Tải bản đầy đủ (.doc) (109 trang)

thực trạng và giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng đất sản xuất nông nghiệp trên địa bàn huyện phúc thọ – thành phố hà nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (571.47 KB, 109 trang )

MỤC LỤC
Bảng 4.4. Diện tích và cơ cấu sử dụng đất nông nghiệp năm 2008
Bảng 4.5. Biến động diện tích đất nông nghiệp giai đoạn 2000 - 2008
4.4.2 Hiệu quả kinh tế của các loại hình sử dụng đất 67
Bảng 4.10. Hiệu quả kinh tế trên 1ha của một số cây trồng chính vùng 1

Bảng 4.11. Hiệu quả kinh tế trên 1ha của một số cây trồng chính vùng 2


i
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
TT Ký hiệu Chú giải
1 ĐVT Đơn vị tính
2 BVTV Bảo vệ thực vật
3 CAQ Cây ăn quả
4 CPTG Chi phí trung gian
5 DT Diện tích
6 GTSX Giá trị sản xuất
7 GTGT Giá trị gia tăng
8 LĐ Lao động
9 LUT Loại hình sử dụng đất (Land Use Type)
10 STT Số thứ tự
11 TB Trung bình
12 ĐBSH Đồng bằng sông Hồng
ii
DANH CÁC MỤC BẢNG
STT Tên bảng Trang số
Bảng 4.4. Diện tích và cơ cấu sử dụng đất nông nghiệp năm 2008
Bảng 4.5. Biến động diện tích đất nông nghiệp giai đoạn 2000 - 2008
4.4.2 Hiệu quả kinh tế của các loại hình sử dụng đất 67
Bảng 4.10. Hiệu quả kinh tế trên 1ha của một số cây trồng chính vùng 1



Bảng 4.11. Hiệu quả kinh tế trên 1ha của một số cây trồng chính vùng 2

iii
DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ, SƠ ĐỒ
STT Tên biểu đồ, sơ đồ Trang số
Bảng 4.4. Diện tích và cơ cấu sử dụng đất nông nghiệp năm 2008
Bảng 4.5. Biến động diện tích đất nông nghiệp giai đoạn 2000 - 2008
4.4.2 Hiệu quả kinh tế của các loại hình sử dụng đất 67
Bảng 4.10. Hiệu quả kinh tế trên 1ha của một số cây trồng chính vùng 1

Bảng 4.11. Hiệu quả kinh tế trên 1ha của một số cây trồng chính vùng 2

4.3. Sơ đồ hiện trạng sử dụng đất năm 2008 huyện Phúc Thọ 59
iv
PHẦN I: ĐẶT VẤN ĐỀ
1.1 Tính cấp thiết của đề tài
Đất đai là tài nguyên quốc gia vô cùng quý giá, là tư liệu sản xuất
đặc biệt. Với sản xuất nông nghiệp, đất đai là tư liệu sản xuất không thể
thay thế được, không có đất thì không có sản xuất nông nghiệp. Chính vì
vậy, sử dụng đất là một phần hợp thành của chiến lược nông nghiệp sinh
thái và phát triển bền vững [16].
Nông nghiệp là hoạt động sản xuất cổ nhất và cơ bản nhất của loài
người. Hầu hết các nước trên thế giới đều phải xây dựng một nền kinh tế trên
cơ sở phát triển nông nghiệp dựa vào khai thác các tiềm năng của đất, lấy đó
làm bàn đạp phát triển các ngành khác. Vì vậy việc tổ chức sử dụng nguồn tài
nguyên đất đai hợp lý, có hiệu quả theo quan điểm sinh thái bền vững đang trở
thành vấn đề toàn cầu [25].
Hơn 20 năm qua, nông nghiệp nước ta đã đạt được nhiều thành tựu
quan trọng, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.

Nông nghiệp cơ bản đã chuyển sang sản xuất hàng hoá, phát triển tương
đối toàn diện, tốc độ tăng trưởng bình quân (5,5% giai đoạn 2002-2007)
và đạt 3,79% năm 2008 [33]. Sản xuất nông nghiệp không những đảm bảo
an toàn lương thực quốc gia mà còn mang lại nguồn thu cho nền kinh tế
với việc tăng hàng hóa nông sản xuất khẩu. Kim ngạch xuất khẩu năm 2008
đạt khoảng 16 tỷ USD gấp 3,8 lần năm 2000, trong đó tăng trưởng trung bình
của các mặt hàng xuất khẩu chủ yếu giai đoạn 2000 - 2008 là: gạo 13,6%, cà
phê 19,4%; cao su 32,5%; điều 27,8%; hải sản 19,1% [3].
Huyện Phúc Thọ nằm ở phía Tây Bắc của thành phố Hà Nội, cách
trung tâm Hà Nội 36 km, cách Hà Đông khoảng 37 km và nằm liền kề với
Sơn Tây. Tổng diện tích tự nhiên 2008 của huyện Phúc Thọ là 11.719,27 ha,
1
dân số 164.479 người, mật độ dân số 1.405 người/km
2
. Nhịp độ tăng trưởng
kinh tế bình quân giai đoạn 1996 - 2000 tăng xấp xỉ 10%/năm, giai đoạn 2000 -
2008 tăng bình quân 9,1%/năm [23]. Là huyện thuần nông, sản xuất nông
nghiệp đóng vai trò quan trọng trong sự phát triển kinh tế xã hội của huyện. Tuy
nhiên, cũng như các huyện thuần nông khác hiện nông nghiệp huyện Phúc Thọ
đang đối mặt với hàng loạt các vấn đề như: sản xuất nhỏ, manh mún, công nghệ
lạc hậu, năng suất và chất lượng nông sản hàng hóa thấp, khả năng hợp tác liên kết
cạnh tranh yếu, sự chuyển dịch cơ cấu chậm. Trong điều kiện diện tích đất nông
nghiệp ngày càng bị thu hẹp do sức ép của quá trình đô thị hóa, công nghiệp hóa
và sự gia tăng dân số thì mục tiêu nâng cao hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp là
hết sức cần thiết, tạo ra giá trị lớn về kinh tế đồng thời tạo đà cho phát triển nông
nghiệp bền vững. Đó cũng là mục tiêu nghiên cứu của đề tài: “Thực trạng và
giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng đất sản xuất nông nghiệp trên địa bàn
huyện Phúc Thọ – thành phố Hà Nội”.
1.2 Ý nghĩa của đề tài
- Góp phần hoàn thiện lý luận về hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp và

là cơ sở định hướng phát triển sản xuất nông nghiệp trong tương lai cho
huyện Phúc Thọ.
- Góp phần nâng cao hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp và thúc đẩy sự
phát triển sản xuất nông nghiệp bền vững.
1.3 Mục đích nghiên cứu
- Đánh giá thực trạng sử dụng đất sản xuất nông nghiệp của huyện
Phúc Thọ.
- Đề xuất các giải pháp nhằm góp phần giúp người dân lựa chọn phương
thức sử dụng đất phù hợp và nâng cao hiệu quả sử dụng đất đáp ứng yêu cầu phát
triển nông nghiệp bền vững.
2
PHẦN II: TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU
2.1 Một số vấn đề lý luận về sử dụng đất
2.1.1 Đất nông nghiệp và tình hình sử dụng đất nông nghiệp
Đã có nhiều công trình nghiên cứu liên quan đến những khái niệm, định
nghĩa về đất. Có quan điểm cho rằng: “Đất là một vật thể thiên nhiên cấu tạo
độc lập lâu đời do kết quả quá trình hoạt động tổng hợp của 5 yếu tố hình
thành đất đó là: sinh vật, đá mẹ, khí hậu, địa hình và thời gian” [15]. Tuy vậy,
khái niệm này chưa đề cập đến khả năng sử dụng và sự tác động của các yếu
tố khác tồn tại trong môi trường xung quanh. Do đó, sau này một số học giả
khác đã bổ sung các yếu tố: nước của đất, nước ngầm và đặc biệt là vai trò
của con người để hoàn chỉnh khái niệm về đất nêu trên.
Như vậy, đất đai là một khoảng không gian có giới hạn gồm: khí hậu,
lớp đất bề mặt, thảm thực vật, động vật, diện tích mặt nước, nước ngầm và
khoáng sản trong lòng đất. Trên bề mặt đất đai là sự kết hợp giữa các yếu tố
thổ nhưỡng, địa hình, thuỷ văn, thảm thực vật cùng với các thành phần khác
có vai trò quan trọng và ý nghĩa to lớn đối với hoạt động sản xuất và cuộc
sống của xã hội loài người.
Đất đai đóng vai trò quyết định đến sự tồn tại và phát triển của xã hội
loài người, là cơ sở tự nhiên, là tiền đề cho mọi quá trình sản xuất. Theo Luật

đất đai 2003, đất nông nghiệp được chia ra làm các nhóm đất chính sau: đất
sản xuất nông nghiệp, đất lâm nghiệp, đất nuôi trồng thuỷ sản, đất làm muối
và đất nông nghiệp khác [20].
Đất đai vừa là đối tượng lao động vừa là tư liệu lao động trong quá
trình sản xuất. Đất đai là đối tượng lao động bởi lẽ nó là nơi để con người
thực hiện các hoạt động của mình tác động vào cây trồng, vật nuôi để tạo ra
sản phẩm. Bên cạnh đó, đất đai còn là tư liệu lao động trong quá trình sản
xuất thông qua việc con người đã biết lợi dụng một cách ý thức các đặc tính
3
tự nhiên của đất như lý học, hoá học, sinh vật học và các tính chất khác để tác
động và giúp cây trồng tạo nên sản phẩm [16].
Năm 2008, Việt Nam có tổng diện tích tự nhiên là 33.115 nghìn ha, dân
số là 86210,6 nghìn người, mật độ dân số 260 người/km
2
. Bình quân diện tích
đất tự nhiên là 3889 m
2
/người đứng thứ 9 trong khu vực. Trong đó đất nông
nghiệp chỉ có 24997,2 nghìn ha, bình quân diện tích đất nông nghiệp là
2899,55 m
2
/người [33].
Năm 2008, giá trị sản xuất nông nghiệp đạt 156681,9 tỷ đồng, trong đó
trồng trọt là 122,37 tỷ đồng, chăn nuôi đạt 30938,6 tỷ đồng và nuôi trồng thủy
sản là 3367,6 tỷ đồng. Trong trồng trọt, cây lương thực đạt giá trị sản xuất là
70059,8 tỷ đồng; cây rau đậu đạt 10560,4 tỷ đồng; cây công nghiệp là
31015,4 tỷ đồng và cây ăn quả đạt 9083,7 tỷ đồng. Trong năm 2008, diện tích
cây lương thực có hạt là 8542 nghìn ha, cây công nghiệp hàng năm là 805,8
nghìn ha, cây công nghiệp lâu năm là 1886,1 nghìn ha và cây ăn quả là 775,3
nghìn ha [33].

Đất đai có vị trí cố định trong không gian và có chất lượng không đồng
nhất giữa các vùng, miền. Mỗi vùng đất đai luôn gắn liền với các điều kiện tự
nhiên (thổ nhưỡng, khí hậu, nước, thảm thực vật), điều kiện kinh tế - xã hội
như (dân số, lao động, giao thông, thị trường). Do vậy, muốn sử dụng đất đai
hợp lý, có hiệu quả cần bố trí sử dụng đất hợp lý trên cơ sở khai thác lợi thế
sẵn có của vùng. Trong sản xuất nông nghiệp, đất đai là tư liệu sản xuất
không thể thay thế, nếu được bố trí sử dụng hợp lý thì sức sản xuất của đất đai
sẽ ngày càng tăng lên.
Trước áp lực từ sự gia tăng dân số, sự phát triển của xã hội làm cho nhu
cầu sử dụng đất phi nông nghiệp ngày càng tăng làm giảm diện tích và chất
lượng đất sản xuất nông nghiệp. Vì vậy, định hướng sử dụng đất đai một cách
hợp lý, có hiệu quả và bền vững là một trong những điều kiện quan trọng nhất
để phát triển nền kinh tế của mọi quốc gia.
4
2.1.2 Đặc điểm sử dụng đất nông nghiệp vùng khí hậu nhiệt đới
Nông nghiệp là một ngành sản xuất quan trọng, đặc biệt ở các nước
đang phát triển, sản xuất nông nghiệp không chỉ đảm bảo nhu cầu lương
thực, thực phẩm cho con người mà còn tạo ra sản phẩm xuất khẩu, thu
ngoại tệ cho quốc gia.
Hiện nay, trên thế giới có khoảng 3,3 tỉ ha đất nông nghiệp, trong đó đã
khai thác được 1,5 tỉ ha; còn lại phần đa là đất xấu, sản xuất nông nghiệp gặp
nhiều khó khăn. Qui mô đất nông nghiệp được phân bố như sau: châu Mỹ
chiếm 35%, châu Á chiếm 26%, châu Âu chiếm 13%, châu Phi chiếm 20%,
châu Đại Dương chiếm 6%. Bình quân đất nông nghiệp trên đầu người trên
toàn thế giới là 12000 m
2
. Trong đó ở Mỹ 2000 m
2
, ở Bungari 7000 m
2

, ở Nhật
Bản 650 m
2
. Theo báo cáo của UNDP năm 1995 ở khu vực Đông Nam Á bình
quân đất canh tác trên đầu người của các nước như sau: Indonesia 0,12 ha;
Malaysia 0,27 ha; Philipin 0,13 ha; Thái Lan 0,42 ha; Việt Nam 0,1 ha [6].
Năm 2006, Việt Nam có tổng diện tích tự nhiên là 33.121,2 nghìn ha,
dân số là 85.154,9 nghìn người, mật độ dân số 257 người/km
2
. Bình quân diện
tích đất tự nhiên là 3889 m
2
/người đứng thứ 9 trong khu vực. Trong đó đất
nông nghiệp chỉ có 24.833,8 nghìn ha, bình quân diện tích đất nông nghiệp là
2916 m
2
/người [32].
2.1.3 Vấn đề suy thoái đất nông nghiệp
Hiện tượng suy thoái đất có liên quan chặt chẽ đến chất lượng đất và
môi trường. Để đáp ứng được lương thực, thực phẩm cho con người trong
hiện tại và tương lai, con đường duy nhất là thâm canh tăng năng suất cây
trồng. Trong điều kiện hầu hết đất canh tác đều bị nghèo về độ phì, để tăng vụ
và năng suất cây trồng đòi hỏi phải bổ sung cho đất một lượng dinh dưỡng
cần thiết qua con đường sử dụng phân bón.
5
Báo cáo của Viện Tài nguyên thế giới [36], cho thấy gần 20% diện tích
đất đai châu Á bị suy thoái do những hoạt động của con người. Trong đó hoạt
động sản xuất nông nghiệp là một nguyên nhân không nhỏ làm suy thoái đất.
Quá trình thâm canh tăng vụ trong nông nghiệp đã làm phá huỷ cấu trúc đất,
xói mòn và suy kiệt dinh dưỡng.

Dự án điều tra, đánh giá tốc độ thoái hoá đất ở một số nước vùng nhiệt
đới châu Á cho phát triển nông nghiệp bền vững trong chương trình môi
trường của Trung tâm Đông Tây và khối các trường đại học Đông Nam Châu
Á đã tập trung nghiên cứu những thay đổi dinh dưỡng trong hệ sinh thái nông
nghiệp. Kết quả nghiên cứu đã chỉ ra rằng các yếu tố dinh dưỡng N, P, K của
hầu hết các hệ sinh thái đều bị suy giảm. Nghiên cứu cũng chỉ ra nguyên nhân
của sự thất thoát dinh dưỡng trong đất do thâm canh thiếu phân bón và đưa
các sản phẩm của cây trồng, vật nuôi ra khỏi hệ thống [36].
Ở Việt Nam, các kết quả nghiên cứu đều cho thấy đất ở vùng trung du
miền núi đều nghèo các chất dinh dưỡng N, P, K, Ca và Mg. Để đảm bảo đủ
dinh dưỡng, đất không bị thoái hoá thì N, P là hai yếu tố cần phải được bổ
sung thường xuyên [36]. Trong quá trình sử dụng đất, do chưa tìm được các
loại hình sử dụng đất hợp lý hoặc chưa có công thức luân canh hợp lý cũng
gây ra hiện tượng thoái hoá đất như vùng đất dốc mà trồng cây lương thực,
đất có dinh dưỡng kém lại không luân canh với cây họ đậu. Trong điều kiện
nền kinh tế kém phát triển, người dân đã tập trung chủ yếu vào trồng cây
lương thực đã gây ra hiện tượng xói mòn, suy thoái đất. Điều kiện kinh tế và
sự hiểu biết của con người còn thấp dẫn tới việc sử dụng phân bón còn nhiều
hạn chế và sử dụng thuốc bảo vệ thực vật quá nhiều, ảnh hưởng tới môi
trường. Tadon H.L.S chỉ ra rằng “sự suy kiệt đất và các chất dự trữ trong đất
cũng là biểu hiện thoái hoá về môi trường, do vậy việc cải tạo độ phì của đất
là đóng góp cho cải thiện cơ sở tài nguyên thiên nhiên và còn hơn nữa cho
chính môi trường” [39].
6
Theo tài liệu của FAO/UNESCO (1992), [37]: trên thế giới hàng năm
có khoảng 15% diện tích đất bị suy thoái vì lý do nhân tạo, trong đó suy thoái
vì xói mòn do nước chiếm khoảng 55,7% diện tích, do gió 28% diện tích, mất
chất dinh dưỡng do rửa trôi 12,2% diện tích. Ở Trung Quốc, diện tích đất bị
suy thoái là 280 triệu ha, chiếm 30% lãnh thổ, trong đó có 36,67 triệu ha đất
đồi bị xói mòn nặng; 6,67 triệu ha đất bị chua mặn; 4 triệu ha đất bị úng, lầy.

Ở Ấn Độ, hàng năm mất khoảng 3,7 triệu ha đất trồng trọt. Tại khu vực Châu
Á Thái Bình Dương có khoảng 860 ha diện tích đất đã bị hoang mạc hoá làm
ảnh hưởng đến đời sống của 150 triệu người. Theo kết quả điều tra của FAO
(1993) [38], do chế độ canh tác không tốt đã gây xói mòn đất nghiêm trọng
dẫn đến suy thoái đất, đặc biệt ở vùng nhiệt đới và vùng đất dốc. Mỗi năm
lượng đất bị xói mòn tại các châu lục là: Châu Âu, Châu Úc, Châu Phi: 5 -10
tấn/ha, Châu Mỹ: 10 - 20 tấn/ha; Châu Á: 30 tấn/ha.
Hiện nay những vấn đề môi trường đã trở nên mang tính toàn cầu và
được phân thành 2 loại chính: một loại gây ra bởi công nghiệp hoá và các kỹ
thuật hiện đại, loại khác gây ra bởi lối canh tác tự nhiên. Hệ sinh thái nhiệt
đới vốn cân bằng một cách mỏng manh rất dễ bị đảo lộn bởi các phương thức
canh tác phản tự nhiên, buộc con người phải chuyển hướng sản xuất nông
nghiệp theo hướng sử dụng tài nguyên và bảo vệ môi trường, thoả mãn các
yêu cầu của thế hệ hiện tại nhưng không làm tổn hại đến nhu cầu của các thế
hệ tương lai, đó là mục tiêu của việc xây dựng và phát triển nông nghiệp bền
vững và đó cũng là lối đi trong tương lai.
2.1.4 Nguyên tắc và quan điểm sử dụng đất bền vững
* Để phát triển nông nghiệp bền vững, việc sử dụng đất cần tuân theo
các nguyên tắc sau:
- Sử dụng đất nông nghiệp với mục tiêu nâng cao hiệu quả kinh tế xã
hội trên cơ sở đảm bảo an ninh lương thực, thực phẩm, tăng cường nguyên
liệu cho công nghiệp và hướng tới xuất khẩu.
7
- Sử dụng đất nông nghiệp trong sản xuất trên cơ sở cân nhắc các mục
tiêu phát triển kinh tế-xã hội, tận dụng tối đa lợi thế so sánh về điều kiện sinh
thái và không làm ảnh hưởng xấu đến môi trường là những nguyên tắc cơ bản
và cần thiết để đảm bảo cho khai thác sử dụng bền vững tài nguyên đất đai.
- Sử dụng đất nông nghiệp theo nguyên tắc “Đầy đủ, hợp lý và hiệu quả”.
* Quan điểm sử dụng đất nông nghiệp
Phát triển nông nghiệp bền vững nhằm khắc phục nạn ô nhiễm đất,

nước không khí bởi hệ thống nông nghiệp và công nghiệp cùng với sự mất
mát của của các loài động thực vật, suy giảm giảm các tài nguyên thiên nhiên
không tái sinh. Nông nghiệp bền vững là tiền đề và điều kiện cho định cư lâu
dài. Một trong những cơ sở quan trọng nhất của nông nghiệp bền vững là thiết
lập được các hệ thống sử dụng đất hợp lý [2]. Thuật ngữ sử dụng đất bền
vững được dựa trên quan điểm sau [21]:
- Duy trì và nâng cao các hoạt động sản xuất;
- Giảm thiểu mức rủi ro trong sản xuất;
- Bảo vệ tài nguyên thiên nhiên, ngăn chặn sự thoái hoá đất và nước;
- Có hiệu quả lâu bền;
- Được xã hội chấp nhận.
Phát triển nông nghiệp bền vững sẽ vừa đáp ứng nhu cầu của hiện tại,
vừa đảm bảo được nhu cầu của các thế hệ tương lai. Theo FAO, phát triển
nông nghiệp bền vững là sự quản lý và bảo tồn sự thay đổi về tổ chức và kỹ
thuật nhằm đảm bảo thoả mãn nhu cầu ngày càng tăng của con người cả cho
hiện tại và mai sau.
2.2 Những vấn đề về hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp
2.2.1 Khái quát về hiệu quả và hiệu quả sử dụng đất
Có nhiều quan điểm khác nhau về hiệu quả. Khi nhận thức của con
người còn hạn chế, người ta thường quan niệm kết quả chính là hiệu quả. Sau
8
này, khi nhận thức của con người phát triển cao hơn, người ta thấy rõ sự khác
nhau giữa hiệu quả và kết quả.
Hiệu quả là kết quả mong muốn, cái sinh ra kết quả mà con người
chờ đợi hướng tới; nó có những nội dung khác nhau. Trong sản xuất, hiệu
quả có nghĩa là hiệu suất, là năng suất. Trong kinh doanh, hiệu quả là lãi
suất, lợi nhuận. Trong lao động nói chung, hiệu quả lao động là năng suất
lao động được đánh giá bằng số lượng thời gian hao phí để sản xuất ra một
đơn vị sản phẩm, hoặc bằng số lượng sản phẩm được sản xuất ra trong một
đơn vị thời gian [40].

Kết quả, mà là kết quả hữu ích là một đại lượng vật chất tạo ra do mục
đích của con người, được biểu hiện bằng những chỉ tiêu cụ thể, xác định. Do
tính chất mâu thuẫn giữa nguồn tài nguyên hữu hạn với nhu cầu tăng lên của
con người mà ta phải xem xét kết quả đó được tạo ra như thế nào? Chi phí bỏ
ra bao nhiêu? Có đưa lại kết quả hữu ích hay không? Chính vì vậy khi đánh giá
kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh không chỉ dừng lại ở việc đánh giá kết
quả mà phải đánh giá chất lượng hoạt động tạo ra sản phẩm đó. Đánh giá chất
lượng hoạt động sản xuất kinh doanh là nội dung của đánh giá hiệu quả [27].
Từ những khái niệm chung về hiệu quả, ta xem xét trong lĩnh vực sử
dụng đất thì hiệu quả là chỉ tiêu chất lượng đánh giá kết quả sử dụng đất trong
hoạt động kinh tế. Thể hiện qua lượng sản phẩm, lượng giá trị thu được bằng
tiền, đồng thời về mặt xã hội là thể hiện hiệu quả của lực lượng lao động được
sử dụng trong cả quá trình hoạt động kinh tế cũng như hàng năm để khai thác
đất. Riêng đối với ngành nông nghiệp, cùng với hiệu quả kinh tế về giá trị và
hiệu quả về mặt sử dụng lao động trong nhiều trường hợp phải coi trọng hiệu
quả về mặt hiện vật là sản lượng nông sản thu hoạch được, nhất là các loại
nông sản cơ bản có ý nghĩa chiến lược (lương thực, sản phẩm xuất khẩu… để
đảm bảo sự ổn định về kinh tế - xã hội đất nước) [40].
9
Như vậy, hiệu quả sử dụng đất là kết quả của cả một hệ thống các biện
pháp tổ chức sản xuất, khoa học, kỹ thuật, quản lý kinh tế và phát huy các lợi
thế, khắc phục các khó khăn khách quan của điều kiện tự nhiên, trong những
hoàn cảnh cụ thể còn gắn sản xuất nông nghiệp với các ngành khác của nền kinh
tế quốc dân, cũng như cần gắn sản xuất trong nước với thị trường quốc tế [40].
Sử dụng đất nông nghiệp có hiệu quả cao thông qua việc bố trí cơ cấu cây trồng
vật nuôi là một trong những vấn đề bức xúc hiện nay của hầu hết các nước trên
thế giới. Nó không chỉ thu hút sự quan tâm của các nhà khoa học, các nhà hoạch
định chính sách, các nhà kinh doanh nông nghiệp mà còn là mong muốn của
nông dân, những người trực tiếp tham gia sản xuất nông nghiệp [35].
Căn cứ vào nhu cầu thị trường, thực hiện đa dạng hoá cây trồng vật nuôi

trên cơ sở lựa chọn các sản phẩm có ưu thế ở từng địa phương. Từ đó, nghiên
cứu áp dụng công nghệ mới nhằm làm cho sản phẩm có tính cạnh tranh cao -
đó là điều kiện tiên quyết phát triển được nền nông nghiệp bền vững.
Hiện nay, các nhà khoa học đều cho rằng: vấn đề hiệu quả sử dụng đất
không chỉ xem xét đơn thuần ở một mặt hay một khía cạnh nào đó mà phải
xem xét trên tổng thể các mặt bao gồm: hiệu quả kinh tế, hiệu quả xã hội và
hiệu quả môi trường.
2.2.1.1 Hiệu quả kinh tế
Theo Các Mác thì quy luật kinh tế đầu tiên trên cơ sở sản xuất tổng thể
là quy luật tiết kiệm thời gian và phân phối có kế hoạch thời gian lao động
theo các ngành sản xuất khác nhau. Theo các nhà khoa học kinh tế Samuel –
Nordhuas “Hiệu quả là không lãng phí”. Theo các nhà khoa học Đức
(Stienier, Hanau, Rusteruyer, Simmerman) hiệu quả kinh tế là chỉ tiêu so sánh
mức độ tiết kiệm chi phí trong 1 đơn vị kết quả hữu ích và mức tăng kết quả
hữu ích của hoạt động sản xuất vật chất trong một thời kỳ, góp phần làm tăng
thêm lợi ích cho xã hội [30].
10
Hiệu quả kinh tế là phạm trù chung nhất, nó liên quan trực tiếp tới nền
sản xuất hàng hoá với tất cả các phạm trù và các quy luật kinh tế khác nhau.
Vì thế hiệu quả kinh tế phải đáp ứng được 3 vấn đề [30]:
- Một là mọi hoạt động của con người đều phải quan tâm và tuân theo
quy luật “tiết kiệm thời gian”;
- Hai là hiệu quả kinh tế phải được xem xét trên quan điểm của lý
thuyết hệ thống;
- Ba là hiệu quả kinh tế là một phạm trù phản ánh mặt chất lượng của
các hoạt động kinh tế bằng quá trình tăng cường các nguồn lực sẵn có phục vụ
các lợi ích của con người.
Hiệu quả kinh tế được hiểu là mối tương quan so sánh giữa lượng kết
quả đạt được và lượng chi phí bỏ ra trong hoạt động sản xuất kinh doanh. Kết
quả đạt được là phần giá trị thu được của sản phẩm đầu ra, lượng chi phí bỏ ra

là phần giá trị của nguồn lực đầu vào. Mối tương quan đó cần xem xét cả về
phần so sánh tuyệt đối và tương đối cũng như xem xét mối quan hệ chặt chẽ
giữa hai đại lượng đó.
Từ những vấn đề trên có thể kết luận rằng: bản chất của phạm trù kinh
tế sử dụng đất là “với một diện tích đất đai nhất định sản xuất ra một khối
lượng của cải vật chất nhiều nhất với một lượng chi phí về vật chất và lao
động thấp nhằm đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng về vật chất của xã hội.
2.2.1.2 Hiệu quả xã hội
Hiệu quả xã hội là mối tương quan so sánh giữa kết quả xét về mặt xã hội
và tổng chi phí bỏ ra. Hiệu quả kinh tế và hiệu quả xã hội có mối quan hệ mật
thiết với nhau và là một phạm trù thống nhất.
Hiệu quả xã hội hiện nay phải thu hút nhiều lao động, đảm bảo đời
sống nhân dân, góp phần thúc đẩy xã hội phát triển, nội lực và nguồn lực của
địa phương được phát huy, đáp ứng nhu cầu của hộ nông dân về việc ăn mặc
và nhu cầu sống khác. Sử dụng đất phải phù hợp với tập quán, nền văn hoá
của địa phương thì việc sử dụng đất bền vững hơn.
11
Theo Nguyễn Duy Tính (1995) [31], hiệu quả về mặt xã hội của sử
dụng đất nông nghiệp chủ yếu được xác định bằng khả năng tạo việc làm trên
một đơn vị diện tích đất nông nghiệp.
2.2.1.3 Hiệu quả môi trường
Hiệu quả môi trường được thể hiện ở chỗ: loại hình sử dụng đất phải
bảo vệ được độ màu mỡ của đất đai, ngăn chặn được sự thoái hoá đất bảo
vệ môi trường sinh thái. Độ che phủ tối thiểu phải đạt ngưỡng an toàn sinh
thái (>35%) đa dạng sinh học biểu hiện qua thành phần loài [5].
Trong thực tế, tác động của môi trường sinh thái diễn ra rất phức tạp và
theo nhiều chiều hướng khác nhau. Cây trồng được phát triển tốt khi phát
triển phù hợp với đặc tính, tính chất của đất. Tuy nhiên, trong quá trình sản
xuất dưới tác động của các hoạt động sản xuất, quản lý của con người hệ
thống cây trồng sẽ tạo nên những ảnh hưởng rất khác nhau đến môi trường.

Hiệu quả môi trường được phân ra theo nguyên nhân gây nên, gồm:
hiệu quả hoá học môi trường, hiệu quả vật lý môi trường và hiệu quả sinh học
môi trường [14].
Trong sản xuất nông nghiệp, hiệu quả hoá học môi trường được đánh
giá thông qua mức độ hoá học trong nông nghiệp. Đó là việc sử dụng phân
bón và thuốc bảo vệ thực vật trong quá trình sản xuất cho cây trồng sinh
trưởng tốt, cho năng suất cao và không gây ô nhiễm môi trường.
Hiệu quả sinh học môi trường được thể hiện qua mối tác động qua lại
giữa cây trồng với đất, giữa cây trồng với các loại dịch hại trong các loại hình
sử dụng đất nhằm giảm thiểu việc sử dụng hoá chất trong nông nghiệp mà vẫn
đạt được mục tiêu đề ra.
Hiệu quả vật lý môi trường được thể hiện thông qua việc lợi dung tốt
nhất tài nguyên khí hậu như ánh sáng, nhiệt độ, nước mưa của các kiểu sử
dụng đất để đạt được sản lượng cao và tiết kiệm chi phí đầu vào.
12
2.2.2 Đặc điểm và phương pháp đánh giá hiệu quả sử dụng đất nông
nghiệp
2.2.2.1 Nguyên tắc lựa chọn các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng đất nông
nghiệp
- Hệ thống các chỉ tiêu phải có tính thống nhất, toàn diện và tính hệ
thống hữu cơ với nhau, phải đảm bảo tính so sánh có thang bậc [18], [29].
- Các chỉ tiêu phải phù hợp với đặc điểm và trình độ phát triển nông
nghiệp ở nước ta, đồng thời có khả năng so sánh quốc tế trong quan hệ đối
ngoại, nhất là những sản phẩm có khả năng hướng tới xuất khẩu [30].
- Hệ thống các chỉ tiêu phải đảm bảo tính thực tiễn và tính khoa học và
phải có tác dụng kích thích sản xuất phát triển [30].
2.2.2.2 Hệ thống các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp
Bản chất của hiệu quả là mối quan hệ giữa kết quả và chi phí. Mối quan
hệ này là mối quan hệ hiệu số hoặc là quan hệ thương số [16], [25], [30], nên
dạng tổng quát của hệ thống chỉ tiêu hiệu quả sẽ là:

H = K - C
H = K/C
H = (K - C)/C
H = (K
1
- K
0
)/(C
1
- C
0
)
Trong đó:
- H: Hiệu quả
- K: Kết quả
- C: Chi phí
- 1, 0 là chỉ số về thời gian (năm)
* Hiệu quả kinh tế
- Hiệu quả kinh tế được tính trên 1 ha đất nông nghiệp
+ Giá trị sản xuất (GTSX): là toàn bộ giá trị sản phẩm vật chất và dịch
vụ được tạo ra trong 1 kỳ nhất định (thường là một năm).
13
+ Chi phí trung gian (CPTG): là toàn bộ các khoản chi phí vật chất
thường xuyên bằng tiền mà chủ thể bỏ ra để thuê và mua các yếu tố đầu vào
và dịch vụ sử dụng trong quá trình sản xuất.
+ Giá trị gia tăng (GTGT): là hiệu số giữa giá trị sản xuất và chi phí trung
gian, là giá trị sản phẩm xã hội được tạo ra thêm trong thời kỳ sản xuất đó.
GTGT = GTSX - CPTG
- Hiệu quả kinh tế tính trên 1 đồng chi phí trung gian (GTSX/CPTG,
GTGT/CPTG): đây là chỉ tiêu tương đối của hiệu quả, nó chỉ ra hiệu quả sử

dụng các chi phí biến đổi và thu dịch vụ.
- Hiệu quả kinh tế trên ngày công lao động quy đổi, bao gồm:
GTSX/LĐ, GTGT/LĐ. Thực chất là đánh giá kết quả đầu tư lao động sống
cho từng kiểu sử dụng đất và từng cây trồng làm cơ sở để so sánh với chi phí
cơ hội của người lao động.
* Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả xã hội
Hiệu quả xã hội được phân tích bởi các chỉ tiêu sau [17]:
+ Đảm bảo an toàn lương thực, gia tăng lợi ích của người nông dân;
+ Đáp ứng mục tiêu chiến lược phát triển kinh tế của vùng;
+ Thu hút nhiều lao động, giải quyết công ăn việc làm cho nông dân;
+ Góp phần định canh định cư, chuyển giao tiến bộ khoa học kỹ thuật.
+ Tăng cường sản phẩm hàng hoá, đặc biệt là hàng hoá xuất khẩu.
* Các chỉ tiêu về hiệu quả môi trường
Theo Đỗ Nguyên Hải [14], chỉ tiêu đánh giá chất lượng môi trường
trong quản lý sử dụng đất bền vững ở vùng nông nghiệp được tưới là:
+ Quản lý đối với đất đai rừng đầu nguồn;
+ Đánh giá các tài nguyên nước bền vững;
+ Đánh giá quản lý đất đai;
+ Đánh giá hệ thống cây trồng;
14
+ Đánh giá về tính bền vững đối với việc duy trì độ phì nhiêu của đất
và bảo vệ cây trồng;
+ Đánh giá về quản lý và bảo vệ tự nhiên;
+ Sự thích hợp của môi trường đất khi thay đổi kiểu sử dụng đất.
Việc xác định hiệu quả về mặt môi trường của quá trình sử dụng đất
nông nghiệp là rất phức tạp, rất khó định lượng, nó đòi hỏi phải được nghiên
cứu, phân tích trong thời gian dài. Vì vậy, đề tài nghiên cứu của chúng tôi chỉ
dừng lại ở việc đánh giá hiệu quả môi trường thông qua kết quả điều tra về
việc đầu tư phân bón, thuốc bảo vệ thực vật và kết quả phỏng vấn nông hộ về
nhận xét của họ đối với các loại hình sử dụng đất hiện tại.

2.3 Những xu hướng phát triển nông nghiệp
2.3.1 Những xu hướng phát triển nông nghiệp trên thế giới
Theo Đường Hồng Dật (1995) [7], trên con đường phát triển nông
nghiệp, mỗi nước đều chịu ảnh hưởng của các điều kiện khác nhau, nhưng
phải giải quyết vấn đề chung sau:
- Không ngừng nâng cao chất lượng nông sản, năng suất lao động trong
nông nghiệp, nâng cao hiệu quả đầu tư;
- Mức độ và phương thức đầu tư vốn, lao động, khoa học và quá trình
phát triển nông nghiệp. Chiều hướng chung nhất là phấn đấu giảm lao động
chân tay, đầu tư nhiều lao động trí óc, tăng cường hiệu quả của lao động quản
lý và tổ chức;
- Mối quan hệ giữa phát triển nông nghiệp và môi trường.
Từ những vấn đề chung trên, mỗi nước lại có chiến lược phát triển
nông nghiệp khác nhau và có thể chia làm hai xu hướng:
* Nông nghiệp công nghiệp hoá: Sử dụng nhiều thành tựu và kết quả
của công nghiệp, sử dụng nhiều vật tư kỹ thuật, dùng trang thiết bị máy móc,
sản xuất theo quy trình kỹ thuật chặt chẽ gần như công nghiệp, đạt năng suất
15
cây trồng vật nuôi và năng suất lao động cao. Khoảng 10% lao động xã hội
trực tiếp làm nông nghiệp những vẫn đáp ứng đủ nhu cầu tiêu dùng và xuất
khẩu. Nông nghiệp công nghiệp hoá gây nên nhiều hậu quả sinh thái nghiêm
trọng, gây ô nhiễm môi trường làm giảm tính đa dạng sinh học, làm hao hụt
nguồn gen thiên nhiên [40].
Theo cách hiểu gần đây nhất được đưa ra: Nông nghiệp công nghiệp
hoá là một nền nông nghiệp được công nghiệp hoá khi áp dụng đầy đủ các
thành tựu của một xã hội công nghiệp vào nông nghiệp. Các thành tựu đó thể
hiện trên nhiều mặt: thông tin, điện tử, sinh học, hoá học, cơ khí… Thực tế
cho thấy nhiều nước công nghiệp phát triển, nền nông nghiệp công nghiệp
hoá thể hiện theo cách thể hiện này đã đạt được nhiều thành tựu đáng kể. Tuy
nhiên nhược điểm của nền nông nghiệp này là không chú ý đầy đủ đến các tác

động của hoạt động sản xuất nông nghiệp lên môi trường tự nhiên [7].
* Nông nghiệp sinh thái: đưa ra nhằm khắc phục những nhược điểm
của nông nghiệp công nghiệp hoá, nông nghiệp sinh thái nhấn mạnh việc đảm
bảo tuân thủ những nguyên tắc về sinh học nông nghiệp trong nông nghiệp.
Mục tiêu của nông nghiệp sinh thái:
+ Tránh những tác hại do sử dụng hoá chất nông nghiệp và phương
pháp công nghiệp gây ra làm cho môi trường bị ô nhiễm, chất lượng nông sản
giảm sút;
+ Cải thiện chất lượng dinh dưỡng thức ăn;
+ Nâng cao độ phì nhiêu của đất bằng phân bón hữu cơ, tăng chất mùn
trong đất…
+ Hạn chế mọi dạng ô nhiễm môi trường với đất, nước, môi trường,
thức ăn [40].
Gần đây nhiều nhà khoa học đã nghiền cứu nền nghiệp bền vững, đó là
một dạng của nông nghiệp sinh thái với mục tiêu sản xuất nông nghiệp đi đôi
16
với giữ gìn và bảo vệ môi trường sinh thái đảm bảo cho nông nghiệp phát
triển bền vững, lâu dài.
Trong thực tế phát triển theo những dạng tổng hợp, đan xen các xu
hướng vào nhau ở nhiều mức độ khác nhau. Cụ thể như :
- “Cách mạng xanh’’ đã được thực hiện ở các nước đang phát triển ở
châu Á, Mỹ la tinh và đã đem lại những bước phát triển lớn ở những nước đó
vào những năm của thập kỷ 60. Thực chất cuộc cách mạng này dựa chủ yếu
vào việc áp dụng các giống cây lương thực có năng suất cao (lúa nước, lúa
mì, ngô ) xây dựng hệ thống thuỷ lợi, sử dụng nhiều loại phân hoá học.
“cách mạng xanh” đã dựa vào cả một số yếu tố sinh học, một số yếu tố hoá
học và cả thành tựu của công nghiệp [7].
- “Cách mạng trắng’’ được thực hiện dựa vào việc tạo ra các giống gia
súc có tiềm năng cho sữa cao và những tiến bộ khoa học đạt được trong việc
tăng năng suất và chất lượng các loại gia súc, trong các phương thức chăn

nuôi mang ít nhiều tính chất công nghiệp. Cuộc cách mạng này đã tạo được
những bước phát triển lớn trong chăn nuôi ở một số nước và được thực hiện
trong mối quan hệ chặt chẽ với “cách mạng xanh” [7].
- “Cách mạng nâu’’ diễn ra trên cơ sở giải quyết mối quan hệ của
nông dân với ruộng đất. Trên cơ sở khơi dậy lòng yêu quý của nông dân
đối với đất đai, khuyến khích tính cần cù của họ để năng suất và sản
lượng trong nông nghiệp [7].
Cả ba cuộc cách mạng này mới chỉ dừng lại ở việc, tháo gỡ những khó
khăn trước mắt chứ chưa thể là cơ sở cho một chiến lược phát triển nông
nghiệp lâu dài và bền vững.
Từ những bài học của lịch sử phát triển nông nghiệp, những thành tựu đạt
được của khoa học công nghệ, ở giai đoạn hiện nay muốn đưa nông nghiệp đi
lên phải xây dựng và thực hiện một nền nông nghiệp trí tuệ. Bởi vì, tính phong
phú đa dạng và đầy biến động của nông nghiệp đòi hỏi những hiểu biết và những
17
xử lý đầy trí tuệ và rất biện chứng. Nông nghiệp trí tuệ thể hiện ở việc phát hiện,
nắm bắt và vận dụng các quy luật tự nhiên và xã hội trong mọi mặt hoạt động
của hệ thống nông nghiệp phong phú, biểu hiện ở việc áp dụng các giải pháp phù
hợp, hợp lý. Nông nghiệp trí tuệ là bước phát triển ở mức cao, là sự kết hợp ở
đỉnh cao của các thành tựu sinh học, công nghiệp, kinh tế, quản lý được vận
dụng phù hợp, với điều kiện cụ thể của mỗi nước, mỗi vùng [7].
Theo trung tâm thông tin chuyên đề nông nghiệp và phát triển nông
thôn: trong những năm qua, cùng với sự phát triển thành công về sản xuất nông
nghiệp và tăng trưởng về mức sống, nhiều nước đã đẩy mạnh chuyển đổi cơ
cấu cây trồng và đa dạng hoá sản xuất như: Philipin năm 1987-1992 chính phủ
đã có chiến lược chuyển đổi cơ cấu cây trồng, đa dạng hoá cây trồng nhằm thúc
đẩy nông nghiệp phát triển; Thái Lan những năm 1982-1996 đã có những chính
sách đầu tư phát triển nông nghiệp; Ấn Độ kể từ thập kỷ 80, khi sản xuất lương
thực đã đủ đảm bảo an ninh lương thực thì các chính sách phát triển nông
nghiệp của Chính phủ cũng chuyển sang đẩy mạnh chuyển đổi cơ cấu cây

trồng, đa dạng hoá sản xuất, phát triển nhiều cây trồng ngoài lương thực
2.3.2 Phương hướng phát triển nông nghiệp Việt Nam trong những năm tới
Những năm gần đây cơ cấu kinh tế nông nghiệp nước ta bước đầu đã
gắn phương thức truyền thống với phương thức công nghiệp hoá và đang từng
bước giảm bớt tính tự cấp, tự túc, chuyển dần sang sản xuất hàng hoá và
hướng mạnh ra xuất khẩu.
Trên cơ sở thành tựu kỹ thuật nông nghiệp của gần 20 năm đổi mới, dựa
trên những dự báo về khoa học kỹ thuật, căn cứ vào điều kiện cụ thể, phương
hướng chủ yếu phát triển nông nghiệp Việt Nam trong 10 năm tới sẽ là:
- Tập trung vào sản xuất nông sản hàng hoá theo nhóm ngành hàng, nhóm
sản phẩm, xuất phát từ cơ sở dự báo cung cầu của thị trường nông sản trong
nước, thế giới và dựa trên cơ sở khai thác tốt lợi thế so sánh của các vùng [8].
18
- Xác định cơ cấu sản phẩm trên cơ sở các tiềm năng tự nhiên, kinh tế,
xã hội của từng vùng, lấy hiệu quả kinh tế tổng hợp làm thước đo để xác định
cơ cấu, tỷ lệ sản phẩm hợp lý về các chỉ tiêu, kế hoạch đối với từng nông sản
hàng hoá [8].
- Chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp theo hướng tăng tỷ trọng ngành chăn
nuôi, tăng tỷ trọng cây công nghiệp, rau quả so với cây lương thực. Giảm tỷ
trọng lao động nông nghiệp xuống còn 50% [8], tăng quỹ đất nông nghiệp
bình quân trên một lao động nông nghiệp [34]. Đồng thời đẩy mạnh công
nghiệp hoá, phát triển ngành nghề công nghiệp, dịch vụ ngoài nông nghiệp.
Mặt khác, cần phải phát triển mạnh các ngành nghề, dịch vụ trong nông
nghiệp để giải quyết lao động nông nhàn.
- Tiếp tục hoàn thiện cơ chế chính sách phù hợp với yêu cầu cao hơn của
công nghiệp hoá [8]. Để khuyến khích sản xuất nông sản hàng hoá, khuyến
khích các sản phẩm xuất khẩu, cần tiếp tục tạo lập đồng bộ các yếu tố của kinh
tế thị trường và từng bước hoàn thiện nền kinh tế thị trường theo định hướng xã
hội chủ nghĩa. Đặc biệt là thị trường ruộng đất, tạo ra sự lưu chuyển đất nông
nghiệp nhằm tạo ra các doanh nghiệp sản xuất nông nghiệp hàng hoá với quy

mô thích hợp [1].
- Đẩy mạnh ứng dụng khoa học công nghệ trong nông nghiệp. Cần ứng
dụng đồng bộ các yếu tố khoa học công nghệ vào sản xuất nông sản hàng hoá,
nâng cao trình trình độ khoa học công nghệ trong sản xuất, chế biến, lưu
thông tiếp thị nông sản hàng hoá.
Sản phẩm làm ra chứa đựng một lượng tri thức khoa học - kỹ thuật và
tổ chức quản lý cao để không ngừng nâng cao năng suất, chất lượng, hạ giá
thành sản phẩm và tiếp cận tích cực nhất với kinh tế tri thức đang diễn ra trên
toàn cầu [31].
19
* Mục tiêu phát triển nông nghiệp giai đoạn 2011-2015: phục hồi tăng
trưởng, tăng hiệu quả sản xuất nông nghiệp; phát huy dân chủ cơ sở, huy
động sức mạnh cộng đồng để phát triển nông thôn; tăng thu nhập và giảm
đáng kể tỷ lệ nghèo, bảo vệ môi trường
- Tốc độ tăng trưởng nông nghiệp ổn định 3,3-3,8%. Tạo chuyển biến
rõ rệt về mở rộng quy mô sản xuất bình quân của hộ và ứng dụng khoa học
công nghệ.
- Tạo bước đột phá trong đào tạo nhân lực. Nâng cao cả kiến thức, kỹ
năng sản xuất kinh doanh nông lâm ngư nghiệp và phi nông nghiệp cho lao động
nông thôn.
- Tạo chuyển biến rõ rệt phát triển kinh tế hợp tác, hiệp hội, phát triển
liên kết dọc theo ngành hàng, kết nối giữa sản xuất - chế biến - kinh doanh.
Phát triển doanh nghiệp nông thôn.
- Hình thành kết cấu hạ tầng căn bản phục vụ hiệu quả sản xuất nông
nghiệp, phát triển kinh tế nông thôn. Cải thiện căn bản môi trường và sinh thái
nông thôn tập trung vào đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm, phòng chống
dịch bệnh cho cây trồng và vật nuôi, phòng chống thiên tai [3].
* Mục tiêu phát triển nông nghiệp giai đoạn 2016-2020: phát triển
nông nghiệp theo hướng toàn diện, hiện đại, sản xuất hàng hóa lớn, vững
bền; phát triển nông thôn gắn với quá trình công nghiệp hóa, đô thị hóa đất

nước, tăng thu nhập và cải thiện căn bản điều kiện sống của cư dân nông
thôn, bảo vệ môi trường.
- Đảm bảo duy trì tốc độ tăng trưởng nông nghiệp ở mức bình quân 3,5-
4%/năm. Hình thành một số ngành sản xuất kinh doanh mũi nhọn của Việt
Nam trên thị trường quốc tế.
- Cơ cấu sản xuất nông nghiệp và kinh tế nông thôn chuyển đổi theo
nhu cầu thị trường. Phát triển chăn nuôi, thủy sản và lâm nghiệp. Công
20
nghiệp, dịch vụ và kinh tế đô thị phối hợp hiệu quả với sản xuất và kinh
doanh nông nghiệp và phát triển kinh tế nông thôn.
- Chuyển phần lớn lao động nông thôn ra khỏi nông nghiệp, lao động
nông nghiệp còn khoảng 30% lao động xã hội. Hình thành đội ngũ nông dân
chuyên nghiệp, có kỹ năng sản xuất và quản lý, gắn kết trong các loại hình
kinh tế hợp tác và kết nối với thị trường.
- Phong trào xây dựng nông thôn mới phát triển mạnh với ít nhất 50% số
xã đạt tiêu chuẩn. Nâng cao thu nhập của cư dân nông thôn lên 2,5 lần so với
hiện nay. Quy hoạch dân cư, quy hoạch lãnh thổ nông thôn gắn với phát triển đô
thị, công nghiệp.
- Phát triển lâm nghiệp tăng độ che phủ của rừng lên 43- 45%, bảo vệ đa
dạng sinh học, đảm bảo đánh bắt thủy sản nội địa và gần bờ trong khả năng tái
tạo và phát triển, khắc phục tình trạng ô nhiễm trong sản xuất nông nghiệp, khắc
phục và giảm thiểu thiệt hại thiên tai, dịch bệnh và các tác động xấu của biến đổi
khí hậu [3].
2.3.3 Xây dựng nền nông nghiệp bền vững
2.3.3.1 Sự cần thiết phải xây dựng nền nông nghiệp bền vững
Sử dụng đất là một hệ thống các biện pháp nhằm điều hoà mối quan
hệ giữa người và đất đai. Mục tiêu của con người là sử dụng đất khoa học và
hợp [18]. Tuy nhiên thực tế cho thấy sử dụng đất đai là vấn đề phức tạp, chịu
ảnh hưởng của nhiều yếu tố quan trọng khác nhau, thực chất đây là vấn đề có
liên quan đến toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Mục tiêu đặt ra là sử dụng tối đa

và có hiệu quả toàn bộ quỹ đất của quốc gia, nhằm phục vụ phát triển nền
kinh tế quốc dân và phát triển xã hội. Việc sử dụng đất dựa trên nguyên tắc là
ưu tiên đất đai cho sản xuất nông nghiệp.
Ngoài những tác động của các yếu tố điều kiện tự nhiên như: khí hậu,
thuỷ văn, thảm thực vật và quy luật sinh thái tự nhiên, đất đai còn chịu ảnh
21

×