Tải bản đầy đủ (.pdf) (89 trang)

Giải pháp góp phần tăng cường thu hút đầu tư cho phát triển sản xuất kinh doanh trên địa bàn huyện chương mỹ, thành phố hà nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (924.21 KB, 89 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PTNT

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LÂM NGHIỆP
----------------------------------------

PHẠM THỊ HỒNG

GIẢI PHÁP GÓP PHẦN TĂNG CƯỜNG THU HÚT ĐẦU TƯ CHO
PHÁT TRIỂN SẢN XUẤT KINH DOANH TRÊN ĐỊA BÀN
HUYỆN CHƯƠNG MỸ, THÀNH PHỐ HÀ NỘI

Chuyên ngành: Kinh tế nông nghiệp
Mã số: 60.62.01.15

LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ

Người hướng dẫn khoa học: TS. Dương Ngọc Thí

Hà Nội – 2013


1

ĐẶT VẤN ĐỀ
Tính cấp thiết của đề tài
Vốn đầu tư là một yếu tố cơ bản cho phát triển kinh tế xã hội. Việc đảm
bảo huy động các nguồn vốn cho đầu tư phát triển là một trong những điều
kiện quan trọng để thực hiện thành công các mu ̣c tiêu phát triể n kinh tế – xã
hô ̣i đế n năm 2020.


Trong nền kinh tế hiện nay, đầu tư cho phát triển kinh tế nói chung và
đầu tư cho phát triển sản xuất kinh doanh nói riêng là một vấn đề đặc biệt
quan trọng, cần được quan tâm giải quyết. Việc thu hút vốn đầu tư cho phát
triển sản xuất kinh doanh phải đảm bảo đáp ứng được nhu cầu đầu tư phát
triển, đồng thời việc thu hút và sử dụng vốn đó phải đạt được hiệu quả kinh tế
cao. Hoạt động thu hút vốn đầu tư được xem trọng vì chỉ có cách thu hút các
nguồn vốn đầu tư thì mới có thể đẩy nhanh và mạnh nền kinh tế. Có như vậy
mới tạo ra được những bước đột phá mới trong đầu tư xây dựng CSHT, đầu
tư vào phát triển sản xuất –kinh doanh và áp dụng các tiến bộ khoa học kỹ
thuật, công nghệ hiện đại mà nếu không có vốn thì không thể thực hiện được.
Huyện Chương Mỹ nằm cách trung tâm thủ đô Hà Nội 20 km về phía
Tây Nam. Từ năm 2008 tỉnh Hà Tây sát nhập vào Hà Nội, chương Mỹ trở
thành một huyện ngoại thành của Thủ đô Hà Nội. Huyện có nhiều tiềm năng
lợi thế về vị trí địa lý, giao thông, gần trung tâm chính trị- kinh tế- văn hóa xã hội. Chính quyền huyện Chương mỹ đã nhận thức được thế mạnh của mình
nên đã có nhiều giải pháp và vận dụng các chính sách để vừa khai thác sử
dụng có hiệu quả các tiềm năng của mình đồng thời thu hút các tiềm lực bên
ngoài tạo thêm động lực để phát triển kinh tế- xã hội của địa phương.
Thời gian qua, công tác thu hút các dự án đầu tư sản xuất - kinh doanh
trên địa bàn huyện Chương Mỹ có chiều hướng phát triển tích cực, các dự án
mới đang triển khai thủ tục theo quy định, nhiều dự án đã đi vào hoạt
động.Tuy nhiên việc thu hút các nguồn vốn đầu tư cho phát triển sản xuất
kinh doanh của Huyện chưa có các giải pháp và chính sách đủ mạnh tạo động
lực thu hút nhiều nhà đầu tư trong và ngoài nước. Chính vì vậy, chưa thu hút


2

được nhiều nhà đầu tư, chất lượng đầu tư chưa cao, chưa lựa chọn được các
nhà đầu tư tốt để tạo bước đột phá cho sự phát triển kinh tế xã hội của huyện.
Với mong muốn giúp huyện nhà thu hút ngày càng nhiều các nguồn

vốn đầu tư cho phát triển sản xuất kinh doanh một cách có hiệu quả, tôi đã
chọn đề tài: “Giải pháp góp phần tăng cường thu hút đầu tư cho phát triển
sản xuất kinh doanh trên địa bàn huyện Chương Mỹ, Thành phố Hà Nội ".
Vốn đầu tư có thể được sử dụng cho phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội,
bảo vệ môi trường, trong đó đầu tư cho sản xuất kinh doanh nhằm phát triển
kinh tế, tạo thêm việc làm, nâng cao thu nhập là nền tảng cho sự phát triển các
lĩnh vực khác. Chính vì vậy, trong giới hạn nghiên cứu của luận văn, học viên
tập trung nghiên cứu thu hút vốn đầu tư cho phát triển sản xuất kinh doanh.
Các lĩnh vực khác khi có điều kiện học viên sẽ nghiên cứu thêm.
2. Mục tiêu nghiên cứu
2.1. Mục tiêu tổng quát
Góp phần tăng cường thu hút vốn đầu tư cho phát triển sản xuất kinh
doanh trên địa bàn huyện Chương Mỹ, Thành phố Hà Nội
2.2. Mục tiêu cụ thể
- Hệ thống hóa được cơ sở lý luận và thực tiễn về đầu tư và quản lý nhà
nước đối với hoạt động đầu tư .
- Đánh giá được thực trạng đầu tư và quản lý đầu tư cho phát triển sản xuất
kinh doanh trên địa bàn huyện Chương Mỹ, Thành phố Hà Nội.
- Đề xuất được một số giải pháp chủ yếu góp phần tăng cường thu hút vốn
đầu tư cho phát triển sản xuất kinh doanh trên địa bàn huyện Chương Mỹ,
Thành phố Hà Nội.


3

Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1.1. Cơ sở lý luận về đầu tư và thu hút vốn đầu tư
1.1.1. Cơ sở lý luận về đầu tư
1.1.1.1. Khái niệm đầu tư

Khái niệm đầu tư theo từ điển VOV- Sách tiếng Anh đặc biệt: Đầu tư là
bỏ tiền vào kinh doanh hoặc vào một tổ chức với hy vọng kiếm được nhiều
tiền hơn.
Trong từ diển kinh tế -thương mại: Đầu tư là thuật ngữ này được sử
dụng phổ biến nhất để mô tả lưu lượng chi tiêu được dùng để tăng hay duy trì
dung lượng vốn thực tế.
Trong Luật đầu tư só 59/2005/QH XI ban hành ngày 29/11/2005 của
Việt Nam, Đầu tư là việc nhà đầu tư bỏ vốn bằng các loại tài sản hữu hình
hoặc vô hình để hình thành tài sản tiến hành các hoạt động đầu tư theo quy
định của Luật này và các quy định khác của pháp luật có liên quan.
Đối với các nhà đầu tư, khi họ bỏ vốn vào đầu tư họ tính toán và thực
hiện các biện pháp để mong muốn trong tương lại (gần, dài hạn hoặc cả hai)
sẽ tạo ra giá trị lớn hơn giá trị họ đã bỏ ra. Như vậy, mục đích chính yếu của
nhà đầu tư là lợi nhuận.
Đối với người thụ hưởng đầu tư (quốc gia, địa phương, các doanh
nghiệp, nông dân, ...) sẽ thu được nhiều lợi ích: Trước hết đối với các nước
đang phát triển nguồn tài chính hạn hẹp, có thêm vốn đầu tư là có thêm nguồn
tiền đáp ứng nhu cầu tài chính cho đầu tư phát triển. Thứ hai, có thêm cơ hội
mở mang sản xuất, kinh doanh, phát triển CSHT v.v. từ đó có thêm việc làm,
tạo thêm thu nhập, cơ hội mở rộng ngành nghề đã có hay mở ra ngành nghề
mới, v.v. điều đó sẽ góp phần phát triển kinh tế xã hội của quốc gia, địa


4

phương, cải thiện đời sống cư dân. Thứ ba, người thụ hưởng đầu tư cũng
mong đợi ở các nhà đầu tư, đặc biệt là các nhà đầu tư nước ngoài sẽ mang đến
những tiến bộ kỹ thuật, nhưng công nghệ mới, những phương thức quản trị
tiên tiến, sau một thời gian đầu tư sẽ có sự chuyển giao các tiến bộ này từ nhà
đầu tư sang người thụ hưởng đầu tư, giúp cho người thụ hưởng đầu tư nâng

cao năng lực một cách toàn diện thông qua hoạt động đầu tư. Thứ tư, với các
nhà đầu tư nước ngoài, dày dạn kinh nghiệm thị trường, các sản phẩm của họ
đã kết nối được với thị trường thế giới, khi đầu tư vào sản xuất-kinh doanh tại
một quốc gia hay một địa phương nào đó, các sản phẩm sản xuất từ đây là
một bộ phận trong chiến lược sản phẩm, chiến lược thị trường của họ, như
vậy sản phẩm của đầu tư sẽ có cơ hội hội nhập và kết nối thị trường thế giới.,
chất lượng và giá trị của nó sẽ được thị trường quốc tế chấp nhận, nâng cao vị
thế thương mại của nơi được thụ hưởng đầu tư.
1.1.1.2. Các hình thức đầu tư
Luật đầu tư của Việt nam quy định có các hình thức đầu tư chủ yếu là
đầu tư trực tiếp và đầu tư gián tiếp.
 Đầu tư trực tiếp
+ Đầu tư trực tiếp bao gồm các hình thức sau đây:
- Thành lập tổ chức kinh tế 100% vốn của nhà đầu tư trong nước hoặc
100% vốn của nhà đầu tư nước ngoài.
- Thành lập tổ chức kinh tế liên doanh giữa các nhà đầu tư trong nước
và nhà đầu tư nước ngoài.
- Đầu tư theo hình thức hợp đồng BCC, hợp đồng BOT, hợp đồng
BTO, hợp đồng BT.
- Đầu tư phát triển kinh doanh.
- Mua cổ phần hoặc góp vốn để tham gia quản lý hoạt động đầu tư.
- Đầu tư thực hiện việc sáp nhập và mua lại doanh nghiệp.


5

- Các hình thức đầu tư trực tiếp khác.
+ Đầu tư thành lập tổ chức kinh tế bao gồm các hình thức sau đây:
- Doanh nghiệp tổ chức và hoạt động theo Luật doanh nghiệp;
- Tổ chức tín dụng, doanh nghiệp kinh doanh bảo hiểm, quỹ đầu tư và

các tổ chức tài chính khác theo quy định của pháp luật;
- Cơ sở dịch vụ y tế, giáo dục, khoa học, văn hoá, thể thao và các cơ sở
dịch vụ khác có hoạt động đầu tư sinh lợi;
- Các tổ chức kinh tế khác theo quy định của pháp luật
- Các hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã tổ chức và hoạt động theo Luật
hợp tác xã; hộ kinh doanh theo quy định của pháp luật.
 Đầu tư gián tiếp
Đầu tư gián tiếp tại Việt Nam có các hình thức sau đây:
- Mua cổ phần, cổ phiếu, trái phiếu và các giấy tờ có giá khác;
- Đầu tư thông qua quỹ đầu tư chứng khoán;
- Đầu tư thông qua các định chế tài chính trung gian khác.
Đầu tư thông qua mua, bán cổ phần, cổ phiếu, trái phiếu và giấy tờ có
giá khác của tổ chức, cá nhân và thủ tục thực hiện hoạt động đầu tư gián tiếp
theo quy định của pháp luật về chứng khoán và các quy định khác của pháp
luật có liên quan.
1.1.1.3. Môi trường đầu tư
Theo Wim P.M Vijverberg, khái niệm môi trường đầu tư được hiểu là
bao gồm tất cả các điều kiện liên quan đến kinh tế, chính trị, hành chính, cơ
sở hạ tầng tác động đến hoạt động đầu tư và kết quả hoạt động của doanh
nghiệp.
Như vậy, môi trường đầu tư là bối cảnh/khung cảnh về chính trị, kinh
tế, xã hội, pháp lý của một quốc gia hay địa phương nơi mà các nhà đầu tư
thực hiện hoạt động đầu tư. Các yếu tố chủ yếu của môi trường đầu tư như sau:


6

* Các yếu tố chính trị, xã hội và phát triển kinh tế
+ Tính ổn định chính trị xã hội
Các nhà đầu tư mong muốn bảo toàn và phát triển dự án đầu tư để bảo

toàn vốn và thu lợi nhuận, nên họ rất lo ngại nếu quốc gia và địa phương đó
hệ thống chính trị hay thay đổi, xã hội không ổn định, thường xuyên xảy ra
bất ổn.
Chính vì vậy, ổn định chính trị xã hội, có tính nhất quán và minh bạch
về chủ trương, đường lối, chính sách là điều kiện tiên quyết hàng đầu.
+ Sự phát triển và tăng trưởng về kinh tế
Nền kinh tế tăng trưởng sẽ ảnh hưởng đến việc thu hút các nguồn vốn
đầu tư ở hai góc độ: Một là, khi GDP tăng, có nghĩa là hiệu quả của vốn đầu
tư được nhìn nhận theo chiều hướng tốt. Từ đó, các nhà đầu tư có sự tin tưởng
đối với các hoạt động kinh tế và tăng cường đầu tư vào. Hai là, khi nền kinh
tế tăng trưởng nhanh sẽ có mức tiết kiệm cao hơn và từ đó tăng cường vốn
đầu tư. Thứ ba, mức tiêu dùng của người dân cũng tăng lên khi họ có thu nhập
cao hơn, khi mức tiêu dùng C tăng lên, tức là các sản phẩm trên thị trường
bán được nhiều hơn.
Trái lại ở những nền kinh tế đình đốn, kém phát triển sức hấp dẫn của
đầu tư sẽ giảm sút.
* Các yếu tố môi trường thể chế kinh tế, pháp lý.
+ Thể chế kinh tế.
Thể chế kinh tế là những quy tắc, cơ chế thực hiện và tổ chức gắn liền
được hình thành một cách tất yếu nhằm điều chỉnh hành vi ứng xử của các
chủ thể hoạt động tìm kiếm lợi nhuận cùng các lợi ích xã hội khác trong một
nền kinh tế nhất định, phản ánh trình độ phát triển của nền kinh tế tương ứng.
Theo nghĩa hẹp, thể chế kinh tế thường được đề cập như là thể chế kinh
tế chính thức. Về phương diện này thể chế kinh tế được hiểu là những quy


7

định được thể hiện thành văn bản quy phạm pháp luật do các cơ quan tố chức
có thẩm quyền ban hành nhằm điều chỉnh các quan hệ kinh tế nói chung.

Những điểm chủ yếu thể hiện thể chế kinh tế hiện nay ở nước ta, đó là:


Nền kinh tế ở nước ta là nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội

chủ nghĩa. Như vậy điều tiết nên kinh tế đựa trên các nguyên tắc và quy luật
của kinh tế thị trường;


Nước ta đấy mạnh phát triển nhiều thành phần kinh tế (Kinh tế nhà

nước, kinh tế tập thể, kinh tế tư nhân, kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài). Các
thành phần kinh tế này đều được khuyến khích phát triển, bình đẵng trước
pháp luật, không bị phân biệt đối xử;


Nước ta đã gia nhập vào tổ chức thương mại thế giới (WTO), tham gia

nhiều tổ chức quốc tế, ký kết nhiều Hiệp định song phương, đa phương với
các nước. Nhà nước ta tôn trọng và thực thi đúng các định chế quốc tế, các
cam kết trong các hiệp định với tư cách thành viên, trong đó có nhiều đinh
chế và cam kết về đảm bảo quyền sở hữu tài sản, quyền và nghĩa vụ của nhà
đầu tư nước ngoài, quyền sở hữu trí tuệ v.v.
Thể chế kinh tế ở Việt Nam đảm bảo cho các nhà đầu tư yên tâm, được
khuyến khích bỏ vốn đầu tư vào Việt nam và hưởng lợi thành quả đầu tư lâu dài.
+ Về môi trường pháp lý
Môi trường pháp lý đối với đầu là hệ thống các văn bản (Luật, Chính
sách, tiêu chuẩn, v.v.) quy định và điều chỉnh về đầu tư. Nước nào có hệ
thống văn bản pháp lý hoàn chỉnh và ổn định, ít có thay đổi, dễ dự tính được
hiệu quả đầu tư; các thủ tục pháp lý thuận lợi; hệ thống pháp lý có hiệu lực

cao, nước đó sẽ có cơ hội thu hút được nhiều nhà đầu tư.
Sự bất ổn định luôn đóng vai trò trung tâm trong những cân nhắc về
đầu tư, bất ổn định trong chính sách là những nhân tố cản trở lớn nhất đối với
các quyết định đầu tư. Khi những chính sách, thể chế kinh tế không ổn định


8

hoặc thiếu minh bạch sẽ làm giảm sức hấp dẫn của môi trường đầu tư. Những
lo ngại về sự không ổn định của chính sách có thể bắt đầu từ tính chất mơ hồ
của chính sách hoặc thể chế hiện hành. Thậm chí ngay cả khi chính sách được
thể hiện một cách rõ ràng trên giấy tờ thì chưa hẳn đã hết quan ngại về việc
các chính sách đó được thực thi như thế nào trên thực tế. Một môi trường đầu
tư được coi là hấp dẫn khi và chỉ khi các thể chế loại trừ hay hạn chế tối đa
những bất định đối với nhà đầu tư.
Chính sách đảm bảo quyền tài sản bao gồm hiến pháp, những quy định
về chế độ sở hữu, hệ thống luật pháp và các quy định về cấp giấy chứng nhận
quyền tài sản …Việc đảm bảo quyền tài sản có ý nghĩa hai mặt đối với việc
tạo lập môi trường đầu tư hấp dẫn. Việc đảm bảo quyền tài sản bảo đảm cho
nhà đầu tư thu được thành quả từ công cuộc đầu tư của mình. Khi các quyền
tài sản được bảo vệ bởi một thể chế phù hợp, minh bạch thì các nhà đầu tư
yên tâm hơn khi đem vốn đi đầu tư và làm tăng tính hấp dẫn của môi trường
đầu tư. Thể chế đảm bảo quyền tài sản cải thiện môi trường đầu tư rõ rệt qua
các chức năng cụ thể như xác lập quyền về đất đai, tạo sự thuận lợi trong việc
thực hiện hợp đồng. Đối với các tài sản trí tuệ như bằng sáng chế, phát minh,
thương hiệu, bản quyền tác giả … để có được chúng phải đòi hỏi rất nhiều chi
phí. Do vậy trong hoạt động của các tập đoàn, doanh nghiệp phát triển luôn có
sự hiện diện của của thể chế đảm bảo việc bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ. Như
vậy một môi trường đầu tư được coi là hấp dẫn khi cơ chế đảm bảo quyền tài
sản trí tuệ mạnh.

Ở nước ta đã xây dựng và ban hành Luật đầu tư, các Nghị định và
thông tư hướng dẫn thi hành Luật đầu tư. Khung pháp lý này đảm bảo cho
nhà đầu tư yên tâm bỏ vốn vào đầu tư ở Việt Nam. Tùy theo lĩnh vực đầu tư
và địa bàn đầu tư nhà đầu tư sẽ được hưỡng các mức độ ưu đãi khác nhau
(Đặc biệt ưu đãi, ưu đãi, và khuyến khích đầu tư).


9

Việt Nam có các chính sách khuyến khích đầu tư thể hiện các ưu đãi về
đất đai (ưu tiên cho thuê đất, giá thuê, thời gian miễn giảm nộp tiền thuê đất);
Hỗ trợ xây dựng CSHT bên ngoài hàng rào; về thuế thu nhập doanh nghiệp,
thuế giá trị gia tăng, thuế xuất nhập khẩu; hỗ trợ về nghiên cứu và áp dụng
khoa học công nghệ; v.v.
* Hệ thống cơ sở hạ tầng
Hệ thống CSHT bao gồm mạng lưới giao thông, thông tin liên lạc, hệ
thống cảng biển, cảng hàng không, vận tải đường bộ, hệ thống điện, …
Cơ sở hạ tầng có vai trò quan trọng trong thu hút đầu tư. Cơ sở hạ tầng
tốt là yếu tố làm tăng sức hấp dẫn của môi trường đầu tư, ngược lại việc cơ sở
hạ tầng yếu kém làm tăng chi phí sản xuất của nhà đầu tư và tạo ra những rào
cản với môi trường đầu tư.
Môi trường đầu tư và cơ sở hạ tầng có mối quan hệ tác động qua lại lẫn
nhau. Môi trường đầu tư tốt sẽ góp phần cải thiện kết cấu hạ tầng và cơ sở hạ
tầng tốt là yếu tố quan trọng cải thiện môi trường đầu tư. Phát triển cơ sở hạ
tầng là yếu tố hết sức cần thiết đối với việc phát triển kinh tế, làm cho môi
trường đầu tư trở nên hấp dẫn hơn, tiềm năng hơn trong việc thu hút các nhà
đầu tư nước ngoài.
* Các ngành công nghiệp phụ trợ và các hoạt động hỗ trợ.
Ngành công nghiệp phụ trợ là những ngành mà doanh nghiệp có thể
phối hợp và chia sẻ trong chuỗi hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp,

chúng có tính chất bổ trợ ở các khâu của quá trình sản xuất.
Ngành công nghiệp phụ trợ bao gồm sản xuất chi tiết linh kiện, các
công nghệ sản phẩm đầu vào để sản xuất ra sản phẩm cuối cùng. Sức cạnh
tranh của các doanh nghiệp trong ngành phụ trợ càng mạnh thì tiềm năng
cạnh tranh của doanh nghiệp mũi nhọn càng lớn, cơ hội thành công trong
cạnh tranh của doanh nghiệp càng cao.


10

Các nhà đầu tư thường quan tâm tới hoạt động và sự phát triển của các
ngành công nghiệp phụ trợ. Sự hiện diện của các cụm công nghiệp phụ trợ là
một lợi thế cho nhà đầu tư, giúp họ giảm thiểu chi phí sản xuất và quốc gia
nào có một ngành công nghiệp phụ trợ phát triển cũng có lợi thế trong thu hút
nguồn vốn đầu tư.
Cộng đồng các doanh nghiệp có ngành hàng phụ trợ có mối quan hệ
mật thiết với nhau để cùng nhau phát triển và phát triển một cách toàn diện.
Đầu tư vào lĩnh vực nông nghiệp ngoài những tác nhân chủ yếu thực
hiện các khâu của quá trình sản xuất, chế biến, thương mại, còn có các tác
nhân hỗ trợ khác như các nhà cung cấp vật tư đầu vào, các tổ chức khoa học
công nghệ và khuyến nông cung cấp giống, quy trình kỹ thuật; các cơ sở dịch
vụ làm đất, tưới tiêu, dịch vụ thu hoạch, bảo quản sản phẩm v.v.
Các dự án đầu tư vào vùng nào có công nghiệp hỗ trợ mạnh hoặc các
cơ quan hoạt động hỗ trợ đồng bộ thì sẽ tạo thuận lợi cho các hoạt động đầu
tư, giảm chi phí tăng năng lực cạnh tranh.
1.1.2. Lý luận về vốn đầu tư và thu hút vốn đầu tư
1.1.2.1. Vốn đầu tư
Ở mỗi thời kỳ của lịch sử, vốn có nhiều quan niệm khác nhau, nhưng
chung quy lại có hai khái niệm về vốn như sau:
Hiểu theo nghĩa rộng, vốn là toàn bộ các nguồn lực kinh tế được đưa

vào luân chuyển. Nó không chỉ bao gồm tiền, tài sản như máy móc thiết bị,
vật tư, tài nguyên, mà còn bao gồm cả giá trị của những tài sản vô hình như
các thành tựu khoa học kỹ thuật, các phát minh sáng chế, các lợi thế so sánh.
Hiểu theo nghĩa trực tiếp, vốn là phần giá trị tài sản quốc gia được tích
luỹ dưới dạng tiền, giá trị của tài sản hữu hình và vô hình nhằm mục đích sinh
lợi được chuyển đổi thông qua các hình thức đầu tư thành những tư liệu sản
xuất cần thiết khác để sử dụng vào quá trình sản xuất và tái sản xuất xã hội.


11

Trong nền kinh tế thị trường quan niệm vốn được mở rộng với các đặc
trưng cơ bản sau: Vốn được biểu hiện bằng giá trị của những tài sản; vốn được
biểu hiện bằng tiền, nhưng không phải tất cả mọi nguồn tiền đều là vốn; vốn còn
là một hàng hoá đặc biệt; vốn còn thể hiện dưới dạng tiềm năng và lợi thế vô hình.
Nghị định số 108/2006/NĐ-CP ngày 22/9/2006 của Chính phủ Việt Nam
giải thích rõ hơn về vốn đầu tư:
Vốn đầu tư là đồng Việt Nam, ngoại tệ tự do chuyển đổi và các tài sản
hợp pháp khác để thực hiện hoạt động đầu tư theo hình thức đầu tư trực tiếp
hoặc đầu tư gián tiếp. Tài sản hợp pháp gồm:
- Cổ phần, cổ phiếu hoặc các giấy tờ có giá khác.
- Trái phiếu, khoản nợ và các hình thức vay nợ khác.
- Các quyền theo hợp đồng, bao gồm cả hợp đồng chìa khóa trao tay, hợp
đồng xây dựng, hợp đồng quản lý, hợp đồng phân chia sản phẩm hoặc doanh thu.
- Các quyền đòi nợ và quyền có giá trị kinh tế theo hợp đồng.
- Công nghệ và quyền sở hữu trí tuệ, bao gồm cả nhãn hiệu thương mại,
kiểu dáng công nghiệp, sáng chế, tên thương mại, nguồn gốc hoặc tên gọi
xuất xứ.
- Các quyền chuyển nhượng, bao gồm cả các quyền đối với thăm dò và
khai thác tài nguyên.

- Bất động sản; quyền đối với bất động sản, bao gồm cả quyền cho thuê,
chuyển nhượng, góp vốn, thế chấp hoặc bảo lãnh.
- Các khoản lợi tức phát sinh từ hoạt động đầu tư, bao gồm cả lợi nhuận, lãi
cổ phần, cổ tức, tiền bản quyền và các loại phí.
- Các tài sản và quyền có giá trị kinh tế khác theo quy định của pháp luật
và điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên.
Như vậy, giá trị tiền mặt và các tài sản hợp pháp nói trên bỏ ra để thực
hiện đầu tư gọi là vốn đầu tư.


12

1.1.2.2. Nguồn vốn đầu tư
aBản chất của nguồn vốn đầu tư:
Xét về bản chất, nguồn hình thành vốn đầu tư chính là phần tiết kiệm
hay tích luỹ mà nền kinh tế có thể huy động được để đưa vào quá trình tái sản
xuất xã hội. Điều này được cả kinh tế học cổ điển, kinh tế chính trị học Mác Lê nin và kinh tế học hiện đại chứng minh.
Trong tác phẩm “Của cải của các dân tộc” (1776), Adam Smith, một
đại diện điển hình của trường phái kinh tế học cổ điển đã khẳng định: “Tiết
kiệm là nguyên nhân trực tiếp gia tăng vốn. Lao động tạo ra sản phẩm để tích
luỹ cho quá trình tiết kiệm. Nhưng dù có tạo ra bao nhiêu chăng nữa, nhưng
không có tiết kiệm thì vốn không bao giờ tăng lên”.
Sang thế kỷ XIX, khi nghiên cứu về cân đối kinh tế, về các mối quan hệ
giữa các khu vực của nền sản xuất xã hội, về các vấn đề có liên quan trực tiếp
đến tích luỹ, C. Mác đã chứng minh rằng: Trong một nền kinh tế với hai khu
vực, khu vực I sản xuất tư liệu sản xuất và khu vực II sản xuất tư liệu tiêu
dùng. Cơ cấu tổng giá trị của từng khu vực đều bao gồm (c+v+m) trong đó c
là phần tiêu hao vật chất, (v+m) là phần giá trị mới sáng tạo ra. Khi đó, điều
kiện để đảm bảo tái sản xuất mở rộng không ngừng thì nền sản xuất xã hội
phải đảm bảo (v +m) của khu vực I lớn hơn tiêu hao vặt chất (c) của khu vực

II. Tức là:
(v+m)I > cII
Hay nói cách khác:
(c+ v + m)I > cII + cI
Điều này có nghĩa rằng, tư liệu sản xuất được tạo ra ở khu vực I không
chỉ bồi hoàn tiêu hao vật chất của toàn bộ nền kinh tế (của cả hai khu vực) mà
còn phải dư thừa để đầu tư làm tăng quy mô tư liệu sản xuất trong quá trình
sản xuất tiếp theo.


13

Đối với khu vực II, yêu cầu phải đảm bảo:
(c+v+m)II < (v+m)I + (v+m)II
Có nghĩa là toàn bộ giá trị mới của cả hai khu vực phải lớn hơn giá trị
sản phẩm sản xuất ra của khu vực II. Chỉ khi điều kiện này được thoả mãn,
nền kinh tế mới có thể dành một phần thu nhập để tái sản xuất mở rộng. Từ
đó quy mô vốn đầu tư cũng sẽ gia tăng.
Như vậy, để đảm bảo gia tăng nguồn lực cho sản xuất, gia tăng quy mô
đầu tư, một mặt phải tăng cường sản xuất tư liệu sản xuất ở khu vực I, đồng
thời phải sử dụng tiết kiệm tư liệu sản xuất ở cả hai khu vực. Mặt . khác, phải
tăng cường sản xuất tư liệu tiêu dùng ở khu vực II, thực hành tiết kiệm tiêu
dùng trong sinh hoạt ở cả hai khu vực.
Với phân tích như trên, chúng ta thấy rằng theo quan điểm của C.Mác,
con đương cơ bản và quan trọng về lâu dài để tái sản xuất mở rộng là phát
triển sản xuất và thực hành tiết kiệm ở cả trong sản xuất và tiêu dùng, hay nói
cách khác, nguồn lực cho đầu tư tái sản xuất mở rộng chỉ có thể được đáp ứng
do sự gia tăng sản xuất và tích luỹ của nền kinh tế.
Mác phân tích và nói điều này trong điều kiện của các nền kinh tế khép
kín ở từng quốc gia. Điều này không hòan toàn phù hợp ở thời đại chúng ta

nữa, xét về nguồn gốc vốn đầu tư. Vì thời đại hiện nay, phân flớn các nước có
nền kinh tế mở, nguồn vốn đầu tư không chỉ lấy từ tiết kiệm ở trong nước mà
huy động thêm từ bên ngoài.
Quan điểm về bản chất của nguồn vốn đầu tư lại tiếp tục được các nhà
kinh tế học hiện đại chứng minh. Trong tác phẩm nổi tiếng “Lý thuyết tổng
quát về việc làm, lãi suất và tiền tệ” của mình, John Maynard Keynes đã
chứng minh được rằng: Đầu tư chính bằng phần thu nhập mà không chuyển
vào tiêu đùng. Đồng thời ông cũng chỉ ra rằng, tiết kiệm chính là phần dôi ra
của thu nhập so với tiêu dùng:


14

Tức là:
Thu nhập = Tiêu dùng + Đầu tư
Tiết kiệm = Thu nhập - Tiêu dùng
Như vậy:
Đầu tư = Tiết kiệm
Hay: (I) = (S)
Theo Keynes, sự cân bằng giữa tiết kiệm và đầu tư xuất phát từ tính
chất song phương của các giao dịch giữa một bên là nhà sản xuất và bên kia là
người tiêu dùng. Thu nhập chính là mức chênh lệch giữa doanh thu từ bán
hàng hoá hoặc cung ứng dịch vụ và tổng chi phí. Nhưng toàn bộ sản phẩm sản
xuất ra phải được bán cho người tiêu dùng hoặc cho các nhà sản xuất khác.
Mặt khác đầu tư hiện hành chính bằng phần tăng thêm năng lực sản xuất mới
trong kỳ. Vì vậy, xét về tổng thể phần dôi ra của thu nhập so với tiêu dùng mà
người ta gọi là tiết kiệm không thể khác với phần gia tăng năng lực sản xuất
mà người ta gọi là đầu tư.
Tuy nhiên, điều kiện cân bằng trên chỉ đạt được trong nền kinh tế đóng.
Trong đó, phần tiết kiệm của nền kinh tế bao gồm tiết kiệm của khu vực tư

nhân và tiết kiệm của chính phủ. Điểm cần lưu ý là tiết kiệm và đầu tư xem
xét trên góc độ toàn bộ nền kinh tế không nhất thiết được tiến hành bởi cùng
một cá nhân hoặc doanh nghiệp nào. Có thể có cá nhân, doanh nghiệp tại một
thời điểm nào đó có tích luỹ nhưng không trực tiếp tham gia đầu tư. Trong khi
đó, có một số cá nhân, doanh nghiệp lại thực hiện đầu tư khi chưa hoặc tích
luỹ chưa đủ. Khi đó, thị trường vốn sẽ tham gia giải quyết vấn đề bằng việc
điều tiết khoản vốn từ nguồn dư thừa hoặc tạm thời dư thừa sang cho người
có nhu cầu sử dụng. Ví dụ, nhà đầu tư có thể phát hành cổ phiếu, trái phiếu
(nếu đáp ứng được một số điều kiện nhất định và tuân thủ quy trình thủ tục


15

nhất định) để huy động vốn thực hiện một dự án đầu tư nào đó từ các doanh
nghiệp, hộ gia đình hay các cá nhân - người dư thừa hoặc tạm thời dư thừa vốn.
Trong nền kinh tế mở, đẳng thức đầu tư bằng tiết kiệm của nền kinh tế
không phải bao giờ cũng được thiết lập. Phần tích luỹ của nền kinh tế có thể
lớn hơn nhu cầu đầu tư tại nước sở tại, khi đó vốn có thể được chuyển sang
nước khác để thực hiện đầu tư. Ngược lại, vốn tích luỹ của nền kinh tế có thể
ít hơn nhu cầu đầu tư, khi đó nền kinh tế phải huy động tiết kiệm từ nước
ngoài. Trong trường hợp này, mức chênh lệch giữa tiết kiệm và đầu tư được
thể hiện trên tài khoản vãng lai.
CA = S – I
Trong đó: CA là tài khoản vãng lai (current account)
Như vậy, trong nền kinh tế mở, nếu nhu cầu đầu tư lớn hơn tích luỹ nội
bộ của nền kinh tế và tài khoản vãng lai bị thâm hụt thì có thể huy động vốn
đầu tư từ nước ngoài. Khi đó, đầu tư nước ngoài hoặc vay nợ có thể trở thành
một trong những nguồn vốn đầu tư quan trọng của nền kinh tế. Nếu tích luỹ
của nền kinh tế lớn hơn nhu cầu đầu tư trong nước trong điều kiện thặng dư
tài khoản vãng lai thì quốc gia đó có thể đầu tư vốn ra nước ngoài hoặc cho

nước ngoài vay vốn nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn của nền kinh tế.
Phân loại nguồn vốn đầu tư:
Nguồn vốn đầu tư hiện nay được phân loại như sau

 Nguồn vốn trong nước
Hình 1.1: Sơ đồ về các nguồn vốn đầu tư


16

Nguồn vốn trong nước được hiểu theo nghĩa rộng bao gồm toàn bộ các
nguồn lực được đưa vào vòng chu chuyển của nền kinh tế. Nó không chỉ bao
gồm tiền vốn biểu hiện bằng tài sản hiện vật như máy móc, vật tư, lao động,
đất đai, tài nguyên... mà nó còn bao gồm giá trị của những tài sản vô hình như
vị trí địa lý, thành tựu khoa học công nghệ, bản quyền phát minh sáng chế.
Các bộ phận cấu thành nguồn vốn trong nước gồm có nguồn vốn ngân sách
Nhà nước (bao gồm cả vốn của doanh nghiệp nhà nước) và nguồn vốn tư
nhân (bao gồm cả vốn của các doanh nghiệp dân doanh).
 Nguồn vốn nước ngoài
Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) là vốn của các doanh nghiệp và
cá nhân nước ngoài đầu tư sang các nước khác và trực tiếp quản lý quá trình
sử dụng nhằm mục đích thu lợi nhuận và thu hồi vốn bỏ ra.
Nguồn vốn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA) là vốn đầu tư của các
Chính phủ nước ngoài được thực hiện dưới hình thức viện trợ hoàn lại hoặc
viện trợ không hoàn lại hay cho vay ưu đãi.
Nguồn vốn viện trợ phi chính phủ nước ngoài là vốn viện trợ của các tổ
chức phi chính phủ nước ngoài.
1.1.2.3. Một số phương pháp tạo lập nguồn vốn đầu tư:
+ Khuyến khích huy động vốn từ tiết kiệm tư nhân:
Trên cơ sở giả thiết một nền kinh tế cạnh tranh thuần tuý, các nhà kinh

tế cổ điển Anh thế kỷ 19 cho rằng sự can thiệp của Chính phủ vào quyết định
đầu tư và tiết kiệm của tư nhân có thể làm giảm tính hiệu quả kinh tế.
Tiết kiệm của các hộ gia đình đã trở thành một nguồn lớn hình thành
cung vốn đầu tư. Ngoài ra, khoản thu nhập giữ lại của một đơn vị kinh doanh
cũng là một nguồn quan trọng hình thành nên vốn đầu tư. Tiết kiệm của các
đơn vị kinh doanh bao gồm tiết kiệm từ lợi nhuận.


17

Lãi suất làm cân bằng cung tiết kiệm với cầu đầu tư kinh doanh. Một lãi
suất cao hơn sẽ khuyến khích tiết kiệm dẫn đến đường cong cung tiết kiệm đi lên.
Một lãi suất thấp hơn sẽ giảm chi phí tiền vay kinh doanh, cầu đầu tư dốc xuống.
Giao điểm của cung tiết kiệm và cầu đầu tư sẽ xác định mức lãi suất.
Tuy nhiên theo các nhà kinh tế trường phái Keynes cho rằng, lãi suất
phải được xác định theo cung và cầu tiền tệ. Do vậy chương trình tiết kiệm
của các hộ gia đình và chương trình đầu tư của các doanh nghiệp thường
không trùng hợp với nhau vì họ là những nhóm khác nhau, hành động theo
các suy xét khác nhau.
Tiết kiệm phụ thuộc vào thu nhập, còn đầu tư lại là một hàm số của tỷ
suất lợi nhuận kỳ vọng. Hiện thời các nước kém phát triển ít có thiên hướng
chấp nhận các quyết định tiết kiệm của các hộ gia đình và đơn vị kinh doanh
trên cơ sở thị trường tự do vì thấy rằng, Chính phủ có vai trò tích cực trong
việc tăng tỷ lệ hình thành vốn bằng việc tạo ra tỷ lệ tiết kiệm cao.
+ Khai thác các nguồn lực nhàn rỗi:
Lao động dư thừa, theo Ragnar Nurkse, Chính phủ nên sử dụng số lao
động dư thừa có năng suất cận biên thấp hoặc bằng “0” trong nông nghiệp để
thực hiện các dự án đầu tư cơ bản như các công trình giao thông công cộng,
bệnh viện, trường học hay nhà ở công nhân. Ở các công trình này có thể dựa
vào những người ruột thịt để có lương thực, thực phẩm. Như vậy, sự hình

thành vốn mới, hay tiết kiệm được tạo lập mà thật sự không phải chi phí hoặc
chi phí thấp.
Một số vấn đề khác của cách tiếp cận Nurkse là việc sử dụng lao động
nông nghiệp dư thừa sẽ kích thích các nguồn lực với các chi phí thay thế cao.
Công nhân trong các dự án đầu tư cơ bản sẽ cần một số tư liệu (như các dụng
cụ thô sơ) để làm đường bộ, đường sắt, nhà cửa và nhà máy. Ngoài ra, nếu


18

công nhân chuyển vào sinh sống tại thành phố, sẽ phải xây dựng thêm nhà
cửa, đường giao thông, trường học, bệnh viện và các dịch vụ khác.
+ Năng lực vốn chưa dùng
Hiện tượng sử dụng vốn kém hiệu quả còn khá phố biến ở các quốc gia
đang phát triển. Các phương tiện vận chuyển bị bỏ quên do chưa được sửa
chữa hoặc thiếu phụ tùng thay thế, các công trình nhà cửa bỏ hoang, các
mương tưới tiêu khô nước, các nhà máy sử dụng dưới công suất do hư hỏng
về mặt cơ khí, thiếu vật tư hoặc thiếu thị trường tiêu thụ.
Tuy nhiên cũng phải nhìn nhận một cách có hiệu quả vì nhiều lý do: vì
công nghệ do các nước phát triển chuyển giao không thích hợp với nhu cầu;
hơn nữa, nhiều nước đang phát triển có thể chỉ thu hút có hiệu quả con số hạn
chế về vốn đầu tư.
1.1.3. Nội dung quản lý Nhà nước về đầu tư
Nội dung quản lý nhà nước về đầu tư được quy định theo các Điều tại
chương X – Quản lý nhà nước về đầu tư của Luật đầu tư như sau:
- Xây dựng và chỉ đạo thực hiện chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, chính
sách về đầu tư phát triển.
- Ban hành và tổ chức thực hiện các văn bản quy phạm pháp luật về đầu tư.
- Hướng dẫn, hỗ trợ nhà đầu tư thực hiện dự án đầu tư và giải quyết
những vướng mắc, yêu cầu của nhà đầu tư.

- Cấp, thu hồi Giấy chứng nhận đầu tư.
- Hướng dẫn, đánh giá hiệu quả đầu tư, kiểm tra, thanh tra và giám sát
hoạt động đầu tư; giải quyết khiếu nại, tố cáo, khen thưởng và xử lý vi phạm
trong hoạt động đầu tư.
- Tổ chức hoạt động đào tạo nguồn nhân lực liên quan đến hoạt động
đầu tư.
- Tổ chức hoạt động xúc tiến đầu tư.


19

- Theo dõi, đánh giá và báo cáo hoạt động đầu tư theo quy định của
pháp luật. Nội dung theo dõi, đánh giá đầu tư bao gồm:
+ Việc ban hành văn bản hướng dẫn pháp luật theo thẩm quyền và thực
hiện các quy định của pháp luật về đầu tư;
+ Tình hình thực hiện các dự án đầu tư theo quy định của Giấy chứng
nhận đầu tư;
+ Kết quả thực hiện đầu tư của cả nước, các Bộ, ngành và các địa
phương, các dự án đầu tư theo phân cấp;
+ Báo cáo cơ quan quản lý nhà nước cùng cấp, cơ quan nhà nước quản
lý đầu tư cấp trên về kết quả đánh giá đầu tư, kiến nghị các biện pháp xử lý
những vướng mắc và vi phạm pháp luật về đầu tư.
1.1.4. Các yếu tố ảnh hưởng đến sức thu hút các nguồn vốn đầu tư.
Vốn đầu tư đưa vào một nền kinh tế nhiều hay ít cũng như hiệu quả của
việc sử dụng các nguồn vốn ấy phụ thuộc vào một số yếu tố như: Các nguồn
lực và tiềm năng phát triển của địa phương, sự tăng trưởng và phát triển bền
vững của nền kinh tế, sự ổn định của môi trường kinh tế vĩ mô và các chính
sách khuyến khích đầu tư.
1.1.4.1. Các nguồn lực và tiềm năng phát triển.
Nguồn lực ở đây bao gồm: Nguồn lực về con người, thể hiện qua số

lượng và chất lượng lao động; tiềm lực về khoa học công nghệ thể hiện qua
việc sở hữu và áp dụng những công nghệ tiên tiến vào quản lư và sản xuất.
Tiềm năng phát triển bao gồm: điều kiện tự nhiên (vị trí, địa hình, khí hậu),
tiềm năng về tài nguyên khoáng sản, tài nguyên đất, tài nguyên nước, tài
nguyên rừng và tiềm năng phát triển kinh tế chưa được khai thác hết ở các
ngành, lĩnh vực.


20

+ Nguồn lực tự nhiên
Các nguồn tài nguyên thiên nhiên đó là tài nguyên mà thiên nhiên ban
tặng cho một quốc gia hoặc một địa phương nào đó. Nò bao gồm đất đai, thời
tiết khí hậu, nguồn nước, hệ sinh thái, các khoáng sản dưới lòng đất, tài
nguyên sinh vật biển, v.v và được thể hiện ở số lượng, trữ lượng, chất lượng
của từng loại tài nguyên. Đây là những tiềm năng có thể khai thác sử dụng
vào phát triển kinh tế, xã hội và môi trường. Xuất phát từ nguồn lực tài
nguyên hạn chế, đã khiến các nhà đầu tư thường tìm kiếm nơi có nhiều tài
nguyên thiên nhiên và có chính sách thông thoáng để đầu tư. Những nước
giàu tài nguyên thì thu hút được nhiều nhà đầu tư. Một mặt là nguồn tài
nguyên là có hạn, mặt khác sử dụng không hiệu quả thì sẽ không đưa lại giá
trị cao ngược lại sẽ để để lại hậu quả tiêu cực. Chính vì vậy có tài nguyên
chưa phải là yếu tố chủ yếu thu hút nhà đầu tư bền vững. Chính phủ các nước
ðã phải đưa ra các chính sách quản lý chặt chẽ tài nguyên thiên nhiên, khuyến
khích việc thăm dò, tìm kiếm tài nguyên một cách hiệu quả và tiết kiệm…
+ Nhân tố nguồn nhân lực
Mọi hoạt động sản xuất kinh doanh muốn thực hiện được cần phải có
con người. Khi các nhà đầu tư, đặc biệt là các nhà đầu tư nước ngoài đem vốn
đến một quốc gia, họ không thể di chuyển toàn bộ các nguồn lực và phương
tiện sản xuất đến quốc gia đó, vì vậy họ sử dụng nguồn lực tại chỗ là chủ yếu.

Khi một nền kinh tế có nguồn lao động dồi dào và đáp ứng được nhu
cầu sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà đầu tư nhanh chóng đưa dự án vào
hoạt động. Ở đây xét đến cả số lượng và chất lượng lao động.
Số lượng lao động phụ thuộc vào quy mô dân số và tỉ lệ dân số ở trong
độ tuổi lao động, nguồn lao động của một quốc gia có số lượng lớn sẽ đáp
ứng được nhu cầu mở rộng quy mô sản xuất và vận hành những sự án có quy
mô lớn. Tuy nhiên, như vậy chưa đủ, trong khi sản xuất đòi hỏi yêu cầu về


21

chất lượng cao thì chất lượng lao động là vấn đề quan trọng hơn hết, nếu như
có hàng triệu lao động mà trình độ và kỹ năng của họ chỉ có thể sản xuất thủ
công, là các lao động cơ bắp thì cũng chẳng có ý nghĩa gì. Chất lượng lao
động thể hiện ở trình độ chuyên môn kỹ thuật, khả năng tiếp thu sáng tạo
khoa học công nghệ, nó phụ thuộc vào những truyền thống lao động và công
tác giáo dục, đào tạo.
Khi lao động có chất lượng cao, thứ nhất họ sẽ tham gia vào sản xuất
tốt hơn vì họ có nhưng những kiến thức làm nền tảng, bao gồm cả những kiến
thức cơ bản và kinh nghiệm qua thời gian. Hơn nữa, họ sẽ tiếp thu nhanh hơn
khoa học kỹ thuật, giảm bớt chi phí đào tạo cho nhà đầu tư, ảnh hưởng không
nhỏ đến thu hút vốn đầu tư.
1.1.4.2. Nhân tố chính trị - xã hội
Sự ổn định về chính trị, thể chế chính trị, sự nhất quán trong chủ
trương, đường lối, chính sách cơ bản của nhà nước luôn là yếu tố tạo môi
trường đầu tư kinh doanh hấp dẫn các nhà đầu tư. Đặc trưng nổi bật về sự tác
động của những yếu tố chính trị đối với hoạt động đầu tư thể hiện ở những
mục đích mà thể chế chính trị nhằm tới.
Thể chế chính trị giữ vai trò định hướng, chi phối toàn bộ các hoạt
động trong xã hội trong đó các hoạt động đầu tư kinh doanh của các nhà đầu

tư thông qua vai trò của nhà nước cầm quyền. Với vai trò tạo lập, thúc đẩy,
điều chỉnh và duy trì tốc độ phát triển kinh tế, nhà nước tạo lập một môi
trường đầu tư kinh doanh thuận lợi, quy định những khuôn khổ pháp lý, duy
trì trật tự kỷ cương trong xã hội và các hoạt động kinh tế, duy trì sự ổn định
kinh tế vĩ mô, quyết định tiền đồ kinh tế của một đất nước.
Sự ổn định về chính trị sẽ tạo ra môi trường đầu tư kinh doanh thuận
lợi, một nhà nước mạnh, thực thi hữu hiệu các chính sách phát triển KTXH sẽ
đem lại lòng tin và tính hấp dẫn cho các nhà đầu tư trong và ngoài nước.


22

Trong một xã hội ổn định về chính trị, các nhà đầu tư được đảm bảo an
toàn về đầu tư, quyền sở hữu tài sản, các nhà đầu tư sẽ sẵn sàng bỏ vốn đầu tư
lớn và dài hạn, mức độ yên tâm của các nhà đầu tư được củng cố thông qua sự
đánh giá về mức độ rủi ro chính trị (rủi ro chính trị là mức độ mà các biến cố và
hoạt động chính trị có khả năng gây ra những tác động tiêu cực đối với môi
trường đầu tư, với lợi nhuận dài hạn tiềm tàng của các dự án của các nhà đầu tư).
Các nhân tố về chính sách có ý nghĩa rất lớn và ảnh hưởng lớn đến môi
trường thu hút đầu tư. Chính sách tốt và tạo điều kiện hỗ trợ nhà đầu tư mới
thành lập, hoặc hỗ trợ động viên tinh thần hoặc cung cấp hạ tầng kỹ thuật như
điện nước, hoặc chính sách về thuế, đào tạo lao động.v.v...sẽ làm cho các nhà
đầu tư yên tâm.
Để đánh giá một nền kinh tế được coi là có phát triển hay không người
ta dựa vào một số chỉ tiêu chính như: Quy mô GDP, tốc độ tăng trưởng hàng
năm, cơ cấu kinh tế, các chỉ tiêu về phúc lợi công cộng và chăm sóc con
người.
Để có thể tạo ra sự phát triển, trước hết, phải có mức tăng trưởng hàng
năm thông qua giá trị tổng sản phẩm. Sự tăng trưởng này ảnh hưởng đến việc
thu hút các nguồn vốn đầu tư ở hai góc độ: Một là, khi GDP tăng, có nghĩa là

hiệu quả của vốn đầu tư được nhìn nhận theo chiều hướng tốt. Từ đó, các nhà
đầu tư có sự tin tưởng đối với các hoạt động kinh tế và tăng cường đầu tư vào.
Bất kì một nhà đầu tư nào khi bỏ vốn vào một nền kinh tế, dù với mục đích
tìm kiếm lợi nhuận hay là các nguồn viện trợ đều mong muốn những đồng
vốn ấy được sử dụng với hiệu quả cao nhất.
Chính vì vậy, nơi họ muốn tìm kiếm và sẵn sàng đầu tư phải là nơi cho
họ thấy được nguồn vốn sẵn có được sử dụng như thế nào. Hai là, khi nền
kinh tế tăng trưởng nhanh sẽ có mức tiết kiệm cao hơn và từ đó tăng cường
vốn đầu tư. Ở đây không xét đến việc thu hút thêm các nguồn vốn từ bên


23

ngoài mà là vốn từ bản thân nền kinh tế thông qua tiết kiệm. Vì xét theo lý
thuyết kinh tế cổ điển cho một nền kinh tế đóng thì:
GDP= C+S; Trong đó: C là mức tiêu dùng; S là mức tiết kiệm.
Và xét theo lý thuyết thì: S = I (trong đó I là mức đầu tư của nền kinh
tế). Như vậy: GDP = C+ I, hay I = GDP- C.
Mức tiêu dùng C của người dân cũng tăng lên khi họ có thu nhập cao
hơn, nhưng nó cũng bị giới hạn bởi các quy luật sinh học, và xét theo góc độ
nào đó, khi mức tiêu dùng C tăng lên, tức là các sản phẩm trên thị trường bán
được nhiều hơn, từ đó khuyến khích các doanh nghiệp và các hoạt động dịch
vụ phát triển.
Vấn đề đặt ra ở đây là phải giải quyết tốt mối quan hệ giữa tiết kiệm và
tiêu dùng. Làm sao để thu hút được nguồn vốn từ tiết kiệm của người dân,
biến nó thành vốn đầu tư phát triển kinh tế xã hội.
Cơ cấu kinh tế cũng ảnh hưởng đến thu hút các nguồn vốn đầu tư.
Thường thì nhà đầu tư nào cũng muốn đầu tư vào những ngành nghề, lĩnh vực
đem lại lợi nhuận cao, có khả năng thu hồi vốn nhanh và đảm bảo. Nếu chia
nền kinh tế thành ba khu vực chủ yếu: Nông nghiệp, công nghiệp và dịch vụ

thì những nơi thu hút nhiều vốn vẫn là công nghiệp và dịch vụ.
Chính vì vậy, những nền kinh tế có cơ cấu tỉ lệ công nghiệp và dịch vụ
chiếm tỉ lệ cao thì sẽ thu hút được nhiều vốn đầu tư hơn vì ở đây đã tồn tại sẵn
những điều kiện cho các ngành này phát triển như: Cơ sở hạ tầng, vùng nguyên
liệu, thị trường truyền thống, nguồn lao động... Điều này giải thích tại sao phần
lớn vốn đầu tư nước ngoài là vốn lưu chuyển giữa các nước phát triển.
Phát triển kinh tế sẽ tạo điều kiện phát triển cơ sở hạ tầng. Cơ sở hạ
tầng giống như một nền móng vững chắc cho mọi công cuộc đầu tư, vì muốn
sản xuất kinh doanh phải có điện, nước đảm bảo, giao thông thuận tiện, các
dịch vụ công cộng phát triển. V́ vậy, bất cứ nhà đầu tư nào cũng muốn bỏ vốn
vào địa bàn có lợi nhất.


24

Sự ổn định môi trường kinh tế vĩ mô ở đây được nhìn nhận thông qua: sự
ổn định về kinh tế xã hội, ổn định về chính trị, môi trường kinh doanh và ổn định
trong các chính sách tiền tệ. Một quốc gia muốn thu hút vốn đầu tư cho phát triển
kinh tế xã hội, trước hết, đó phải là nơi không xảy ra các cuộc chiến tranh, các
cuộc nội chiến và khủng bố. Đó phải là một quốc gia có các chính sách kinh tế ổn
định, không có sự thay đổi liên tục về chính sách pháp luật vì khi đó sẽ ảnh hưởng
rất lớn và theo xu hướng tiêu cực đối với các nhà đầu tư.
Các chính sách tiền tệ phải làm sao hạn chế được lạm phát và chống
giảm phát, ổn định tỉ giá và lãi suất. Kinh tế không thể phát triển mà không có
lạm phát, song vấn đề là ở chỗ làm sao để kiểm soát được lạm phát, giữ nó ở
một tỉ lệ có lợi cho phát triển, tránh mất giá đồng tiền quá lớn.
Các nhà đầu tư không thể yên tâm và ổn định sản xuất tại một nước mà giá
trị đồng tiền của nước đó liên tục thay đổi, nó ảnh hưởng trực tiếp đến việc xuất
nhập khẩu của doanh nghiệp. Hơn nữa, giá trị của đồng nội tệ còn ảnh hưởng đến
lợi nhuận thực tế mà các nhà đầu tư thu được tại một thị trường xác định.

Lãi suất sẽ có ảnh hưởng lớn đến dòng chảy của vốn vào trong nước
hay ra ngoài, ở đây cần có một sự tương xứng giữa lãi suất trong nước và thị
trường thế giới. Vì vậy, lãi suất phải có xu hướng cao hơn thế giới để các nhà
đầu tư dồn nhiều vốn vào trong nước hơn. Mặt khác, một mức lãi suất cao còn
là điều kiện để bảo toàn nguồn vốn trong nước, tránh thất thoát ra ngoài.
1.1.4.3. Các chính sách khuyến khích đầu tư.
Một môi trường đầu tư thông thoáng và thuận tiện luôn là nơi mà các
nhà đầu tư muốn tìm đến. Vì vậy, các quốc gia đều đã và đang thực hiện các
biện pháp nhằm cải tạo môi trường đầu tư của mình, trong đó vai trò của các
chính sách khuyến khích đầu tư rất quan trọng, bao gồm những quy định cụ
thể về trình tự, thủ tục đầu tư, các biện pháp ưu đãi đối với từng ngành, lĩnh
vực và từng vùng cụ thể.


×