Tải bản đầy đủ (.pdf) (167 trang)

Vân dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về chính sách xã hội thời kỳ đổi mới ở Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.18 MB, 167 trang )

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH

NGUYỄN CÔNG LẬP

VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
VỀ CHÍNH SÁCH XÃ HỘI THỜI KỲ ĐỔI MỚI
Ở VIỆT NAM

LUẬN ÁN TIẾN SĨ
CHUYÊN NGÀNH: HỒ CHÍ MINH HỌC

HÀ NỘI - 2017


HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH

NGUYỄN CÔNG LẬP

VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
VỀ CHÍNH SÁCH XÃ HỘI THỜI KỲ ĐỔI MỚI
Ở VIỆT NAM

LUẬN ÁN TIẾN SĨ
CHUYÊN NGÀNH: HỒ CHÍ MINH HỌC
Mã số: 62 31 02 04

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
1. PGS.TS. NGUYỄN THỊ KIM DUNG
2. TS. TRẦN VĂN HẢI

HÀ NỘI - 2017




LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của
riêng tôi. Các số liệu, kết quả nêu trong luận án là trung
thực, có nguồn gốc rõ ràng và được trích dẫn đầy đủ theo
quy định.

TÁC GIẢ

Nguyễn Công Lập


MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU

1

Chương 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN
LUẬN ÁN

6

1.1. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đến luận án

6

1.2. Đánh giá tình hình nghiên cứu và những vấn đề luận án tiếp tục

nghiên cứu

25

Chương 2: TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CHÍNH SÁCH XÃ HỘI

29

2.1. Khái niệm chính sách xã hội

29

2.2. Nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh về chính sách xã hội

33

Chương 3: THỰC TRẠNG VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ
CHÍNH SÁCH XÃ HỘI TRONG 30 NĂM ĐỔI MỚI Ở VIỆT NAM

75

3.1. Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về chính sách xã hội
thời kỳ đổi mới theo tư tưởng Hồ Chí Minh

75

3.2. Những thành tựu và hạn chế việc thực hiện chính sách xã hội ở
Việt Nam trong 30 năm đổi mới (1986 - 2016) theo tư tưởng
Hồ Chí Minh


86

3.3. Nguyên nhân của những thành tựu và hạn chế việc thực hiện chính
sách xã hội ở Việt Nam thời kỳ đổi mới

104

Chương 4: NÂNG CAO HIỆU QUẢ THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH XÃ HỘI Ở
VIỆT NAM HIỆN NAY THEO TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH

116

4.1. Những nhân tố tác động và những vấn đề đặt ra đối với việc
thực hiện chính sách xã hội hiện nay

116

4.2. Giải pháp vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về chính sách xã hội ở
Việt Nam hiện nay

122

KẾT LUẬN

148

DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH ĐÃ CÔNG BỐ CỦA TÁC GIẢ LIÊN
QUAN ĐẾN LUẬN ÁN

151


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

152


1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu
Chính sách xã hội giữ vai trò đặc biệt quan trọng trong toàn bộ hoạt động
tổ chức, điều hành và quản lý xã hội. Hiệu quả việc thực hiện chính sách xã
hội góp phần phát triển lành mạnh các mối quan hệ xã hội, phát triển kinh tế
mang tính bền vững và phát triển toàn diện con người trên cơ sở bình đẳng,
công bằng và tiến bộ. Ngoài ra, chính sách xã hội còn góp phần trợ giúp
những con người, những nhóm xã hội, đảm bảo mức sống cho một số nhóm
đối tượng yếu thế, giúp họ vượt qua khó khăn khi gặp những rủi ro trong cuộc
sống. Do vậy, ở bất kỳ thời đại nào, chế độ chính trị nào, chính sách xã hội
cũng đóng vai trò là động lực thúc đẩy sự phát triển xã hội.
Đối với Chủ tịch Hồ Chí Minh, thực hiện chính sách xã hội là giải quyết
các vấn đề liên quan trực tiếp đến con người, qua đó nâng cao đời sống vật
chất và tinh thần của nhân dân. Do vậy, ngay từ khi thành lập nước, Người rất
chú trọng đến việc xây dựng các chính sách xã hội nhằm quản lý đất nước và
phục vụ sự nghiệp cách mạng. Tư tưởng Hồ Chí Minh về chính sách xã hội là
một hệ thống các quan điểm về mục đích, đối tượng, nội dung, yêu cầu và lực
lượng thực hiện chính sách xã hội. Tư tưởng của Người về chính sách xã hội
là tài sản tinh thần quý giá, soi đường cho sự nghiệp cách mạng của dân tộc
Việt Nam giành được những thắng lợi to lớn.
Trong sự nghiệp đổi mới ở Việt Nam, thực hiện nhiệm vụ xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc, Đảng và Nhà nước đã vận dụng và phát triển tư tưởng Hồ
Chí Minh về chính sách xã hội cho phù hợp với tình hình mới, góp phần

giành thắng lợi trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội. Thực chất đây là
quá trình nhận thức đúng đắn hơn con đường đi lên chủ nghĩa xã hội phù hợp
với thực tiễn Việt Nam, là thực hiện di huấn của Chủ tịch Hồ Chí Minh với
mong muốn đồng bào ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành,
nhằm đạt tới mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.


2
Nhờ thực hiện đường lối đổi mới, chính sách xã hội đã phát huy được
năng lực của cá nhân, cộng đồng trong xây dựng và phát triển đất nước,
hạn chế ở mức độ nhất định những tiêu cực phát sinh từ môi trường kinh tế
thị trường và quá trình toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế. Bên cạnh những
thành tựu đạt được, vẫn còn một số hạn chế cần phải tiếp tục điều chỉnh, bổ
sung, hoàn thiện, như: Vấn đề việc làm cho người lao động, xóa đói giảm
nghèo, chăm sóc sức khỏe cho nhân dân, chính sách đối với người có công
với cách mạng.
Sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam đòi hỏi phải đổi mới
và hoàn thiện cơ chế quản lý xã hội để giải quyết tốt vấn đề con người.
Trong đó, chính sách xã hội là công cụ quan trọng, góp phần vào thực hiện
mục tiêu cơ bản của quản lý xã hội nhằm cân bằng nhu cầu và lợi ích của
con người trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Để
hoạch định được chính sách xã hội tiến bộ, phù hợp với yêu cầu của sự
nghiệp đổi mới và hội nhập quốc tế, cần có nhận thức và giải quyết đúng đắn
những vấn đề lý luận về chính sách xã hội, những đòi hỏi từ thực tiễn của
đất nước hiện nay.
Trong thời kỳ đổi mới toàn diện, đồng bộ đất nước, việc nghiên cứu và
vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về chính sách xã hội còn nhiều vấn đề đặt ra,
đòi hỏi phải tiếp tục nghiên cứu sáng tỏ để vận dụng sáng tạo, phù hợp với
thực tiễn hiện nay. Chỉ trên cơ sở đó, Đảng và Nhà nước mới có được tầm
nhìn, năng lực của chủ thể hoạch định đường lối, chính sách và thực hiện tốt

công tác lãnh đạo, quản lý việc thực hiện chính sách xã hội đạt hiệu quả cao
trên thực tế.
Vì vậy, nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về chính sách xã hội để vận
dụng vào việc xây dựng và thực thi chính sách xã hội ở nước ta trong giai đoạn
hiện nay là một trong những vấn đề cần thiết, có ý nghĩa thiết thực cả về lý luận
và thực tiễn. Nhận thức được tầm quan trọng và tính cấp thiết của vấn đề này,


3
nghiên cứu sinh chọn đề tài “Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về chính sách
xã hội thời kỳ đổi mới ở Việt Nam” làm luận án tiến sĩ khoa học chính trị,
chuyên ngành Hồ Chí Minh học.
2. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục tiêu nghiên cứu
Nghiên cứu làm rõ nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh về chính sách xã hội,
thực trạng vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về chính sách xã hội thời kỳ đổi
mới, từ đó, đề xuất một số giải pháp vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh nhằm
nâng cao hiệu quả thực hiện chính sách xã hội ở Việt Nam hiện nay.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Luận giải những khái niệm cơ bản liên quan đến luận án.
- Phân tích một cách có hệ thống tư tưởng Hồ Chí Minh về chính sách xã
hội (Mục đích, đối tượng, nội dung, yêu cầu và lực lượng thực hiện chính sách
xã hội).
- Phân tích, đánh giá thực trạng vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về chính
sách xã hội thời kỳ đổi mới với những thành tựu, hạn chế và nguyên nhân của
thành tựu, hạn chế. Trên cơ sở đó, đề xuất các nhóm giải pháp vận dụng tư
tưởng Hồ Chí Minh nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện chính sách xã hội ở Việt
Nam hiện nay.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu

Tư tưởng Hồ Chí Minh về chính sách xã hội và sự vận dụng tư tưởng đó
vào thực hiện chính sách xã hội thời kỳ đổi mới ở Việt Nam.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
- Về nội dung: Luận án tập trung nghiên cứu nội dung cơ bản chính sách
xã hội trong tư tưởng Hồ Chí Minh gồm chính sách lao động và việc làm, chính
sách xóa đói giảm nghèo, chính sách chăm sóc và bảo vệ sức khỏe nhân dân,
chính sách đối với người có công với nước và sự vận dụng của Đảng, Nhà
nước trong thời kỳ đổi mới.


4
- Về thời gian: Luận án nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về chính sách
xã hội cả trong tư duy lý luận lẫn hoạt động thực tiễn và sự vận dụng tư tưởng
của Người về chính sách xã hội của Đảng, Nhà nước từ năm 1986 đến nay.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
4.1. Cơ sở lý luận
Luận án nghiên cứu dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh, các quan điểm, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà
nước về chính sách xã hội.
4.2. Phương pháp nghiên cứu
Quá trình thực hiện luận án, nghiên cứu sinh sử dụng phương pháp nghiên
cứu của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử. Ngoài ra,
tác giả còn kết hợp một số phương pháp cụ thể như: lịch sử và lôgíc, phân tích
và tổng hợp, thống kê và so sánh, quy nạp và diễn dịch,…
5. Đóng góp khoa học của luận án
- Phân tích, luận giải một cách có hệ thống, góp phần làm sáng tỏ hơn các
quan điểm của Hồ Chí Minh về chính sách xã hội.
- Khảo sát khá toàn diện tình hình thực hiện chính sách xã hội thời kỳ đổi
mới ở Việt Nam, trên cơ sở đó, đánh giá những ưu điểm, hạn chế và nguyên
nhân của ưu điểm, hạn chế việc thực hiện chính sách xã hội thời kỳ đổi mới

theo tư tưởng Hồ Chí Minh.
- Đề xuất một số giải pháp vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về chính sách
xã hội ở Việt Nam hiện nay.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án
6.1. Ý nghĩa lý luận
Kết quả nghiên cứu của luận án góp phần làm rõ hơn tư tưởng Hồ Chí
Minh về chính sách xã hội dưới góc độ chuyên ngành Hồ Chí Minh học như là
cơ sở lý luận để Đảng, Nhà nước hoạch định và thực thi chính sách xã hội thời
kỳ đổi mới đất nước hiện nay.


5
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Kết quả nghiên cứu của luận án làm tài liệu tham khảo cho các cơ quan
nghiên cứu khoa học, các trường đào tạo bậc đại học và sau đại học trong nhóm
ngành khoa học chính trị, khoa học xã hội và nhân văn. Ngoài ra, luận án còn
làm tài liệu cho việc nghiên cứu, giảng dạy môn học Tư tưởng Hồ Chí Minh
trong các Học viện, trường Đại học, Cao đẳng.
7. Kết cấu của đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục các công trình của tác giả liên
quan đến luận án và danh mục tài liệu tham khảo, luận án gồm 4 chương, 9 tiết.


6
Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN
1.1. TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐẾN LUẬN ÁN

1.1.1. Tình hình nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về chính sách
xã hội

Tập thể tác giả trong cuốn sách Tư tưởng Hồ Chí Minh về con người và về
chính sách xã hội do Lê Sỹ Thắng chủ biên [129] đề cập quan điểm con người
từ trong truyền thống của dân tộc Việt Nam đến tư tưởng Hồ Chí Minh. Trên
cơ sở phân tích tư tưởng Hồ Chí Minh về con người và tư tưởng về chính sách
xã hội đối với con người thâm nhập vào nhau trong chỉnh thể tư tưởng nhân
văn Hồ Chí Minh, cuốn sách làm rõ nhiệm vụ và chức năng của chính sách xã
hội; mối quan hệ giữa chính sách xã hội với cơ cấu xã hội, quản lý xã hội; mối
quan hệ giữa chính sách xã hội với các chính sách kinh tế, văn hóa; mối quan
hệ giữa chính sách xã hội với công bằng xã hội; về chủ thể hoạch định và thực
hiện chính sách xã hội; về chiến lược “trồng người” trong tư tưởng Hồ Chí
Minh. Cuốn sách khẳng định tư tưởng Hồ Chí Minh về con người luôn là cơ sở
cho việc hoạch định các chính sách kinh tế - xã hội trong sự nghiệp đổi mới ở
nước ta hiện nay. Tuy vậy, công trình không đi sâu tìm hiểu các chính sách xã
hội cụ thể mà dừng lại ở việc nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh soi sáng cho
việc hoạch định các chính sách ấy.
Cuốn sách Tư tưởng Hồ Chí Minh về chính sách xã hội từ góc nhìn xã hội
học [130] do Nguyễn Thế Thắng chủ biên đã làm rõ khái niệm chính sách xã
hội và một số cách tiếp cận về chính sách xã hội từ góc nhìn xã hội học. Qua
đó, tác giả cuốn sách trình bày tư tưởng Hồ Chí Minh về hệ thống chính sách
xã hội tác động vào cơ cấu giai cấp, tác động của chính sách xã hội, vào các
nhóm xã hội đặc thù; vào các quan hệ xã hội trong quá trình sản xuất; trên lĩnh
vực phân phối, vì sự tiến bộ và công bằng xã hội; về một số cơ sở khoa học của
việc hoạch định, thực thi chính sách xã hội trong thực tiễn. Ngoài ra, cuốn sách
khẳng định dựa trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh,


7
Đảng ta giải quyết mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế với tiến bộ và công
bằng xã hội bằng một hệ thống chính sách xã hội đúng đắn. Bên cạnh đó, cuốn
sách còn trình bày thực tiễn và thành tựu thực hiện các chính sách xã hội giải

quyết mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế với tiến bộ và công bằng xã hội
trong sự nghiệp đổi mới.
Liên quan đến chính sách chăm sóc và bảo vệ sức khỏe nhân dân, trong
cuốn Bác Hồ với ngành y tế Việt Nam [20] có các bài viết: Tư tưởng Hồ Chí
Minh về một nền y tế Việt Nam của Nguyễn Văn Hồng; Chủ tịch Hồ Chí Minh
với việc xây dựng ngành y tế của Vũ Ngọc Khánh; Quan điểm về y tế và đạo
đức người thầy thuốc của Hồ Chí Minh của Đỗ Nguyên Phương; Một số quan
điểm cơ bản của Hồ Chí Minh về xây dựng nền y học Việt Nam của Nguyễn
Dương Quang; Chủ tịch Hồ Chí Minh với công tác bảo vệ sức khỏe của Võ
Nguyên Giáp;… Các tác giả cho rằng, Chủ tịch Hồ Chí Minh rất quan tâm đến
việc chăm lo sức khỏe cho nhân dân; quan điểm về y tế, về công tác chăm sóc
sức khỏe nhân dân của Chủ tịch Hồ Chí Minh thể hiện tinh thần nhân văn cao
cả, tấm lòng nhân hậu hết mực vì nhân dân, vì con người.
Trong bài viết Tư tưởng Hồ Chí Minh về chính sách xã hội [109], tác giả
Nguyễn Năng Nam khẳng định tư tưởng Hồ Chí Minh về chính sách xã hội
phải lấy con người làm gốc, làm xuất phát điểm và đích hướng tới của mọi
chính sách; phải xuất phát từ cơ cấu xã hội - giai cấp; phải phù hợp với trình độ
phát triển kinh tế, gắn với chính sách kinh tế; “có chỉ tiêu kế hoạch rồi chưa đủ
mà phải có biện pháp cụ thể, vững chắc, phải có tinh thần cố gắng rất cao để
thực hiện bằng được kế hoạch đã đề ra. Chỉ tiêu kế hoạch một phần, biện pháp
phải hai phần, cố gắng phải ba phần”; giải quyết tốt mối quan hệ giữa quyền lợi
và nghĩa vụ, cống hiến và hưởng thụ; phải cắn cứ vào bản sắc văn hóa dân tộc,
tiếp thu có chọn lọc tinh hoa văn hóa nhân loại.
Tác giả A.X.Varônhin trong bài viết Chính sách xã hội và tinh thần thời
đại của Hồ Chí Minh [147] đã khẳng định con đường giải phóng đất nước và
xã hội mà Chủ tịch Hồ Chí Minh lựa chọn là một trong những chiến lược xã


8
hội đặc sắc nhất trong lịch sử nhân loại. Đi theo con đường của Chủ tịch Hồ

Chí Minh, nhân dân Việt Nam đã đạt được những thành tựu to lớn trong việc
giải quyết những vấn nạn xã hội nghiêm trọng do quá khứ thời phong kiến đô
hộ và chiến tranh tàn phá kéo dài để lại. Kinh tế như nền tảng vật chất của
chính sách xã hội phát triển bền vững và sôi động. Hệ thống bảo hiểm xã hội,
bảo hiểm y tế và hệ thống thượng lưu ngày càng được củng cố và cải thiện.
Tuy nhiên, cùng với thế giới ngày càng quan tâm hơn tới kinh nghiệm của Việt
Nam cũng sẽ có một số thế lực muốn bôi nhọ lý tưởng và tư tưởng mà Chủ tịch
Hồ Chí Minh đã đấu tranh suốt cuộc đời mình để biến thành hiện thực. Những
thế lực này tìm cách làm giảm uy tín chính sách xã hội của Người khi gọi nó là
chủ nghĩa không tưởng, không phù hợp với thực tiễn chính trị và chuẩn mực xã
hội đương thời. Trong bối cảnh đó, nhiệm vụ quan trọng là phải luôn tìm tòi
sáng tạo để phát triển hệ thống tư tưởng Hồ Chí Minh, khéo léo chứng minh
được rằng chiến lược đấu tranh giành độc lập dân tộc và xã hội mà Người đã đề
ra, kinh nghiệm thắng lợi mà nhân dân Việt Nam đã có được trong quá trình
thực hiện chiến lược này là vô giá. Tư tưởng Hồ Chí Minh cho đến ngày hôm
nay vẫn soi sáng con đường của nhân dân Việt Nam đi đến tương lai, cho
người dân thêm vững tin vào sự nghiệp xây dựng xã hội chủ nghĩa, một xã hội
công bằng và tiến bộ cả về vật vất và tinh thần.
Đinh Xuân Lâm, Bùi Đình Phong trong cuốn sách Văn hóa và triết lý phát
triển trong tư tưởng Hồ Chí Minh [80], đã khẳng định những thành tựu của sự
nghiệp đổi mới ở Việt Nam, như về hội nhập kinh tế quốc tế, phát triển bền
vững, văn hóa chính trị, văn hóa lãnh đạo - quản lý,… đều khởi nguồn từ tầm
nhìn và bản lĩnh Hồ Chí Minh. Đặc biệt, cuốn sách có một bài viết đề cập đến
nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh về chính sách xã hội, trong đó tập trung làm rõ
chính sách xã hội gắn với quyền lợi và trách nhiệm của cá nhân và cộng đồng
dưới sự lãnh đạo của Đảng và quản lý của Nhà nước; chính sách xã hội gắn với
chính sách phát triển kinh tế và văn hóa; chính sách xã hội phải hướng đến
công bằng xã hội; trồng người là chiến lược hàng đầu.



9
Nguyễn Đình Nhạ trong bài viết Từ lời căn dặn trong Di chúc, tìm hiểu tư
tưởng Hồ Chí Minh về con người và chính sách đối với con người [7], đã làm
rõ quan điểm cơ bản của Chủ tịch Hồ Chí Minh về con người được thể hiện
trong Di chúc. Trên cơ sở đó, tác giả bài viết khẳng định tư tưởng Hồ Chí Minh
về con người và chính sách xã hội đối với con người được thể hiện đa dạng và
phong phú, thấm đậm trong toàn bộ cuộc đời và sự nghiệp cách mạng của
Người. Do vậy, chỉ có thấm nhuần quan điểm đúng đắn của Chủ tịch Hồ Chí
Minh về con người mới có thể đề ra chính sách xã hội đúng đắn theo hướng
“lấy con người làm trung tâm”.
Trong bài viết Tư tưởng Hồ Chí Minh về chính sách xã hội và sự vận
dụng sáng tạo của Đảng ta trong công cuộc đổi mới [69], tác giả Nguyễn Thị
Minh Thùy đã trình bày những nội dung cơ bản tư tưởng Hồ Chí Minh về
chính sách xã hội. Bài viết cho rằng, để thực hiện có hiệu quả chính sách xã hội
phải lấy con người làm gốc và mục tiêu; phải phù hợp và gắn với chính sách
kinh tế; phải bắt nguồn từ cơ cấu xã hội - giai cấp. Tư tưởng Hồ Chí Minh về
chính sách xã hội có ý nghĩa to lớn về mặt lý luận và thực tiễn. Do vậy, việc
thực hiện nhất quán tư tưởng Hồ Chí Minh về chính sách xã hội là nhân tố
quan trọng đảm bảo giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa của công cuộc đổi
mới, là biện pháp hữu hiệu để hạn chế và khắc phục mặt trái của cơ chế thị
trường, là cơ sở vững chắc để tạo nên sự ổn định và đồng thuận xã hội đưa Việt
Nam tiến tới mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
Bàn về công bằng xã hội trong xây dựng xã hội mới, trong bài viết Tư
tưởng Hồ Chí Minh về công bằng xã hội [140] tác giả Vũ Văn Thuấn trình bày
những nội dung cơ bản tư tưởng Hồ Chí Minh về công bằng xã hội phải được
thể hiện trên các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội. Đồng thời, tác giả
bài viết còn khẳng định tư tưởng Hồ Chí Minh về công bằng xã hội có sự gắn
bó chặt chẽ với bình đẳng xã hội.
Phạm Xuân Nam trong bài viết Quan điểm của Hồ Chí Minh và của Đảng
Cộng sản Việt Nam về hệ thống an sinh xã hội và phúc lợi xã hội [108] đã luận



10
giải quan điểm của Hồ Chí Minh về hệ thống an sinh xã hội và phúc lợi xã hội.
Theo đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh là người đề xướng và đặt nền móng cho việc
thực hiện các chính sách xã hội nói chung và chính sách an sinh xã hội, phúc
lợi xã hội nói riêng ở Việt Nam. Đồng thời, bài viết còn phân tích quan điểm
của Đảng Cộng sản Việt Nam thời kỳ đổi mới về hệ thống an sinh xã hội, phúc
lợi xã hội và đề ra một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện chính
sách an sinh xã hội, phúc lợi xã hội ở Việt Nam.
Khẳng định Triết lý xóa đói, giảm nghèo vì mục tiêu phát triển xã hội trong
tư tưởng Hồ Chí Minh [87], tác giả Lê Quốc Lý khẳng định tư tưởng Hồ Chí
Minh về xóa đói, giảm nghèo là một triết lý phát triển bền vững, bảo đảm tăng
trưởng kinh tế cao gắn với tiến bộ và công bằng xã hội, môi trường, môi sinh
trong lành, tươi đẹp. Thấm nhuần triết lý phát triển Hồ Chí Minh đòi hỏi phải coi
xóa đói, giảm nghèo là một trong những thước đo quan trọng thể hiện sự đúng
đắn về đường lối, chính sách và giải pháp trong xây dựng và phát triển đất nước.
Tinh thần chiến đấu chống đói nghèo theo tư tưởng Hồ Chí Minh phải biến
thành lẽ sống, khát vọng làm giàu, vươn lên của toàn thể nhân dân, dân tộc, để
Việt Nam thật sự dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
Các công trình nghiên cứu trên là tài liệu để tác giả luận án tham khảo một
số nội dung cơ bản tư tưởng Hồ Chí Minh về chính sách xã hội. Theo đó, chính
sách xã hội phải gắn với chính sách kinh tế và văn hóa; phải hướng đến công
bằng và tiến bộ xã hội;… Ngoài ra, luận án còn tham khảo vấn đề hoạch định
và vai trò của chủ thể hoạch định, thực thi chính sách xã hội trong tư tưởng Hồ
Chí Minh. Nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về chính sách xóa đói giảm
nghèo, chăm sóc và bảo vệ sức khỏe nhân dân, chính sách đối với người có
công với nước, là những tài liệu tham khảo cho luận án.
1.1.2. Tình hình nghiên cứu việc vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về
chính sách xã hội ở Việt Nam thời kỳ đổi mới

Trong các cuốn sách Góp phần nghiên cứu chính sách xã hội của Phạm
Như Cương [16]; Chính sách xã hội, một số vấn đề lý luận và thực tiễn do Bùi


11
Đình Thanh (Chủ biên) [133]; Một số vấn đề về chính sách xã hội ở nước ta
hiện nay của Hoàng Chí Bảo [4]. Các tác giả đã tập trung nghiên cứu lý luận và
phương pháp luận về chính sách xã hội, khái niệm và nội dung của chính sách
xã hội cũng như mối quan hệ giữa chính sách xã hội với các chính sách khác.
Đề tài Chính sách xã hội của Đảng và Nhà nước ta trong việc giải quyết
các vấn đề xã hội bức bách hiện nay (từ năm 1986 - 1995) [48], tác giả Trần
Đồng đã trình bày khái niệm, nhiệm vụ, vai trò của chính sách xã hội; cơ sở đề
ra chính sách xã hội của Đảng và Nhà nước ta hiện nay; một số vấn đề xã hội
cấp bách cần giải quyết trên lĩnh vực xóa đói giảm nghèo, lao động và việc
làm, chăm sóc sức khỏe nhân dân,…; thực trạng và giải pháp nâng cao hiệu
quả chính sách xã hội trong giai đoạn cách mạng mới.
Nguyễn Văn Nhớn với đề tài Ảnh hưởng của chính sách xã hội đối với
việc nâng cao vai trò của nhân tố con người trong sự nghiệp đổi mới theo định
hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay [114], đã làm rõ vai trò của nhân tố
con người trong chủ nghĩa xã hội và trong sự nghiệp đổi mới theo định hướng
xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam; ảnh hưởng của chính sách xã hội đối với việc
nâng cao vai trò của nhân tố con người trong sự nghiệp đổi mới ở nước ta.
Bàn về Chính sách xã hội và đổi mới cơ chế quản lý việc thực hiện [63],
Trần Đình Hoan (chủ biên), đã trình bày những nội dung cơ bản về chính sách
xã hội ở nước ta và sự cần thiết phải đổi mới cơ chế quản lý trong việc thực
hiện chính sách xã hội nhằm nâng cao tính hiệu quả của nó trong việc giải
quyết các vấn đề xã hội cấp bách của con người.
Phân tích những luận cứ khoa học và giải pháp cho việc đổi mới chính
sách xã hội, phát triển xã hội và quản lý phát triển xã hội ở nước ta, trong cuốn
sách Đổi mới chính sách xã hội - Luận cứ và giải pháp [106], tác giả Phạm

Xuân Nam (Chủ biên) đã đưa ra một số vấn đề lý luận và phương pháp luận về
chính sách xã hội. Đánh giá thực trạng biến đổi cơ cấu xã hội, phân tầng xã hội
và việc thực hiện các chính sách xã hội trong điều kiện chuyển từ nền kinh tế


12
kế hoạch hóa tập trung quan liêu, bao cấp sang nền kinh tế hàng hóa nhiều
thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước, theo
định hướng xã hội chủ nghĩa. Ngoài ra, các tác giả còn dự báo xu hướng vận
động của các quá trình trên, đề xuất những kiến nghị về quan điểm và giải pháp
cho việc đổi mới chính sách xã hội và cơ chế quản lý việc thực hiện chính sách
xã hội của Đảng và Nhà nước trong giai đoạn 1996 - 2000. Đặc biệt, các tác giả
cũng phân tích một số chính sách xã hội phổ biến: chính sách dân số, chính
sách lao động và việc làm, chính sách bảo đảm xã hội, chính sách xã hội nhằm
bảo đảm an ninh xã hội, phòng chống tội phạm và tệ nạn xã hội; chính sách đối
với các giai tầng xã hội: chính sách đối với giai cấp công nhân, chính sách đối
với giai cấp nông dân, chính sách phát huy năng lực lao động sáng tạo của trí
thức và sinh viên, chính sách đối với tầng lớp chủ doanh nghiệp tư nhân; chính
sách xã hội đối với các giới đồng bào: chính sách đối với thanh niên, chính
sách đối với phụ nữ và gia đình, chính sách đối với các dân tộc thiểu số, chính
sách tôn giáo.
Trong đề tài Những vấn đề xã hội cần được giải quyết ở nông thôn ngoại
vi một số thị xã miền núi phía Bắc nước ta trong quá trình cải cách kinh tế
[144], bằng một hệ thống những số liệu cụ thể và sinh động, tác giả Nguyễn Từ
đã khái quát được nhiều vấn đề bức xúc trong bức tranh xã hội ở khu vực miền
núi phía Bắc, đó là: Tệ nạn xã hội và tội phạm, sự phân hóa giàu nghèo, trình
độ dân trí của người dân, những hủ tục lạc hậu trong văn hóa,… Qua đó, tác giả
cũng đã nêu lên những giải pháp toàn diện để giải quyết các vấn đề xã hội bức
xúc ở nông thôn ngoại vi một số thị xã miền núi phía Bắc nước ta trong quá
trình cải cách kinh tế.

Nguyễn Thị Thanh với đề tài Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo thực
hiện chính sách xã hội trong thời kỳ đổi mới (1986 - 1991) [134] và đề tài
Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo thực hiện chính sách xã hội từ năm 1991
đến năm 2001 [135] đã trình bày nội dung và vai trò của chính sách xã hội
trong xây dựng đất nước; quá trình thực hiện chính sách xã hội trong thời kỳ


13
đổi mới về lao động và việc làm, xóa đói giảm nghèo, ưu đãi đối với người có
công với cách mạng. Tác giả phân tích làm rõ một số kinh nghiệm trong thực
hiện chính sách xã hội như: Đổi mới nhận thức về vai trò của chính sách xã hội,
chú trọng phương châm xã hội hóa việc thực hiện chính sách xã hội, kết hợp
chặt chẽ giữa tăng trưởng kinh tế với tiến bộ và công bằng xã hội, giải quyết
đúng đắn về mối quan hệ giữa chính sách kinh tế với chính sách xã hội.
Đề tài Tác động của kinh tế Nhà nước nhằm góp phần xóa đói giảm nghèo
trong quá trình đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nông thôn đồng bằng
Bắc bộ [104], tác giả Ngô Quang Minh đã khái quát tình trạng đói nghèo của cư
dân nông thôn vùng đồng bằng Bắc bộ, nêu lên những thành tựu và hạn chế
trong công tác xóa đói giảm nghèo. Ngoài ra, tác giả còn đưa ra những giải pháp
cơ bản nhằm tiếp tục phát huy vai trò của kinh tế nhà nước trong tham gia xóa
đói, giảm nghèo ở khu vực nông thôn đồng bằng Bắc bộ.
Đề tài Mối quan hệ giữa sự phát triển kinh tế và việc giải quyết các vấn đề
xã hội ở vùng nông thôn các tỉnh Bắc Trung bộ trong công cuộc đổi mới ở
nước ta hiện nay [40]. Dưới góc độ triết học, tác giả Đinh Thế Định đã phân
tích sâu sắc những vấn đề lý luận về phát triển hài hòa, phát triển bền vững ở
vùng nông thôn các tỉnh Bắc Trung bộ. Từ cách tiếp cận này, tác giả cũng đã
phân tích một cách toàn diện những vấn đề xã hội bức xúc nảy sinh trong quá
trình phát triển kinh tế - xã hội ở khu vực này và nêu lên những giải pháp cơ
bản nhằm hướng đến sự phát triển bền vững ở nông thôn Bắc Trung bộ.
Tác giả Lê Thị Liên trong bài viết Suy nghĩ từ những lời dặn của Chủ tịch

Hồ Chí Minh đối với thương binh, liệt sĩ trong Di chúc [7] đã phân tích quan
điểm của Người thể hiện tinh thần nhân văn cách mạng đối với những người đã
hy sinh cho nền độc lập tự do của Tổ quốc. Qua đó, bài viết khẳng định giá trị
tư tưởng Hồ Chí Minh về chính sách xã hội đối với người có công với cách
mạng trong việc hoạch định và thực thi chính sách đối với họ của sự nghiệp
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay. Bài viết là tài liệu tham khảo cho luận án


14
về quan điểm Hồ Chí Minh đối với gia đình có công với cách mạng và sự vận
dụng của Đảng ta trong giai đoạn hiện nay.
Ngoài ra, trong bài viết Thực hiện Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh đối
với thương binh, liệt sĩ và người có công với cách mạng - Bốn mươi năm nhìn
lại [71], tác giả Nguyễn Hữu Chí tiếp tục khẳng định Chủ tịch Hồ Chí Minh là
người khởi xướng phong trào đền ơn đáp nghĩa. Suốt cả cuộc đời Người đã
dành tình cảm đặc biệt cho thương bệnh binh và gia đình liệt sĩ. Bên cạnh đó,
tác giả bài viết cũng khẳng định sau 40 năm thực hiện Di chúc của Chủ tịch Hồ
Chí Minh, Đảng và Nhà nước ta đã quán triệt sâu sắc lời căn dặn của Người
thông qua những chủ trương, chính sách đối với thương bệnh binh và gia đình
có công với cách mạng.
Bài viết Đảng và Nhà nước thực hiện Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh
trên lĩnh vực xóa đói giảm nghèo [7] của tác giả Lê Văn Tích đã khẳng định Di
chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh là điểm tựa vững chắc và giữ vai trò định hướng
cho Đảng, Nhà nước ta hoạch định đường lối, chính sách xóa đói giảm nghèo.
Ngoài ra, bài viết còn trình bày những kết quả đáng ghi nhận sau 40 năm thực
hiện Di chúc của Đảng và Nhà nước ta trên lĩnh vực xóa đói, giảm nghèo.
Trong cuốn sách Luận cứ và giải pháp phát triển xã hội và quản lý phát
triển xã hội ở nước ta thời kỳ đổi mới [6], Hoàng Chí Bảo (Chủ biên), đã cung
cấp những nội dung quan trọng về vấn đề phát triển xã hội và quản lý phát triển
xã hội như là một trong những trục định hướng cơ bản của sự nghiệp đổi mới.

Cuốn sách là sự tập hợp các bài viết về những vấn đề phương pháp luận và cơ
sở lý luận của phát triển xã hội, quản lý phát triển xã hội; lý thuyết và mô hình
phát triển xã hội, quản lý phát triển xã hội của một số nước trên thế giới Những tham khảo cho Việt Nam; biến đổi xã hội và quản lý phát triển xã hội
trên một số lĩnh vực chủ yếu ở nước ta hiện nay; những nhân tố tác động,
quan điểm định hướng và hệ giải pháp phát triển xã hội ở nước ta đến năm
2020. Đặc biệt, trong cuốn sách có một số bài viết đề cập đến một số nội dung
liên quan đến chính sách xã hội và một số kinh nghiệm của Đảng ta về lãnh


15
đạo thực hiện chính sách xã hội qua 25 năm đổi mới (1986-2010), như bài
viết của tác giả Đoàn Minh Huấn và Nguyễn Thị Ngọc Mai. Trên cơ sở phân
tích, đánh giá chính sách xã hội thời kỳ trước đổi mới và nhu cầu đổi mới tư
duy lý luận về giải quyết các vấn đề xã hội, quá trình đổi mới tư duy lý luận
của Đảng về chính sách xã hội trong 25 năm đổi mới, bài viết trình bày một
số kinh nghiệm của Đảng về lãnh đạo thực hiện chính sách xã hội qua 25 năm
đổi mới như: Nhận thức đầy đủ vai trò của chính sách xã hội đối với nhu cầu
định hình giá trị xã hội chủ nghĩa trong quá trình đổi mới; xử lý đúng đắn mối
quan hệ giữa phát huy vai trò nòng cốt của Nhà nước và mở ra khả năng xã
hội hóa trong thực hiện các chính sách xã hội; giải quyết đúng đắn mối quan
hệ giữa chính sách kinh tế với chính sách xã hội.
Vấn đề giải quyết việc làm đã được tác giả Phạm Đức Kiên đề cập trong
bài viết Từ quan điểm, chủ trương đến kết quả giải quyết việc làm trong 25
năm thực hiện đường lối đổi mới” [77]. Tác giả khẳng định giải quyết việc làm
là yếu tố cực kỳ quan trọng để phát huy nhân tố con người, ổn định và phát
triển kinh tế nên cần được đặt trong tổng thể chính sách phát triển kinh tế - xã
hội. Ngoài ra, tác giả còn nêu lên một số kết quả đạt được trong việc gắn phát
triển kinh tế với giải quyết việc làm. Từ thực trạng đó, tác giả bài viết nêu lên
một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả việc giải quyết việc làm ở nước ta
trong thời gian tới.

Nhằm đánh giá kết quả thực hiện chính sách xã hội trong thời kỳ đổi mới,
tác giả Đinh Xuân Lý với cuốn sách Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo thực
hiện chính sách xã hội trong 25 năm đổi mới (1986 - 2011) [84] đã phân tích
cơ sở hình thành chủ trương, chính sách xã hội của Đảng ta trong 25 năm đổi
mới và kết quả quá trình thực hiện chính sách xã hội về lao động và việc làm,
xóa đói giảm nghèo, bảo hiểm xã hội, ưu đãi người có công với cách mạng, bảo
trợ xã hội, phòng chống tệ nạn xã hội. Bên cạnh đó, cuốn sách bước đầu đánh
giá sự lãnh đạo và nêu một số kinh nghiệm từ quá trình lãnh đạo của Đảng đối
với lĩnh vực xã hội ở nước ta. Bài học kinh nghiệm về sự cần thiết phải nhận


16
thức đúng vị trí, vai trò của chính sách xã hội trong tổng thể đường lối của
Đảng về kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội; cần quán triệt quan điểm về sự
thống nhất giữa chính sách kinh tế và chính sách xã hội; cần thường xuyên
nâng cao năng lực và hiệu quả lãnh đạo của Đảng đối với phát triển xã hội.
Tác giả Nguyễn Thị Thơm trong bài viết Xóa đói giảm nghèo bằng chính
sách hỗ trợ phát triển sản xuất hàng hóa cho vùng nghèo [138] đã khẳng định
xóa đói, giảm nghèo là một chủ trương lớn của Đảng, Nhà nước ta trong quá
trình đổi mới và thực hiện các mục tiêu thiên niên kỷ. Để thực hiện chủ trương
này, Đảng và Nhà nước đã đề ra một hệ thống chính sách, trong đó có nhóm
chính sách về hỗ trợ phát triển sản xuất cho hộ nghèo, vùng nghèo. Bài viết
cũng trình này những kết quả đạt được trong công tác xóa đói, giảm nghèo
bằng chính sách hỗ trợ phát triển sản xuất hàng hóa cho vùng nghèo của Đảng
và Nhà nước ta trong những năm gần đây và đề ra một số khuyến nghị đối với
những tồn tại về vấn đề này.
Cuốn sách Chính sách xóa đói giảm nghèo. Thực trạng và giải pháp [85],
tác giả Lê Quốc Lý đưa ra một số vấn đề lý luận về xóa đói, giảm nghèo;
những chủ trương, đường lối của Đảng và chính sách của Nhà nước về xóa đói,
giảm nghèo; thực trạng đói nghèo ở Việt Nam; một số cơ chế nhằm thực hiện

có hiệu quả chính sách xóa đói, giảm nghèo của Việt Nam và giải pháp xóa đói,
giảm nghèo ở Việt Nam thời gian tới. Đặc biệt, cuốn sách còn nêu lên những
chủ trương, đường lối và chính sách của Đảng, Nhà nước về xóa đói, giảm
nghèo thời kỳ đổi mới đất nước.
Luận giải Một số vấn đề cơ bản về chính sách xã hội ở Việt Nam hiện nay
[17], tác giả Mai Ngọc Cường (Chủ biên) giới thiệu một cách khái quát về đặc
điểm, mục tiêu, nguyên tắc và quá trình thực hiện chính sách xã hội, cũng như
hệ thống các chính sách xã hội phổ biến ở các nước và những nội dung có khả
năng vận dụng để xây dựng ở nước ta. Ngoài ra, cuốn sách còn đề cập đến
những thành tựu đạt được và những hạn chế, vướng mắc của chính sách xã hội
dưới góc độ các lĩnh vực về thu nhập, giảm nghèo và an sinh xã hội; chính sách


17
việc làm; chính sách cung ứng các dịch vụ xã hội cơ bản, cung ứng các dịch vụ
xã hội cá nhân; chính sách đối với người có công; chính sách bình đẳng giới.
Trên cơ sở đó, tác giả đã đề ra những giải pháp và một số khuyến nghị về xây
dựng hệ thống chính sách xã hội ở Việt Nam những năm tới.
Trong bài viết An sinh xã hội cho nông dân trong thời kỳ đẩy mạnh công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước [73], tác giả Đông Thị Hồng luận giải về vai
trò của an sinh xã hội với nông dân Việt Nam trong thời kỳ đẩy mạnh công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước; thực trạng chính sách an sinh xã hội cho
nông dân trong những năm qua và đề ra một số giải pháp nhằm tăng cường an
sinh xã hội cho nông dân giai đoạn hiện nay.
Bài viết An sinh xã hội cho người cao tuổi ở nước ta hiện nay: chính
sách và thực tiễn [145], tác giả Nguyễn Đình Tuấn và Phạm Thị Tính đã phân
tích một số chính sách và thực tiễn về an sinh xã hội cho người cao tuổi ở
nước ta hiện nay nhằm làm rõ hơn các quan điểm, chủ trương, chính sách của
Đảng và Nhà nước ta về chính sách an sinh xã hội cho người cao tuổi, cũng
như phân tích thực trạng an sinh xã hội cho người cao tuổi ở nước ta hiện nay.

Qua bài viết Công tác xóa đói giảm nghèo tại vùng miền núi Đông Bắc
Việt Nam giai đoạn 2001-2010 [141], tác giả Hoàng Thu Thủy đã có những
đánh giá về quá trình thực hiện công tác xóa đói, giảm nghèo tại các tỉnh miền
núi Đông Bắc Việt Nam giai đoạn 2001 - 2010 và đưa ra một số bài học kinh
nghiệm trong công tác xóa đói giảm nghèo đối với vùng này.
Bài viết Một năm thực hiện Nghị quyết số 15-NQ/TW một số vấn đề về
chính sách xã hội giai đoạn 2012-2020: Cơ hội và thách thức [25] của Nguyễn
Trọng Đàm khái quát về những thành tựu và hạn chế thực hiện chính sách xã
hội. Trong đó, bài viết chia chính sách xã hội thành hai nhóm: chính sách ưu
đãi người có công với cách mạng và chính sách an sinh xã hội. Bài viết cũng
chỉ ra những cơ hội và thách thức đối với nước ta khi thực hiện chính sách xã
hội trong những năm tiếp theo.


18
Trong cuốn Một số lý thuyết về phát triển xã hội và quản lý phát triển xã
hội [132] của tác giả Ngô Ngọc Thắng, Đoàn Minh Huấn (Đồng chủ biên), đã
trình bày một số lý thuyết về phát triển xã hội, quản lý phát triển xã hội như lý
thuyết về di dân; lý thuyết về hệ thống và lý thuyết cấu trúc - chức năng; lý
thuyết về vốn phi tài chính; lý thuyết về xã hội dân sự; lý thuyết về rủi ro xã hội
và quản trị rủi ro xã hội; lý thuyết về an sinh xã hội và những vận dụng cho
việc xây dựng sàn an sinh xã hội ở Việt Nam hiện nay.
Khẳng định chính sách an sinh xã hội giữ vai trò đặc biệt quan trọng trong
việc duy trì sự ổn định và phát triển bền vững về chính trị, kinh tế, văn hóa, tác
giả Nguyễn Văn Chiều với cuốn sách Chính sách an sinh xã hội và vai trò của
Nhà nước trong việc thực hiện chính sách an sinh xã hội ở Việt Nam [9] đã
trình bày một cách có hệ thống những vấn đề lý luận và thực tiễn về chính sách
an sinh xã hội; vai trò của Nhà nước trong việc thực hiện chính sách an sinh xã
hội; kinh nghiệm thực hiện chính sách an sinh xã hội của một số nước trên thế
giới và thực trạng chính sách an sinh xã hội ở Việt Nam trong gần 30 năm thực

hiện đường lối đổi mới đất nước; đề xuất phương hướng và những giải pháp
nâng cao vai trò của Nhà nước trong việc thực hiện chính sách an sinh xã hội ở
Việt Nam hiện nay. Cuốn sách là tài liệu tham khảo về giải pháp kiện toàn bộ
máy cơ quan các cấp về quản lý, điều hành việc thực hiện chính sách xã hội.
Ngô Ngọc Thắng trong bài viết Chính sách an sinh xã hội trong bối cảnh
tái cấu trúc mô hình tăng trưởng [131] khẳng định chính sách an sinh xã hội là
một bộ phận quan trọng của chính sách xã hội, nằm trong chiến lược phát triển
kinh tế và xã hội của đất nước. Do vậy, việc xây dựng và tổ chức việc thực hiện
các chính sách an sinh xã hội vừa là mục tiêu, vừa là động lực để ổn định chính
trị - xã hội, hướng đến sự phát triển bền vững, lâu dài.
Trong bài viết Thực hiện Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh về chính
sách với người có công [119], tác giả Nguyễn Trọng Phúc trình bày nội dung
quan điểm Hồ Chí Minh về chính sách đối với người có công với nước. Thực
hiện Di chúc của Người, Đảng, Nhà nước và đồng bào cả nước đã chăm lo ưu


19
đãi người có công với tất cả sự quý trọng, lòng biết ơn sâu sắc. Để thực hiện
chính sách với người có công, Đảng và Nhà nước đã phát huy vai trò của hệ
thống chính trị, huy động nguồn lực của toàn dân, toàn xã hội. Việc thực hiện
chính sách với người có công phải được đặt trong tổng thể các chính sách xã
hội, giải quyết các vấn đề xã hội và chú trọng phát triển kinh tế, tạo cơ sở vững
chắc cho thực hiện chính sách xã hội và chính sách đối với người có công.
Nghiên cứu sự vận dụng, học tập và làm theo lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí
Minh về chính sách chăm sóc và bảo vệ sức khỏe nhân dân có các bài viết Tư
tưởng Hồ Chí Minh với y học Việt Nam trong thời kỳ đổi mới đất nước của
Hoàng Đình Cầu, Một số vấn đề xây dựng ngành y tế theo tư tưởng Hồ Chí
Minh của Phạm Hồng Chương, Quán triệt tư tưởng Hồ Chí Minh vào việc xây
dựng và phát triển nền y tế Việt Nam trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại
hóa đất nước của Phạm Duy Đức, Xã hội hóa y tế ở nước ta sau gần 30 năm

nhìn lại của Đào Văn Phương, Tăng cường đầu tư kết cấu hạ tầng hệ thống
khám, chữa bệnh để nâng cao chất lượng dịch vụ khám, chữa bệnh, chăm sóc
sức khỏe nhân dân của Nguyễn Thị Kim Tiến [20]. Nội dung các bài viết luận
giải về sự cần thiết phải thực hiện chính sách chăm sóc, bảo vệ sức khỏe nhân
dân thông qua công tác xây dựng và phát triển ngành y tế Việt Nam theo tư
tưởng Hồ Chí Minh.
Luận giải về tính tất yếu phải Thực hiện tư tưởng Hồ Chí Minh về công
bằng xã hội trong thời kỳ đổi mới [127], tác giả Nguyễn Hồng Sơn khẳng định
tư tưởng Hồ Chí Minh về công bằng xã hội có giá trị khoa học và nhân bản sâu
sắc, là sự kế thừa và phát triển những tư tưởng tiến bộ về công bằng xã hội,
dưới ánh sáng thế giới quan, phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin và
những giá trị căn cốt của truyền thống văn hóa, đạo lý dân tộc, có ý nghĩa lý
luận và thực tiễn, là cơ sở, kim chỉ nam cho hoạt động cách mạng của toàn
Đảng và toàn dân ta trong công cuộc xây dựng xã hội mới, công bằng, dân chủ,
văn minh. Thực hiện tư tưởng Hồ Chí Minh về công bằng xã hội, qua tổng kết
thực tiễn và nghiên cứu lý luận thời kỳ đổi mới, Đảng và Nhà nước ta đã có


20
nhận thức sâu sắc, toàn diện hơn về công bằng xã hội và đạt được nhiều thành
tựu nhất định. Ngoài ra, bài viết cũng chỉ ra một số hạn chế trong việc thực
hiện công bằng xã hội và đề ra một số giải pháp cơ bản nhằm tiếp tục phát huy
thành tựu đạt, khắc phục hạn chế thực hiện công bằng xã hội ở nước ta thời
gian tới.
Qua bài viết Thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội theo tư tưởng Hồ Chí
Minh [116], tác giả Trần Văn Phòng, Lê Thị Hạnh khẳng định trong quá trình
đổi mới, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn nhận thức, vận dụng tư tưởng Hồ Chí
Minh để giải quyết mối quan hệ giữa phát triển kinh tế với thực hiện tiến bộ và
công bằng xã hội như là một trong những giải pháp quan trọng để giữ vững
định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta.

Bàn về chính sách an sinh xã hội, trong cuốn sách Chính sách an sinh xã
hội. Thực trạng và giải pháp [86] do tác giả Lê Quốc Lý (Chủ biên) tập trung
làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn về những trở ngại trong thực thi chính sách an
sinh xã hội; những trở ngại trong thực thi các chính sách an sinh xã hội ở nước
ta những năm gần đây qua đánh giá của nhóm cán bộ thực thi và đối tượng thụ
hưởng chính sách; mục tiêu, quan điểm và giải pháp thực thi hiệu quả chính
sách an sinh xã hội ở Việt Nam đến năm 2020. Trong đó, cuốn sách có làm rõ
giải pháp về đổi mới tư duy, tăng cường nghiên cứu lý luận về an sinh xã hội;
về nâng cao nhận thức, kỹ năng, đạo đức của cán bộ thực thi chính sách an sinh
xã hội.
Tiếp tục bàn về chính sách an sinh xã hội, tác giả Phạm Xuân Nam làm rõ
Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về an sinh xã hội và phúc lợi xã hội
[107]. Thông qua bài viết, tác giả cũng đưa ra một số nội dung của hệ thống an
sinh xã hội và phúc lợi xã hội trong các quốc gia phát triển và đang phát triển
trên thế giới. Theo đó, cần chủ động “phòng ngừa rủi ro” cho tuyệt đại đa số
người dân trong xã hội; “giảm thiểu rủi ro” cho những đối tượng có liên quan
cần được xem xét kỹ và giải quyết chu đáo về cả hai phương diện xã hội và tự
nhiên; lập ra quỹ “khắc phục rủi ro” cho những người không có khả năng lao


21
động; bảo đảm an sinh xã hội và phúc lợi xã hội đòi hỏi phải có một nền kinh tế
tăng trưởng nhanh, hiệu quả cao và bền vững, cũng như có một nền văn hóa
thấm nhuần sâu sắc tinh thần nhân văn, dân chủ và tiến bộ.
Qua bài viết Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về con người với tư
cách là đối tượng phục vụ của chính sách xã hội trong thời kỳ đổi mới [117],
tác giả Trần Văn Phòng và Nguyễn Thị Hoàng đã chỉ ra sự phát triển về chất
trong quá trình đổi mới nhận thức về con người trong chính sách xã hội của
Đảng, Nhà nước ta. Bài viết phân tích trước đổi mới, chúng ta chỉ mới khẳng
định con người là chủ thể thực thi chính sách xã hội, nhưng ttong thời kỳ đổi

mới, Đảng và Nhà nước ta không chỉ coi con người là chủ thể thực thi chính
sách xã hội mà còn là đối tượng phục vụ của chính sách xã hội.
Nguyễn Mai Phương với bài viết Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về an
sinh xã hội ở Việt Nam hiện nay [121] đi sâu phân tích, luận giải an sinh xã hội
chính là lưới an toàn xã hội với nhiều tầng, nấc khác nhau để bảo vệ, trợ giúp
các thành viên trong xã hội trước những rủi ro trong cuộc sống, các cú sốc về
kinh tế - xã hội làm cho họ mất đi nguồn sinh kế rơi vào cảnh nghèo khổ, bần
cùng hóa. Việc trợ giúp được thực hiện thông qua các chính sách thuộc hệ
thống an sinh xã hội như: xóa đói, giảm nghèo, bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế,
trợ giúp xã hội và ưu đãi xã hội. Do vậy, thực hiện và bảo đảm an sinh xã hội
được Đảng, Nhà nước ta đặc biệt quan tâm.
Khẳng định chính sách an sinh xã hội giữ vai trò quan trọng trong giải
quyết các vấn đề xã hội, tác giả Nguyễn Văn Chiều tiếp cận bài viết Một số vấn
đề về quyền an sinh xã hội [10] nhằm khẳng định quyền an sinh xã hội trong
nhà nước pháp quyền là một trong những vấn đề quan trọng. Mức độ xác lập và
thực hiện quyền an sinh xã hội phản ánh mức độ giải phóng con người của các
nhà nước trong lịch sử. Hiện nay, quyền an sinh xã hội là kết quả của sự liên
kết có tính toàn cầu và được quốc tế hóa. Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa Việt Nam đã ghi nhận và xác lập những biện pháp cụ thể nhằm đảm bảo


×