dân và phong
trào cải cách tôn giáo”[19; 48]. Tình trạng chiến tranh liên miên giữa các nước ở
Italia, Pháp và cả ở nước Anh năm 1381… “Phương Tây diễn ra đồng thời cả
quá trình xuất hiện nhân tố tư bản chủ nghĩa hình thành song song cùng quá trình

hình thành các dân tộc với “sự giác ngộ về quyền dân tộc và ý thức dân tộc”[7;
14]. Chế độ phong kiến với nền sản xuất nhỏ cùng các đạo luật hà khắc của
trung cổ bước vào thời kỳ tan rã. Thời điểm này đã dần manh nha nhiều công
trường thủ công đem lại năng suất lao động cao thay thế cho nền sản xuất nhỏ lẻ,
manh mún của nền kinh tế tự nhiên kém phát triển. Sự ứng dụng một cách hiệu
quả các thành tựu phát minh khoa học tạo nên động lực vô cùng to lớn đối với
việc phát triển xã hội: những bước tiến mạnh mẽ về kinh tế kéo theo những thay
đổi về chính trị - xã hội. Do vậy dẫn tới xã hội phương Tây diễn ra tình trạng
phân hóa giai cấp ngày thêm sâu sắc: vai trò của chủ xưởng ngày càng ảnh
hưởng rõ rệt trong xã hội và kinh tế, hàng loạt nông dân từ nông thôn ra các
thành phố trở thành người làm thuê cho các công trường thủ công – tiền thân của
giai cấp công nhân về sau này.
Một khi nền kinh tế đã thay đổi kéo theo đời sống văn hóa phương Tây
cũng có những chuyển biến to lớn đòi hỏi cần có sự giải phóng con người khỏi
những ràng buộc cũ của thần quyền, quy định của nhà thờ, của giáo huấn tôn
giáo, giáo hội và phân tầng đẳng cấp nghiệt ngã hướng tới phục hưng nền văn
7


hóa. Sự phát triển các mặt của con người với quyền sống, quyền được yêu
thương chăm sóc của con người được lên tiếng bảo vệ mạnh mẽ hơn hết . Đây là
thời kỳ “văn hóa phục hưng”, là cái vươn mình tỉnh dậy sau đêm trường trung cổ
ở phương Tây. Trào lưu phục hưng văn hóa đã mang lại những giá trị vô cùng
lớn lao “phá tan thế giới quan của giáo hội phong kiến, phá tan sự sùng bái mù
quáng đối với thần quyền, thức tỉnh mọi người đấu tranh cho cuộc sống chính
đáng của con người”[7;15]. Cùng những biến cố khác thì bước sang thời phục
hưng là sự phát triển của tư bản chủ nghĩa ở phương Tây đã là xu thế của không
gì có thể ngăn cản nổi. Công cuộc phục hưng văn hóa và quá trình hình thành
dân tộc thì sản phẩm tinh thần tiến bộ nhất của phương Tây chính là chủ nghĩa
nhân đạo và ý thức dân tộc.

Vào cùng lúc giai đoạn châu Âu đang chuyển mình mạnh mẽ bao nhiêu
thì châu Á cũng có nhiều biến động lớn lao bấy nhiêu. Điển hình là Trung Quốc
sau chiến tranh giải phóng nông dân do Chu Nguyên Chương lãnh đạo năm 1368
đã lật đổ chế độ thống trị của nhà Nguyên lập nên triều đại Minh. Thời kỳ nhà
Minh thuộc dòng Hán tộc lên nắm giữ quyền thống trị, xây dựng chế độ chuyên
chế phát triển đạt tới đỉnh cao cực thịnh. Bằng những chính sách ban đầu rất tích
cực như khuyến khích khai hoang, đẩy mạnh sản xuất, giảm nhẹ tô thuế và sưu
dịch cho dân…đã đưa đất nước Trung Quốc trở thành một quốc gia phong kiến
hùng mạnh, thịnh vượng. Trung Quốc dù là triều đại nào thì suốt lịch sử của đất
nước ấy luôn diễn ra hai quá trình : một mặt đẩy mạnh sản xuất, khai hoang
trong nước mặt khác là tham vọng bành trướng, mở rộng xâm chiếm ra bên
ngoài lãnh thổ. “Lúc bấy giờ ở phương Đông chế độ phong kiến đang ngự trị và
nhiều thế lực bành trướng đang hoành hành dữ dội trong đó đế chế Minh là lớn
mạnh và nguy hiểm nhất”[18; 47]. Triều đại nhà Minh được lập nên nhờ kết quả
của cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc song cũng không phải là ngoại lệ khi vẫn
mang mộng xâm lấn sang các nước lân cận để thần phục và bắt nạp triều cống
làm lợi cho nhà Minh. Triều Minh nuôi ý định coi Trung Quốc là tâm điểm của
thế giới, Hoàng Đế Trung Hoa là con trời cai trị muôn dân, quyền uy của đế chế
ấy bao trùm lên tất cả các nước láng giềng. Vào đầu thế kỷ XV, hướng bành
trướng chủ yếu của nhà Minh là vùng Đông Nam Á bao gồm cả âm mưu xâm
lược nước ta. Năm 1368, nhà Minh bước đầu sai sứ đi giao bang với Việt Nam
8


cho tới năm 1384 thì nhà Minh ngang nhiên lấn tới đòi Việt Nam phải cống nộp
lương thực và tiến tới hai năm sau lại ép Việt Nam cho mượn đường để đánh
Chăm Pa.
- Hoàn cảnh trong nước vào cuối thế kỷ XIV đầu thế kỷ XV:
Vào nửa sau thế kỷ XIV xã hội Đại Việt rơi vào cuộc khủng hoảng trầm
trọng. Triều đại nhà Trần sau những đóng góp quan trọng của mình đã không còn

nắm giữ cương vị lãnh đạo như trước và dần bước vào giai đoạn tụt hậu nặng nề,
sâu sắc. Các điền trang phát triển song sản xuất lại trở nên trì trệ, đình đốn còn
đời sống của các nông nô bị bần cùng hóa rồi mất mùa đói kém triền miên khiến
nông dân nổi dậy. Kinh tế kiểu điền trang thật sự không còn phù hợp mà đã
thành lực cản nặng nề với phát triển nền kinh tế địa chủ đang có đà phát triển
mạnh, chiếm ưu thế vượt trội. Nếu trước đây nhà Trần quan tâm tới dân, chăm lo
cho dân bao nhiêu thì bây giờ ngược lại chỉ biết hưởng lạc, vun vén cho riêng
mình bấy nhiêu. Tầng lớp quý tộc chỉ biết tăng cường bóc lột, vơ vét, chiếm
đoạt, mải mê ăn chơi mà không hoài ngóng tới dân tình đang sống như thế nào
dưới triều đại của mình. Sự khủng hoảng rơi vào cực độ ở thời vua Trần Dụ
Tông khi đem sự vui chơi xoa hoa, trụy lạc lên tới đỉnh điểm. Thực tế lịch sử đất
nước những năm cuối thể kỷ XIV đã cho thấy sự suy sụp không có gì có thể vực
dậy của nhà Trần cùng với nền kinh tế điền trang thái ấp và sự giải phóng cho
nông nô, nô tỳ.
Thời điểm đánh dấu sụp đổ của nhà Trần đã điểm vào năm 1400 khi
Hồ Quý Ly truất ngôi vua Trần và tự xưng là Hoàng Đế lấy quốc hiệu là Đại
Ngu lập nên triều Hồ (1400-1407). Trên tàn tích đổ nát, tiêu điều cả chính trị ,
kinh tế, văn hóa, quân sự do nhà Trần để lại Hồ Quý Ly đã nỗ lực cải cách nhiều
mặt nhắm vực dậy đất nước. Ông ra chính sách hạn điền, hạn nô, sa thải tăng lữ
hướng tới hạn chế quyền lực của tầng lớp quý tộc phong kiến và tăng lực lượng
lao động xã hội, cho phát hành tiền giấy để bớt phần khó khăn tài chính, thuận
lợi cho lưu thông hàng hóa… Với những cố gắng ấy của Hồ Quý Ly thì xã hội
Đại Việt đã phần nào có những bước tiến song những cải cách của Hồ Quý Ly
chưa đáp ứng được đầy đủ yêu cầu của sự phát triển xã hội nên cuộc khủng
hoảng kinh tế điền trang thái ấp và chế độ nông nô, nô tì vẫn chưa được giải
quyết. Những chính sách ông ban ra mới mẻ song chưa thật triệt để. Mặc dù ông
9


có đủ nhạy bén để thấy những mâu thuẫn cơ bản của xã hội nhưng trở ngại lớn

nhất lại chính từ giai tầng xuất thân của mình nên Hồ Quý Ly chỉ mới là thu hẹp
quyền lợi của tầng lớp quý tộc chứ chưa tiến tới xóa bỏ tận gốc quyền lợi của
giai cấp ấy. Từ nguyên nhân đấy mà Hồ Quý Ly bị chống đối từ nhiều phía, khi
dân chúng không ủng hộ không có được một cơ sở xã hội vững chắc. Chính
quyền nhà Hồ chưa kịp thiết lập quyền thống trị vững chắc, thiếu sự đồng thuận
từ xã hội thì phải chống đỡ với âm mưu xâm lược của nhà Minh.
Thấy rõ tình trạng khủng hoảng của nội bộ Đại Việt nên năm 1407 lấy
cớ phù Trần diệt Hồ, Trương Phụ đã chỉ huy quân tiến hành xâm lược nước ta.
Nhà Hồ dù kiên quyết chống giặc tới cùng song không có lực lượng nhân dân
ủng hộ nên không đủ sức chống trả và cuối cùng chịu thất bại đau đớn sau gần 6
tháng chiến đấu. Câu nói của con trai Hồ Quý Ly là Hồ Nguyên Trừng là nhìn
nhận rõ nhất về nguyên do của sự thất bại ấy là “Thần không sợ đánh giặc chỉ sợ
lòng dân không theo mà thôi”.
Sự thất bại của nhà Hồ một lần nữa đã đẩy nước Đại Việt rơi vào ách đô
hộ phương Bắc một lần nữa hay nói cách khác đây là cuộc Bắc thuộc lần thứ hai
trong hơn hai trăm năm. “Sự thống trị tàn bạo của quân Minh đã cản trở và kìm
hãm gay gắt sự phát triển của xã hội Đại Việt, đe dọa nghiêm trọng vận mệnh
của cả dân tộc và sự sinh tồn của mọi người”[7; 19]. Nhà Minh thiết lập nền
thống trị thuộc địa hà khắc đồng thời bóc lột, vơ vét của cải tàn bạo để mang về
nước của chúng bao nhiêu của cải, tài nguyên quý, bắt dân ta phải chịu hàng
trăm thứ thuế má nặng nề cùng với âm mưu thâm độc là phá hoại, thủ tiêu nền
văn hóa của dân tộc Việt nhằm đồng hóa dân ta về mặt phong tục, tập quán. Nhà
Minh thực hiện dã tâm bằng cách “Tất cả những gì là cơ sở tồn tại về vật chất và
tinh thần của một quốc gia, dân tộc cũng như khả năng phục hồi độc lập của một
quốc gia dân tộc đó, chúng đều tìm cách hủy hoại dần”[19; 42].
Cuộc đấu tranh văn hóa và chính trị của dân tộc ta chống đô hộ không
ngừng tiếp diễn. Lịch sử dân tộc ta đặt ra sự lựa chọn không thể nào khác là phải
đứng lên đập tan ách thống trị của nhà Minh, giải phóng đất nước, giành độc lập
tự chủ. Những phong trào đấu tranh cứu nước do con cháu nhà Trần là Trần Giản
Đình và Trần Quý Khoáng diễn ra liên tục khắp nơi từ 1407-1413 song vẫn bị

dập tắt. Những phong trào ấy thất bại nguyên nhân chủ yếu đều do thiếu tính tổ
10


chức, thiếu sự liên minh vì mang tính tự phát chưa kết thành lực lượng đông đảo
của nhân dân. Tất cả phong trào đều đi tới thất bại, bị nhấn chìm trong biển máu
nhưng vẫn giáng cho quân địch những đòn nặng nề, thắp lên ý chí kiên cường
của dân tộc không biết nhụt chí trước kẻ thù tàn ác. Phong trào đấu tranh chống
Minh dưới nhiều hình thức thực chất là một phong trào quần chúng, đông đảo
quần chúng phối hợp đã dọn đường cho khởi nghĩa Lam Sơn.
Khởi nghĩa Lam Sơn phất cao lá cờ chính nghĩa kêu gọi nhân dân chung
lòng góp sức giết giặc cứu nước. Trong nghĩa quân Lam Sơn hội tụ rất nhiều
nhân tài hào kiệt khắp nơi, thuộc nhiều tầng lớp xã hội khác nhau trong xã hội.
Linh hồn của cuộc khởi nghĩa này chính là Lê Lợi và Nguyễn Trãi. Nếu Lê Lợi
là hào trưởng thuộc giai tầng xã hội mới – địa chủ bình dân đầy uy tín, hào
phóng, quyết đoán thì Nguyễn Trãi là người tài đức song toàn xuất thân nguồn
gốc vừa quý tộc vừa bình dân lại có tri thức cao cộng với thực tiễn cuộc sống. Lê
Lợi không chỉ thu nạp được đội quân đông đảo tham gia vào nghĩa quân của
mình cùng ra trận mà còn có được sự hưởng ửng của các cuộc khởi nghĩa địa
phương, nhân dân các châu, các huyện cùng tham gia chiến đấu, tiếp tế về nhiều
mặt. Vì có sức mạnh cổ vũ mạnh mẽ ấy mà nghĩa quân cùng chủ tướng của mình
đã lần lượt đi qua những khó khăn trên chiến trận dù đói ăn thiếu mặc, quân thù
bao vây tứ phía.
Sau 10 năm chung lưng đấu cật, chiến đấu một cách oanh liệt, không mệt
mỏi đội quân chiến đấu dưới ngọn cờ của Lê Lợi đã giành chiến thắng lẫy lừng
với đỉnh cao là chiến thắng Tốt Động - Chúc Động đập tan mọi âm mưu, tham
vọng bành trướng, thống trị đất nước ta của giặc Minh. Chúng ta đã thủ tiêu
được ách đô hộ của giặc Minh, quét sạch bóng xâm lăng ra khỏi bờ cõi Đại Việt,
khôi phục nền độc lập tự chủ cho đất nước.
Từ những điều kiện, hoàn cảnh đặc biệt cùng với sự tương quan giữa

lịch sử dân tộc và văn minh trong thời đại Nguyễn Trãi đã tạo nên một con người
đóng góp cả sự nghiệp lớn lao vào lịch sử trưởng thành của dân tộc. Thời đại
Nguyễn Trãi là thời đại đầy biến động của lịch sử chính vì lẽ đấy đi cùng lịch sử
nước nhà là những trăn trở ở ông khi phải chứng kiến nhiều cuộc binh biến hưng
vong, hình thành nên tư tưởng triết học của ông như bộ phận cấu thành, đánh
dấu giai đoạn phát triển quan trọng trong lịch sử tư tưởng Việt Nam.
11


1.1.2.
Tư tưởng “dân là gốc” của Nho giáo
Tư tưởng triết học Việt Nam mang xu hướng tiếp biến các tư tưởng triết
học du nhập bên ngoài kết hợp cùng xu hướng tự thân nội tại như điều kiện địa
lý - xã hội, lối tư duy truyền thống nên dù tiếp nhận nền văn hóa phương Đông
và phương Tây nhưng cũng có chọn lọc và sáng tạo. Tư duy dân tộc vẫn là cái
khung với vai trò chủ thể tiếp nhận. Tư tưởng “dân là gốc” vốn xuất phát từ quan
điểm của Nho giáo được dân tộc ta tiếp nhận trong quá trình tiếp thu, chọn lọc
tinh hoa văn hóa nhân loại. Triết lý “dân là gốc” là một tư tưởng chính trị - xã
hội được mang vào nước ta khá sớm song lại nó đã mang nội dung rất khác, đậm
chất “Đại Việt” không còn như nguyên bản. Muốn thấy được tính khác biệt ấy
chúng ta cần làm rõ nguồn gốc của tư tưởng “dân là gốc”. Nguồn gốc sâu xa của
tư tưởng “dân là gốc” xuất phát từ những tiền đề văn hóa Trung Quốc theo Nho
giáo vào Việt Nam.
Và như ta đã biết thì so với các học thuyết truyền từ bên ngoài vào như
Nho giáo, Phật giáo, Đạo giáo thì tùy theo cách tiếp nhận của giai cấp nắm
quyền vận dụng vào mục đích điều hành đất nước nên vào mỗi thời kỳ lại có một
tư tưởng nắm vị trí độc tôn. Đặc biệt “Từ Lê sơ trở đi, Nho giáo thành quốc giáo
của Việt Nam. Nho giáo góp phần đắc lực trong công cuộc chống Minh, giải
phóng dân tộc thì nó không gặp trở lực đáng kể để trở thành quốc giáo”[11; 70].
Điều đó để lý giải cho vị trí của Nho giáo vào cuối thế kỷ XIV đầu thế kỷ XV có

tầm quan trọng như thế nào vì Nho giáo vượt trội hơn cả tới đời sống tư tưởng
của nhân dân ta.
Nho giáo là một trường phái triết học do Khổng Tử (551 -479 trCN)
sáng lập ra. Khổng Tử tên là Khâu, tự Trọng Ni vốn người nước Lỗ. Ông luôn ấp
ủ một tư tưởng nhân đạo, hết lòng cứu thế. Khổng Tử đã nêu lên quan niệm về
dân, chính sách trị dân của mình vào thời Xuân Thu (thế kỷ VIII trCN – Thế kỷ
V trCN)- cái thời đại được coi là “vương đạo suy vi”, “bá đạo” nổi lên trấn áp tất
cả bất chấp cả “vương đạo” khiến chế độ nhà Chu đảo lộn đạo lý suy đồi hết
thẩy. Ông vốn xuất thân là tầng lớp quý tộc nhưng tới đời ông thì đã suy rơi vào
cảnh nghèo khổ khánh kiệt. Thời trẻ ông sống một cuộc đời có tính giao hòa
giữa hạng quý tộc và bình dân vì bản thân Khổng Tử chỉ làm tới một chức quan
nhỏ. Vì vậy những yếu tố đó đã ảnh hưởng tới cách nghĩ của ông, hình thành nên
12


nếp sống, nếp suy tư của giới quý tộc nhưng cũng mang phong thái mộc mạc,
dung dị, dễ gần với bình dân, bênh vực bình dân. Khổng Tử quan niệm “dân vi
bản”, là nền tảng của đất nước, của chính trị, là bộ phận quan trọng của xã hội.
Vậy nên ông nhận thấy dù là chính thể nào, có là nhà cầm quyền nào đi chăng
nữa thì cũng luôn phải tuân theo thực hiện tốt ba chính sách là dưỡng dân, giáo
dân, chính hình để trị người và trị việc. Rõ ràng đây là quan niệm vừa có tính
định hướng vừa có tính xác định những nghĩa vụ, trách nhiệm của giai cấp thống
trị với dân. Trong chính sách trị dân của mình ông đặc biệt nhấn mạnh tới nhiệm
vụ “dưỡng dân”(chăm sóc, nuôi dưỡng dân) và xem đó là nhiệm vụ quan trọng
nhất. Vì theo Khổng Tử nếu nhà cầm quyền biết khéo nuôi dân thì nước trị và
nhà cầm quyền được dân quý ngược lại nếu nước loạn thì dân sẽ bỏ đi nơi khác
hoặc sẽ nổi loạn dẫn tới chính quyền không sớm muộn gì cũng mất. Về sau Tuân
Tử ở thế kỷ III trCN kế thừa và phát triển nên quan hệ chuyển hóa giữa vua và
dân viết trong “vua như con thuyền dân như sức nước, nước có thể đỡ thuyền
nhưng cũng có thể lật thuyền”.

Theo Khổng Tử thì việc thi ân rộng rãi nhằm cứu giúp dân là sự
nghiệp của thánh vương. Nhà cầm quyền nào biết thi ân cho dân chúng được ông
khen ngợi “Tử Sản có bốn điều hợp với đạo người quân tử: Giữ mình thì khiêm
cung, thờ vua thì kính cẩn, nuôi dân thì có ân huệ, sai dân thì hợp nghĩa”
[18,164]. Vì quan điểm ấy nên khi Nhiễm Cầu thu thuế nặng quá làm dân nghèo
đói khiến ông không nhận Nhiễm Cầu làm học trò của mình nữa.
Với Khổng Tử dưỡng dân được hiểu một cách cụ thể là làm sao cho
dân no đủ, giàu có. Điều đó được ông răn dạy Tử Cống “phép trị dân phải làm
cho dân “túc thực” rồi mới “túc binh”. Một khi muốn dân no đủ, giàu có thì việc
cần làm là giảm thuế nhẹ cho dân nhất là vào lúc thiên tai, mất mùa. Phải biết
tiết kiệm, không lãng phí, cái gì không có lợi cho dân thì không tiêu phí. Ông
yêu cầu phải khiến dân làm việc phải hợp thời tức sử dân dĩ thời, thực hiện chính
sách ít can thiệp vào đời sống của dân mà nếu có sai khiến dân thì làm sao cho
dân không oán thán. Khổng Tử còn chỉ rõ cần biết phân phối quân bình dân mới
không bị bóc lột và no đủ. Đó được xem là chính sách quan trọng nhất của ông
về trị dân “Khâu này nghe nói người có nước (tức vua), có nhà (tức các đại phu,
chủ các ấp phong) không lo nghèo thiếu mà lo sự phân phối không quân bình,
13


không lo ít dân mà lo xã tắc không yên. Phân phối quân bình thì dân không
nghèo, hòa thuận (vì không có sự bóc lột, tranh giành, không có người giàu quá,
kẻ nghèo quá) thì dân sẽ không ít (vì dân vui vẻ sống, nước trị thì dân ở các
nước quy tụ lại), như vậy xã tắc sẽ yên ổn, chính quyền không nghiêng đổ”
[18,167]. Trong phân phối quân bình, người có trách nhiệm lớn, người có tài
năng cao, người siêng năng thì được hưởng nhiều, nhiều, ít ra sao còn tùy thuộc
tiêu chuẩn của mỗi xã hội…
Bên cạnh “dưỡng dân” Khổng Tử còn đòi hỏi nhà cầm quyền nêu cao
việc giáo hóa dân. Ông luôn coi trọng và gần như giành gần hết cuộc đời mình
vào việc giáo hóa dân. Xuất phát từ quan niệm về dân, vai trò của dân và học

thuyết tính người mà ông khẳng định phải giáo hóa dân. Bản tính con người ban
đầu là giống nhau nếu như không được dạy dỗ tốt sẽ chuyển sang tàn ác. Khổng
Từ dồn nhiều tâm huyết cho việc dạy dân vì trước hết dạy dân là một cách yêu
dân. Dạy dân là một cách yêu dân có nghĩa mình muốn thành công thì cũng giúp
người khác thành công. Mặt khác một khi dân được giáo hóa thì dễ bề sai bảo,
dễ trị , làm tốt việc giáo hóa thì không cần cầm quyền mà nước cũng trị. Khổng
Tử không chỉ nêu vai trò của giáo hóa dân mà còn nêu ra cách thức thực hiện
giáo hóa dân cho nhà cầm quyền. Cách thức tốt nhất nhà cầm quyền với chính
trị, mọi triết lý chính trị ở Khổng Tử gồm có đức trị: người trị dân phải có đức,
trị dân qua đạo đức chứ không dùng bạo lực. Theo ông nhà cầm quyền cần ý
thức tự tu dưỡng bản thân từ đó dân mới nhìn vào mà tuân theo phép tắc, mới tự
giác theo mình thì nền cai trị mới bền. “Ông nói: “Nếu người trên chuộng lễ, thì
dân chẳng ai dám bất kính. Người trên chuộng nghĩa, thì dân chẳng ai dám bất
phục. Nếu người trên chuộng chữ tín, thì dân chẳng ai dám không phật lòng.
Được như vậy dân ở bốn phương sẽ địu con mà theo về””[3; 69]. Và ngược lại “
tự mình không đúng đắn, thì dẫu ra lệnh, dân cũng không theo.”[3; 69]. Sự tu
dưỡng ấy là liên tục, không chút ngưng nghỉ, không kể thời gian, hoàn cảnh.
Ngoài ra dạy dân còn là cách chỉ bảo cho con em sống trong nhà thì hiếu thảo
với cha mẹ ra ngoài thì biết kính nhường bậc lớn tuổi, lời nói phải giữ gìn, có ý
tứ, thành thật và biết yêu thương mọi người. Nước muốn trị thì cần hết sức chú
trọng đào tạo những người hội tụ đủ đức đủ tài. Khổng Tử luôn nhấn mạnh chủ
14


trương “đức trị” không thích dùng hình vì dùng hình chỉ là cách dành cho “có
hạng hạ ngu, không giáo hóa được”[27; 176].
Từ những quan điểm trên của Khổng tử cho thấy ông đã phần nào
nhận thức được vị trí của người dân trong xã hội là tạo nên trị hay loạn của đất
nước, thấy được sự cần thiết của việc gần gũi, động viên dân. Bên cạnh đó còn
đưa ra được những chính sách trị dân, chăn dân làm dân giàu có tạo dựng lòng

tin ở dân với giai cấp cầm quyền. Nhưng vì hoàn cảnh xuất thân, hoàn cảnh xã
hội và nhận thức của ông về chế độ phong kiến nên trong quan điểm về dân, vì
dân của ông quá nhấn mạnh tới khôi phục lại trật tự xã hội, bảo vệ chế độ và
ngai vàng phong kiến. Dân chỉ có thể khiến họ làm theo chứ không cần thiết
khiến họ biết vì sao phải làm như vậy. Vì quá quan tâm tới điều đó nên nó đã chi
phối cả hệ thống triết học của ông có phần làm giảm mất tính tiến bộ của tư
tưởng Khổng Tử.
Người học trò xuất sắc của Khổng Tử là Mạnh Tử tiếp tục kế thừa,
phát triển quan điểm của thầy mình về dân. Mạnh Tử (371 – 289 trCN) tên thật
là Mạnh Kha, chữ là Tử Dư thuộc dòng dõi Vương tộc nước Lỗ.
Giống như Khổng Tử, Mạnh Tử đã có một thời gian chu du các nước
để thuyết phục vua các nước chư hầu thực hành thuyết vương đạo nhân chính
của mình. Sau này những tư tưởng của ông được học trò tập hợp lại thành bộ
sách Mạnh Tử.
Nếu như Khổng Tử đã dạy “dân vi bang bản, bản cố bang minh”(dân là
gốc nước, nước có vững thì nước mới yên) thì Mạnh Tử đã nêu quan điểm hết
sức mới mẻ, tiến bộ, sâu sắc về dân ở quan niệm “dân vi quý”. Mạnh Tử đã
khẳng định “dân” là quan trọng nhất trong các yếu tố “dân”, “nước”, “vua”. Ông
quan niệm ở một nước thì dân là quý nhất vì dân là gốc nước, có dân mới có
nước, có nước thì mới lập nên vua. Dân bản tức tư tưởng “lấy dân là gốc” là nội
dung xuyên suốt học thuyết nhân chính của ông. Đường lối nhân chính của
Mạnh Tử xem bản chất con người là thiện, trị nước lâu dài phải dùng đức, thực
hiện điều nhân, điều chỉnh mọi mối quan hệ xã hội. Dân là vốn quý còn quan
trọng hơn cả vua nữa, không có dân ủng hộ thì kẻ thống trị mạnh đến mấy cũng
bị lật đổ. Mạnh Tử nêu lên trách nhiệm của giai cấp thống trị thực thi dân là nền
15


chính trị nhân nghĩa thu phục nhân tâm vì dân có vai trò, vị trí quyết định tới sự
thịnh suy của đất nước.

Vào giai đoạn lịch sử mà ông đang sống bấy giờ thật đáng quý khi
Mạnh Tử đã ý thức được đi từ tư tưởng nhân chính thì luôn phải đề cao dân, mọi
chủ trương, chính sách đề xướng phải từ dân mà ra, hướng tới dân, lợi của dân là
trên hết. Bằng tấm lòng tha thiết yêu thương dân ông chỉ ra ảnh hưởng trực tiếp
của dân tới thịnh suy, hưng vong của cả chế độ “các vị vua chư hầu có ba điều
phải coi là quý trọng: đất đai, dân chúng và chính sự, Người nào coi trọng châu
ngọc, tai ương ắt tới thân”[15; 1361].
Mạnh Tử sống vào thời đại lịch sử có thiên tử và chư hầu chiếm vị trí
quan trọng ở trong xã hội, nhà nước là hiện thân quyền lực tối cao của riêng vị
vua cùng tập đoàn phong kiến thống trị. Nhân dân vẫn chỉ là bộ phận thấp hèn
không có chút quyền lợi, không thể tham gia vào chính quyền. Họ không có
quyền lợi, không được phép đòi hỏi quyền lợi nhưng lại có nghĩa vụ tuyệt đối
tuân thủ theo đúng tất cả mệnh lệnh của giai cấp thống trị mà vua là quyền lực
tối thượng không thể nào làm trái. Mạnh Tử nêu ra các yếu tố gồm đất đai, nhân
dân và chính sự cũng nhắm tới nhắc nhở những người tầng lớp trên cần thấu
hiểu rõ vị trí của các bộ phận hợp thành nên xã hội trong đó có nhân dân.
Mạnh Tử cũng chủ trương phải xây dựng một chế độ “bảo dân” mà ở
đấy nhà vua hòa mình cùng công việc lao động của dân, chia sẻ vui buồn với họ
đó chính là đi vào thu phục dân tâm. Vua phải giữ được dân có vậy mới nắm
được thiên hạ, giữ được ngôi vị của mình nên “Mạnh Tử đã nói: “vì thế, được
dân chúng mến mộ ủng hộ thì có thể làm thiên tử; được thiên tử tin dùng thì có
thể làm vua chư hầu””[3; 74]. Vậy nên ông nêu điều kiện thực hiện cho người
cai trị giúp dân giàu để có lòng tin của dân. Trong đó chủ trương phải thi hành
chế độ điền địa là quan trọng hàng đầu. “Phải nói rằng ông là người đầu tiên
trong lịch sử Á Đông thấy được tầm quan trọng của người cày có ruộng, thấy
được sức lao động kết hợp với ruộng đất là nguồn gốc của ấm no, hạnh phúc, là
cơ sở để ràng buộc lòng tin của người dân lúc bấy giờ với triều đình”[25; 136].
Kế thừa thầy mình về chủ trương giáo hóa dân nên Mạnh tử cũng
xem đó là nhiệm vụ trọng yếu của việc trị nước. Mạnh Tử khẳng định bản chất
con người là thiện dù do trời ban song lại rất dễ mất nhất là ở thứ dân ngay từ

16


đầu đã đánh mất... Ông kịch liệt lên án những vị vua tàn ác, bất nhân đàn áp bóc
lột dân. Khi biết cách giáo hóa dân tốt thì thu phục được lòng tin yêu của dân
nghe theo ý mình. Về phép trị nước Mạnh Tử nhấn mạnh chỉ có đức trị là biện
pháp cai trị chủ yếu và hữu hiệu còn bạo lực chỉ là nhất thời. Đường lối trị nước
được vạch một cách cụ thể, hệ thống mà trước hết là giải quyết ruộng đất rồi
giảm bớt hình phạt tiếp tới giảm nhẹ thuế và cuối cùng là mở trường dạy lễ
nghĩa cho dân. Mạnh Tử xem nhiệm vụ của nhà vua không chỉ là làm cho dân
giàu lên không thôi mà cốt lõi là giáo hóa. Nếu “dân không có giáo hóa thì chỉ là
loài vật: “Lẽ thường của con người là như thế này: cơm no áo ấm, rỗi rãi nhàn hạ
mà không được dạy dỗ, giáo hóa thì cách sống sẽ gần như loài cầm thú” và
không có việc ác nào mà họ không dám làm”[3; 82]. Ông dạy nếu dùng sức để
con người ta quy hàng mình là không thế mà chỉ làm họ khiếp sợ thôi còn nếu
dùng đức cảm hóa họ thì thế mới là phục thực sự. Muốn được lòng dân thì cần
phải biết thương dân đã, đã được lòng dân thì sẽ biết thương dân. Rõ ràng ở đây
đạo nhân đã chuyển từ lý thuyết sang hành động đúc kết nên phương pháp trị
dân dựa trên nền tảng đạo nhân.
Sau Khổng Tử thì Mạnh Tử đã có bước phát triển mới về dân, quan
tâm tới dân, đề cao dân nhưng ông vẫn chưa thể vượt qua hạn chế của người
thầy của mình. Ông hướng tới “bảo dân”, “chăn dân” của ông nói về dân song
xét một cách sâu xa vẫn là để bảo vệ lợi ích của giai cấp thống trị nắm quyền
trong xã hội phong kiến. Và hơn nữa ông chia con người trong xã hội thành hai
hạng người là những người lao tâm và người lao lực. Mạnh Tử cho rằng những
người thuộc tầng lớp quý tộc, vua chúa được xếp vào những người lao tâm vì họ
có tài năng, có đức nắm giữ vai trò trị dân, sống dựa vào dân. Số đông nhân dân
lao động là những người lao lực, họ là lực lượng phục tùng, làm việc để nuôi
sống những người lao tâm như vua chúa, tầng lớp quý tộc. Ông mặc nhiên cho
sự phân công hai hạng người trong xã hội ấy là tất yếu, quy luật tự nhiên phù

hợp quy luật chung của tiến trình phát triển xã hội. Mạnh Tử khẳng khái “không
có quân tử thì lấy ai trị dân quê, không có dân quê thì lấy ai nuôi quân tử”.
Vấn đề vai trò, vị trí của nhân dân lao động trong xã hội được Khổng
Tử và Mạnh Tử quan tâm từ khá sớm. Họ đã nhận thấy vai trò của dân như lực
lượng sản xuất to lớn và có ảnh hưởng nhất định tới sự thịnh suy - hưng vong
17


của chế độ chính trị, sự ổn định của xã hội. Song ở cách nhìn bị chi phối bởi lập
trường giai cấp thống trị nên với họ không phải tất cả người dân đều là “quý”,
đều là “bản”. Dân được đặt trong quan hệ đối lập với tầng lớp trị dân do sự khác
nhau về tài trí và đạo đức. Rồi từ đó tầng lớp trị dân được gọi là người hiền,
quân tử, lớp “lao tâm” còn bị trị là tiểu nhân, người “lao lực”. Vì khác nhau tài
trí, đạo đức mà dẫn đến khác nhau về địa vị, vai trò. Nguyên do của tư tưởng ấy
bởi vì “tư tưởng nhà Nho là tư tưởng của giai cấp thống trị phong kiến, tiếng nói
của họ đại diện cho giai cấp phong kiến”[25; 133], nên tư tưởng của họ không
thể vượt ra khỏi hạn chế thời đại ấy.
1.1.3. Truyền thống nhân ái cao cả và cố kết cộng đồng cao của dân tộc
Việt Nam
Truyền thống nhân ái cao cả và cố kết cộng đồng cao của dân tộc
Việt Nam chính là sợi chỉ đỏ xuyên suốt tư tưởng của Nguyễn Trãi nói chung và
triết lý “dân là gốc” của ông nói riêng. Đấy chính là giá trị truyền thống vốn có
xưa nay tạo nên bản lĩnh dân tộc bền vững mà mọi âm mưu thâm độc hòng xóa
bỏ không thế lay chuyển nổi. Truyền thống ấy “là tư tưởng có chiều sâu của
nhận thức và là tư tưởng xuất phát của sự nảy nở và phát triển của cả ý thức hệ
lịch sử Việt Nam”[10; 60].
Truyền thống dân tộc ta, đất nước ta bắt nguồn từ điều kiện sinh
hoạt vật chất của xã hội Việt Nam, từ nhu cầu gìn giữ, bảo tồn mình trong hoàn
cảnh chiến đấu chống ngoại xâm và thiên tai đầy biến động. Vì lẽ đó mà không
phải ngẫu nhiên dân tộc ta ngay từ thủa hồng hoang của loài người đã được ghi

lại bằng các truyền thuyết Thạch Sanh-Lý Thông, truyền thuyết Thánh Gióng…
Khi lịch sử ta chưa thể viết sách chỉ lưu truyền bằng miệng thì thế hệ ông cha ta
đã biết lưu giữ lại qua các truyền thuyết. Đất nước nhỏ bé bị xâm lăng dù Thạch
Sanh có đủ vũ khí, sức mạnh để giết thù nhưng đã không dùng tới mà chỉ “dùng
tiếng đàn nhân nghĩa bắt quân thù phải hàng phục. Khi quân thù thất bại, Thạch
Sanh không để chúng đói ra về mà ban cho chúng niêu cơm nhân nghĩa của dân
tộc, khiến kẻ thù khiếp sợ vì ăn mãi không hết. Tấm lòng nhân nghĩa ấy của Việt
Nam, không đụng tới thì thôi, hễ đụng tới thì sinh sôi nảy nở, kẻ thù làm sao ăn
hết được”[38; 11]. Đấy là minh chứng cho lòng nhân ái cao cả của dân tộc ở thế
thắng nhưng không kiêu, yêu hòa bình chứ không hiếu chiến. Đặc biệt là sức
18


mạnh Thạch Sanh dũng mạnh, hào kiệt là thế song chỉ ra tay diệt trừ lũ quái thú
như trăn tinh, đại bàng chứ không xuống tay với con người, không muốn lấy đi
sinh mạng của bất cứ ai dù đó là địch hay ta. Lòng nhân ái ấy không cao siêu gì
mà chân thực ở chỗ rất nâng niu, trân trọng mạng sống con người, làm triết lý để
hành động, tha thứ “đánh kẻ chạy đi chứ không đánh kẻ chạy lại”.
Mỗi người chúng ta ai cũng ít nhất một lần được nghe về chàng Gióng
đã lên ba tuổi vẫn chưa biết nói, biết đi nhưng khi giặc Ân kéo tới đã vươn vai
lớn lên đánh giặc cứu nước. Cậu bé ấy như hình ảnh một dân tộc nhỏ bé nhưng
không cam chịu bị đè nén, áp bức mà đã vươn mình gánh vác trên vai trọng
trách lịch sử: bảo vệ động lập, tự do cho đất nước. Không kể đó là đứa bé lên ba
nhưng dám đứng lên bảo vệ non sông, không cam chịu ách nô lệ thì muôn người
như một đều tin tưởng đi theo. Mỗi người cứu nước theo một cách riêng, có
hành động riêng về: cậu Gióng ra trận còn mọi người chung sức nuôi Gióng lớn,
rèn dũa vũ khí cho Gióng nhưng mục đích cuối cùng vẫn là đánh đuổi kẻ thù ra
khỏi đất nước để lập lại hòa bình. Trước sự xâm lăng của ngoại bang mọi người
dân chung nhau từng nong cà thúng cơm nuôi Gióng lớn lên đủ sức gánh vác
nhiệm vụ lịch sử giao phó. Sự chung lòng ấy là sức mạnh liên tục được tăng lên

đủ cho Gióng vươn vai lớn lên ra trận, đủ sức đánh trả giặc xâm lăng. Mọi vũ
khí bị hỏng hết thì Gióng lại dùng chính bụi tre đằng ngà để đánh địch. Sao
không phải là cây khác? Sao không phải là một cây mà là cả khóm tre? Một cây
tre chẳng thể nào quật ngã quân thù. Chỉ có sức mạnh hợp nên từ nhiều cây tre
sẽ đẩy lui được lũ bạo tàn cũng như Gióng chỉ có thể đủ sức ra trận khi được cả
làng nuôi dưỡng mà thôi. Sự hóa thân thành thánh của Gióng là biểu hiện cho
dân tộc quyết chiến cho mọi kẻ thù. Đấy là tấm gương minh chứng cho lòng yêu
nước, tính cố kết cộng đồng, đồng lòng của một dân tộc bất khuất.
Theo tiến trình lịch sử nước nhà từ thời đại các vua Hùng, thời đại các
nước Văn Lang, Âu Lạc vấn đề chống ngoại xâm giữ gìn biên cương, tổ quốc
luôn là vấn đề cấp bách mang tính diệt vong hay tồn tại của một dân tộc thì
truyền thống nhân ái cao cả và cố kết cộng đồng cao vẫn luôn tỏa sáng, giữ vai
trò quan trọng. Mặt khác “suốt một nghìn năm thống trị nước ta, kẻ địch đã dùng
mọi thủ đoạn tàn bạo để nô dịch dân ta, đồng hóa dân tộc ta. Không thể nào tồn
tại được nếu như dân tộc đã không biểu lộ một ý chí kiên cường, liên tục đấu
19


tranh để giải phóng đất nước”[17; 571]. Những thử thách từ thiên tai và nạn
ngoại xâm đòi hỏi nhân dân ta từ đời này sang đời khác luôn phải biết yêu
thương nhau, chung lưng đấu cật, nâng đỡ để phát huy sức mạnh tập thể cùng hy
sinh, bền bỉ đấu tranh cho vận mệnh chung gạt đi những tư lợi riêng mình. Tinh
thần cố kết cao khiến văn hóa của kẻ xâm lược không những không thể đồng hóa
được dân ta mà còn quay lại phục tùng quy luật phát triển bên trong của nền văn
hóa nước ta.
Một lần nữa trong chính những giá trị tư tưởng của Nguyễn Trãi,
truyền thống nhân ái cao cả và cố kết cộng đồng cao của dân tộc được kế thừa và
phát triển nâng lên tầm cao của thời đại.
1.2. Nhân tố chủ quan
Vào thế kỷ XV có nhiều danh nhân, chí sĩ tài năng nhưng chưa ai có được

trí tuệ kiệt xuất như ông. Nguyễn Trãi là nhà tư tưởng lớn của dân tộc mà “tư
tưởng của ông đạt tới tầm cao của thời đại, ông đã khái quát lên được những vấn
đề mang tính thời đại, những vấn đề có tính quy luật của công cuộc cứu nước và
dựng nước, chỉ ra được tầm quan trọng của nhận thức lý luận trong hoạt động
thực tiễn, từ đó nâng tư duy của dân tộc lên trình độ mới”[7; 40]. Khi nói tới cơ
sở hình thành và phát triển triết lý “dân là gốc” của Nguyễn Trãi thì tài năng, trí
tuệ thiên bẩm và đạo đức cao đẹp giữ vai trò quyết định với việc hình thành tư
tưởng của ông. “Vì tư tưởng bao giờ cũng là sản phẩm tư duy trí tuệ của con
người, do con người sáng tạo và khái quát trên cơ sở nhận thức nhân tố khách
quan”[7; 45].
Yếu tố hàng đầu có tính ảnh hưởng, quyết định tới tài năng của ông
chính là truyền thống gia đình, dòng họ Nguyễn Trãi. Nguyễn Trãi hiệu Ức Trai
(1380-1442) vốn quê ở Chi Ngại, lộ Lạng Giang nay thuộc Chí Linh – Hải
Dương. Ông xuất thân trong gia đình dòng dõi, khoa bảng, từng nắm giữ những
chức tước lớn trong triều. Thân sinh của ông là Nguyễn Phi Khanh (trước đây là
Nguyễn Ứng Long) nổi tiếng thông minh hơn người song vì nhà nghèo nên đi
dạy học ở nhà quan tư đồ Trần Nguyên Đán rồi có cảm tình và lấy Nguyễn Thị
Thái – con gái của quan tư đồ làm vợ. Nguyễn Phi Khanh sau này cũng học và
đậu tới tiến sĩ. Quan tư đồ Trần Nguyên Đán là vị tôn thất nhà Trần, “vốn dòng
thần minh…từng ôm cái chí xuất trần. Thanh thiên bạch nhật, tỏ rõ tấm lòng
20


trung với nước”[34; 196]. Người ông ngoại kính yêu luôn ở bên nuôi dưỡng
Nguyễn Trãi từ khi sinh ra và lớn lên bằng những lời dạy thấm đẫm truyền thống
dân tộc, đạo lý làm người. Từ ông ngoại cho tới cha đều là những nho sĩ uyên
bác có kiến thức sâu rộng và chí hướng cao đẹp cùng lòng nhiệt thành yêu nước,
nhất là Trần Nguyên Đán từng nổi danh là người từng đọc ba vạn cuốn sách.
Người cha đồng thời là người thầy dạy đầu tiên đã hướng ông học đọc sách,
hướng cho ông tới”vườn chư tử, bề lục kinh”. Ông ngoại không chỉ truyền cho

kiến thức mà còn mang tới những kinh nghiệm phong phú của lịch sử trước kia
để lại, lịch sử đương thời còn có nên ngay từ nhỏ Nguyễn Trãi đã phần nào có
thêm vốn hiểu biết, bản lĩnh vững vàng để quan sát và thể nghiệm việc đời.
Không uổng công chăm lo dạy dỗ của cha và ông ngoại, Nguyễn Trãi từ
rất sớm bộc lộ trí tuệ hơn người, chăm lo mài dùi kinh sử và mới 20 tuổi ông đã
đậu Thái học sinh (tiến sĩ) dưới triều Hồ rồi làm Ngự sử đài. “Trong khi được
ông và cha giảng văn, dạy chữ Nguyễn Trãi cũng được học ở hai người thân tâm
hồn”[44; 12] được tiếp thu những vốn sống từ gia đình và truyền thống cùng tiếp
thu những kiến thức đương thời đã góp phần hình thành nên tư tưởng Nguyễn
Trãi có những nét riêng không một ai cùng thời có được. Nguyễn Trãi đón nhận
lòng “cao đẹp của những người trí thức gắn bó với nhân dân, học ở ông ngoại
tấm lòng thương nhân dân đến bạc đầu”[44; 13]. Cũng chính vì thế dù cuộc đời
ông đã trải qua bao biến cố lịch sử và “với mỗi biến cố đó do hoàn cảnh của gia
đình và bản thân, ông đều đứng trên đỉnh cao của người trong cuộc để đón nhận
thông tin, để ngẫm nghĩ và phân tích, để đánh giá và tìm ra con đường thoát.
Chính những điều đó làm cho nhận thức của ông năng động, sáng suốt”[33; 46].
Quả thật là đến giai đoạn lịch sử Nguyễn Trãi đang sống, tư tưởng của
dân tộc ta trong cái truyền thống vốn có đã làm cơ sở của cộng đồng dân tộc tồn
tại muôn đời bền vững song theo tiến trình lịch sử còn có sự hiện diện của Nho
giáo, Phật giáo, Lão giáo truyền bá vào nước ta theo những con đường khác
nhau. Vào Việt Nam ba dòng tư tưởng ấy không tranh giành quyền ảnh hưởng,
bài xích nhau mà có sự liên kết tạo nên hiện trạng được gọi là tam giáo đồng
nguyên. Nho giáo dần khẳng định vị trí của mình và dần thay thế vị vai trò của
Phật giáo trong mối quan hệ tam giáo ấy. Nguyễn Trãi đã chịu ảnh hưởng rất lớn
của Nho giáo vì khi từ nhỏ đã được nuôi dưỡng, hấp thụ kiến thức Nho học từ
21


cha và ông của mình truyền dạy. Ông tiếp thu nguồn lớn tri thức từ sách Thánh
hiền của Nho giáo nhưng cách đón nhận lại có nét khác biệt so với những người

cùng thời "Có thể nói “ nếu hình dung Nho giáo là một đường thẳng thì tư tưởng
Nguyễn Trãi là một đường quanh co cùng hướng, lượn quanh, không bao giờ
trùng mà cũng không bao giờ đi quá xa đường thẳng – đó là một sự lựa chọn;
Nguyễn Trãi lựa chọn cho mình và cho cả dân tộc”[29; 114]. Cách tiếp thu và xử
lý những vốn tri thức cũng là sự khác biệt khi không quá phụ thuộc, rập khuôn
cứng nhắc mà với ông lý luận luôn gắn với thực tiễn và song hành, mang hơi thở
của cuộc sống.
Nét đặc biệt hơn nữa là “Nguyễn Trãi không chỉ dừng lại ở Nho giáo.
Bộ óc vĩ đại của nhà tri thức ấy đã tiếp thu toàn bộ kiến thức đương thời. Ngoài
Nho giáo, ông đã đọc và nghiên cứu các loại sách có trong tay: từ giáo lý nhà
Phật đến tư tưởng Lão Trang, từ các tác gia thời Tiên Tần cho đến những quyển
sách mới nhất được du nhập”[43; 340]. Những kiến thức ông tiếp nhận và sử
dụng như làm thêm hành trang để chiêm nghiệm và hành động. Điểm mới mẻ
hơn nữa của ông là vừa học kiến thức sách vở vừa đi vào cuộc sống để tìm ra lời
đáp cho những điều mà sách vở đã viết hoặc chưa viết. Tuy xuất thân “danh gia
vọng tộc” nhưng từ nhỏ ông được dạy lối sống rất giản dị, mộc mạc và sau đó
thời gian lưu lạc suốt 10 năm là quãng thời gian ghi dấu sâu đậm nơi tâm trí ông
về dân.
Qua những yếu tố về bản thân, gia đình đã tạo nên những nét riêng về
phong cách suy nghĩ, hành động của Nguyễn Trãi về sau mà không lặp lại với ai.
1.3. Một số nội dung cơ bản về triết lý “dân là gốc” của Nguyễn Trãi
1.3.1. Phạm trù dân và vai trò, vị trí của “dân” trong tư tưởng của
Nguyễn Trãi
Phạm trù dân như chúng ta đã biết có nguồn gốc từ rất sớm trong quan
niệm của Nho giáo và khi vào nước ta tư tưởng ấy được đón nhận theo chiều
hướng tích cực. Nguyễn Trãi mang trong lòng mình lòng yêu nước thương dân
vô bờ bến, không quản ngại dốc sức đồng lòng cùng nghĩa quân Lam Sơn chiến
đấu cho sự nghiệp giải phóng dân tộc. Nghiên cứu về sự nghiệp và đóng góp của
ông đã cho ta thấy “Nguyễn Trãi là người đầu tiên trong lịch sử tư tưởng Việt
22



Nam đã nhấn mạnh về vai trò của nhân dân lao động trong lịch sử. Đây là những
nhân tố tư tưởng dân chủ của ông”[44; 100].
Khác hẳn những tư tưởng của các nhà Nho đương thời, ở Nguyễn Trãi
có cái nhìn mới, nhận thức mới về dân. “Không có gì là lạ khi chúng ta thấy
Nguyễn Trãi nhắc đến dân rất nhiều lần trong các tác phẩm của ông – 155
lần”[6; 37]. Quan niệm về dân ở Nguyễn Trãi rất rộng, là toàn thể nhân dân lao
động không hề có ranh giới, cấp bậc cao thấp. Nếu những Nho sĩ khác nhìn nhận
về dân mang nặng tính “bề trên”, “kể cả” thì trong tư tưởng Nguyễn Trãi dân là
những con người bình dị, gần gũi quen thuộc, là “những dân đen” đang bị “thui
trên lò bạo ngược”, là “những con đỏ” bị “vùi dưới hầm tai vạ”, “những manh lệ
tứ phương” ở những nơi “trong thôn cùng xóm vắng” trực tiếp làm ra của cải vật
chất cho xã hội. Với ông yêu dân là yêu nước,yêu nước là yêu dân và hơn hết
dân chính là lực lượng quyết định tới phát triển xã hội. Trước ông Trần Quốc
Tuấn đã nêu cao tư tưởng “khoan thư sức dân đế là kế sâu gốc bền rễ”, đoàn kết
với dân, tổ chức dân, dưỡng dân. “Dưới con mắt của Trần Quốc Tuấn thì nhân
dân chính là nơi chứa chất tiềm lực kinh tế và quốc phòng bảo đảm cho sự vững
chắc của nền độc lập và chủ quyền của đất nước”[38; 49].
Nguyễn Trãi đánh giá cao vai trò của dân vì theo ông nhân dân là lực
lượng to lớn có sức mạnh “úp thuyền mới rõ sức dân như nước”. Với Nguyễn
Trãi thì dân có vai trò quyết định “mến người có nhân là dân mà chở thuyền và
lật thuyền cũng là dân”[28; 87]. Dân được xem là số đông, là cơ sở của xã hội, là
lực lượng chính trong chiến tranh bảo vệ đất nước và sản xuất của cải vật chất
cho xã hội vào thời bình đồng thời xây dựng những công trình, kiến trúc có quy
mô to lớn đều do sức lao động của dân. Nếu không có sức dân, không có dân
đồng tình thì một vị vua cầm quyền trị nước có tài giỏi như thế nào cũng không
thể nào làm hết tất cả những công việc ấy. Bởi thế ông khuyên giai cấp nắm
quyền không được phép phung phí của dân mà phải luôn nhớ tới công lao của
họ.

Lực lượng ấy có sức mạnh, vị trí quan trọng trong việc lật đổ những
triều đại phong kiến phản động, một ông vua tham tàn… Điều ấy được minh
chứng sống động qua bài học từ lịch sử chứng kiến những cuộc đấu tranh của
nông nô, nô tỳ đã làm cho nhà Trần suy sụp, nhà Hồ vì không có được lòng dân
23


tin theo nên đã để mất nước vào tay giặc Minh, giặc Minh sang cướp bóc, trấn
áp dân ta tàn bạo đã bị toàn dân đứng lên đánh bại….Xuất phát từ cách nhìn như
vậy nên Nguyễn Trãi cùng với Lê Lợi đã tổ chức và đoàn kết sức dân hợp nên
đội quân hùng mạnh dưới ngọn cờ chính nghĩa đánh đuổi giặc Minh ra khỏi biên
giới nước ta. Trong nhận thức của Nguyễn Trãi thì nhân dân là những người có
phẩm chất cao thượng, có lý tưởng, hướng tới cái đẹp chứ không chỉ là công cụ
phục vụ cho sự thống trị của giai cấp trên. Nhận thức ấy đã vượt lên hẳn tư
tưởng của Nho giáo và những bậc tiền bối đi trước chưa nhìn nhận đúng về vai
trò, vị trí của dân trong quản lý xã hội.
Với nhà sĩ phu phong kiến ấy dân không phải là giai cấp thấp hèn mà
là đối tượng cần biết ơn, cần ca ngợi, đáng khâm phục. Theo suốt chiều dài tư
tưởng của Nguyễn Trãi cho thấy ông luôn đánh giá rất cao vai trò, vị trí của nhân
dân mặc dù cùng thời điểm ấy cho tới mãi về sau ít người nhận thức được, hành
động được như vậy. Bằng cả cuộc đời mình ông đã từng bước một hoàn thành
những điều mình trăn trở, dành cho nhân dân.
1.3.2 “Dân vi quý” và “Dân là gốc” trong sự nghiệp dựng và giữ
nước của Nguyễn Trãi.
Triết lý “dân là gốc” của Nguyễn Trãi là sự vận dụng tài tình vào lĩnh
vực chính trị. Nguyễn Trãi suốt đời dành tâm huyết của mình gắn bó, quan tâm
tới dân. Ông đau xót trước cảnh nhân dân sống trong chiến tranh loạn lạc, đau
xót lầm than. Dân là nền tảng của nước nhà vậy mà dân tình đang quằn quại, rên
xiết dưới móng vuốt kẻ thù, phải làm sao để giải phóng dân, làm sao để dân an
bình, ấm no? Những trăn trở ấy ngày đêm thôi thúc ông tìm ra con đường đuổi

giặc cứu nước và câu trả lời không gì khác “Con đường cứu nhân dân chính là
con đường nhân dân tự cứu mình”[17; 601]. Nguyễn Trãi đã lập luận đanh thép
với giặc Minh rằng “đem đại nghĩa để thắng hung tàn. Lấy chí nhân để thay
cường bạo”. Ông ra lời kêu gọi đông đảo mọi người tham gia tạo sức mạnh của
cuộc chiến tranh chính nghĩa, nhân nghĩa để đoàn kết dân : quân đi tới đâu nghĩa
thanh vang tới đó, dân chúng bảo nhau cùng đi theo, giờ đây không còn bất cứ
ranh giới, rào cản nữa khi tất cả “dân đen”, “con đỏ”….cùng đồng lòng diệt giặc.
Nhờ sự ủng hộ ấy mà nghĩa quân của Lê Lợi đã đi qua những trở ngại, khó khăn
24


tưởng chừng không thể vượt nổi như địch bao vây tứ phía, thiếu lương thực vũ
khí…để chiến đấu thắng thù cùng cất lên khúc ca khải hoàn.
“Từ phát hiện ra sức mạnh, huy động được sức mạnh của dân vào cuộc
chiến tranh giải phóng dân tộc, đặc biệt là sau khi cuộc chiến tranh đã kết thúc,
Nguyễn Trãi không quên nhắc đến họ với một vị trí xứng đáng”[27; 42]. Đây là
điều hoàn toàn mới mà so với các cuộc đấu tranh từng diễn ra trong lịch sử có sự
tham gia của nhân dân. Lịch sử đấu tranh chống xâm lăng của dân tộc ta từ trước
khởi nghĩa Lam Sơn thì yếu tố quyết định vẫn luôn là nhân dân nhưng quyền lợi
sau chiến tranh của họ hầu như không được quan tâm tới. Trước đây dân ở tư
tưởng Khổng Tử rồi tới Mạnh Tử có vị trí quan trọng, có ảnh hưởng lớn tới thịnh
suy đất nước, củng cố vị trí của giai cấp cai trị song lại xem đó là công cụ phục
vụ cho giai cấp trên chứ không có chút quyền lợi nào hết. Những nhà tư tưởng
ấy mới chỉ thấy cái họ cần ở dân mà lảng quên cái người dân cần họ mang tới là
gì. Trong bài thơ Thần của Lý Thường Kiệt không chút bóng dáng của dân chủ
yếu nhấn mạnh tới vua, ngai vàng nhà Lý và cũng có nghĩa cuộc chiến chống
Tống ấy bảo vệ tổ quốc đồng thời bảo vệ vị trí đế vương. Về sau này bài Hịch
tướng sĩ của Trần Hưng Đạo được xem như bản ca bất hủ về chủ nghĩa yêu nước
của nhân dân ta nhưng bài hịch cũng chỉ nói tới thái ấp, gia tài bổng lộc của
tướng sĩ, quan lại, quý tộc Trần. Điều đó cho thấy thời Lý-Trần biết thực hiện

đoàn kết dân tham gia chiến tranh bảo vệ tổ quốc để đi tới thắng lợi tuy nhiên “
tư tưởng về dân và những chính sách quan tâm đến đời sống của nhân dân không
xuất phát từ mục tiêu vì dân mà nó xuất phát từ những nhu cầu chính trị của giai
cấp phong kiến. Cho nên, mặc dù nhân dân được coi trọng song điều đó không
nằm ngoài khuôn khổ của ý thức hệ phong kiến mà ngược lại là nhằm phục vụ
cho giai cấp phong kiến. Họ không khỏi bị xem là hạng người thấp kém cần
được sai khiến và sử dụng để củng cố chế độ bóc lột phong kiến và quyền hạn
tối thượng của nhà vua”[36; 28]. Riêng Nguyễn Trãi dù mượn lối diễn đạt của
Nho giáo nhưng khác với Khổng Tử - người tuy thấy được vai trò của dân song
lại có phần coi nhẹ, khinh miệt thì Nguyễn Trãi coi trọng và thấy được vai trò
quyết định trong lịch sử của dân với tư cách là quần chúng nhân dân. Vào thời
bình ông lại có chủ trương “đem dân mựa nước mất lòng dân”(trông coi dân để
giữ nước không được mất lòng dân). Nhiều lần ông kiến nghị với triều đình phải
25


×