Tải bản đầy đủ (.pdf) (123 trang)

Các giải pháp nhằm nâng cao chất lượng đào tạo nghề gắn với tạo việc làm cho lao động thanh niên nông thôn trên địa bàn huyện chương mỹ hà nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.53 MB, 123 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ NÔNG NGHIỆP & PTNT

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LÂM NGHIỆP

--------------

NGUYỄN GIA TƯ

CÁC GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG ĐÀO TẠO
NGHỀ GẮN VỚI TẠO VIỆC LÀM CHO LAO ĐỘNG THANH NIÊN
NÔNG THÔN TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN CHƯƠNG MỸ - HÀ NỘI

LUẬN VĂN THẠC SỸ KINH TẾ

Hà Nội, 2013


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ NÔNG NGHIỆP & PTNT

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LÂM NGHIỆP

--------------

NGUYỄN GIA TƯ

CÁC GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG ĐÀO TẠO
NGHỀ GẮN VỚI TẠO VIỆC LÀM CHO LAO ĐỘNG THANH NIÊN


NÔNG THÔN TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN CHƯƠNG MỸ - HÀ NỘI

Chuyên ngành: Kinh tế Nông nghiệp
Mã số: 60 62 01 15

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:

TS. TRẦN VĂN DƯ

Hà Nội, 2013


1

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Đào tạo nghề và nâng cao chất lượng đào tạo nghề gắn với tạo việc làm
cho lao động nói chung và lao động thanh niên nói riêng là những nội dung
quan trọng, không thể thiếu trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội để
hướng tới sự phát triển bền vững được Đảng và nhà nước ta rất quan tâm.
Thanh niên là lực lượng lao động đông đảo hằng ngày tạo ra của cải
đóng góp cho sự phát triển kinh tế - xã hội đất nước. Những năm qua Đảng,
Nhà nước đã có nhiều chủ trương, chính sách khuyến khích đào tạo nghề cho
lao động thanh niên nông thôn nhằm phát triển kinh tế nông nghiệp, nông
thôn tạo việc làm tại chỗ cho lao động nông thôn nói chung và thanh niên
nông thôn nói riêng. Những chủ trương, chính sách đó, đang đi vào thực tế
cuộc sống nông thôn, từ đó nhiều cơ hội việc làm cho thanh niên nông thôn được
tạo ra, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế xã hội, phân bổ cơ cấu lao động hợp
lý hơn, giữ vững truyền thống văn hoá làng quê, xây dựng củng cố Đảng, chính
quyền địa phương và hệ thống tổ chức chính trị xã hội ở nông thôn.

Hiện nay, chất lượng đào tạo nghề vẫn chưa đáp ứng nhu cầu thị trường
lao động, khoảng cách về kỹ năng nghề, năng lực nghề nghiệp của lao động
Việt Nam so với nhiều nước trong khu vực vẫn là quá lớn. Đồng thời, cơ cấu
đào tạo nghề và trình độ đào tạo chưa hợp lý. Giáo viên dạy nghề còn thiếu về
số lượng, hạn chế về chất lượng. Sự tham gia của doanh nghiệp vào dạy nghề
còn hạn chế. Sự gắn bó giữa doanh nghiệp và các cơ sở dạy nghề còn hiếm
hoi nên đã xảy ra tình trạng doanh nghiệp thiếu lao động, còn sinh viên nghề
vẫn thất nghiệp.
Chương Mỹ là huyện bán sơn địa nằm ở phía Tây của Thủ đô Hà Nội,
thanh niên từ 15 đến 30 tuổi chiếm 23,8% dân số và chiếm 61% lực lượng lao
động của huyện. Tỷ lệ thanh niên thiếu việc làm từ độ tuổi 15 - 23 chiếm


2

33%. Mức đầu tư cho dạy nghề chưa tương xứng, trang thiết bị dạy nghề còn
lạc hậu. Nội dung, hình thức dạy nghề bước đầu có đổi mới, cơ cấu ngành
nghề phong phú, đa dạng, nhưng vẫn chưa thực sự bám sát đối tượng, chưa
theo kịp nhu cầu phát triển của thị trường lao động, tỷ lệ phải đào tạo lại lớn.
Vấn đề đặt ra là nâng cao chất lượng đào tạo nghề gắn với tạo việc làm cho
thanh niên nông thôn là vấn đề xã hội tồn tại trong nông thôn hiện nay và các
năm tới. Vì vậy, cần có những giải pháp thiết thực nhằm nâng cao chất lượng
đào tạo nghề giúp thanh niên tạo được việc làm ổn định đang là vấn đề được
Đảng và các cấp chính quyền ở Huyện quan tâm. Xuất phát từ những vấn đề
trên, em tiến hành nghiên cứu “Các giải pháp nhằm nâng cao chất lượng
đào tạo nghề gắn với tạo việc làm cho lao động thanh niên nông thôn trên
địa bàn huyện Chương Mỹ - Thành phố Hà Nội” làm luận văn tốt nghiệp.
2. Mục tiêu nghiên cứu
2.1. Mục tiêu chung
Nghiên cứu thực trạng đào tạo nghề, chất lượng đào tạo nghề gắn với

tạo việc làm cho lao động thanh niên nông thôn, từ đó đưa ra những giải pháp
nhằm nâng cao chất lượng đào tạo nghề gắn với tạo việc làm cho lao động
thanh niên nông thôn trên địa bàn huyện Chương Mỹ, Thành phố Hà Nội từ
nay đến năm 2015 và những năm tiếp theo.
2.2. Mục tiêu cụ thể
- Góp phần hệ thống hoá những vấn đề lý luận và thực tiễn về đào tạo
nghề, nâng cao chất lượng đào tạo nghề gắn với tạo việc làm cho lao động
thanh niên nông thôn;
- Đánh giá thực trạng đào tạo nghề, chất lượng đào tạo nghề, gắn đào
tạo nghề với tạo việc làm cho lao động thanh niên nông thôn; Phân tích những
nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng đào tạo nghề gắn với tạo việc làm cho lao động
thanh niên nông thôn trên địa bàn huyện Chương Mỹ trong những năm qua.


3

- Đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao chất lượng đào tạo nghề gắn với
tạo việc làm cho lao động thanh niên nông thôn trên địa bàn huyện Chương
Mỹ, Thành phố Hà Nội trong những năm tới.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là các vấn đề liên quan đến chất lượng
đào tạo nghề và gắn với tạo việc làm cho lao động thanh niên nông thôn.
3.2. Phạm vi nghiên cứu của đề tài
- Phạm vi về nội dung
Đi sâu phân tích đào tạo nghề, chất lượng đào tạo nghề trong nông thôn.
Đánh giá cơ cấu nghề và hiệu quả các hoạt động dạy nghề đến tạo việc
làm cho lao động thanh niên, nông thôn.
Đưa ra những giải pháp nhằm nâng cao chất lượng đào tạo gắn với tạo
việc làm cho lao động thanh niên nông thôn.

- Phạm vi về không gian: Đề tài được nghiên cứu trên địa bàn huyện
Chương Mỹ, Thành phố Hà Nội.
- Phạm vi về thời gian: Số liệu thu thập được từ các tài liệu đã công bố
trong khoảng thời gian từ năm 2008 - 2011, số liệu khảo sát điều tra từ tháng
7 đến tháng 11 năm 2012.
4. Nội dung nghiên cứu
4.1. Nội dung về lý luận
Những vấn đề lý luận và thực tiễn về đào tạo nghề, chất lượng đào tạo
nghề và gắn với tạo việc làm trong nông thôn theo các nội dung: khái niệm,
phân loại ngành nghề, vai trò của đào tạo nghề cho lao động nông thôn.
Ảnh hưởng của các nhân tố đến chất lượng đào tạo nghề và mối quan
hệ giữa đào tạo nghề và tạo việc làm cho lao động thanh niên nông thôn.


4

Kinh nghiệm đào tạo nghề, nâng cao chất lượng đào tạo nghề giải quyết
việc làm ở một số nước trên thế giới và ở Việt Nam
4.2. Nội dung về thực trạng
- Thực trạng đào tạo nghề trong nông thôn trên các lĩnh vực: Các nhóm
nghề Nông lâm nghiệp, nhóm nghề công nghiệp và xây dựng, nhóm nghề
thương mại và dịch vụ trong nông thôn.
- Thực trạng chất lượng đào tạo nghề được đánh giá trên các lĩnh vực:
Chương trình, giáo trình đào tạo; Đội ngũ giáo viên dạy nghề, phương
pháp giảng dạy; Cơ sở vật chất, trang thiết bị, máy móc dạy nghề, tài chính ...
- Thực trạng tạo việc làm của lao động thanh niên trên các lĩnh vực sản
xuất trong nông thôn.
- Thông tin về nhóm đối tượng lao động thanh niên điều tra theo nhóm
tuổi, theo giới tính và theo ngành kinh tế của các hộ gia đình.
- Kết quả đào tạo nghề và tạo việc làm của các nhóm đối tượng lao

động thanh niên điều tra trong nông thôn.
- Phân tích đánh giá hiệu quả của công tác dạy nghề của các nhóm đối
tượng lao động thanh niên điều tra.
- Đánh giá tác động ảnh hưởng của chất lượng đào tạo nghề đến tạo
việc làm cho lao động thanh niên nông thôn của các nhóm đối tượng điều tra
trên các mặt: Hiệu quả kinh tế, văn hóa xã hội trong nông thôn. Rút ra những
vấn đề cần tập trung giải quyết trong đào tạo nghề, nâng cao chất lượng đào
tạo nghề gắn với tạo việc làm cho lao động thanh niên nông thôn.
4.3. Nội dung về giải pháp
Để thúc đẩy đào tạo nghề, nâng cao chất lượng đào tạo nghề gắn với
giải quyết việc làm cho đối tượng là lao động thanh niên nông thôn ở huyện
Chương Mỹ, cần tiến hành đồng thời một số giải pháp được coi là chủ yếu sau:


5

- Trước hết phải xác định đúng đắn phương hướng đào tạo nghề và
nâng cao chất lượng đào tạo nghề.
- Quy hoạch các cơ sở dạy nghề và các nghề cần đào tạo trên địa bàn.
- Gắn phát triển sản xuất trong các làng nghề với nhu cầu cần đào tạo
nhằm thu hút lao động thanh niên trong nông thôn.
- Đẩy mạnh phát triển các khu công nghiệp tập trung trong nông thôn
để thu hút lao động nông thôn, từ đó tạo ra nhu cầu đào tạo công nhân kỹ
thuật cao.
- Đổi mới quản lý nhà nước về đào tạo nghề trong nông thôn, đảm bảo
thực hiện tốt các chính sách đào tạo nghề và giải quyết việc làm cho thanh
niên sau đào tạo nghề, nâng cao chất lượng và hiệu quả.


6


Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ
NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG ĐÀO TẠO NGHỀ GẮN VỚI
GIẢI QUYẾT VIỆC LÀM CHO LAO ĐỘNG THANH NIÊN NÔNG THÔN

1.1. Cơ sở lý luận về đào tạo, nâng cao chất lượng đào tạo nghề, về
tạo việc làm trong nông thôn
1.1.1. Khái niệm về đào tạo, đào tạo nghề, chất lượng đào tạo nghề
1.1.1.1. Khái niệm về đào tạo, đào tạo nghề và phân loại đào tạo nghề
- Về đào tạo
Đào tạo là việc huấn luyện, giảng dạy, tập huấn cho một nhóm người,
một tổ chức, một xã hội về một vấn đề hoặc nội dung nào đó và nhằm đạt đến
một mục tiêu nhất định [9].
Nội dung đào tạo bao gồm hai lĩnh vực chủ yếu, đó là: Đào tạo kiến thức
phổ thông (giáo dục phổ thông) và đào tạo kiến thức chuyên nghiệp (giáo dục
chuyên nghiệp).
- Về đào tạo nghề
Đào tạo nghề là quá trình trang bị kiến thức nhất định về trình độ chuyên
môn nghiệp vụ cho người lao động để họ có thể đảm nhận một công việc nhất
định. Hay nói cách khác đó là quá trình truyền đạt, lĩnh hội những kiến thức
và kỹ năng cần thiết để người lao động có thể thực hiện một công việc nào đó
trong tương lai.
Luật Dạy nghề ban hành ngày 29 tháng 11 năm 2006 định nghĩa: “Dạy
nghề (đào tạo nghề) là hoạt động dạy và học nhằm trang bị kiến thức, kỹ năng
và thái độ nghề nghiệp cần thiết cho người học nghề để có thể tìm được việc
làm hoặc tự tạo việc làm sau khi hoàn thành khoá học”.
Mục tiêu dạy nghề là đào tạo nhân lực kỹ thuật trực tiếp trong sản xuất,
dịch vụ có năng lực thực hành nghề tương xứng với trình độ đào tạo, có đạo



7

đức, lương tâm nghề nghiệp, ý thức kỷ luật, tác phong công nghiệp, có sức
khoẻ nhằm tạo điều kiện cho người học nghề sau khi tốt nghiệp có khả năng tìm
việc làm, tự tạo việc làm hoặc học lên trình độ cao hơn, đáp ứng yêu cầu của sự
công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Đào tạo nghề bao gồm: đào tạo công nhân kỹ thuật (công nhân cơ khí,
điện tử, xây dựng, sửa chữa …); đào tạo nhân viên nghiệp vụ (nhân viên đánh
máy, nhân viên lễ tân, nhân viên bán hàng, nhân viên tiếp thị …) và phổ cập
nghề cho người lao động (chủ yếu là lao động nông nghiệp) nhằm trang bị các
kiến thức lý thuyết cho học viên một cách có hệ thống và rèn luyện các kỹ năng
thực hành, tác phong làm việc cho học viên trong phạm vi ngành nghề họ theo
học, giúp họ có thể làm một nghề nhất định.
Do vậy, mục tiêu của công tác dạy nghề cho lao động thanh niên nông
thôn là tạo cho họ có một nghề để có thể tự tạo việc làm trong nông nghiệp
hoặc tìm được việc làm phi nông nghiệp ở nông thôn hoặc ở nơi khác. Vì vậy,
dạy nghề cho lao động thanh niên nông thôn phải gắn với giải quyết việc làm
cho người lao động.
- Phân loại đào tạo nghề
Dạy nghề có ba trình độ đào tạo là sơ cấp nghề, trung cấp nghề, cao đẳng
nghề. Dạy nghề bao gồm dạy nghề chính quy và dạy nghề thường xuyên.
Có rất nhiều cách phân loại đào tạo nghề, tuỳ theo mỗi loại tiêu thức ta có
thể phân loại đào tạo nghề thành các loại hình khác nhau. Trong phạm vi nghiên
cứu của luận văn chỉ xét tiêu thức phân loại căn cứ vào thời gian đào tạo.
- Đào tạo ngắn hạn (sơ cấp nghề)
Sơ cấp nghề là loại hình đào tạo nghề có thời gian đào tạo dưới một
năm, chủ yếu áp dụng đối với phổ cập nghề.
Dạy nghề trình độ sơ cấp nhằm trang bị cho người học nghề năng lực
thực hành một nghề đơn giản hoặc năng lực thực hành một số công việc của



8

một nghề; có đạo đức, lương tâm nghề nghiệp, ý thức kỷ luật, tác phong công
nghiệp, có sức khoẻ, tạo điều kiện cho người học nghề sau khi tốt nghiệp có
khả năng tìm việc làm, tự tạo việc làm hoặc tiếp tục học lên trình độ cao hơn.
Dạy nghề trình độ sơ cấp được thực hiện từ ba tháng đến dưới một năm
đối với người có trình độ học vấn, sức khoẻ phù hợp với nghề cần học.
Nội dung dạy nghề trình độ sơ cấp phải phù hợp với mục tiêu dạy nghề
trình độ sơ cấp, tập trung vào năng lực thực hành nghề, phù hợp với thực tiễn
và sự phát triển của khoa học, công nghệ.
Phương pháp dạy nghề trình độ sơ cấp phải chú trọng rèn luyện kỹ
năng thực hành nghề và phát huy tính tích cực, tự giác của người học nghề.
Chương trình dạy nghề trình độ sơ cấp thể hiện mục tiêu dạy nghề trình
độ sơ cấp; quy định chuẩn kiến thức, kỹ năng, phạm vi và cấu trúc nội dung,
phương pháp và hình thức dạy nghề; cách thức đánh giá kết quả học tập đối
với mỗi mô - đun, mỗi nghề. Người học nghề học hết chương trình sơ cấp
nghề có đủ điều kiện thì được dự kiểm tra, nếu đạt yêu cầu thì được người
đứng đầu cơ sở dạy nghề cấp chứng chỉ sơ cấp nghề theo quy định của Thủ
trưởng cơ quan quản lý nhà nước về dạy nghề ở trung ương quy định.
- Đào tạo nghề dài hạn
Đào tạo nghề dài hạn là loại hình đào tạo nghề có thời gian đào tạo từ
một năm trở lên, chủ yếu áp dụng đối với đào tạo công nhân kỹ thuật và nhân
viên nghiệp vụ. Đào tạo nghề dài hạn thường có chất lượng cao hơn các lớp
đào tạo ngắn hạn. Đào tạo nghề dài hạn ở 02 cấp độ, đó là Trung cấp nghề và
Cao đẳng nghề.
* Trung cấp nghề
Dạy nghề trình độ trung cấp nhằm trang bị cho người học nghề kiến
thức chuyên môn và năng lực thực hành các công việc của một nghề; có khả

năng làm việc độc lập và ứng dụng kỹ thuật, công nghệ vào công việc; có đạo


9

đức, lương tâm nghề nghiệp, ý thức kỷ luật, tác phong công nghiệp, có sức
khoẻ, tạo điều kiện cho người học nghề sau khi tốt nghiệp có khả năng tìm
việc làm, tự tạo việc làm hoặc tiếp tục học lên trình độ cao hơn.
Dạy nghề trình độ trung cấp được thực hiện từ một đến hai năm học tuỳ
theo nghề đào tạo đối với người có bằng tốt nghiệp trung học phổ thông; từ ba
đến bốn năm học tuỳ theo nghề đào tạo đối với người có bằng tốt nghiệp
trung học cơ sở.
Nội dung dạy nghề trình độ trung cấp phải phù hợp với mục tiêu dạy
nghề trình độ trung cấp, tập trung vào năng lực thực hành các công việc của
một nghề, nâng cao trình độ học vấn theo yêu cầu đào tạo, bảo đảm tính hệ
thống, cơ bản, phù hợp với thực tiễn và sự phát triển của khoa học, công nghệ.
Phương pháp dạy nghề trình độ trung cấp phải kết hợp rèn luyện năng
lực thực hành nghề với trang bị kiến thức chuyên môn và phát huy tính tích
cực, tự giác, khả năng làm việc độc lập của người học nghề.
Chương trình dạy nghề trình độ trung cấp thể hiện mục tiêu dạy nghề
trình độ trung cấp; quy định chuẩn kiến thức, kỹ năng, phạm vi và cấu trúc
nội dung, phương pháp và hình thức dạy nghề; cách thức đánh giá kết quả học
tập đối với mỗi mô - đun, môn học, mỗi nghề.
Căn cứ vào chương trình khung, hiệu trưởng các trường tổ chức biên
soạn và duyệt chương trình dạy nghề của trường mình.
Cơ sở dạy nghề trình độ trung cấp, gồm: Trường trung cấp nghề;
Trường cao đẳng nghề có đăng ký dạy nghề trình độ trung cấp; Trường trung
cấp chuyên nghiệp, trường cao đẳng, trường đại học có đăng ký dạy nghề
trình độ trung cấp.
Học sinh học hết chương trình trung cấp nghề có đủ điều kiện thì được

dự thi, nếu đạt yêu cầu thì được hiệu trưởng các trường cấp bằng tốt nghiệp
trung cấp nghề theo quy định.


10

* Cao đẳng nghề
Dạy nghề trình độ cao đẳng nhằm trang bị cho người học nghề kiến
thức chuyên môn và năng lực thực hành các công việc của một nghề, có khả
năng làm việc độc lập và tổ chức làm việc theo nhóm; có khả năng sáng tạo,
ứng dụng kỹ thuật, công nghệ vào công việc; giải quyết được các tình huống
phức tạp trong thực tế; có đạo đức, lương tâm nghề nghiệp, ý thức kỷ luật, tác
phong công nghiệp, có sức khoẻ, tạo điều kiện cho người học nghề sau khi tốt
nghiệp có khả năng tìm việc làm, tự tạo việc làm hoặc tiếp tục học lên trình
độ cao hơn.
Dạy nghề trình độ cao đẳng được thực hiện từ hai đến ba năm học tuỳ
theo nghề đào tạo đối với người có bằng tốt nghiệp trung học phổ thông; từ
một đến hai năm học tuỳ theo nghề đào tạo đối với người có bằng tốt nghiệp
trung cấp nghề cùng ngành nghề đào tạo.
Nội dung dạy nghề trình độ cao đẳng phải phù hợp với mục tiêu dạy
nghề trình độ cao đẳng, tập trung vào năng lực thực hành các công việc của
một nghề, nâng cao kiến thức chuyên môn theo yêu cầu đào tạo của nghề, bảo
đảm tính hệ thống, cơ bản, hiện đại, phù hợp với thực tiễn và đáp ứng sự phát
triển của khoa học, công nghệ.
Phương pháp dạy nghề trình độ cao đẳng phải kết hợp rèn luyện năng
lực thực hành nghề với trang bị kiến thức chuyên môn và phát huy tính tích
cực, tự giác, năng động, khả năng tổ chức làm việc theo nhóm.
Chương trình dạy nghề trình độ cao đẳng thể hiện mục tiêu dạy nghề
trình độ cao đẳng; quy định chuẩn kiến thức, kỹ năng, phạm vi và cấu trúc nội
dung, phương pháp và hình thức dạy nghề; cách thức đánh giá kết quả học tập

đối với mỗi mô - đun, môn học, mỗi nghề.
Thủ trưởng cơ quan quản lý nhà nước về dạy nghề ở trung ương phối
hợp với Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ, Thủ trưởng cơ quan thuộc


11

Chính phủ có liên quan tổ chức xây dựng chương trình khung cao đẳng nghề.
Căn cứ vào chương trình khung, hiệu trưởng các trường quy định tại Điều
29 của Luật dạy nghề tổ chức biên soạn và duyệt chương trình dạy nghề của
trường mình.
Cơ sở dạy nghề trình độ cao đẳng, gồm: Trường cao đẳng nghề;
Trường cao đẳng, trường đại học có đăng ký dạy nghề trình độ cao đẳng.
Sinh viên học hết chương trình cao đẳng nghề có đủ điều kiện thì được
dự thi, nếu đạt yêu cầu thì được hiệu trưởng các trường cấp bằng tốt nghiệp
cao đẳng nghề theo quy định.
1.1.1.2. Các hình thức đào tạo nghề
Các hình thức đào tạo nói chung và đào tạo nghề nói riêng nhìn chung
là rất phong phú và đa dạng. Tuy nhiên, về cơ bản đào tạo nghề hiện nay
thường áp dụng một số hình thức chính sau đây:
- Thứ nhất là đào tạo nghề chính quy
Đào tạo nghề chính quy là loại hình đào tạo tập trung tại các trung tâm
dạy nghề, các trường nghề với quy mô đào tạo tương đối lớn, chủ yếu là đào
tạo các công nhân kỹ thuật có trình độ lành nghề cao.
Việc đào tạo công nhân kỹ thuật thường chia làm hai giai đoạn: Giai
đoạn học tập cơ bản và giai đoạn học tập chuyên môn.
Với hình thức đào tạo chính quy, sau khi đào tạo, học viên có thể chủ
động, độc lập giải quyết công việc, có khả năng đảm nhận các công việc
tương đối phức tạp, đòi hỏi trình độ lành nghề cao. Cùng với sự phát triển của
sản xuất và tiến bộ của khoa học kỹ thuật, hình thức đào tạo này ngày càng

giữ vai trò quan trọng trong việc đào tạo đội ngũ công nhân kỹ thuật.
Theo Luật dạy nghề, đào tạo nghề chính quy được thực hiện với các
chương trình sơ cấp nghề, trung cấp nghề và cao đẳng nghề tại các cơ sở dạy
nghề theo các khoá học tập trung và liên tục.


12

- Thứ hai, đào tạo nghề tại nơi làm việc (đào tạo trong công việc)
Đào tạo nghề tại nơi làm việc là hình thức đào tạo trực tiếp, trong đó
người học sẽ được dạy những kiến thức, kỹ năng cần thiết cho công việc
thông qua thực tế thực hiện công việc và thường là dưới sự hướng dẫn của
những người lao động có trình độ cao hơn. Hình thức đào tạo này thiên về
thực hành ngay trong quá trình sản xuất và thường là do các doanh nghiệp
(hoặc các cá nhân sản xuất) tự tổ chức.
Chương trình đào tạo áp dụng cho hình thức đào tạo tại nơi làm việc
thường chia làm ba giai đoạn:
Giai đoạn đầu, người hướng dẫn vừa sản xuất vừa hướng dẫn cho học
viên; Giai đoạn hai, giao việc làm thử cho học viên sau khi họ đã nắm được các
nguyên tắc và phương pháp làm việc; Giai đoạn ba, giao việc hoàn toàn cho
học viên khi họ đã có thể tiến hành làm việc một cách độc lập.
- Thứ ba, tổ chức các lớp cạnh doanh nghiệp
Đây là hình thức đào tạo theo chương trình gồm hai phần lý thuyết và
thực hành. Phần lý thuyết được giảng tập trung do các kỹ sư, cán bộ kỹ thuật
phụ trách. Còn phần thực hành thì được tiến hành ở các xưởng thực tập do các
kỹ sư hoặc công nhân lành nghề hướng dẫn. Hình thức đào tạo này chủ yếu áp
dụng để đào tạo cho những nghề phức tạp, đòi hỏi có sự hiểu biết rộng về lý
thuyết và độ thành thục cao.
- Thứ tư, đào tạo nghề kết hợp tại trường và doanh nghiệp
Hình thức đào tạo nghề kết hợp tại trường và doanh nghiệp được áp

dụng khá rộng rãi trên thế giới, nhưng mới chỉ xuất hiện ở Việt Nam trong
những năm gần đây và còn có nhiều cách hiểu khác nhau.
Có thể hiểu “đào tạo nghề kết hợp tại trường và doanh nghiệp là hình
thức đào tạo dựa trên hệ thống dạy và học có hai chỗ học, sự tích hợp chức
năng của hai chỗ học tạo thành chức năng chung của hệ thống”.


13

Hình thức đào tạo nghề kết hợp tại trường và doanh nghiệp xuất hiện ở
Việt Nam còn quá yếu, mới chỉ thực hiện ở một số khía cạnh của việc kết hợp
đào tạo và được biểu hiện ở các hoạt động như: (1) Đào tạo theo đơn đặt hàng
(một số doanh nghiệp đặt hàng cho các trường đào tạo); (2) Một số tổng công
ty lớn thành lập trường đào tạo riêng; (3) Nhà trường có xưởng sản xuất; (4)
Một số trường liên kết đưa sinh viên đi thực tập ở các doanh nghiệp.
- Thứ năm, tổ chức trường nằm trong doanh nghiệp
Trường nghề nằm trong (thuộc) doanh nghiệp tức là nhà trường được
coi như một bộ phận đào tạo của doanh nghiệp. Một số đặc điểm như: Giáo
viên hầu hết là kỹ sư, công nhân giỏi của doanh nghiệp được cử làm chuyên
trách về đào tạo; Tuyển sinh chủ yếu theo yêu cầu phát triển nhân lực của
doanh nghiệp và một phần là đào tạo theo đơn đặt hàng của các doanh nghiệp
khác (nếu đủ điều kiện); Chương trình đào tạo có thể theo chương trình quốc
gia hoặc theo yêu cầu riêng biệt của doanh nghiệp. Vì vậy, hầu hết học sinh
tốt nghiệp đều được doanh nghiệp bố trí sử dụng ngay.
- Thứ sáu, tổ chức doanh nghiệp nằm trong trường
Trong mô hình tổ chức này, trường là chủ thể của việc liên kết giữa đào
tạo và sản xuất, doanh nghiệp (đơn vị sản xuất) được coi như xưởng thực
hành của trường. Như vậy, doanh nghiệp này phải thực hiện đồng thời hai
nhiệm vụ là vừa đào tạo vừa sản xuất ra sản phẩm đưa ra tiêu thụ như các
doanh nghiệp khác. Với kiểu liên kết này, chất lượng đào tạo cũng được nâng

cao do học sinh được tiếp xúc trực tiếp với sản xuất.
Tuy nhiên, hạn chế của kiểu tổ chức này là các trường nghề thường
không có đủ kinh nghiệm trong sản xuất và ít có điều kiện để đầu tư được các
trang thiết bị hiện đại như các doanh nghiệp khác. Hơn nữa, các xưởng sản
xuất mà doanh nghiệp thành lập thường chỉ phục vụ cho một số lượng hạn chế
nghề đào tạo của trường. Học sinh học nghề trong quá trình học tập cũng chưa đủ


14

những kỹ năng cần thiết để sản xuất ra những sản phẩm có chất lượng có thể cạnh
tranh trên thị trường.
- Thứ bảy, trường dạy nghề và doanh nghiệp là những đơn vị độc lập
Với loại hình tổ chức này, trường nghề và doanh nghiệp là những đơn
vị hoàn toàn độc lập với nhau, có mục tiêu và chức năng riêng. Việc liên kết
đào tạo ở đây được thực hiện trên cơ sở tự nguyện, hai bên cùng có lợi.
1.1.1.3. Chất lượng đào tạo nghề
- Khái niệm về chất lượng đào tạo
Qua nghiên cứu về chất lượng đào tạo, có rất nhiều cách lý giải khác
nhau. Có ý kiến cho rằng chất lượng là sự xuất chúng, tuyệt hảo, là giá trị
bằng tiền, là sự biến đổi về chất và là sự phù hợp với mục tiêu.
Theo từ điển tiếng Việt thông dụng - Nhà xuất bản Giáo dục - 1998 cho
rằng: Chất lượng là “Cái làm nên phẩm chất, giá trị của sự vật” hoặc là “Cái
tạo nên bản chất sự vật, làm cho sự vật này khác sự vật kia”.
Theo Oxford Poket Dictationary: Chất lượng là “Mức hoàn thiện, là
đặc trưng so sánh hay đặc trưng tuyệt đối, dấu hiệu đặc thù, các dữ kiện, các
thông số cơ bản” và theo tiêu chuẩn Pháp - NFX 50 - 109: Chất lượng là
“Tiềm năng của một sản phẩm hay dịch vụ nhằm thỏa mãn nhu cầu người sử
dụng”. Còn theo TCVN - ISO 8402 Chất lượng là “Tập hợp các đặc tính của
một thực thể (đối tượng) tạo cho thực thể (đối tượng) đó khả năng thỏa mãn

những nhu cầu đã nêu ra hoặc nhu cầu tiềm ẩn”
Như vậy, Chất lượng đào tạo là khái niệm trừu tượng, phức tạp và đa
chiều, nhưng chung nhất đó là khái niệm phản ánh bản chất của sự vật và
dùng để so sánh sự vật này với sự vật khác.
Trong cơ chế thị trường hội nhập về đào tạo, chất lượng là một khái
niệm tương đối trừu tượng và có những thay đổi đáng kể, cùng với sự phát
triển của xã hội. Khái niệm về chất lượng không được gắn với một tiêu chuẩn


15

cố định nào đó, mà “chất lượng là một quá trình”. Đây là quan niệm “động”
về chất lượng, trong đó chất lượng được xác định bởi người sử dụng sản
phẩm - dịch vụ hay trong nền kinh tế thị trường còn gọi là khách hàng. Khách
hàng cảm thấy thoả mãn khi sử dụng sản phẩm - dịch vụ có nghĩa là sản phẩm
- dịch vụ đó có chất lượng.
Qua các khái niệm về chất lượng đã nghiên cứu, có thể hiểu như sau:
Chất lượng là phạm trù triết học biểu thị những thuộc tính bản chất của
sự vật, chỉ rõ nó là cái gì, tính ổn định tương đối của sự vật, phân biệt nó với
sự vật khác. Mỗi sự vật bao giờ cũng là sự thống nhất giữa số lượng và chất
lượng mà trong đó chất lượng là mức độ mà một tập hợp các đặc trưng vốn có
đáp ứng được các yêu cầu của khách hàng và những người khác có quan tâm.
Trên đây là các khái niệm chung về chất lượng mà khi xét cho từng đối
tượng cụ thể thì cần xét tới cả những điều kiện lịch sử - cụ thể của đối tượng đó.
- Quan điểm về chất lượng đào tạo nghề
Chất lượng đào tạo nghề là khái niệm đa chiều, không thể trực tiếp đo
đếm được và cảm nhận được.
Chất lượng đào tạo nghề phản ánh trạng thái đào tạo nghề nhất định và
trạng thái đó thay đổi phụ thuộc vào các yếu tố tác động đến nó. Sẽ không thể
biết được chất lượng đào tạo nếu chúng ta không đánh giá thông qua một hệ

thống các chỉ tiêu và các yếu tố ảnh hưởng.
Khái niệm chất lượng đào tạo nghề là để chỉ chất lượng các công nhân
kỹ thuật được đào tạo trong hệ thống giáo dục nghề nghiệp theo mục tiêu và
chương trình đào tạo xác định trong các lĩnh vực ngành nghề khác nhau, biểu
hiện một cách tổng hợp nhất ở mức độ chấp nhận của thị trường lao động, của
xã hội đối với kết quả đào tạo.
Chất lượng đào tạo nghề còn phản ánh kết quả đào tạo của các cơ sở
đào tạo nghề, của cả hệ thống đào tạo nghề. Chất lượng đào tạo nghề biến đổi


16

theo thời gian và theo không gian dưới tác động của các yếu tố.
Chất lượng giáo dục - đào tạo nói chung và đào tạo nghề nói riêng là
vấn đề cơ bản và là mục tiêu phấn đấu không ngừng của các cấp quản lý giáo
dục - đào tạo cũng như các cơ sở đào tạo. Trên thực tế có nhiều cách hiểu
khác nhau về chất lượng đào tạo nghề với những khía cạnh khác nhau.
Nghiên cứu về chất lượng đào tạo nghề, có quan điểm cho rằng nó phụ
thuộc đầu vào của hệ thống đào tạo. Khi có các yếu tố đầu vào có chất lượng
như: giáo viên giỏi, cán bộ quản lý giỏi, cơ sở vật chất đầy đủ, học sinh giỏi
… thì chất lượng đào tạo nghề được nâng cao.
Có quan điểm lại cho rằng, chất lượng đào tạo nghề được đánh giá bằng
sản phẩm của quá trình đào tạo (đầu ra), tức là bằng mức độ hoàn thành của học
viên tốt nghiệp.
Một số quan điểm khác lại khẳng định chất lượng đào tạo nghề được
quyết định bởi các quá trình hoạt động bên trong, đặc biệt là hệ thống thông
tin và hệ thống các quyết định tối ưu.
Đào tạo nghề sẽ đảm bảo nâng cao chất lượng nếu thực hiện tốt các yếu
tố như: Tổ chức tiếp thị tốt với thị trường; đáp ứng yêu cầu của khách hàng;
có tầm nhìn dài hạn; quản lý sự thay đổi một cách có hiệu quả; tập trung vào

con người và mọi người đóng góp xây dựng tổ chức của mình.
Xuất phát từ những khái niệm chung về chất lượng và các quan niệm về
chất lượng đào tạo nghề nêu trên, có thể hiểu chất lượng đào tạo nghề là kết
quả tác động tích cực của tất cả các yếu tố cấu thành hệ thống đào tạo nghề và
là quá trình đào tạo vận hành trong môi trường nhất định.
1.1.1.4. Yêu cầu nâng cao chất lượng đào tạo nghề trong sự nghiệp
công nghiệp hóa - hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn là một tất yếu
khách quan đối với nền nông nghiệp nước ta nhằm xây dựng cơ sở vật chất kỹ


17

thuật của chủ nghĩa xã hội theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn là còn đòi hỏi
phải có một cơ cấu lao động hợp lý, nghĩa là phải có một tỉ lệ phù hợp giữa các
thành tố của nguồn lực lao động trong nông thôn. Phải chú ý đến lao động lành
nghề, nâng cao năng lực thực hành và tăng hàm lượng chất xám sao cho đội
ngũ lao động lành nghề ở nông thôn, khi nước ta trở thành nước công nghiệp
vào năm 2020.
Đây là một tiêu chí đòi hỏi sự phấn đấu không ngừng của cả nước, toàn
xã hội, toàn ngành Giáo dục, giáo dục chuyên nghiệp và dạy nghề nói riêng
trong giai đoạn trước mắt cũng như lâu dài mà nghị quyết Đại hội IX đã
xác định: “Nâng Số học sinh công nhân kỹ thuật tăng 11 - 12%/ năm”.
Chính từ mục tiêu trên đòi hỏi phải không ngừng đẩy mạnh công tác đào
tạo nghề, không ngừng nâng cao chất lượng đào tạo. Nâng cao chất lượng đào
tạo nghề còn phụ thuộc yêu cầu phát triển nền kinh tế, thực hiện liên doanh
liên kết với nước ngoài, chuyển giao công nghệ mới cho các khu công nghiệp,
khu chế xuất và trong nông nghiệp nông thôn.
Có thể thấy, nước ta tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp

nông thôn trong điều kiện tiềm lực kinh tế còn nhỏ bé, tích lũy từ nội bộ nền
kinh tế còn thấp… Vì vậy, để có thể tiếp cận được với nền khoa học - kỹ thuật
nông nghiệp đang tiến nhanh như vũ bão của thế giới, từng bước rút ngắn
khoảng cách và đuổi kịp với sự phát triển của các nước, Đảng ta đã xác
định phát triển nguồn lực nói chung, nâng cao chất lượng đội ngũ lao động
nông thôn nói riêng là một trong những nhiệm vụ quan trọng hàng đầu trong
suốt quá trình CNH - HĐH nông nghiệp nông thôn.
Vấn đề cấp bách hiện nay là phải khẩn trương bồi dưỡng về mọi mặt
cho số lao động TNNT chưa qua đào tạo đầy đủ, tăng nhanh về qui mô với chất
lượng cao. Muốn vậy phải nâng cao chất lượng dạy nghề, bởi những năm qua


18

cùng với sự suy giảm về số lượng, chất lượng dạy nghề cũng đã có những
giảm sút nghiêm trọng.
Nguyên nhân của sự giảm sút đó là: Trang thiết bị hiện nay ở các cơ sở
dạy nghề thiếu thốn, lạc hậu. Đội ngũ giáo viên dạy nghề chuyên nghiệp bị phân
tán, giảm về số lượng. Trình độ không được nâng cao cho phù hợp với sự phát
triển nhanh chóng của khoa học - công nghệ. Trình độ sư phạm và quản lý
nhiều năm qua ít được chú ý, bổ sung, bồi dưỡng, đào tạo lại. Chương trình nội
dung đào tạo, hệ thống giáo trình vẫn trong tình trạng lạc hậu, thiếu thống
nhất, không theo một chuẩn mực nào, vì vậy không theo kịp sự tiến bộ của
khoa học - công nghệ mới.
Từ đó dẫn đến chất lượng đào tạo đặc biệt là đào tạo kỹ năng nghề của
người học nghề chưa đáp ứng được yêu cầu của thị trường lao động, nên rất
khó tìm việc làm; thiếu công nhân lành nghề, công nhân bậc cao, không đáp
ứng được yêu cầu của công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn.
Do vậy, yêu cầu nâng cao chất lượng đào tạo nghề trong sự nghiệp công
nghiệp hóa - hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn là một đòi hỏi bức thiết.

1.1.2. Khái niệm về việc làm, tạo việc làm cho lao động thanh niên
nông thôn
1.1.2.1. Khái niệm về việc làm
Theo khái niệm được đưa ra trong từ điển tiếng Việt "Việc làm là công
việc được giao cho làm và được trả công" [14]. Khái niệm này tương đối
rộng, tuy nhiên còn một thuật ngữ chưa mang tính phổ biến đó là tính chất
công việc "được giao". Người lao động hoàn toàn có thể tự tạo ra việc làm để
có thu nhập mà không cần phải ai giao việc cho.
Theo giáo trình Kinh tế lao động của Trường đại học Kinh tế quốc dân Hà
Nội, khái niệm việc làm được hiểu là: "trạng thái phù hợp về mặt số lượng và
chất lượng giữa tư liệu sản xuất với sức lao động, để tạo ra hàng hóa theo nhu


19

cầu của thị trường". Hiểu rộng ra có thể gọi việc làm là hoạt động có ích (sản
xuất, dịch vụ, nghiên cứu, giáo dục, văn hóa, nghệ thuật quản lý v.v..) tạo ra/có
thu nhập [16].
Theo Đại từ điển Kinh tế thị trường: "Việc làm là hành vi của nhân
viên, có năng lực lao động thông qua hình thức nhất định kết hợp với tư liệu
sản xuất, để được thù lao hoặc thu nhập kinh doanh"[16]. Thực chất là người
lao động và tư liệu sản xuất kết hợp. Trong chế độ Xã hội chủ nghĩa, người
lao động là chủ tư liệu sản xuất, việc làm có nghĩa là thực hiện quyền làm
chủ, vừa là lao động cho cá nhân người lao động, cũng lại là lao động xã hội.
Khu vực làm việc có thể là các cơ sở sản xuất kinh doanh Nhà nước, tập thể,
tư nhân, có vốn đầu tư nước ngoài v.v…
Phân theo tính chất công việc có thể chia ra nhân công ổn định, nhân
công hợp đồng, tạm thời.
Theo một quan điểm khá tổng quát về việc làm: "…Việc làm là một
phạm trù kinh tế, tồn tại ở tất cả mọi hình thái xã hội, đó là một tập hợp

những mối quan hệ kinh tế giữa con người về việc đảm bảo chỗ làm việc và
tham gia của họ vào hoạt động kinh tế…." [12]. Việc làm cũng là một phạm
trù của thị trường khi thuê một chỗ làm việc nhất định và chuyển người thất
nghiệp thành người lao động.
Theo Bộ Luật lao động nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam thì
việc làm được xác định là: "Mọi hoạt động lao động tạo ra nguồn thu nhập,
không bị pháp luật cấm đều được thừa nhận là việc làm".
Từ các quan điểm trên, tác giả thống nhất với khái niệm: Việc làm là
hoạt động lao động của các cá nhân trong xã hội nhằm mục đích tạo ra thu
nhập (được trả công bằng tiền, hiện vật, trao đổi công; tự làm để tạo thu nhập,
tạo lợi ích cho gia đình không hưởng tiền công/lương). Như vậy, mọi hoạt
động lao động tạo ra nguồn thu nhập, không bị pháp luật cấm đều được thừa


20

nhận là việc làm.
1.1.2.2. Tạo việc làm cho LĐTNNT
- Tạo việc làm
Tạo việc làm là một quá trình trong đó việc tạo ra chỗ làm việc và thu
hút lao động vào làm việc mới là khâu đầu tiên của quá trình đó.
Tạo việc làm cho người lao động theo nghĩa chung nhất được hiểu là đưa
người lao động vào làm việc để tạo ra trạng thái phù hợp giữa sức lao động
(SLĐ) và tư liệu sản xuất (TLSX) nhằm tạo ra hàng hoá và dịch vụ theo yêu
cầu của thị trường.
Theo Giáo trình “Kinh tế nguồn nhân lực” của Khoa Kinh tế & Quản lý
nguồn nhân lực - Trường Đại học KTQD Hà Nội: Tạo việc làm được hiểu là
quá trình tạo ra số lượng và chất lượng tư liệu sản xuất, số lượng và chất
lượng sức lao động và các điều kiện kinh tế xã hội khác để kết hợp tư liệu sản
xuất và sức lao động.

Như vậy, tạo việc làm cầ n bao hàm các hoạt động sau:
Thứ nhất, tạo ra tư liệu sản xuất, tạo ra số lượng và chất lượng TLSX,
biể u hiện rõ nhất là vốn.
Thứ hai, tạo ra số lượng và chất lượng SLĐ. Số lượng SLĐ phải phù
hợp, chất lượng SLĐ không ngừng được nâng cao để đáp ứng nhu cầu đòi hỏi
của nền kinh tế.
- Thứ ba, hình thành môi trường kinh tế - chính trị - xã hội cho sự kết
hợp hai yếu tố SLĐ và TLSX.
Môi trường cho sự kết hợp các yếu tố này bao gồm hệ thống các
chính sách phát triển KT-XH, chính sách về khuyến khích và thu hút lao
động, chính sách bảo hộ sản xuất, trợ giúp thất nghiệp, thu hút và khuyến
khích đầu tư...


21

- Thứ tư, thực hiện các giải pháp nhằm duy trì việc làm ổn định và có hiệu
quả cao.
Các giải pháp có thể kể tới trong nhóm này là các giải pháp về quản lý
điều hành, về thị trường các yếu tố đầu vào và đầu ra của sản xuất, các biện
pháp khai thác có hiệu quả các nguồn lực, duy trì và nâng cao chất lượng của
SLĐ, kinh nghiệm quản lý của người sử dụng lao động...
Vì vậy, giải quyết việc làm, bảo đảm cho mọi người có khả năng lao
động đều có cơ hội có việc làm là trách nhiệm của Nhà nước, của các doanh
nghiệp và toàn xã hội.
- Tạo việc làm cho lao động thanh niên NT
Thanh niên là một lực lượng lao động xã hội lớn về trí tuệ và sức khoẻ
để lao động sản xuất, tạo ra của cải vật chất làm giàu chính đáng cho bản
thân, gia đình và xã hội, góp phần to lớn vào sự phát triển kinh tế - xã hội ở
địa phương, đặc biệt là khu vực nông thôn. Nên trong những năm qua Đảng

và nhà nước quan tâm đến người lao động nói chung và lao động thanh niên
nông thôn nói riêng. Đặc biệt đối với Thanh niên đã được khẳng định về vai
trò vị trí tại Điều 66, Hiến pháp năm 1992 quy định “Thanh niên được gia
đình, Nhà nước và xã hội tạo điều kiện học tập, lao động và giải trí, phát triển
thể lực, trí tuệ, bồi dưỡng về đạo đức, truyền thống dân tộc, ý thức công dân
và lý tưởng xã hội chủ nghĩa, đi đầu trong công cuộc lao động sáng tạo và bảo
vệ tổ quốc”. Từ đó có thể nói Thanh niên là tương lai của đất nước, là lực
lượng xã hội hùng hậu, có tiềm năng to lớn, xung kích trong công cuộc xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc. Đào tạo và bồi dưỡng phát huy thanh niên là trách
nhiệm của Nhà nước, gia đình và xã hội. Nhà nước có chính sách tạo điều
kiện cho thanh niên học tập, lao động, giải trí, phát triển thể lực, trí tuệ, bồi
dưỡng về đạo đức, truyền thống dân tộc, ý thức cách mạng, xã hội công bằng dân
chủ văn minh.


22

Tuy nhiên, trong phạm vi đề tài, nhằm đảm bảo phù hợp với các nhóm
lứa tuổi theo quy định trong thống kê, điều tra hàng năm tại Việt Nam, đảm
bảo cho việc phân tích được thống nhất, chính xác, thanh niên được hiểu là
công dân Việt Nam trong độ tuổi từ đủ 15 - 30 tuổi, với ba phân nhóm nhỏ, từ
đủ 15 - 19 tuổi, 20 - 24 tuổi và 25 - 30 tuổi. Trong dân số thanh niên bao gồm
dân số hoạt động kinh tế (hay còn gọi là LLLĐ thanh niên) và dân số không hoạt
động kinh tế (người đi học, nội trợ, người tàn tật, ...).
Theo quy định tại Điều 6, Bộ Luật Lao động (đã được sửa đổi, bổ sung
năm 2007), người lao động là “người ít nhất đủ 15 tuổi, có khả năng lao động
và có giao kết hợp đồng lao động”, tuy nhiên trong tình hình thực tế phổ biến
của thị trường lao động (TTLĐ), khái niệm về LLLĐ được hiểu là những
người có khả năng làm việc và sẵn sàng làm trong thời điểm điều tra. Do đó,
khái niệm LLLĐ thanh niên (sau đây gọi tắt là lao động thanh niên) được sử

dụng trong luâ ̣n văn là những người trong độ tuổi từ đủ 15 - 30 tuổi, có khả năng
lao động và sẵn sàng làm việc, được chia ra làm 3 nhóm:
- Nhóm sau khi tốt nghiệp THCS hoặc THPT không có điều kiện học
lên, tham gia ngay vào thị trường lao động (TTLĐ). Đó là lao động phổ thông,
chưa có nghề;
- Nhóm sau khi tốt nghiệp các trường CĐ, ĐH, Dạy nghề sẵn sàng
tham gia vào thị trường lao động (TTLĐ). Đó là lao động có chuyên môn kỹ
thuật (CMKT) (có nghề);
- Nhóm bị mất việc làm hoặc thất nghiệp đang có nhu cầu việc làm, sẵn
sàng tham gia hoặc trở lại TTLĐ.
Như vâ ̣y, thanh niên khi xem xét dưới góc độ lực lượng tham gia TTLĐ
được go ̣i là lao đô ̣ng thanh niên, bao gồ m những những thanh niên trong đô ̣ tuổ i
(từ đủ 15 - 30) có khả năng lao đô ̣ng, hiê ̣n đang có viê ̣c làm hoă ̣c thấ t nghiê ̣p.


23

- Người thất nghiệp
Theo luật lao động nước ta sửa đổi và bổ sung năm 2002: “Thất nghiệp là
những người trong độ tuổi lao động muốn làm việc nhưng chưa tìm được việc
làm”. Ở nông thôn tình trạng thất nghiệp hiếm thấy nhưng tình trạng thiếu việc làm
thì phổ biến.
Người thất nghiệp là người từ đủ 15 tuổi trở lên thuộc nhóm dân số
hoạt động kinh tế mà trong tuần lễ tham khảo không có việc làm nhưng có
nhu cầu làm việc và sẵn sàng làm việc nhưng không tìm được việc.
* Căn cứ vào thời gian thất nghiệp, người thất nghiệp được chia thành:
Thất nghiệp ngắn hạn và thất nghiệp dài hạn.
- Thất nghiệp ngắn hạn: Là người thất nghiệp liên tục từ dưới 12 tháng
tính từ ngày đăng ký thất nghiệp hoặc từ thời điểm điều tra trở về trước.
- Thất nghiệp dài hạn: Là người thất nghiệp liên tục từ 12 tháng trở lên

tính từ ngày đăng ký thất nghiệp hoặc từ thời điểm điều tra trở về trước.
1.1.3. Vai trò, của hoạt động dạy nghề các nhân tố ảnh hưởng đến
chất lượng dạy nghề cho người lao động thanh niên trong nông thôn
1.1.3.1. Vai trò của hoạt động dạy nghề cho người lao động thanh niên
trong nông thôn
Yếu tố con người, vốn con người đã trở thành một yếu tố quan trọng
trong tăng trưởng kinh tế. Nhờ có nền tảng giáo dục - đào tạo, trong đó có đào
tạo nghề, người lao động có thể nâng cao được kiến thức và kĩ năng nghề của
mình, qua đó nâng cao năng suất lao động, góp phần phát triển kinh tế. Như
vậy có thể thấy, giáo dục đào tạo nghề là một nhân tố và là nhân tố quan trọng
nhất, có ý nghĩa quyết định phát triển nguồn nhân lực. Muốn có nguồn nhân
lực chất lượng cao, có khả năng cạnh tranh cao trên thị trường lao động, song
song với các cơ chế chính sách sử dụng có hiệu quả nguồn nhân lực, cần phải
tăng cường đầu tư nâng cao chất lượng giáo dục - đào tạo nói chung và đào


×