Tải bản đầy đủ (.doc) (21 trang)

Tiểu luận: “Một số vấn đề về phát triển bền vững ở Việt Nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (136.74 KB, 21 trang )

MỞ ĐẦU
Phát triển bền vững là một trong những cụm từ được đề cập nhiều tại Đại hội
Đảng toàn quốc lần thứ XI. Trong “Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 20112020”, Đảng ta đã đưa ra 5 quan điểm phát triển, trong đó, đặc biệt nhấn mạnh đến
quan điểm “Phát triển nhanh gắn liền với phát triển bền vững, phát triển bền vững
là yêu cầu xuyên suốt trong Chiến lược”.
Phát triển bền vững là sự phát triển phải bảo đảm có sự kết hợp chặt chẽ,
hợp lý, hài hòa giữa tăng trưởng kinh tế, phát triển xã hội và bảo vệ môi trường, đó
là sự phát triển “không gây trở ngại cho việc đáp ứng nhu cầu của các thế hệ mai
sau”. Vấn đề phát triển bền vững đã được nhiều quốc gia trên thế giới quan tâm và
trở thành yêu cầu phát triển của toàn cầu.
Ở nước ta, quan điểm phát triển bền vững đã được Đảng Cộng sản Việt
Nam nhận thức từ khá lâu, phát triển và ngày càng hoàn thiện về nội dung. Trong
Chiến lược Phát triển kinh tế - xã hội 1991–2000, Đảng ta đã khẳng định: “Tăng
trưởng kinh tế phải gắn liền với tiến bộ và công bằng xã hội, phát triển văn hóa,
bảo vệ môi trường”; Chiến lược Phát triển kinh tế - xã hội 2001–2010 nhấn mạnh:
“Phát triển nhanh, hiệu quả và bền vững, tăng trưởng kinh tế đi đôi với thực hiện
tiến bộ, công bằng xã hội và bảo vệ môi trường”.
Để hiểu rõ hơn về vấn đề phát triển bền vững ở nước ta hiện nay, tôi chọn
vấn đề: “Một số vấn đề về phát triển bền vững ở Việt Nam hiện nay” làm tên đề
nghiên cứu cho bài tiểu luận của mình.


NỘI DUNG
Chương 1
LÝ LUẬN CHUNG VỀ PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG
Phát triển bền vững là một khái niệm mới nhằm định nghĩa một sự phát
triển về mọi mặt trong hiện tại mà vẫn phải bảo đảm sự tiếp tục phát triển
trong tương lai xa. Khái niệm này hiện đang là mục tiêu hướng tới nhiều quốc gia
trên thế giới, mỗi quốc gia sẽ dựa theo đặc thù kinh tế, xã hội, chính trị, địa lý, văn
hóa... riêng để hoạch định chiến lược phù hợp nhất với quốc gia đó.
Thuật ngữ "phát triển bền vững" xuất hiện lần đầu tiên vào năm 1980 trong


ấn phẩm Chiến lược bảo tồn Thế giới (công bố bởi Hiệp hội Bảo tồn Thiên nhiên
và Tài nguyên Thiên nhiên Quốc tế - IUCN) với nội dung rất đơn giản: "Sự phát
triển của nhân loại không thể chỉ chú trọng tới phát triển kinh tế mà còn phải tôn
trọng những nhu cầu tất yếu của xã hội và sự tác động đến môi trường sinh thái
học".
Khái niệm này được phổ biến rộng rãi vào năm 1987 nhờ Báo cáo
Brundtland (còn gọi là Báo cáo Our Common Future) của Ủy ban Môi trường và
Phát triển Thế giới - WCED (nay là Ủy ban Brundtland). Báo cáo này ghi rõ: Phát
triển bền vững là "sự phát triển có thể đáp ứng được những nhu cầu hiện tại mà
không ảnh hưởng, tổn hại đến những khả năng đáp ứng nhu cầu của các thế hệ
tương lai..." 1. Nói cách khác, phát triển bền vững phải bảo đảm có sự phát triển
kinh tế hiệu quả, xã hội công bằng và môi trường được bảo vệ, gìn giữ. Để đạt
được điều này, tất cả các thành phần kinh tế - xã hội, nhà cầm quyền, các tổ chức
xã hội... phải bắt tay nhau thực hiện nhằm mục đích dung hòa 3 lĩnh vực
chính:kinh tế - xã hội - môi trường.


Hai khái niệm gắn liền với quan điểm trên:
Khái niệm "nhu cầu"...
Khái niệm của sự giới hạn mà tình trạng hiện tại của khoa học kỹ thuật và sự
tổ chức xã hội áp đặt lên khả năng đáp ứng của môi trường nhằm thỏa mãn nhu cầu
hiện tại và tương lai.
Sau đó, năm 1992, tại Rio de Janeiro, các đại biểu tham gia Hội nghị về Môi
trường và Phát triển của Liên hiệp quốc đã xác nhận lại khái niệm này, và đã gửi đi
một thông điệp rõ ràng tới tất cả các cấp của các chính phủ về sự cấp bách trong
việc đẩy mạnh sự hòa hợp kinh tế, phát triển xã hội cùng với bảo vệ môi trường.
Năm 2002, Hội nghị thượng đỉnh Thế giới về Phát triển bền vững (còn gọi là
Hội nghị Rio +10 hay Hội nghị thượng đỉnh Johannesburg) nhóm họp
tại Johannesburg, Cộng hòa Nam Phi với sự tham gia của các nhà lãnh đạo cũng
như các chuyên gia về kinh tế, xã hội và môi trường của gần 200 quốc gia đã tổng

kết lại kế hoạch hành động về phát triển bền vững 10 năm qua và đưa ra các quyết
sách liên quan tới các vấn đề về nước, năng lượng, sức khỏe, nông nghiệp và sự đa
dạng sinh thái.
Tháng 4 năm 1968: Tổ chức The Club of Rome được sáng lập, đây là một tổ
chức phi chính phủ hỗ trợ cho việc nghiên cứu "Những vấn đề của thế giới" - một
cụm từ được đặt ra nhằm diễn tả những vấn đề chính trị, văn hóa, xã hội, môi
trường và công nghệ trên toàn cầu với tầm nhìn lâu dài. Tổ chức này đã tập hợp
những nhà khoa học, nhà nhiên cứu, nhà kinh doanh cũng như các nhà lãnh
đão của các quốc gia trên thế giới (bao gồm cả Tổng thống Liên xô Mikhail
Sergeyevich Gorbachyov và Rigoberta Menchú Tum). Trong nhiều năm, The Club
of Rome đã công bố một số lượng lớn các báo cáo, bao gồm cả bản báo cáo The
Limits to Growth (Giới hạn của sự tăng trưởng) - được xuất bản năm 1972 đề cập
tới hậu quả của việc tăng dân số quá nhanh, sự hữu hạn của các nguồn tài nguyên...


Tháng 6 năm 1972: Hội nghị của Liên Hợp Quốc về con người và môi
trường được tổ chức tại Stockhom, Thụy Điển được đánh giá là là hành động đầu
tiên đánh dấu sự nỗ lực chung của toàn thể nhân loại nhằm giải quyết các vấn đề về
môi trường. Một trong những kết quả của hội nghị lịch sử này là sự thông qua bản
tuyên bố về nguyên tắc và kế hoạch hành động chống ô nhiễm môi trường. Ngoài
ra, Chương trình Môi trường của Liên Hợp Quốc cũng được thành lập.
Năm 1984: Đại hội đồng Liên hiệp quốc đã ủy nhiệm cho bà Gro Harlem
Brundtland, khi đó là Thủ tướng Na Uy, quyền thành lập và làm chủ tịch Ủy ban
Môi trường và Phát triển Thế giới (World Commission on Environment and
Development - WCED), nay còn được biết đến với tên Ủy ban Brundtland. Tới
nay, ủy ban này đã được ghi nhận có những công hiến rất giá trị cho việc đẩy mạnh
sự phát triển bền vững.
Năm 1987: Hoạt động của Ủy ban Môi trường và Phát triển Thế giới trở nên
nóng bỏng khi xuất bản báo cáo có tựa đề "Tương lai của chúng ta" (tựa tiếng
Anh: Our Common Futur và tiếng Pháp là Notre avenir à tous, ngoài ra còn thường

được gọi là Báo cáo Brundtland). Bản báo cáo này lần đầu tiên công bố chính thức
thuật ngữ "phát triển bền vững", sự định nghĩa cũng như một cái nhìn mới về cách
hoạch định các chiến lược phát triển lâu dài.
Năm 1989: Sự phát hành và tầm quan trọng của Our Common Futur đã được
đưa ra bàn bạc tại Đại hội đồng Liên hiệp quốc và đã dẫn đến sự ra đời của Nghị
quyết 44/228 - tiền đề cho việc tổ chức Hội nghị về Môi trường và Phát triển của
Liên hiệp quốc.
Năm 1992: Rio de Janeiro, Brasil là nơi đăng cai tổ chức Hội nghị thượng
đỉnh về Trái Đất, tên chính thức là Hội nghị về Môi trường và Phát triển của Liên
hiệp quốc (UNCED). Tại đây, các đại biểu tham gia đã thống nhất những nguyên
tắc cơ bản và phát động một chương trình hành động vì sự phát triển bền vững có
tên Chương trình Nghị sự 21 (Agenda 21). Với sự tham gia của đại diện hơn 200


nước trên thế giới cùng một số lượng lớn các tổ chức phi chính phủ, hội nghị đã
đưa ra bản Tuyên ngôn Rio về môi trường và phát triển cũng như thông qua một số
văn kiện như hiệp định về sự đa dạng sinh học, bộ khung của hiệp định về sự biến
đổi khí hậu, tuyên bố về nguyên tắc quản lý, bảo tồn rừng...
Năm 2002: Hội nghị thượng đỉnh Thế giới về Phát triển bền vững nhóm họp
tại Johannesburg, Nam Phi là dịp cho các bên tham gia nhìn lại những việc đã làm
10 năm qua theo phương hướng mà Tuyên ngôn Rio và Chương trình Nghị sự 21
đã vạch ra, tiếp tục tiến hành với một số mục tiêu được ưu tiên. Những mục tiêu
này bao gồm xóa nghèo đói, phát triển những sản phẩm tái sinh hoặc thân thiện với
môi trường nhằm thay thế các sản phẩm gây ô nhiễm, bảo vệ và quản lý các
nguồn tài nguyên thiên nhiên. Hội nghị cũng đề cập tới chủ đề toàn cầu hóa gắn
với các vấn đề liên quan tới sức khỏe và phát triển. Các đại diện của các quốc gia
tham gia hội nghị cũng cam kết phát triển chiến lược về phát triển bền vững tại mỗi
quốc gia trước năm 2005. Việt Nam cũng đã cam kết và bắt tay vào hành động
với Dự án VIE/01/021 "Hỗ trợ xây dựng và thực hiện Chương trình Nghị sự 21 của
Việt Nam" bắt đầu vào tháng 11/2001 và kết thúc vào tháng 12/2005 nhằm tạo tiền

đề cho việc thực hiện Vietnam Agenda 21.
Có thể nói rằng mọi vấn đề về môi trường đều bắt nguồn từ phát triển.
Nhưng con người cũng như tất cả mọi sinh vật khác không thể đình chỉ tiến hoá và
ngừng sự phát triển của mình. Con đường để giải quyết mâu thuẫn giữa môi trường
và phát triển là phải chấp nhận phát triển, nhưng giữ sao cho phát triển không tác
động một cách tiêu cực tới môi trường. Do đó, năm 1987 Uỷ ban Môi trường và
Phát triển của Liên Hợp Quốc đã đưa ra khái niệm Phát triển bền vững:
"Phát triển bền vững là sự phát triển nhằm thoả mãn các nhu cầu hiện tại của
con người nhưng không tổn hại tới sự thoả mãn các nhu cầu của thế hệ tương lai".
Ðể xây dựng một xã hội phát triển bền vững, Chương trình Môi trường Liên
Hợp Quốc đã đề ra 9 nguyên tắc:


1. Tôn trọng và quan tâm đến cuộc sống cộng đồng.
2. Cải thiện chất lượng cuộc sống của con người.
3. Bảo vệ sức sống và tính đa dạng của Trái đất.
4. Quản lý những nguồn tài nguyên không tái tạo được.
5. Tôn trọng khả năng chịu đựng được của Trái đất.
6. Thay đổi tập tục và thói quen cá nhân.
7. Ðể cho các cộng đồng tự quản lý môi trường của mình.
8. Tạo ra một khuôn mẫu quốc gia thống nhất, thuận lợi cho việc phát triển và
bảo vệ.
9. Xây dựng một khối liên minh toàn cầu.

Chương 2
PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG Ở VIỆT NAM


Khái niệm “Phát triển bền vững” được biến đến ở Việt Nam vào những
khoảng cuối thập niên 80 đầu thập niên 90. Mặc dù xuất hiện ở Việt Nam khá

muộn nhưng nó lại sớm được thể hiện ở nhiều cấp độ.
Về mặt học thuật, thuật ngữ này được giới khoa học nước ta tiếp thu nhanh.
Đã có hàng loạt công trình nghiên cứu liên quan mà đầu tiên phải kể đến là công
trình do giới nghiên cứu môi trường tiến hành như "Tiến tới môi trường bền vững”
(1995) của Trung tâm tài nguyên và môi trường, Đại học Tổng hợp Hà Nội. Công
trình này đã tiếp thu và thao tác hoá khái niệm phát triển bền vững theo báo cáo
Brundtland như một tiến trình đòi hỏi đồng thời trên bốn lĩnh vực: Bền vững về
mặt kinh tế, bền vững về mặt nhân văn, bền vững về mặt môi trường, bền vững về
mặt kỹ thuật. "Nghiên cứu xây dựng tiêu chí phát triển bền vững cấp quốc gia ở
Việt Nam - giai đoạn I” (2003) do Viện Môi trường và phát triển bền vững, Hội
Liên hiệp các Hội Khoa học kỹ thuật Việt Nam tiến hành. Trên cơ sở tham khảo bộ
tiêu chí phát triển bền vững của Brundtland và kinh nghiệm các nước: Trung Quốc
Anh, Mỹ, các tác giả đã đưa ra các tiêu chí cụ thể về phát triển bền vững đối với
một quốc gia là bền vững kinh tế, bền vững xã hội và bền vững môi trường. Đồng
thời cũng đề xuất một số phương án lựa chọn bộ tiêu chí phát triển bền vững cho
Việt Nam. "Quản lý môi trường cho sự phát triển bền vững (2000) do Lưu Đức Hải
và cộng sự tiến hành đã trình bày hệ thống quan điểm lý thuyết và hành động quản
lý môi trường cho phát triển bền vững. Công trình này đã xác định phát triển bền
vững qua các tiêu chí: bền vững kinh tế, bền vững môi trường, bền vững văn hóa,
đã tổng quan nhiều mô hình phát triển bền vững như mô hình 3 vòng tròn kinh kế,
xã hội, môi trường giao nhau của Jacobs và Sadler (1990), mô hình tương tác đa
lĩnh vực kinh tế, chính trị, hành chính, công nghệ, quốc tế, sản xuất, xã hội của
WCED (1987), mô hình liên hệ thống kinh tế, xã hội, sinh thái của Villen (1990),
mô hình 3 nhóm mục tiêu kinh tế, xã hội, môi trường của Worl Bank.


Chủ đề này cũng được bàn luận sôi nổi trong giới khoa học xã hội với các
công trình như "Đổi mới chính sách xã hội - Luận cứ và giải pháp" (1997) của
Phạm Xuân Nam. Trong công trình này, tác giả làm rõ 5 hệ chỉ báo thể hiện quan
điểm phát triển bền vững: Phát triển xã hội, phát triển kinh tế, bảo vệ môi trường,

phát triển chính trị, tinh thần, trí tuệ, và cuối cùng là chỉ báo quốc tế về phát triển.
Trong một bài viết gần đây đăng trên Tạp chí Xã hội học (2003) của tác giả Bùi
Đình Thanh với tiêu đề "Xã hội học Việt Nam trước ngưỡng của thế kỷ XXI" tác
giả cũng chỉ ra 7 hệ chỉ báo cơ bản về phát triển bền vững: Chỉ báo kinh tế, xã hội,
môi trường, chính trị, tinh thần, trí tuệ, văn hoá, vai trò phụ nữ và chỉ báo quốc tế.
Nhìn chung các công trình nghiên cứu này có một điểm chung là thao tác hoá khái
niệm phát triển bền vững theo Brundtland, tuy nhiên cần nói thêm rằng những thao
tác này còn mang tính liệt kê, tính thích ứng của các chỉ báo với thực tế Việt Nam,
cụ thể là ở cấp độ địa phương, vùng, miền, hay các lĩnh vực hoạt động của đời
sống xã hội vẫn chưa được làm rõ.
Lý thuyết phát triển bền vững được Việt Nam tiếp nhận từ những năm cuối
thập niên 80 đầu thập niên 90 của thế kỷ trước. Nhận thấy những hạn chế, bất cập,
khiếm khuyết trầm trọng trong các lý thuyết phát triển trước đây trên thế giới,
Đảng và Chính phủ Việt Nam hưởng ứng một cách mạnh mẽ những tư tưởng, các
chương trình phát triển bền vững của Liên hợp quốc và xây dựng Chương trình
nghị sự 21 của Việt Nam. Phát triển bền vững đã trở thành một trong những tư
tưởng

chủ

đạo

trong

chính

sách

phát


triển

của

Việt

Nam.

Tháng 8-2004, Thủ tưởng chính phủ ra quyết định số 153/2004/QĐ - TTg ban
hành Định hướng chiến lược phát triển bền vững ở Việt Nam, nhằm phát triển bền
vững đất nước trên cơ sở kết hợp chặt chẽ, hợp lý, hài hoà giữa phát triển kinh tế,
phát triển xã hội, phát triển văn hoá, phát triển con người, bảo vệ môi trường. Định
hướng chiến lược phát triển bền vững ở Việt Nam nêu lên những thách thức mà
Việt Nam phải đối mặt, đề ra những chủ trương, chính sách, công cụ pháp luật và


những lĩnh vực hoạt động ưu tiên cần được thực hiện để phát triển bền vững trong
thế kỷ XXI. Đây cũng là một chiến lược khung bao gồm những định hướng lớn,
làm cơ sở pháp lý để các bộ, ngành, địa phương, các tổ chức và cá nhân có liên
quan triển khai thực hiện và phối hợp hành động, nhằm bảo đảm phát triển bền
vững đất nước, đồng thời thể hiện sự cam kết của Việt Nam với quốc tế. Trong
định hướng triển khai thực hiện, Việt Nam không ngừng bổ sung và phát triển
đểĐịnh hướng chiến lược phát triển bền vững phù hợp với từng giai đoạn phát
triển, cập nhật tri thức và tư tưởng mới, đổi mới tư duy, hoàn thiện chiến lược phát
triển bền vững ở Việt Nam. Định hướng chiến lược phát triển bền vững ở Việt
Nam tập trung những hoạt động ưu tiên cần được lựa chọn và thực hiện trong 10
năm tới, bao gồm: những lĩnh vực kinh tế; những lĩnh vực xã hội; những lĩnh vực
sử dụng tài nguyên thiên nhiên, bảo vệ môi trường và kiểm soát ô nhiễm.
Chủ trương và mục tiêu phát triển bền vững của Việt Nam được thể hiện rừ
trong các Văn kiện đại hội của Đảng và trong các chương trình hành động của

Chính phủ. Phương châm phát triển đất nước trong những năm gần đây là chủ
động kết hợp giữa mục tiêu tăng trưởng kinh tế với mục tiêu công bằng và tiến bộ
xã hội; phát triển con người và bảo vệ môi trường; phát triển nhanh, hiệu quả và
bền vững. Văn kiện Đại hội X của Đảng viết: "Phát triển nhanh phải đi đôi với phát
triển bền vững… Phải gắn tăng trưởng kinh tế với phát triển văn hoá, phát triển
toàn diện con người, thực hiện dân chủ, tiến bộ và công bằng xã hội, tạo nhiều việc
làm, cải thiện đời sống, khuyến khích làm giàu hợp pháp đi đôi với xoá đói giảm
nghèo. Từng bước thu hẹp khoảng cách phát triển giữa các vùng. Phải rất coi trọng
bảo vệ và cải thiện môi trường ngay trong từng bước phát triển. Phát triển kinh tế
phải đi đôi với bảo đảm ổn định chính trị - xã hội, coi đây là tiền đề, điều kiện để
phát

triển

nhanh



bền

vững"(1).

Để thực hiện thành công mục tiêu phát triển bền vững, Chương trình Nghị sự 21
của Việt Nam đề ra 8 nguyên tắc, trong đó 5 nguyên tắc quan trọng:


Một là, xây dựng đất nước giàu mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh
là mục tiêu và cũng là nguyên tắc nhất quán trong mọi giai đoạn phát triển; lấy con
người làm trung tâm của phát triển bền vững; đáp ứng ngày càng cao và đầy đủ
hơn các nhu cầu vật chất và tinh thần của mọi tầng lớp nhân dân.

Hai là, phát triển kinh tế là nhiệm vụ trung tâm; bảo đảm an ninh lương
thực, năng lượng để phát triển bền vững, bảo đảm vệ sinh an toàn thực phẩm; kết
hợp chặt chẽ, hợp lý, hài hoà với phát triển xã hội; khai thác hợp lý, sử dụng tiết
kiệm và hiệu quả tài nguyên thiên nhiên trong giới hạn cho phép về mặt sinh thái
và bảo vệ môi trường bền vững; từng bước thực hiện nguyên tắc "mọi mặt kinh tế,
xã hội, môi trường đều cùng có lợi".
Ba là, bảo vệ và cải thiện chất lượng môi trường phải được coi là một yếu tố
không thể tách rời của quá trình phát triển. Nghiêm túc áp dụng rộng rãi nguyên
tắc: người gây thiệt hại đối với tài nguyên và môi trường thì phải bồi hoàn, coi yêu
cầu bảo vệ môi trường là một tiêu chí quan trọng trong đánh giá về phát triển bền
vững.
Bốn là, quá trình phát triển phải bảo đảm đáp ứng một cách công bằng nhu
cầu của thế hệ hiện tại và không gây trở ngại tới cuộc sống của các thế hệ tương
lai. Tạo lập điều kiện để mọi người và cộng đồng trong xã hội có cơ hội bình đẳng
để phát triển, được tiếp cận với những nguồn lực chung và được phân phối công
bằng lợi ích công cộng, tạo ra nền tảng vật chất, tri thức và văn hoá tốt đẹp cho các
thế hệ mai sau, sử dụng tiết kiệm những tài nguyên không thể tái tạo, phát triển hệ
thống sản xuất sạch và thân thiện với môi trường.
Năm là, khoa học và công nghệ được phát triển như là nền tảng và động lực
cho công nghiệp hoá và hiện đại hoá, thúc đẩy phát triển nhanh, mạnh và bền vững
đất nước; đồng thời, sự phát triển khoa học - công nghệ là sự thể hiện trình độ phát
triển của xã hội.


Những nhóm vấn đề cơ bản cần ưu tiên cho phát triển của Việt Nam hiện
nay và trong những năm tới là:
Thứ nhất, xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân; bảo đảm quyền lực nhà nước thực sự
thuộc về nhân dân; chế độ xã hội do nhân dân làm chủ; tự do mưu cầu hạnh phúc
vì sự phát triển của xã hội và của gia đình, cá nhân; hoàn thiện pháp luật, thể chế,
hệ thống văn bản quy phạm, bảo đảm tự do hoạt động kinh tế - xã hội; đặc biệt là

hoàn thiện hệ thống luật và thế chế kinh tế phù hợp với thông lệ quốc tế.
Thứ hai, đẩy mạnh hội nhập quốc tế, gắn chặt việc xây dựng nền kinh tế độc
lập với hội nhập sâu vào kinh tế quốc tế, phát triển nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa; hướng trọng tâm vào xây dựng kinh tế tri thức, trước hết
là các lĩnh vực có lợi thế so sánh của Việt Nam; phát triển đồng bộ các yếu tố kinh
tế thị trường; xây dựng các thị trường: sức lao động, đất đai, bất động sản, tài chính
- tiền tệ, khoa học - công nghệ, thị trường trí tuệ, v.v..
Thứ ba, giữ vững và phát triển chế độ xã hội chủ nghĩa, xã hội phát triển hài
hoà vật chất - tinh thần, con người - thiên nhiên, hiện tại - tương lai, quốc gia quốc tế; phát triển nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, nhằm phát huy sức mạnh toàn dân
cho sự phát triển xã hội, phát triển con người, phát triển nền văn hoá tiên tiến đậm
đà bản sắc dân tộc.
Thứ tư, tìm khâu đột phá để phát triển tăng tốc và phát triển rút ngắn: đi tắt
đón đầu, phát triển khoa học - công nghệ mới, công nghệ đỉnh cao, phù hợp với
Việt Nam; phát huy các ngành nghề truyền thống có đặc thù và bản sắc Việt Nam
và tận dụng đặc điểm con người Việt Nam (thông minh, sáng tạo, tiếp thu nhanh
cái mới) và những điều kiện tự nhiên, văn hoá dân tộc đặc sắc cho những đột phá(2).
Thứ năm, đổi mới và nâng cao hiệu quả đầu tư, đa dạng hoá các nguồn vốn
và hình thức đầu tư; tạo cơ chế đặc biệt để thu hút mạnh các nguồn đầu tư nước
ngoài có năng lực tài chính, công nghệ và kinh nghiệm xây dựng kết cấu hạ tầng,


giao thông, năng lượng. Nâng cao năng lực cạnh tranh của các ngành mũi nhọn có
ưu thế của Việt Nam, của các doanh nghiệp. Tìm khâu đột phá để phát triển du lịch,
dịch vụ trong lợi thế đặc điểm của đất nước.
Thứ sáu, tập trung nâng cao chất lượng giáo dục, đào tạo và phát triển nguồn
nhân lực theo hướng thoả mãn nhanh lực lượng phát triển công nghệ cao, thực hiện
phát triển tăng tốc và rút ngắn. Phát triển nông nghiệp - nông thôn - nông dân theo
hướng hiện đại. Giải quyết tốt những vấn đề an sinh xã hội. Bảo vệ và nuôi dưỡng
môi trường thiên nhiên, môi trường xã hội. Bảo vệ và phát huy các giá trị văn hoá
dân tộc.

Thứ bảy, bảo đảm an ninh, quốc phòng, bảo vệ vững chắc nền độc lập, chủ
quyền quốc gia và toàn vẹn lãnh thổ.
(1) ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, NXB Chính trị
quốc gia, Hà Nội, 2006, tr.178-179.
(2) Theo GS P.Krugman thì Việt Nam tham gia thị trường thế giới khi mức
độ chuyên môn hoá ngày càng cao, nên có thể tận dụng cơ hội để đổi mới công
nghệ, tăng năng suất lao động, tăng thu nhập cho người lao động; Việt Nam có thể
đi nhanh hơn các nước đã đi trước nếu biết lựa chọn tạo ra được những sản phẩm
tinh xảo hơn, có giá trị gia tăng cao hơn (Nhân Dân cuối tuần, số 23, ngày 7-62009).
Nếu như có một nhiệm vụ duy nhất của Việt Nam trong thế giới toàn cầu
hóa này thì đó phải là và chỉ có thể là phải phát triển bền vững, bởi phát triển bền
vững là xu hướng tất yếu mà tất cả nhân loại cần phải hướng tới trong giai đoạn
“tư duy lại, thiết kế lại, vận hành lại” toàn thể và toàn diện mô hình phát triển như
hiện nay.
Thách thức đầu tiên và cơ bản nhất đối với nhiệm vụ phát triển bền vững của
Việt Nam đó chính là hiểu khái niệm phát triển bền vững của Việt Nam, kiểu Việt
Nam là như thế nào. Những định nghĩa về phát triển bền vững của các tổ chức


quốc tế, của các học giả đương đại hiện nay chỉ là những định nghĩa có tính chất cơ
bản; từ nền tảng cơ bản đó, chúng ta phải định nghĩa ra một nội hàm phát triển bền
vững của riêng Việt Nam, phù hợp với hoàn cảnh và điều kiện của Việt Nam. Nội
hàm của khái niệm phát triển bền vững cho Việt Nam không thế giống với sự phát
triển bền vững của Hoa Kỳ, của Trung Quốc, của Nhật Bản, của Âu châu, của các
nước Đông Nam Á khác,… Sự lệ thuộc về mặt khái niệm sẽ là sự khởi đầu cho rất
nhiều sự lệ thuộc khác theo sau. Sự tự chủ về mặt khái niệm là tiền đề cho sự chủ
động và sáng tạo trong rất nhiều lĩnh vực cho quốc gia Việt Nam.
Theo quan điểm nêu trên, sự phát triển bền vững của Việt Nam cần phải
được bổ sung 03 yêu cầu quan trọng để sự phát triển đó phải thật sự bền vững, đó
là: phải phát triển đúng với tiềm năng, phải phát triển mạnh hơn sức ép, và phải

phát triển xứng với cơ hội. Nếu sự phát triển của Việt Nam với những chỉ số tuyệt
đối dù có tốt đến đâu mà vẫn xa với cơ hội, vẫn yếu hơn sức ép, và vẫn kém xa cơ
hội thì sự phát triển đó chắc chắn thiếu tính bền vững.
Phát triển đúng với tiềm năng nội tại là một yêu cầu cơ bản vô cùng quan
trọng cho Việt Nam. Như chúng ta đã biết, mọi nguồn lực đều được coi là khan
hiếm, cần được sử dụng một cách đầy đủ và thông minh, từ nguồn lực của tài
nguyên thiên nhiên, vị trí địa lý, sức lao động đến văn hóa, tri thức, sáng tạo. Sự
lãng phí, các tiềm năng còn bị ngủ vùi là thực trạng có tính phổ biến ở Việt Nam
chúng ta.
Việt Nam đang ở một vị trí địa-chính trị-văn hóa rất nóng trong bản đồ phát
triển của thế giới. Với sự trỗi dậy mạnh mẽ của Trung Quốc và các quốc gia đối
trọng chiến lược, Việt Nam vừa có cơ hội để phát triển vừa đứng trước một sức ép
rất lớn và có tính toàn diện từ bên ngoài cả về an ninh, chính trị, kinh tế, văn hóa,
nhân khẩu học,... Một nhóm sức ép hay đe dọa mà toàn thể các quốc gia trên thế
giới cùng phải đối mặt đó là các khủng hoảng toàn cầu về: kinh tế - tài chính,
lương thực, năng lượng, môi trường – biến đổi khí hậu, bệnh dịch, và khủng hoảng


nhân văn. Đặc biệt với vị trí địa lý của mình, với tình trạng dân số đông và y tế còn
hạn chế, Việt Nam chúng ta là một quốc gia hết sức nhạy cảm với những biến đối
khí hậu và bệnh dịch toàn cầu.
Toàn cầu hóa là một cuộc đua, một cuộc cạnh tranh trong việc nhận diện và
đi đúng các xu thế mới của thế giới. Cuộc cạnh tranh này đòi hỏi chúng ta vừa phải
thông minh, vừa phải năng động, vừa phải kiên định. Nếu không tận dụng được
quy luật tương thuộc trong thế giới mới này, quy luật về sự thắng thế của kinh tế
xanh, của quyền lực mềm và quyền lực thông minh, của sự phục hưng của các giá
trị phương Đông,… thì vị trí quốc gia trên đường đua quốc tế của Việt Nam sẽ
không thể thay đổi, hoặc có thay đổi thì đó sẽ là sự thụt lùi khi chúng ta không tận
dụng được các dòng chảy mới.
Ba yêu cầu của phát triển bền vững Việt Nam nêu trên không chỉ là của riêng

Việt Nam mà còn có tính đại diện chung cho rất nhiều các quốc gia đang phát triển
có quy mô nhỏ và trung bình trên thế giới, cho kể cả các quốc gia đã phát triển gần
như cực đỉnh về vật chất. Nếu chúng ta cam kết và thực hiện, lợi ích của Việt Nam
sẽ tương đồng với lợi ích của các quốc gia trên, sự phát triển bền vững trở thành
một phong trào toàn cầu có năng lực cộng hưởng cao.
Để phát triển bền vững, chúng ta phải nhận ra được một trong những nguyên
nhân nội tại hàng đầu làm cho chúng ta phát triển kém bền vững. Đó là do chúng ta
còn thiếu khát vọng lớn và yếu kém trong khả năng thực thi những điểm yếu ngàn
đời của người Việt, là căn bệnh âm tính trầm kha của văn hóa Việt. Vậy nên, đây
chính là cơ hội ngàn năm có một để chúng ta một lần cải sửa được sự âm tính này,
thực sự xây dựng được một nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.
Trong Chiến lược Phát triển kinh tế - xã hội 2011–2020, Đảng ta đã đề ra 5
quan điểm:
Thứ nhất, phát triển nhanh gắn liền với phát triển bền vững, phát triển bền
vững là yêu cầu xuyên suốt trong Chiến lược.


Thứ hai, đổi mới đồng bộ, phù hợp về kinh tế và chính trị vì mục tiêu xây
dựng nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng,
văn minh.
Thứ ba, mở rộng dân chủ, phát huy tối đa nhân tố con người; coi con người
là chủ thể, nguồn lực chủ yếu và là mục tiêu của sự phát triển.
Thứ tư, phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất với trình độ khoa học, công
nghệ ngày càng cao; đồng thời hoàn thiện quan hệ sản xuất trong nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Thứ năm, xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ ngày càng cao trong điều
kiện hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng.
5 quan điểm trên gắn bó và kết hợp hài hòa với nhau, trong đó quan điểm
phát triển bền vững được nhấn mạnh là “yêu cầu xuyên suốt của Chiến lược”.
Khi thảo luận về các dự thảo văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI,

vấn đề phát triển bền vững đã được nhiều đảng viên và các đại biểu Quốc hội quan
tâm, bởi thực tế công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa tuy đã đạt được những
thành tựu rất quan trọng nhưng lại đang đặt ra nhiều thách thức, có nguy cơ ảnh
hưởng đến sự phát triển bền vững nền kinh tế của đất nước.
Một trong những bài học kinh nghiệm rút ra từ thực tiễn quá trình thực hiện
Chiến lược Phát triển kinh tế xã hội 10 năm qua là “đặc biệt coi trọng chất lượng,
hiệu quả và tính bền vững của sự phát triển, bảo đảm ổn định kinh tế vĩ mô, giải
quyết hài hòa mối quan hệ giữa tốc độ và chất lượng tăng trưởng” . Thực tế, chúng
ta đã đạt được nhiều thành tựu phát triển kinh tế, nhưng sự phát triển đó chưa bền
vững. Chất lượng tăng trưởng, năng suất, hiệu quả, sức cạnh tranh của nền kinh tế
thấp, các cân đối kinh tế vĩ mô chưa vững chắc. Tăng trưởng kinh tế vẫn dựa nhiều
vào các yếu tố phát triển theo chiều rộng, chậm chuyển sang phát triển theo chiều
sâu. Các lĩnh vực văn hóa, xã hội có một số mặt yếu kém chậm được khắc phục,
nhất là về giáo dục, đào tạo và y tế; đạo đức, lối sống trong một bộ phận xã hội


xuống cấp. Môi trường ở nhiều nơi đang bị ô nhiễm nặng; tài nguyên, đất đai chưa
được quản lý tốt, khai thác và sử dụng kém hiệu quả, chính sách đất đai có mặt
chưa phù hợp. Thể chế kinh tế thị trường, chất lượng nguồn nhân lực, kết cấu hạ
tầng vẫn là những điểm nghẽn cản trở sự phát triển. Nền tảng để Việt Nam trở
thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại chưa được hình thành đầy đủ. Vẫn
đang tiềm ẩn những yếu tố gây mất ổn định chính trị-xã hội và đe dọa chủ quyền
quốc gia.
Cũng có ý kiến cho rằng, nếu phát triển bền vững thì khó có thể phát
triển nhanh được, sẽ dẫn đến nguy cơ nền kinh tế của ta tụt hậu. Thế nhưng, thực tế
đã khẳng định: Phát triển nhanh và bền vững có gắn kết hữu cơ với nhau. Phát triển
bền vững là cơ sở để phát triển nhanh, phát triển nhanh để tạo nguồn lực cho phát
triển bền vững. Để vừa phát triển nhanh, vừa phát triển bền vững, đòi hỏi hai vấn
đề này phải luôn gắn chặt với nhau trong quy hoạch, kế hoạch và chính sách phát
triển kinh tế - xã hội.

Nội dung của phát triển bền vững đã được Đảng ta xác định trong Chiến
lược Phát triển kinh tế-xã hội 2011-2020, đó là phát triển bền vững về kinh tế, giữ
vững ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm an ninh kinh tế. Đẩy mạnh chuyển dịch cơ
cấu kinh tế, chuyển đổi mô hình tăng trưởng, coi chất lượng, năng suất, hiệu quả,
sức cạnh tranh là ưu tiên hàng đầu, chú trọng phát triển theo chiều sâu, phát triển
kinh tế tri thức. Tăng trưởng kinh tế phải kết hợp hài hòa với phát triển văn hóa,
thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội; không ngừng nâng cao chất lượng cuộc
sống của nhân dân. Phát triển kinh tế - xã hội phải luôn coi trọng bảo vệ và cải
thiện môi trường, chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu. Trong quá trình phát
triển, phải đặc biệt quan tâm giữ vững ổn định chính trị - xã hội, tăng cường quốc
phòng, an ninh, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh
thổ để bảo đảm cho đất nước phát triển nhanh và bền vững.


Động lực then chốt của quá trình phát triển nhanh và bền vững là phát triển
khoa học và công nghệ . Hướng trọng tâm hoạt động khoa học, công nghệ vào
phục vụ công nghiệp hóa, hiện đại hóa, phát triển theo chiều sâu góp phần tăng
nhanh năng suất, chất lượng, hiệu quả và nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế.
Tăng trưởng bền vững là yêu cầu xuyên suốt của chiến lược phát triển kinh
tế-xã hội 2011-2020. Thế nhưng để thực hiện được yêu cầu này trong thực tiễn lại
là điều không đơn giản. Với bệnh thành tích về tăng trưởng, bệnh “phát triển kinh
tế theo phong trào” đã ăn sâu trong nhận thức của một số cán bộ, nhất là với các
cán bộ địa phương thì việc chuyển hướng phát triển sang phát triển bền vững chắc
chắn sẽ gặp nhiều khó khăn. Để đưa nhanh Nghị quyết của Đảng vào cuộc sống,
ngay từ cấp hoạch định chính sách ở Trung ương cần quyết tâm rất cao với những
giải pháp quyết liệt và được quán triệt tư duy ở tất cả các cơ quan xây dựng và thực
thi chính sách ở cả trung ương và địa phương. Theo các chuyên gia kinh tế, để khởi
động được sự phát triển bền vững trong thập kỷ này, bên cạnh những cơ chế chính
sách cho sự phát triển bền vững, rất cần những chính sách “nói không” với những
dự án đầu tư không mang lại nhiều hiệu quả phát triển bền vững hoặc có thể gây ra

những tác động bất lợi, kể cả về mặt xã hội, quốc phòng-an ninh hơn là những
khoản lợi nhuận kinh tế trước mắt.
Mặt khác, muốn phát triển bền vững, không chỉ có các chính sách về kinh tế
mà còn phải có chính sách về an sinh xã hội, phát triển nguồn nhân lực, bảo vệ môi
trường.


KẾT LUẬN
"Phát triển bền vững” có nội hàm rất rộng, mỗi thành tố trong đó đều có một
ý nghĩa riêng. Một mẫu hình phát triển bền vững là mỗi địa phương, vùng, quốc
gia… không nên thiên về thành tố này và xem nhẹ thành tố kia. Vấn đề là áp dụng
nó như thế nào ở các cấp độ trên và trong các lĩnh vực khác nhau của đời sống xã
hội.
Để chuyển hoá khái niệm phát triển bền vững từ cấp độ lý thuyết áp dụng
vào thực tiễn, khái niệm cần được làm sáng tỏ sau đó áp đụng trực tiếp đối với các
lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội.
"Phát triển bền vững” là khái niệm mới ở Việt Nam. Tiến hành xây dựng và
thao tác hoá khái niệm này phù hợp với thực tiễn đất nước và bối cảnh thế giới
hiện nay sẽ có ý nghĩa quan trọng. Các nghiên cứu khoa học môi trường, khoa học
xã hội, trong đó đặc biệt là kinh tế học, xã hội học, và luật học hy vọng sẽ có nhiều
đóng góp cho việc hoàn thiện hệ thống quan điểm lý luận về phát triển bền vững ở
nước ta trong những thập niên sắp tới.
Phát triển bền vững nhìn từ góc độ xã hội và văn hóa Từ giữa thập niên 80
đến nay, "phát triển bền vững" đã trở thành một ý niệm thời thượng. Nó là khẩu
hiệu của hàng trăm tổ chức quốc tế, đề tài của mấy cục hội nghị, hội thảo toàn cầu,
và một tiêu chuẩn quan trọng trong chiến lược phát triển của hầu hết mọi nước.


Nguyên thủy, nó phản ánh sự quan ngại đối với một số quốc gia muốn tăng trưởng
kinh tế vội vã, chọn cách phát triển thiển cận, miễn sao tăng thu nhập hiện tại cho

nhanh, mà không để ý đến những nguy hại dài lâu của lối phát triển ấy đến môi
trường sinh thái (tàn phá rừng, sa mạc hóa...), đến trữ lượng hữu hạn của tài
nguyên thiên nhiên (quặng mỏ, dầu hỏa, khí đốt).
Ý niệm "phát triển bền vững" nhấn mạnh đến khả năng phát triển kinh tế
liên tục lâu dài, không gây ra những hậu quả tai hại khó khôi phục ở những lĩnh
vực khác, nhất là thiên nhiên. Phát triển mà làm hủy hoại môi trường là một phát
triển không bền vững, phát triển mà chỉ dựa vào những loại tài nguyên có thể cạn
kiệt (mà không lo trước đến ngày chúng cạn kiệt thì phải làm sao) là một phát triển
không bền vững. Có người còn thêm rằng lối phát triển phụ thuộc quá nhiều vào
ngoại lực (như FDI) cũng là khó bền vững, vì nguồn ấy có nhiều rủi ro, không chắc
chắn. Nói ngắn gọn, phát triển là không bền vững nếu nó thật "nóng" đó không thể
giữ lâu, nền kinh tế chóng rơi vào khủng hoảng, hay ít nhất cũng chậm lại trong
tương lai.
Không thể chối cãi: "phát triển bền vững" là một ý niệm hữu ích, đáng lưu
tâm. Nhưng chỉ để ý đến liên hệ giữa môi trường sinh thái, tài nguyên thiên nhiên,
và tăng trưởng kinh tế là chưa khai thác hết sự quan trọng của ý niệm "bền vững".
Ý niệm ấy sẽ hữu ích hơn nếu được áp dụng vào hai thành tố nòng cốt khác của
phát triển, đó là văn hóa và xã hội.


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Đại học sư phạm Hà Nội, Viện Nghiên cứu Sư phạm, Dự án VIE/01/021,
“Đại cương về Phát triển bền vững”, Hà Nội, 2006. (Sách mượn tại thư
viện VIE).
2. Bộ Kế hoạch và đầu tư, Dự án VIE/01/021, “Chính sách Phát triển bền
vững ở Việt Nam – Thực trạng và khuyến nghị”, Hà Nội, tháng 1 năm
2006. (Sách mượn tại thư viện VIE).
3. Bộ Kế hoạch và đầu tư, Dự án VIE/01/021, “Định hướng Chiến lược
PTBV ở Việt Nam” (Chương trình nghị sự 21 của Việt Nam - Agenda 21),
Hà Nội, tháng 8 năm 2004. (Sách có tại khoa PTBV).

4. Thủ tướng chính phủ, Quyết định số 432/QĐ-TTg ngày 12/4/2012 “Phê
duyệt chiến lược PTBV Việt Nam giai đoạn 2011-2020”. (Có tại khoa
PTBV).


5. Tatyana P. Soubbotina, “Không chỉ là tăng trưởng kinh tế - Nhập môn về
Phát triển bền vững”, nxb. Văn hóa – Thông tin, H. 2005. (Sách có tại khoa
PTBV).



×