Tải bản đầy đủ (.pdf) (88 trang)

Nghiên cứu giải pháp bảo tồn và phát triển tài nguyên cây thuốc tại khu bảo tồn thiên nhiên hang kia pà cò, tỉnh hòa bình

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.83 MB, 88 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PTNT

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LÂM NGHIỆP
---------------

TRỊNH XUÂN HUY

NGHIÊN CỨU GIẢI PHÁP BẢO TỒN VÀ PHÁT TRIỂN
TÀI NGUYÊN CÂY THUỐC TẠI KHU BẢO TỒN THIÊN NHIÊN
HANG KIA - PÀ CÒ, TỈNH HÒA BÌNH

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC LÂM NGHIỆP

HÀ NỘI - 2013


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PTNT

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LÂM NGHIỆP
---------------

TRỊNH XUÂN HUY

NGHIÊN CỨU GIẢI PHÁP BẢO TỒN VÀ PHÁT TRIỂN
TÀI NGUYÊN CÂY THUỐC TẠI KHU BẢO TỒN THIÊN NHIÊN
HANG KIA - PÀ CÒ, TỈNH HÒA BÌNH


Chuyên ngành: Quản lý bảo vệ tài nguyên rừng
Mã số: 60620211

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC LÂM NGHIỆP

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. ĐỖ THỊ XUYẾN

HÀ NỘI - 2013


i

LỜI CẢM ƠN
Được sự giúp đỡ và tạo điều kiện của các thầy, cô trong Phòng Thực vật,
Viện Sinh thái và Tài nguyên sinh vật, Khoa Sau đại học, Trường Đại học Lâm
nghiệp Việt Nam bản luận văn Thạc sỹ này đã được hoàn thành. Nhân dịp này, tôi
xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến sự giúp đỡ quí báu đó, đặc biệt với TS. Đỗ Thị
Xuyến, người đã dìu dắt tôi những bước đi đầu tiên trong con đường khoa học, cảm
ơn sự giúp đỡ của ban quản lý Khu bảo tồn thiên nhiên Hang Kia – Pà Cò, tỉnh Hòa
Bình, đặc biệt là cán bộ kiểm lâm Nguyễn Thành Lương; gia đình bà Bàn Thị Hoa,
dân tộc Dao, Thôn Bò Liêm (K81), xã Tân Sơn đã giúp đỡ cùng các con Triệu Thị
Hà, Triệu Thị Hồng, đã tạo điều kiện thuận lợi cho tôi, nhiệt tình giúp đỡ tôi đặc
biệt là về chỗ ăn, ở, thực địa trong quá trình thực hiện đề tài.
Nhân dịp này, cho phép tôi bày tỏ lời cảm ơn tới Ban giám hiệu nhà trường,
Khoa sau đại học, các phòng ban, các thầy cô trong khoa Quản lý tài nguyên rừng
và môi trường đã tạo điều kiện giúp đỡ về mặt thời gian để tôi thực hiện tốt đề tài
này.
Tôi xin gửi lời cảm ơn tới gia đình, bạn bè đồng nghiệp đã động viên, ủng hộ
tôi trong suốt quá trình thực hiện đề tài.

Mặc dù đã có nhiều nỗ lực nhưng chắc chắn không tránh khỏi những thiếu
sót, tôi rất mong nhận được những ý kiến đóng góp của các thầy cô, các nhà khoa
học và bạn bè đồng nghiệp để bản luận văn được hoàn thiện hơn.
Tôi xin trân trọng cảm ơn!
Hà Nội, ngày 6 tháng 3 năm 2013
Học viên

Trịnh Xuân Huy


ii

LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu là của tôi. Các số liệu, kết quả
nêu trong luận văn là trung thực, chưa từng được công bố trong bất kỳ công trình
nào.
Hà Nội, ngày 06 tháng 3 năm 2013
Học viên

Trịnh Xuân Huy


iii

MỤC LỤC
Trang

Trang phụ bìa
Lời cảm ơn ....................................................................................................... i
Lời cam đoan ...................................................................................................ii

Mục lục ......................................................................................................... iii
Danh mục các từ viết tắt ................................................................................... vi
Danh mục các bảng ........................................................................................vii
Danh mục các hình ....................................................................................... viii
ĐẶT VẤN ĐỀ ................................................................................................................ 1
Chương 1: TỔNG QUAN VỀ TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU ...................................... 3
1.1. Tình hình nghiên cứu và sử dụng cây thuốc ở một số nước trên thế giới ............3
1.2. Tình hình nghiên cứu và sử dụng cây thuốc ở Việt Nam ....................................8
1.3. Tình hình nghiên cứu và sử dụng cây thuốc ở khu BTTN Hang Kia – Pà Cò,
tỉnh Hòa Bình ............................................................................................................12
Chương 2: MỤC TIÊU, ĐỐI TƯỢNG, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP
NGHIÊN CỨU .............................................................................................................. 14
2.1. Mục tiêu của đề tài .............................................................................................14
2.1.1. Mục tiêu tổng quát ..........................................................................................14
2.1.2. Mục tiêu cụ thể ................................................................................................14
2.2. Đối tượng nghiên cứu.........................................................................................14
2.3. Nội dung nghiên cứu ..........................................................................................14
3.2.1. Đánh giá tính đa dạng về thành phầ n loài cây thuốc: Điều tra, xây dựng danh
lục các loài thực vật có tác dụng làm thuốc, phân tích, đánh giá tính đa dạng các
loài cây thuốc. Bộ phận sử dụng, dạng sống, môi trường sống thông qua quá trình
nghiên cứu thực địa và kết hợp kinh nghiệm của người dân bản địa. ..........................14
3.2.2. Thực trạng sử dụng cây thuốc và bài thuố c của đồng bào các dân tộc tại khu
Bảo tồn thiên nhiên Hang Kia – Pà Cò, tỉnh Hoà Bình: Sự đa dạng trong việc sử
dụng cây thuốc, bộ phận sử dụng, nhóm bệnh chữa trị,... ........................................14


iv

3.2.3. Thực trạng khai thác, bảo tồn và phát triển nguồn tài nguyên cây thuốc tại
Khu Bảo tồn thiên nhiên Hang Kia – Pà Cò, tỉnh Hoà Bình. ...................................14

3.2.4. Giải pháp bảo tồn và phát triển các loài cây thuốc và tri thức bản địa tại Khu
BTTN Hang Kia – Pà Cò, tỉnh Hoà Bình. .................................................................15
2.4. Phương pháp nghiên cứu ....................................................................................15
2.4.1. Thu thập số liệu, tài liệu ..................................................................................15
2.4.2. Phương pháp phỏng vấn nhanh có sự tham gia của người dân (PRA) ..........15
2.4.3. Phương pháp điều tra thực địa theo tuyến và theo ô tiêu chuẩn ....................15
2.4.4. Phương pháp nhân giố ng vô tính bằ ng hom (thử nghiê ̣m với Hoàng Đằ ng
Fibraurea tinctoria) ..................................................................................................16
2.4.5. Xử lý số liệu .....................................................................................................17
Chương 3: ĐẶC ĐIỂM TỰ NHIÊN VÀ XÃ HỘI KHU BẢO TỒN THIÊN NHIÊN
HANG KIA – PÀ CÒ, TỈNH HOÀ BÌNH .................................................................. 23
3.1. Điều kiện tự nhiên khu vực nghiên cứu .............................................................23
3.1.1. Vị trí địa lý, ranh giới, diện tích......................................................................23
3.1.2. Địa chất, địa hình ............................................................................................23
3.1.3. Khí hậu, thủy văn ............................................................................................25
3.1.4. Tài nguyên thiên nhiên ....................................................................................26
3.2. Đặc điểm kinh tế, xã hội ...................................................................................27
3.2.1. Dân tộc, dân số và lao động ...........................................................................27
3.2.2. Các hoạt động kinh tế chủ yếu: .......................................................................27
3.2.3. Văn hóa, y tế, giáo dục: ..................................................................................28
3.2.4. Thực trạng cơ sở hạ tầng ................................................................................29
3.2.5. Những tồn tại nổi bật về kinh tế - xã hội: .......................................................30
Chương 4: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU ........................................................................ 33
4.1. Đánh giá tính da dạng về thành phần loài cây thuốc tại khu BTTN Hang Kia –
Pà Cò, tỉnh Hòa Bình ................................................................................................33
4.1.1. Thống kê các loài cây thuốc tại khu BTTN Hang Kia – Pà Cò, Tỉnh Hoà Bình .33
4.1.2. Đa dạng về các bậc phân loại (Ngành, Họ, Chi, Loài) của các loài cây thuốc
ở Khu BTTN Hang Kia – Pà Cò, tỉnh Hoà Bình. ......................................................33



v

4.1.4. Sự phân bố cây thuốc theo môi trường sống tại khu vực nghiên cứu. ............43
4.2. Thực trạng sử dụng cây thuốc và bài thuốc của đồng bào các dân tộc tại khu
BTTN Hang Kia – Pà Cò, tỉnh Hòa Bình .................................................................45
4.2.1. Thực trạng sử dụng tài nguyên cây thuốc tại khu BTTN Hang Kia – Pà Cò,
tính Hòa Bình: ...........................................................................................................45
4.2.2. Sự đa dạng về tần số sử dụng của các bộ phận. .............................................46
4.2.3. Sự đa dạng về số lượng các bộ phận của từng loài được sử dụng. ................49
4.2.4. Các nhóm bệnh được đồng bào các dân tộc ở Khu Bảo tồn thiên nhiên Hang
Kia – Pà Cò, tỉnh Hoà Bình chữa trị bằng cây thuốc. ..............................................50
4.3. Thực trạng khai thác, bảo tồn và phát triển nguồn tài nguyên cây thuốc tại khu
BTTN Hang Kia – Pà Cò, tỉnh Hòa Bình .................................................................55
4.3.1. Thực trạng khai thác, bảo tồn và phát triển nguồn tài nguyên cây thuốc tại
khu BTTN Hang Kia – Pà Cò, tỉnh Hòa Bình:..........................................................55
4.3.2. Vấn đề bảo tồn và phát triển nguồn tài nguyên cây thuốc tại khu BTTN Hang
Kia – Pà Cò, tỉnh Hòa Bình: .....................................................................................62
4.4. Giải pháp bảo tồn và phát triển các loài cây thuốc và nguồn tri thức bản địa tại
khu BTTN Hang Kia – Pà Cò, tỉnh Hòa Bình ..........................................................65
4.4.1. Mối nguy cơ đối với tài nguyên cây thuốc, bài thuố c tại khu vực nghiên cứu:
...................................................................................................................................65
4.4.2. Các giải pháp nhằm bảo tồn và phát triển tài nguyên cây thuốc. ..................66
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ ..................................................................................... 71
TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC


vi

DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT


Viết tắt

Viết đầu đủ

BQL

Ban quản lý

BTTN

Bảo tồn thiên nhiên

ĐDSH

Đa dạng sinh học

FAO

Tổ chức lương thực và nông nghiệp liên hợp quốc

HK-PC

Hang Kia – Pà Cò

HST

Hệ sinh thái

IUCN


Liên minh bảo tồn thiên nhiên quốc tế

KBT

Khu bảo tồn

TNTN

Tài nguyên thiên nhiên

LSNG

Lâm sản ngoài gỗ


vii

DANH MỤC CÁC BẢNG
Tên bảng

TT
2.1
4.1.
4.2.
4.3.
4.4.
4.5.
4.6.
4.7.

4.8.

Bảng danh lục các loài thực vật làm thuốc (mẫu)

Trang
18

Sự phân bố các taxon trong các ngành của các loài cây thuốc ở
Khu BTTN Hang Kia – Pà Cò, tỉnh Hòa Bình

34

So sánh hệ cây thuốc ở khu BTTN Hang Kia - Pà Cò, tỉnh Hòa
Bình với hệ cây thuốc Việt Nam

35

Sự phân bố các taxon trong ngành Hạt kín

36

Sự phân bố số lượng các loài cây thuốc trong các họ của các
ngành thực vật

37

Thống kê các chi có nhiều loài cây thuốc nhất

38


Bảng thống kê các loài cây thuốc quý hiếm, đang bị đe dọa tại
khu BTTN Hang Kia – Pà Cò, tỉnh Hòa Bình

39

Dạng thân của các loài cây thuốc ở khu BTTN Hang Kia – Pà
Cò, tỉnh Hòa Bình

42

Thống kê các loài cây thuốc theo môi trường sống

44

Thống kê thị trường và tình trạng một số loại thảo dược hiện có
4.9.

tại khu BTTN Hang Kia – Pà Cò (thời điểm điều tra tháng 1 năm
2013)

4.10. Sự đa dạng trong các bộ phận được sử dụng làm thuốc

47
50

Thống kê thị trường và tình trạng một số loại thảo dược hiện có
4.11

tại khu BTTN Hang Kia – Pà Cò (thời điểm điều tra tháng 1 năm
2013)


4.12

58

Các loài cây hiện được coi là khó thấy tại khu BTTN Hang Kia –
Pà Cò, tỉnh Hòa Bình

59

4.13

Các loài cây thuố c cầ n ưu tiên trong viê ̣c bảo tồ n ta ̣i Khu BTTN
Hang Kia – Pà Cò, tỉnh Hòa Bình

63

4.14

Mô ̣t số loài cây thuố c người dân điạ phương muố n gây trồ ng

64

4.15

Các loài cây thuố c cầ n ưu tiên trong viê ̣c bảo tồ n trong giai
đoa ̣n tới ta ̣i Khu BTTN Hang Kia – Pà Cò, tin̉ h Hòa Bình

64



viii

DANH MỤC CÁC HÌNH

Tên hình

TT
3.1

3.2

4.1

4.2

4.3

4.4

Trang

Bản đồ hiện trạng thảm thực vật rừng khu BTTN Hang Kia
– Pà Cò, tỉnh Hoà Bình

31

Bản đồ phân khu quản lý bảo vệ rừng khu BTTN Hang Kia
– Pà Cò, tỉnh Hoà Bình


32

Biểu đồ số lượng các taxon của các ngành cây thuốc ở khu
BTTN Hang Kia - Pà Cò, tỉnh Hòa Bình

34

Biểu đồ tỷ lệ các nhóm dạng sống của các loài cây thuốc ở
Khu BTTN Hang Kia – Pà Cò, tỉnh Hòa Bình

42

Biểu đồ số lượng của các loài cây thuốc phân bố theo môi
trường sống

45

Biểu đồ tỷ trọng sự phân bố số lượng các bộ phận sử dụng
làm thuốc

47


1

ĐẶT VẤN ĐỀ
Trong cuộc sống ngày nay khi mà khoa học kỹ thuật ngày càng phát triển
những vấn đề về sức khỏe con người ngày càng được quan tâm hơn bao giờ hết.
Khoa học ngày càng phát triển, nhận thức của con người ngày càng được tăng lên,
càng muốn hướng tới một cuộc sống mà ở đó có sự phát triển bền vững. Những sản

phẩm được con người ưu tiên sử dụng là những sản phẩm có nguồn gốc từ tự nhiên.
Một trong những sản phẩm như vậy là cây thuốc để chữa bệnh.
Từ xa xưa, ông cha ta đã biết sử dụng cây thuốc nguồn dược liệu quý báu tự
nhiên làm thuốc chữa bệnh cho nhân dân. Từ phương pháp pha chế, phương pháp
sử dụng, các bệnh được chữa,... đều là những kinh nghiệm lâu đời và được ghi chép
cẩn thận, lưu truyền qua nhiều thế hệ. Đây là những kinh nghiệm quý báu mà mọi
dân tộc, mọi quốc gia đều có và chúng ngày càng được bổ sung nhiều hơn, nghiên
cứu sâu hơn để phục vụ công việc cứu chữa bệnh tật cho con người.
Các cây thuốc phân bố rộng và đa dạng, số loài cây thuốc được ghi nhận vào
năm 2012 của nước ta đã lên tới gần 4700 loài (Võ Văn Chi, 2012), đây chắc hẳn
chưa phải là con số đầy đủ nếu như không muốn nói là còn ít so với những con số
thực tế bởi vì kho tàng kinh nghiệm của các dân tộc là rất lớn, trong khi công tác
điều tra, nghiên cứu, thử nghiệm, bảo tồn nguồn tài nguyên quí giá này của chúng ta
vẫn còn có nhiều hạn chế. Mặc dù xu thế hiện nay của thế giới là nghiên cứu việc
chiết xuất ra các dạng dược phẩm có giá trị nhưng việc điều tra, nghiên cứu về
nguồn dược liệu của các dân tộc hiện nay vẫn đang là vấn đề cần được quan tâm
một cách sâu sắc [8].
Đối với đồng bào dân tộc miền núi, việc sử dụng cây cỏ trong cuộc sống đã
gắn bó với họ từ lâu đời nay. Ngoài mục đích sử dụng cây cỏ làm thức ăn, làm
nguyên liệu để xây dựng,... thì việc sử dụng cây cỏ trong việc đấu tranh với bệnh tật
là một trong những vấn đề quan trọng. Cũng như nhiều Khu bảo tồn thiên nhiên và
Vườn quốc gia khác trong nước, Khu bảo tồn thiên thiên Hang Kia – Pà Cò, tỉnh
Hòa Bình có hệ thực vật nói chung, tài nguyên cây thuốc nói riêng đang bị suy giảm


2

cả về số lượng cũng như chất lượng [42]. Tại Khu bảo tồn thiên nhiên Hang Kia –
Pà Cò cho đến nay các công trình nghiên cứu về cây thuốc và đề xuất các giải pháp
bảo tồn chúng vẫn chưa được quan tâm và chú ý nhiều. Xuất phát từ vấn đề trên,

ho ̣c viên tiến hành nghiên cứu đề tài “Nghiên cứu giải pháp bảo tồn và phát triển
tài nguyên cây thuốc tại Khu Bảo tồn thiên nhiên Hang Kia - Pà Cò, tỉnh Hòa
Bình” để hoàn thiện nghiên cứu luận văn tốt nghiệp của mình, góp phần vào việc
bảo tồn các loài thực vật và tri thức bản địa của Việt Nam cũng như trong khu vực.


3

Chương 1
TỔNG QUAN VỀ TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
1.1. Tình hình nghiên cứu và sử dụng cây thuốc ở một số nước trên thế giới
Vấn đề Dân tộc học, thực vật học đã được hình thành ngay từ khi xuất hiện
con người để sống và đấu tranh chống lại thiên nhiên. Từ xa xưa, con người đã sử
dụng cây cỏ để chữa bệnh và những kinh nghiệm đó dần dần đã hình thành một
môn khoa học là Thực vật dân tộc học.
trong lịch sử Y học thế giới, các quốc gia, dân tộc ít nhiều có kinh nghiệm sử
dụng cây cỏ để chống lại bệnh tật. Trung Quốc là một trong những quốc gia có nền
y học cổ truyền rất phát triển. Theo truyền thuyết của Vua Thần Nông tức Viêm Đế
(3320 – 3080 trước Công nguyên) thì Thần Nông đã đếm hàng trăm loại cây cỏ,
phân loại dược tính của cây cỏ và soạn ra cuốn sách “Thần nông thảo bản”. Theo
các tài liệu nghiên cứu về Trung Quốc của các nhà khoa học thì “Thần nông thảo
bản” không soạn trong đời Thần Nông mà được soạn vào đời Đông Hán, vì thời
Thần Nông không có văn tự. Tất cả mọi chuyện đều là truyền thuyết. Trong cuốn
“Thần nông thảo bản” đã thống kê được 365 vị thuốc có giá trị. Trong đó, nhiều bài
thuốc vẫn được sử dụng cho tới ngày nay. Vào thời Tam Quốc, danh y Hoa Đà, sử
dụng Đàn hương, Tử đinh hương để chế hương nang để phòng chống và chữa trị
bệnh lao phổi và bệnh lỵ. Ông còn dùng hoa Cúc, Kim ngân phơi khô cho vào chiếc
gối (hương chẩm) để điều trị chứng đau đầu, mất ngủ, cao huyết áp. Từ thời nhà
Hán (năm 168 trước Công nguyên) trong cuốn sách “Thủ hậu bị cấp phương” tác
giả đã kê 52 đơn thuốc chữa bệnh từ các loại cây cỏ. Giữa thế kỷ XVI, Lý Thời

Trân đã thống kê 12.000 vị thuốc trong tập “Bản thảo cương mục”,…. [31] Cho đến
nay, Trung Quốc đã cho ra đời khá nhiều công trình về sử dụng các loài cây cỏ để
chữa bệnh.
Không chỉ có ở Trung Quốc, nhiều nước khác cũng có những kinh nghiệm
chữa bệnh lâu đời của họ. Ở Ấn Độ, nền y học cổ truyền được hình thành cách đây
hơn 3000 năm. Chủ trương của người Ấn là ngừa bệnh là chính, nếu phải điều trị
bệnh thì các liệu pháp tự nhiên chủ yếu thông qua thực phẩm và thảo mộc sẽ giúp


4

loại bỏ gốc rễ căn bệnh. Bộ sử thi Vedas được viết vào năm 1.500 TCN và cuốn
Charaka samhita được các thầy thuốc Charaka bổ sung tiếp vào bộ sử thi Vedas,
trình bày cụ thể 350 loài thảo dược. Ấn Độ là quốc gia rất phát triển về nghiên cứu
thảo dược như tổng hợp chất hữu cơ, tách chiết chứng minh cấu trúc, sàng lọc sinh
học, thử nghiệm độc tính, và nghiên cứu tác dụng hóa học của các chất tới cơ thể
con người. Hiện nay, chính phủ khuyến khích sử dụng công nghệ cao trong trồng
cây thuốc. Hầu hết các viện nghiên cứu dược của Ấn Độ đã tham gia vào nghiên
cứu chuyển hóa các loại thuốc và hợp chất có hoạt tính từ thực vật [27].
Không chỉ có Trung Quốc, Ấn Độ mà các nước khác cũng có nguồn kinh
nghiệm riêng của họ, từ những năm trước công nguyên, các chiến binh La Mã đã
biết dùng dịch cây Lô hội (Aloe barbadensis) để rửa vết thương, vết loét làm cho
chúng chóng lành bệnh mà ngày nay khoa học đã chứng minh là dịch cây có khả
năng làm liền sẹo thông qua sự kích thích tổ chức hạt và tăng nhanh quá trình biểu
mô hóa. Người cổ Hy Lạp đã sử dụng rau Mùi tây (Coriandrum officinale) để đắp
vết thương cho mau lành [14].
Ở Châu Âu, vào thời Trung cổ, các kiến thức về cây thuốc chủ yếu được các
thầy tu sưu tầm và nghiên cứu. Họ trồng cây thuốc và dịch các tài liệu về thảo mộc
bằng tiếng Ả rập. Vào năm 1649, Nicolas Culpeper đã viết cuốn sách “A Physical
Directory”, sau đó vài năm, ông lại xuất bản cuốn “The English Physician”. Đây là

cuốn dược điển có giá trị và là một trong những cuốn sách hướng dẫn đầu tiên dành
cho nhiều đối tượng sử dụng, người không chuyên có thể sử dụng để làm cẩm nang
chăm sóc sức khỏe. Cho đến nay, cuốn sách này vẫn được tham khảo và trích dẫn
rộng rãi [31].
Trong Y học dân gian Liên Xô đã sử dụng nước sắc vỏ cây Bạch dương
(Betula alba), vỏ cây Sồi (Quercus robus) để rửa vết thương và tắm ghẻ. Ở nước
Nga, Đức đã dùng cây Mã đề (Plantago major) sắc nước hoặc giã nát lá tươi đắp,
chữa trị vết thương, viêm tiết niệu, sỏi thận. Tại Bungaria, “đất nước của hoa hồng”
từ lâu đã sử dụng hoa hồng để chữa nhiều bệnh khác nhau. Người ta dùng cả hoa,
lá, rễ để làm thuốc tan huyết ứ và phù thũng. Ngày nay, người ta đã chứng minh


5

được trong cánh hoa hồng có một lượng tanin, glusit, tinh dầu đáng kể, tinh dầu này
không chỉ để chế nước hoa mà còn được dùng để chữa nhiều bệnh. [31, 29]
Các bài thuốc cổ truyền từ thực vật đóng vai trò quan trọng đối với sức khỏe
của hàng triệu người. Tuy vậy, các ông lang, bà mế cũng phải là người đóng vai trò
vô cùng quan trọng. Tỷ lệ người làm nghề thuốc cổ truyền và các bác sĩ được đào
tạo ở các trường Đại học có liên quan tới toàn bộ dân số của các nước châu Phi.
Ước tính số lượng thầy lang ở Tanzanmia có khoảng 30.000 – 40.000 người, trong
đó, bác sĩ làm nghề y chỉ có khoảng 600 người. Tương tự ở Malawi có khoảng gần
20.000 người làm nghề thuốc cổ truyền nhưng số lượng bác sĩ rất ít. Nền y học cổ
truyền ở các quốc gia Châu Phi có ảnh hưởng lớn đến sức khỏe cộng đồng. Từ lâu,
người Haiiti thường dùng cây Cỏ lào (Eupatorium odoratum) để làm thuốc chữa
những vết thương bị nhiễm khuẩn, cầm máu, áp xe, nhức răng, vết loét lâu ngày
không liền sẹo. [43, 44].
Ở Philippin, người ta sử dụng cây Bồ cu vẽ (Breynia fructicosa) lấy vỏ sắc làm
thuốc cầm máu hoặc tán bột rắc lên mụn nhọt, vết lở loét làm chúng chóng khỏi. Ở
Malaixia, cây Húng chanh (Coleus amboinicus) dùng lá sắc cho phụ nữ sau khi sinh

đẻ uống hoặc giã nhỏ, vắt nước cốt cho trẻ em uống trị sổ mũi, đau họng, ho gà. Ở
Cămpuchia, Malaixia người ta dùng Hương nhu tía (Ocimum sanctum), trong đó rễ
trị đau bụng, sốt rét; nước lá tươi có tác dụng long đờm hoặc giã nát đắp trị bệnh
ngoài da, khớp.
Trong chương trình điều tra cơ bản nguồn tài nguyên thiên nhiên ở khu vực Đông
Nam Á, Perry đã ghi nhận những cây thuốc trong Y học cổ truyền và các loài cây
này đã được các nhà khoa học kiểm chứng, trong đó có 146 loài có tính kháng
khuẩn. [12, 14]. Hay gần đây, tập thể các nhà khoa học đã cho ra đời cuốn sách Tài
nguyên các loài cây thuốc ở Đông Nam Á “Plant Resources of South-East Asia,
Medicinal and poisonous Plant (2001)” với 121 loài cây. [46]
Cùng với phương thức chữa bệnh theo kinh nghiệm dân gian, các nhà khoa
học trên thế giới tiến hành tìm hiểu, nghiên cứu cơ chế và các hợp chất hóa học
trong cây có tác dụng chữa bệnh, đúc rút thành những cuốn sách có giá trị. Các nhà
khoa học công nhận rằng hầu hết các cây cỏ đều có tính kháng sinh, đó là khả năng
miễn dịch tự nhiên của thực vật. Tác dụng kháng khuẩn do các hợp chất tự nhiên có


6

mặt phổ biến trong thực vật như phenolic, antoxy, các dẫn xuất quino, ancaloid,
flavonoid, saponin, … Cho đến nay, nhiều hợp chất tự nhiên đã được giải mã về cấu
trúc, những hợp chất này được chiết xuất từ cây cỏ để làm thuốc. Dựa vào cấu trúc
được giải mã, người ta có thể tổng hợp nên các chất nhân tạo để chữa bệnh. Gotthall
(1950) đã phân lập được chất Glucosid barbaloid từ cây Lô hội (Aloe vera), chất
này có tác dụng với vi khuẩn lao ở người và vi khuẩn Baccilus subtilis. Lucas và
Lewis (1994) đã chiết xuất một hoạt chất có tác dụng với các loài vi khuẩn gây bệnh
tả, lỵ, mụn nhọt từ Kim ngân (Lonicera sp). Từ cây Hoàng Liên (Coptis teeta),
người ta đã chiết xuất được berberin. Trong lá và rễ cây Hẹ (Allium odorum) có các
hợp chất sulfua, sapoin và chất đắng. Năm 1948, Shen-Chi-Shen phân lập được một
hoạt chất Odorin ít độc đối với động vật bậc cao nhưng lại có tác dụng kháng

khuẩn. Hạt của cây Hẹ cũng có chứa chất Alcaloid có tác dụng kháng khuẩn gram+
và gram-, nấm. Reserpin và Serpentin là chất hạ huyết áp được chiết xuất từ cây Ba
gạc (Rauvolfa spp.). Đặc biệt, Vinblastin và Vincristin vừa có tác dụng hạ huyết áp
vừa có tác dụng làm thuốc chống ung thư, được chiết xuất từ cây Dừa cạn. Digitalin
được chiết xuất từ cây Dương địa hoàng (Digitalis spp.), strophatin được chiết xuất
từ cây Sừng dê (Strophanthus spp) để làm thuốc trợ tim. Từ những thành tựu nghiên
cứu cấu trúc, hoạt tính của các hợp chất tự nhiên, nhiều loại thuốc có tác dụng chữa
bệnh cao đã ra đời bằng tổng hợp hoặc bán tổng hợp. [13].
Ngày nay, khoa học hiện đại đã chứng minh được khả năng chữa bệnh của
thảo mộc. Vì vậy, thế giới ngày càng quan tâm tới cây thuốc cũng như phương pháp
chữa bệnh bằng y học cổ truyền. Dược lý hiện đại chủ yếu tập trung vào các hợp
chất tự nhiên có hoạt tính chữa bệnh trong khi các nhà nghiên cứu về thảo mộc cho
rằng tác dụng chữa bệnh của cây thuốc là do sự kết hợp của nhiều thành phần có
trong cây thuốc. Chẳng hạn như chất khoáng, vitamin, tinh dầu glycosid và nhiều
chất khác đóng vai trò quan trọng trong việc tăng cường hoặc hỗ trợ các đặc tính
chữa bệnh của cây thuốc, bảo vệ cơ thể của các tác nhân gây độc. Trong khi đó, các
hợp chất được phân lập và tổng hợp có khả năng chữa bệnh hiệu quả nhưng vì thiếu
đi các hợp chất tự nhiên khác nên chúng có khả năng gây độc đối với cơ thể. Trước
đây, việc sử dụng thảo dược để chữa bệnh thường bị hiểu lầm với phép thuật và mê
tín dị đoan.


7

Theo con số thống kê, khoảng 80% dân số ở các quốc gia đang phát triển sử
dụng các phương pháp y học cổ truyền để chăm sóc sức khỏe, trong đó chủ yếu là
cây cỏ. Trung Quốc là nước đông dân nhất thế giới, có nền y học dân tộc phát triển
nên trong số cây thuốc đã biết hiện nay có tới 80% số loài (khoảng trên 4.000 loài)
là được sử dụng theo kinh nghiệm cổ truyền của các dân tộc ở đất nước này. Ở
Ghana, Mali, Nigeria và Zambia, 60% trẻ em có triệu chứng sốt rét ban đầu được

điều trị tại chỗ bằng thảo dược. Tỷ lệ dân số tin tưởng vào hiệu quả sử dụng thảo
dược và các biện pháp chữa bệnh bằng y học cổ truyền cũng đang tăng nhanh ở các
quốc gia phát triển. Ở Châu Âu, Bắc Mỹ, và một số nước khác, ít nhất 50% dân số
sử dụng thực phẩm bổ sung hay thuốc thay thế từ thảo mộc. Ở Đức, 90% dân số sử
dụng các phương thuốc có nguồn gốc thiên nhiên để chăm sóc sức khỏe. Ở Anh, chi
phí hàng năm cho các loại thuốc thay thế từ thảo mộc là 230 triệu đôla [44].
Tuy nhu cầu sử dụng cây thuốc của con người trong việc chăm sóc sức khỏe
ngày một tăng, nhưng nguồn tài nguyên thực vật đang bị suy giảm. Nhiều loài thực
vật đã bị tuyệt chủng hoặc đang bị đe dọa tuyệt chủng do các hoạt động trực tiếp và
gián tiếp của con người. Theo tổ chức Bảo tồn thiên nhiên và tài nguyên thiên nhiên
(IUCN) cho biết, trong tổng số 43.000 loài thực vật mà cơ quan này lưu giữ thông
tin có tới 30.000 loài được coi là đang bị đe dọa tuyệt chủng ở các mức độ khác
nhau. Trong đó có nhiều loài là cây thuốc quý hiếm, có giá trị kinh tế cao. Chẳng
hạn như ở Bangladesh, một số cây thuốc quý như Tylophora indicia để chữa hen,
Zannia indicia (thuốc tẩy xổ)…trước đây mọc rất phổ biến, nay đã trở nên hiếm hoi.
Loài Ba gạc (Rauvolfila serpentina) vốn mọc rất tự nhiên ở Ấn Độ, Bangladesh,
Thái Lan…mỗi năm có thể khai thác hàng ngàn tấn nguyên liệu xuất khẩu sang thị
trường Âu, Mỹ làm thuốc chữa cao huyết áp. Tuy nhiên, do bị khai thác liên tục
nhiều năm nên nguồn gốc cây thuốc này đã bị cạn kiệt. Vì vậy một số bang ở Ấn Độ
đã đình chỉ khai thác loài Ba gạc này [9]. Ở Trung Quốc, loài Từ (Dioscorea sp.) đã
từng có trữ lượng lớn và từng được khai thác tới 30.000 tấn, nhưng hiện nay số
lượng bị giảm đi rất nhiều, có loài đã phải trồng lại. Một vài loài cây thuốc dân tộc
quý như Fritillaria cirrhosa làm thuốc ho, phân bổ nhiều ở vùng Tây bắc tỉnh Tứ
Xuyên nay chỉ còn có ở 1 đến 2 điểm với số lượng ít ỏi.


8

Nguyên nhân gây nên sự suy giảm nghiêm trọng về mặt số lượng của các loài
cây thuốc trước hết là do sự khai thác quá mức nguồn tài nguyên dược liệu và do

môi trường sống của chúng bị hủy diệt bởi các hoạt động của con người. Đặc biệt, ở
các vùng rừng nhiệt đới và Á nhiệt đới là nơi có mức độ đa dạng sinh học cao của
thế giới nhưng lại bị tàn phá nhiều nhất. Theo số liệu của tổ chức Nông Lương
(FAO) của Liên hợp quốc, trong vòng 40 năm (1940 – 1980), diện tích của các loại
rừng kể trên đã bị thu hẹp tới 44%, ước tính khoảng 75.000 hecta rừng bị phá hủy.
Trong thế kỷ 21, với mục đích phục vụ sức khỏe con người, sự phát triển của
xã hội, chống lại các bệnh nan y thì sự cần thiết là phải kết hợp giữa Đông Y với
Tây Y, giữa Y học hiện đại và Y học cổ truyền của các dân tộc. Chính những kinh
nghiệm của các dân tộc chính là chìa khóa giúp chúng ta khám phá ra nhiều loại
thuốc mới cho tương lai. Chính vì điều đó mà việc bảo tồn, khai thác và phát triển
các loài cây thuốc cần được chú ý quan tâm.
1.2. Tình hình nghiên cứu và sử dụng cây thuốc ở Việt Nam
Hơn ai hết, từ lâu đời nay, nền y học cổ truyền của Việt Nam đã có nhiều cây
thuốc, bài thuốc được áp dụng chữa bệnh trong dân gian có hiệu quả. Qua quá trình
phát triển của dân tộc, các kinh nghiệm dân gian quý báu đó đã dần đúc kết thành
những cuốn sách có giá trị và lưu truyền rộng rãi trong nhân dân ta.
Ngay từ thời vua Hùng Vương (năm 2400-258 trước Công nguyên) qua các
văn tự hán nôm còn sót lại, tổ tiên ta đã biết dùng cây cỏ làm gia vị, kích thích sự
ngon miệng và chữa bệnh. Theo Long Úy chép lại, vào đầu thế kỷ thứ 2 trước Công
nguyên, có hàng trăm vị thuốc từ đất Giao Chỉ như Ý dĩ (Coix lachryma-jobi), Hoắc
hương (Pogostemon cablin), hay việc tìm ra bột đao trong thân cây Báng, quả Cọ,
Móc có chất bổ ăn để chống đói; dùng Gừng ăn với chim, cá, ba ba cho đỡ tanh và
dễ tiêu hoá, từ đó đã bắt nguồn tục dùng Gừng, Hành, Tỏi,… làm gia vị trong bữa
ăn hàng ngày để phòng bệnh. [14].
Cùng với sự tiến hóa của lịch sử, nền Y học cổ truyền Việt Nam gắn liền với
kinh nghiệm sử dụng cây thuốc của nhân dân cũng dần phát triển, nó gắn liền với
tên tuổi và sự nghiệp của các danh y nổi tiếng đương thời.
Lương y Tuệ Tĩnh trong cuốn sách “Nam Dược Thần Hiệu” và “Hồng Nghĩa
Giác Tư Y Thư” đã mô tả hơn 630 vị thuốc, 50 đơn thuốc chữa các loại bệnh trong



9

đó 37 đơn thuốc chữa bệnh thương hàn. Hai cuốn sách này được xem là những cuốn
sách xuất hiện sớm nhất về cây thuốc Việt Nam. Đời nhà Trần có Phạm Ngũ Lão
thừa lệnh Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn, thu thập trông nom một vườn thuốc
lớn để chữa bệnh cho quân sĩ, gọi là “Sơn dược”, nay vẫn còn di tích tại xã Hưng
Đạo, huyện Chí Linh, tỉnh Hải Dương. Đến thế kỷ 18, Hải Thượng Lãn Ông Lê
Hữu Trác đã xuất bản bộ sách lớn “Y Tông Tâm Tĩnh” gồm 28 tập, 66 quyển đã mô
tả khá chi tiết về các loài thực vật, các đặc tính chữa bệnh [17].
Thời kỳ Pháp thuộc (1884 - 1945), nền y học cổ truyền của Việt Nam chịu
nhiều ảnh hưởng của dược học phương Tây. Bộ sách “Danh mục các sản phẩm ở
Đông Dương” của C. Crévost và A. Pétélot năm 1935 đã thống kê được 1.340 vị
thuốc có nguồn gốc thảo mộc được dùng trong y học của Đông Dương [41]. Đến
năm 1993 Nguyen Van Duong xuất bản cuốn “Những cây thuốc của Campuchia,
Lào và Việt Nam” với 524 trang và thống kê khoảng 1.480 loài thực vật. Tuy nhiên
cuốn sách này chưa hoàn thiện về mô tả, phân bố, thành phần hóa học và dược lý
của các loại thảo mộc [47].
Năm 1957, Hội Đông Y Việt Nam (nay là hội Y học Cổ truyền Việt Nam)
được thành lập, lãnh đạo các lương y làm nghề chữa bệnh trong nhân dân. Cũng
trong năm này, Viện nghiên cứu Đông Y (nay là viện Y học Cổ truyền Việt Nam)
với mục tiêu chỉ đạo các bệnh viện Y học dân tộc và các tỉnh, kết hợp giữa Y học cổ
truyền với Y học hiện đại từ trung ương đến cơ sở. Năm 1961, Viện Dược liệu được
thành lập chuyên trách việc nghiên cứu nuôi trồng dược liệu, đã tiếp thu các viện
nghiên cứu Đông Y chuyển sang, các vườn thuốc ở Văn Điển (Hà Nội), Tam Đảo
(Vĩnh Phúc), Sa Pa (Lào Cai) cũng được xây dựng từ đây. Đây là các mốc thời gian
quan trọng trong lịch sử nghiên cứu cây thuốc của đất nước [14].
Trong thời gian chiến tranh (1954-1975), vùng căn cứ ở hậu phương vẫn dùng
thuốc nam và “toa thuốc căn bản” gia giảm, thời kháng chiến chống Pháp trước đây
và phát hiện nhiều vị thuốc mới như cây Dền chữa sốt rét bổ máu, Bèo tây giải độc

hoá chất. Từ sau khi miền Nam được giải phóng, y dược học dân tộc đã phát triển ở
khắp cả nước. Nhiều công trình biên soạn giảng dạy, nghiên cứu khoa học y dược,


10

phòng bệnh dưỡng sinh, xoa bóp, châm cứu, trị bệnh bằng thuốc theo y học cổ
truyền, và kết hợp y học cổ truyền và y học hiện đại đã được tổng kết và có tác dụng
tăng cường khả năng bảo vệ sức khoẻ nhân dân [14].
Một số tác giả nghiên cứu về tài nguyên thực vật làm thuốc đã có các xuất bản
đáng lưu ý như Đỗ Tất Lợi (1995) đã xuất bản bộ sách “Những cây thuốc và vị
thuốc Việt Nam” và tái bản vào năm 2000 [26]. Công trình này thống kê gần 800
loài cây, con và vị thuốc, trong đó nhiều loài thực vật đã được mô tả về mặt cấu tạo,
phân bố, cách thu hái và chế biến, thành phần hóa học, công dụng và liều dùng. Võ
Văn Chi (1997) trong cuốn sách “Từ điển cây thuốc Việt Nam”, đã mô tả được
3.200 loài cây thuốc, trong đó thực vật có hoa là 2.500 loài thuộc 1.050 chi, được
xếp và 230 họ thực vật theo hệ thống của Takhtajan [8]. Tác giả đã trình bày về
cách nhận biết, các bộ phận được sử dụng, nơi sống và thu hái, thành phần hóa học,
tính vị và tác dụng, công dụng của các loài thực vật [8]. Đến năm 2000, Võ Văn Chi
và Trần Hợp tiếp tục giới thiệu cuốn sách “Cây cỏ có ích ở Việt Nam” mô tả
khoảng 6.000 loài thực vật bậc cao có mạch với các đặc điểm hình thái, sinh thái,
phân bố và công dụng [9], năm 2012, Võ Văn Chi với “Từ điển cây thuốc Việt
Nam” (tái bản và có chỉnh sửa) đã đưa con số các loài làm thuốc lên tới gần 4700
loài.
Trong nghiên cứu cây thuốc, không thể không kể đến nhiều bộ công trình có
giá trị của Viện Dược liệu (Bộ Y Tế). Năm 1980, Đỗ Huy Bích và tập thể nghiên
cứu của Viện Dược Liệu đã giới thiệu 159 loài cây thuốc trong “Sổ tay cây thuốc
Việt Nam”. Hay Tập thể các tác giả Viện Dược liệu cho ra đời cuốn “Tài nguyên
Cây thuốc Việt nam” (1993) với khoảng 300 loài cây thuốc đang được khai thác và
sử dụng ở các mức độ khác nhau trong toàn quốc, “Dược điển Việt Nam, 2 tập”

(1994), “Selected medicinal plants in Vietnam” (2001), và gần đây nhất là cuốn
“Cây thuốc và động vật là thuốc ở Việt Nam, 2 tập” (2004) [3, 40, 41,48].
Nguyen Van Duong (1993), đã xuất bản cuốn “Medicinal plants of Vietnam,
Cambodia and Laos”, trong đó có 879 loài cây thuốc được mô tả vắn tắt cùng công
dụng của chúng [47].


11

Trần Đình Lý (1993) và cộng sự đã xuất bản cuốn sách “1900 loài cây có ích”.
Trong số các loài thực vật bậc cao có mạch đã biết ở Việt Nam có 76 loài cho nhựa
thơm, 160 loài có tinh dầu, 260 loài cho dầu béo, 600 chứa tanin, 500 loài cây gỗ có
giá trị cao, 400 loài tre nứa, 40 loài song mây. Trong số các nhóm thực vật này, rất
nhiều loài có công dụng làm thuốc. Năm 1995 Vương Thừa Ân cho ra đời cuốn
“Thuốc quý quanh ta”, Ngô Trực Nhã với “Cây thuốc trong trường học”, [35]...
Bên cạnh đó, nhiều cuốn sách có giá trị trong nghiên cứu về tài nguyên cây
thuốc ở Việt Nam như Nguyễn Tiến Bân và cộng sự (2003, 2005) đã công bố bộ
sách “Danh lục các loài thưc vật Việt Nam” [2]. Cuốn sách đã trình bày đầy đủ các
thông tin về tên khoa học, tên thường gọi, nhận dạng, phân bố, dạng sống – sinh
thái và công dụng. Bộ sách này rất có ý nghĩa cho việc tra cứu hệ thực vật nói chung
và tra cứu thành phần loài cây thuốc nói riêng.
Theo ghi nhận của Viện Dược liệu – Bộ Y tế, đến nay ở nước ta có khoảng
3.948 loài cây thuốc có giá trị được ghi nhận, thuộc 307 họ của 9 ngành thực vật
bậc cao và bậc thấp, bao gồm cả nấm. Kết quả điều tra được ghi nhận là các kinh
nghiệm sử dụng cây thuốc của cộng đồng dân tộc ở các địa phương trong cả nước
[3]. Hay các nhà khoa học thuộc Viện Sinh thái và Tài nguyên Sinh vật trong những
năm qua đã có nhiều công trình nghiên cứu về tri thức và kinh nghiệm sử dụng cây
thuốc của các dân tộc thiểu số ở Việt Nam. Đặc biệt là các nghiên cứu về y học cổ
truyền của các dân tộc thiểu số miền núi phía Bắc trong những năm gần đây như:
Đề tài Xây dựng luận cứ khoa học để bảo vệ tri thức bản địa cho việc sử dụng đa

dạng sinh học [43]; Nghiên cứu và ứng dụng thành công tri thức sử dụng cây Ngấy
(Rubus cochinchinesis) của đồng bào dân tộc trong việc chữa trị u tiền liệt tuyến của
tác giả Lưu Đàm Cư và cộng sự (2002). Năm 2001, Nguyễn Thị Phương Thảo và
cộng sự đã điều tra đánh giá về tài nguyên cây thuốc và kinh nghiệm sử dụng các
loài thực vật làm thuốc của một số cộng đồng dân tộc Dao, Tày và Hoa tại Yên Tử Quảng Ninh và đã thu thập được 362 loài thực vật làm thuốc. Năm 2005, tác giả đã
thực hiện đề tài “Nghiên cứu tác động kinh tế - dân sinh của các cộng đồng dân tộc
vào tài nguyên thực vật và ảnh hưởng của nó tới đa dạng sinh học tại Chiềng Yên –
Mộc Châu – Sơn La”. Kết quả đã thống kê được 209 loài cây thuốc do người
Mường sử dụng và 176 cây thuốc được người Dao sử dụng. Hay công trình của


12

Nguyễn Nghĩa Thìn và cộng sự (2001) về “Cây thuốc của đồng bào dân tộc Thái ở
Con Cuông, tỉnh Nghệ An” [35]; Năm 2002, Trần Văn Ơn với “Góp phần nghiên
cứu bảo tồn cây thuốc ở VQG Ba Vì”.
1.3. Tình hình nghiên cứu và sử dụng cây thuốc ở khu BTTN Hang Kia – Pà
Cò, tỉnh Hòa Bình
Trước đây, khu BTTN Hang Kia – Pà Cò cũng như nhiều vùng núi khác, việc
chăm sóc sức khỏe, khám chữa bệnh cho người dân còn rất hạn chế và khó khăn.
Người dân tự tìm hiểu và tìm ra được nhiều loài cây rừng có tác dụng chữa bệnh.
Những tri thức và kinh nghiệm sử dụng những loài cây để chữa bệnh đã được người
dân địa phương giữ gìn và lưu truyền lại qua nhiều đời, nhiều thế hệ sau. Về sau,
một phần nhỏ người dân, chủ yếu là các bà mế, ông lang ở đây đã đưa một số loài
cây thuốc về trồng trong vườn nhà. Tuy nhiên đó chỉ là số lượng nhỏ, một số loài
không thể trồng được nên họ vẫn khai thác nguồn tài nguyên cây thuốc trong rừng
để chữa bệnh, trao đổi mua bán.
Năm 2003, Viện Sinh thái và tài nguyên sinh vật, thuộc Viện Khoa học và
Công nghệ Việt Nam đã tiến hành đề tài “Xây dựng luận cứ khoa học để bảo vệ tri
thức bản địa cho việc sử dụng đa dạng sinh học” có triển khai tại khu BTTN này.

Bên cạnh đó, việc điều tra nghiên cứu về tri thức bản địa và kinh nghiệm sử dụng
cây thuốc của đồng bào Thái tại một số nơi của huyện Mai Châu – Hòa Bình của tác
giả Nguyễn Tiến Bân và cộng sự cũng đã được triển khai [43].
Năm 2009, trong khuôn khổ của dự án hợp tác giữa Trung tâm Con người và
thiên nhiên với khu BTTN Hang Kia – Pà Cò (tỉnh Hòa Bình), tác giả Phạm Quốc
Hùng và Hoàng Ngọc Ý đã đưa ra báo cáo “Nghiên cứu tri thức bản địa trong bảo
vệ rừng của người Mông tại khu BTTN Hang Kia – Pà Cò, tỉnh Hoà Bình”. Trong
công trình này, các tác giả cũng có điều tra trong cộng đồng các dân tộc cách thức
sử dụng các loài thực vật và 6 bài thuốc của đồng bào dân tộc H’Mông thường sử
dụng [19] Tuy nhiên tên các loài cây thuốc trong bài thuốc ở đây chỉ được ghi bằng
tiếng H’Mông, nên khó tìm hiểu để thu thập thông tin về các kiến thức và kinh
nghiệm này.


13

Năm 2011, Đỗ Sĩ Hiến khi triển khai Luận văn thạc sỹ khoa học lâm nghiệp
đã nghiên cứu các loài cây làm thuốc được đồng bào dân tộc Mường sử dụng.
Trong công trình này, tác giả đã công bố được 405 loài cây thuốc.
Cũng năm 2011, Đỗ Sĩ Hiến, Đỗ Thị Xuyến, đã công bố “Các loài thực vật
được đồng bào dân tộc Mường tại khu bảo tồn thiên nhiên Hang Kia – Pà Cò sử
dụng làm thuốc trị bệnh thận” trong Báo cáo Khoa học về Sinh thái và Tài nguyên
sinh vật. Hội nghị khoa học toàn quốc lần thứ tư, Hà Nội.
Như vậy, cho đến nay vẫn chưa có một công trình nghiên cứu nào về tổng hợp
nguồn tài nguyên cây thuốc nói chung tại khu BTTN Hang Kia – Pà Cò được xuất
bản, chưa có dự án nào về bảo tồn và phát triển các loài cây thuốc của khu BTTN
này được triển khai.


14


Chương 2
MỤC TIÊU, ĐỐI TƯỢNG, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Mục tiêu của đề tài
2.1.1. Mục tiêu tổng quát
Đặt nền tảng cho việc sử dụng hợp lý tài nguyên thực vật, góp phần vào viê ̣c bảo
tồn các loài thực vật và tri thức bản địa của Việt Nam cũng như trong khu vực.
2.1.2. Mục tiêu cụ thể
2.1.2.1. Tập hợp được một cách có hệ thống các loài thực vật được ghi nhận làm
thuốc ở khu BTTN Hang Kia – Pà Cò, tỉnh Hoà Bình.
2.1.2.2. Tìm hiểu thực trạng sử dụng và phát triển tài nguyên cây thuốc tại khu bảo
tồn thiên nhiên Hang Kia – Pà Cò, tỉnh Hoà Bình.
2.1.2.3. Đưa ra giải pháp bảo tồn một số loài cây làm thuốc có giá trị.
2.2. Đối tượng nghiên cứu
Các loài thực vật bâ ̣c cao có ma ̣ch được ghi nhận làm thuốc ở khu bảo tồn
thiên nhiên Hang Kia - Pà Cò, tỉnh Hòa Bình.
Một số bài thuốc của đồng bào ở Khu BTTN Hang Kia – Pà Cò, tỉnh Hòa
Bình đang lưu trữ và sử dụng. Thực trạng sử dụng tài nguyên cây thuốc tại khu vực.
Thời gian thực hiện: Từ tháng 9 năm 2012 đến tháng 3 năm 2013.
2.3. Nội dung nghiên cứu
3.2.1. Đánh giá tính đa dạng về thành phầ n loài cây thuốc: Điều tra, xây dựng
danh lục các loài thực vật có tác dụng làm thuốc, phân tích, đánh giá tính đa
dạng các loài cây thuốc. Bộ phận sử dụng, dạng sống, môi trường sống thông
qua quá trình nghiên cứu thực địa và kết hợp kinh nghiệm của người dân bản địa.
3.2.2. Thực trạng sử dụng cây thuốc và bài thuố c của đồng bào các dân tộc ta ̣i
khu Bảo tồn thiên nhiên Hang Kia – Pà Cò, tỉnh Hoà Bình: Sự đa dạng trong
việc sử dụng cây thuốc, bộ phận sử dụng, nhóm bệnh chữa trị,...
3.2.3. Thực trạng khai thác, bảo tồn và phát triển nguồn tài nguyên cây thuốc tại
Khu Bảo tồn thiên nhiên Hang Kia – Pà Cò, tỉnh Hoà Bình.



15

3.2.4. Giải pháp bảo tồn và phát triển các loài cây thuốc và tri thức bản địa tại
Khu BTTN Hang Kia – Pà Cò, tỉnh Hoà Bình.
2.4. Phương pháp nghiên cứu
2.4.1. Thu thập số liệu, tài liệu
Phương pháp kế thừa: Tiến hành thu thập số liệu từ các nguồn thông tin đáng tin
cậy như các báo cáo khoa học của khu bảo tồn, kỷ yếu, tạp chí khoa học, luận văn,
luận án, internet, ….
2.4.2. Phương pháp phỏng vấn nhanh có sự tham gia của người dân (PRA)
Phỏng vấn đồng bào, các cán bộ làm công tác quản lý, nhất là các ông lang, bà
mế, các lương y dân tộc Mường tại khu BTTN Hang Kia – Pà Cò, tỉnh Hoà Bình
thông qua các bảng câu hỏi đã được xây dựng sẵn hay phỏng vấn mở (không qua
bảng câu hỏi) để sưu tầm và phát hiện các bài thuốc, cây thuốc sử dụng theo kinh
nghiệm dân gian. Mỗi cây thuốc, bài thuốc đều có mẫu thu và ghi chép các thông tin
cần thiết như công dụng, bộ phận sử dụng, cách sử dụng của cây cũng như giá cả thị
trường (phụ lục 2).
Trước khi tiến hành điều tra phỏng vấn và thảo luận nhóm tại các thôn, bản,
chúng tôi thường tới BQL của KBT, lãnh đạo các xã, đại diện các ban, nghành để
tìm hiểu các thông tin cơ bản ngoài điều kiện tự nhiên, kinh tế xã hội, của đồng bào
nơi nghiên cứu, chúng tôi còn tìm hiểu các vấn đề liên quan đến phong tục tập quán,
kiến thức bản địa, quản lý và bảo vệ tài nguyên rừng, thị trường tiêu thụ các sản
phẩm từ rừng, đặc biệt là vấn đề cây thuốc.
2.4.3. Phương pháp điều tra thực địa theo tuyến và theo ô tiêu chuẩ n
Điều tra theo tuyến nhằm thu thập các loài thực vật làm thuốc ở khu BTTN
Hang Kia – Pà Cò. Trước hết phải khảo sát sơ bộ sau đó ta tiến hành chọn tuyến
điều tra. Tuyến được chọn phải đảm bảo yêu cầu phải chạy qua các sinh cảnh đặc
trưng cho khu bảo tồn. Trên các tuyế n lâ ̣p ra các ô tiêu chuẩ n đa ̣i diê ̣n, điể n hình
cho từng tra ̣ng thái, từng kiể u rừng. (theo Nguyễn Nghĩa Thìn, 1997, 2007, Nguyễn

Thượng Dong và cộng sự, 2006).


×