Tải bản đầy đủ (.pdf) (54 trang)

Tìm hiểu hiệu quả sử dụng của các từ ngữ chuyển trường nghĩa trong các văn bản tập đọc lớp 4

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (904.04 KB, 54 trang )

TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA GIÁO DỤC TIỂU HỌC

LÊ THỊ THÁI

TÌM HIỂU HIỆU QUẢ SỬ DỤNG CỦA CÁC
TỪ NGỮ CHUYỂN TRƢỜNG NGHĨA
TRONG CÁC VĂN BẢN TẬP ĐỌC LỚP 4

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Phƣơng pháp dạy học Tiếng Việt

HÀ NỘI - 2017


LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành đề tài này tôi xin tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến cô giáo
hướng dẫn khóa luận TS. Phạm Thị Hòa đã tận tình hướng dẫn tôi trong
suốt quá trình thực hiện khóa luận.
Tôi xin chân thành cảm ơn quý thầy cô trong khoa Giáo dục Tiểu học
- Trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2 đã tạo điều kiện cho tôi hoàn thành
khóa luận này
Khóa luận được hoàn thành song không tránh khỏi những thiếu sót,
hạn chế. Tôi rất mong nhận được những ý kiến đóng góp từ phía thầy cô và
các bạn sinh viên để đề tài nghiên cứu của chúng tôi tiếp tục được hoàn
thành.
Tôi xin chân thành cảm ơn.
Hà Nội, tháng 4 năm 2017
Ngƣời thực hiện
Lê Thị Thái



LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của tôi, có sự hỗ trợ
của Giáo viên hướng dẫn TS. Phạm Thị Hòa. Các nội dung nghiên cứu và
kết quả trong đề tài này là trung thực chưa từng được ai công bố trong bất
cứ công trình nghiên cứu nào trước đây.
Nếu sai, tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm.
Hà Nội, tháng 4 năm 2017
Ngƣời thực hiện
Lê Thị Thái


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ...................................................................................................... 1
1. Lý do chọn đề tài ....................................................................................... 1
2. Lịch sử vấn đề ........................................................................................... 2
3. Mục đích nghiên cứu ................................................................................. 3
4. Nhiệm vụ nghiên cứu ................................................................................ 4
5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu............................................................. 4
6. Phương pháp nghiên cứu........................................................................... 4
7. Cấu trúc khóa luận .................................................................................... 4
NỘI DUNG................................................................................................... 5
Chƣơng 1. CƠ SỞ LÝ THUYẾT VÀ THỰC TIỄN ................................. 5
1.1. Lý thuyết chung về trường nghĩa ........................................................... 5
1.1.1. Khái niệm trường nghĩa ...................................................................... 5
1.1.2. Vấn đề phân lập trường ....................................................................... 7
1.2. Các loại trường nghĩa ............................................................................. 7
1.2.1. Trường nghĩa dọc (trường biểu vật và trường biểu niệm) .................. 7
1.2.2. Trường nghĩa ngang (trường tuyến tính) .......................................... 12
1.2.3. Trường liên tưởng ............................................................................. 13

1.3. Hiện tượng chuyển trường nghĩa ......................................................... 14
1.3.1. Khái niệm .......................................................................................... 14
1.3.2. Tác dụng của hiện tượng chuyển trường nghĩa ................................ 16
1.4. Đặc điểm học sinh lớp 4 và hoạt động dạy từ ngữ theo trường nghĩa
cho học sinh lớp 4 tại trường Tiểu học Hùng Vương ................................. 17
1.4.1. Đặc điểm học sinh lớp 4.................................................................... 17
1.4.2. Hoạt động dạy từ ngữ theo trường nghĩa cho học sinh lớp 4 tại
trường Tiểu học Hùng Vương ..................................................................... 19
1.5. Tiểu kết chương 1................................................................................. 20


Chƣơng 2. HIỆU QUẢ SỬ DỤNG CỦA TỪ NGỮ CHUYỂN
TRƢỜNG NGHĨA TRONG CÁC VĂN BẢN TẬP ĐỌC LỚP 4 ........ 22
2.1. Khảo sát các từ ngữ chuyển trường nghĩa trong các văn bản tập đọc lớp 4. 22
2.1.1. Kết quả khảo sát ................................................................................ 22
2.1.2. Nhận xét ............................................................................................ 29
2.2. Hiệu quả của việc sử dụng từ ngữ chuyển trường nghĩa ..................... 30
2.2.1. Hiện tượng chuyển trường nghĩa từ trường con người sang trường
động vật ....................................................................................................... 31
2.2.2. Hiện tượng chuyển trường nghĩa từ trường con người sang trường
thiên nhiên ................................................................................................... 36
2.2.3. Hiện tượng chuyển trường nghĩa từ trường con người sang trường đồ vật ... 40
2.2.4. Hiện tượng chuyển trường nghĩa từ trường con người sang trường
thực vật ........................................................................................................ 43
2.2.5. Hiện tượng chuyển trường từ trường thiên nhiên sang trường con người... 46
2.3. Tiểu kết chương 2................................................................................. 46
KẾT LUẬN ................................................................................................ 47
TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................................................ 49



MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Tiếng Việt có vai trò cực kì quan trọng đối với đời sống cộng đồng và
đời sống mỗi con người. Đối với đời sống cộng đồng đó là công cụ để giao
tiếp, tư duy. Đối với con người, đặc biệt là trẻ em nó càng có vai trò quan
trọng hơn. Do vậy Tiếng Việt đã trở thành một môn học được giảng dạy
trong nhà trường và đặc biệt được quan tâm hơn ở cấp tiểu học. Môn Tiếng
Việt ở tiểu học bước đầu cung cấp cho học sinh các kiến thức sơ giản, cần
thiết bao gồm: ngữ âm, chữ viết, ngữ pháp, từ vựng - ngữ nghĩa, chính tả.
Trên cơ sở đó giúp học sinh rèn luyện các kĩ năng: Nghe - Nói - Đọc - Viết,
nhằm giúp học sinh sử dụng Tiếng Việt có hiệu quả ngay cả trong suy nghĩ
và các hoạt động giao tiếp. Môn Tiếng Việt góp phần rèn luyện các thao tác
tư duy; bồi dưỡng tình yêu Tiếng Việt; hình thành thói quen giữ gìn sự
trong sáng, giàu đẹp của môn Tiếng Việt; góp phần hình thành nhân cách
con người Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Trong dạy học Tiếng Việt ở trường Tiểu học nói chung, dạy học Tập
đọc nói riêng có vị trí vô cùng quan trọng trong hình thành và phát triển
nhân cách cho học sinh. Nói đến bậc Tiểu học là nền tảng để học sinh có
điều kiện học tiếp lên các bậc học cao hơn thì dạy Tập đọc có vị trí then
chốt để học sinh có kĩ năng sử dụng tốt tiếng mẹ đẻ, trau dồi ngôn ngữ, bồi
dưỡng vốn kiến thức về đời sống, giúp các em có cơ hội học tốt các môn
học khác.
Hiện tượng chuyển trường nghĩa là một hiện tượng khá đặc biệt trong
sử dụng ngôn ngữ. Nó tạo ra những giá trị biểu đạt mới cho từ, theo nó tạo
ra nhiều liên tưởng bất ngờ về ý nghĩa cho câu và văn bản. Hiện tượng này
khi xuất hiện một cách tập trung và có chủ ý sẽ khiến cho cuộc giao tiếp
ngôn ngữ mang một sắc thái khác lạ. Việc sử dụng từ vựng chuyển đổi

1



trường nghĩa là một trong những cách thức độc đáo và hiệu quả. Có thể nói
chuyển đổi trường nghĩa từ vựng có thể được coi là một biện pháp tu từ
hiệu quả trong sáng tác văn chương.
Trong các bài tập đọc lớp 4, nhiều tác giả đã sử dụng từ chuyển trường
nghĩa trong bài. Mặc dù ở lớp 4 vốn từ vựng của học sinh khá nhiều, tuy
nhiên để hiểu được ý nghĩa cũng như hiệu quả sử dụng của nó trong các bài
tập đọc còn hạn chế. Việc nhận biết được hiệu quả sử dụng của các từ
chuyển trường nghĩa sẽ giúp học sinh biết cách sử dụng từ ngữ trong giao
tiếp tốt hơn và sử dụng chúng như thế nào cho hiệu quả nhất.
Từ những lý do trên, chúng tôi chọn đề tài: “Tìm hiểu hiệu quả sử
dụng của các từ ngữ chuyển trường nghĩa trong các văn bản Tập đọc lớp 4”
2. Lịch sử vấn đề
Hiện tượng chuyển trường nghĩa là hiện tượng diễn ra phổ biến trong
các tác phẩm văn chương cũng như hoạt động giao tiếp hằng ngày. Nhờ có
hiện tượng này lên việc thể hiện tư tưởng, tình cảm, thái độ của con người
trong giao tiếp nói chung trở nên sinh động và giàu giá trị gợi cảm.
Chính vì những tác dụng to lớn ấy, vấn đề chuyển trường nghĩa của từ
ngữ đã được nhiều nhà Việt ngữ học quan tâm nghiên cứu. Người đi tiên
phong trong lĩnh vực này là Giáo sư Đỗ Hữu Châu. Trong giáo trình Từ
vựng - ngữ nghĩa Tiếng Việt tác giá đã nêu lên những quy luật cơ bản của
hiện tượng chuyển trường nghĩa. Đó là các từ trong một trường biểu vật
thường lôi léo nhau chuyển nghĩa theo một hướng nhất định. Để chứng
minh cho điều này tác giả lấy ví dụ từ “lửa”. Từ này có thể chuyển sang
trường chỉ “tình cảm, trạng thái tâm lý” kéo theo các từ “hừng hực, nhen
nhóm, đốt…” cùng chuyển sang trường đó. Hoặc từ chỉ bộ phận con người
chuyển sang chỉ bộ phận của vật thể:
Ví dụ: Đầu → đầu sông, đầu núi

2



Tay → tay bầu, tay bí
Chân → chân bàn, chân mày, chân núi
Đã có nhiều tác giả nghiên cứu sự chuyển từ trường thực vật sang
trường con người:
Ví dụ: Quả → quả tim
Lá → lá phổi
Ngọn → ngọn tóc
Công trình nghiên cứu của Đỗ Hữu Châu đã mở màn cho hàng loạt
luận án tiến sĩ tiếp tục hướng nghiên cứu nói trên
Điển hình là Nguyễn Ngọc Trâm nghiên cứu hiện tượng chuyển
trường nghĩa của các từ chỉ trạng thái sinh lý sang trạng thái tâm lý: say
rượu → say tình; mê (ngấm thuốc mê) → mê nhau
Tác giả Phạm Thị Hòa lại nghiên cứu sự chuyển trường nghĩa của các
động từ biểu thị hành động vật lý sang hành động nói năng như: tâng bốc,
bới móc, vặn, chọc, kích…. trong “Ngôn ngữ số 5 - 2000”
Trên đây chính là một số đóng góp của các nhà nghiên cứu về hiện
tượng chuyển trường nghĩa trong từ vựng nói chung. Nhưng các tác giả chủ
yếu nghiên cứu khái quát lí luận chung, chỉ đưa ra một số trường hợp
chuyển trường nghĩa tiêu biểu chứ chưa đi vào văn bản cụ thể có sử dụng
hiện tượng chuyển trường nghĩa cũng như là hiệu quả sử dụng của nó
Qua đề tài này, người viết dựa vào lý luận chung áp dụng vào việc
nghiên cứu hiệu quả sử dụng của các từ ngữ chuyển trường nghĩa trong các
văn bản Tập đọc lớp 4
3. Mục đích nghiên cứu
Từ việc hướng dẫn học sinh nhận biết và phân tích được hiệu quả sử
dụng các từ ngữ chuyển trường nghĩa trong các văn bản của sách giáo khoa
Tiếng Việt 4 sẽ giúp học sinh tìm hiểu bài tập đọc tốt hơn, hiệu quả giờ dạy
học Tiếng Việt cao hơn.


3


4. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để thực hiện được mục đích nói trên, người viết phải thực hiện các
nhiệm vụ cụ thể sau:
- Tìm hiểu cơ sở lý thuyết và thực tiễn có liên quan đến đề tài.
- Khảo sát hiện tượng chuyển trường nghĩa trong các bài Tập đọc lớp 4.
- Phân tích để thấy được hiệu quả sử dụng của các từ ngữ chuyển
trường nghĩa trong các văn bản Tập đọc lớp 4.
5. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Hiệu quả sử dụng của các từ ngữ chuyển trường nghĩa trong các văn
bản Tập đọc lớp 4.
6. Phƣơng pháp nghiên cứu
- Phương pháp nghiên cứu lí luận
- Phương pháp khảo sát, thống kê, phân loai
- Phương pháp phân tích ngôn ngữ
- Phương pháp tổng hợp
7. Cấu trúc khóa luận
Ngoài phần Mở đầu và Kết luận, khoá luận gồm hai chương
Chương 1: Cơ sở lý thuyết và thực tiễn
Chương 2: Hiệu quả sử dụng của các từ ngữ chuyển trường nghĩa
trong các văn bản Tập đọc lớp 4

4


NỘI DUNG
Chƣơng 1

CƠ SỞ LÝ THUYẾT VÀ THỰC TIỄN
1.1. Lý thuyết chung về trƣờng nghĩa
1.1.1. Khái niệm trường nghĩa
Có rất nhiều các quan điểm khác nhau về trường nghĩa được các nhà
ngôn ngữ đưa ra, song tất cả đều dựa trên một nét chung, một nét cơ sở nào
đó để đưa ra một khái niệm đầy đủ về trường nghĩa
Năm 1896, M.Pokrovxkij viết: “Từ và ý nghĩa của chúng không tồn
tại tách rời nhau mà liên kết với nhau trong tư tưởng chúng ta thành những
nhóm nhất định. Cơ sở để tập hợp những nhóm như vậy là sự đồng nhất
hay đối lập giữa chúng về nghĩa. Chúng ta đã biết một cách tiên nghiệm
rằng: Các từ như vậy hoặc giống nhau hoặc song hành với nhau trong sự
biến đổi ý nghĩa và trong lịch sử của chúng, chúng ảnh hưởng lẫn nhau”.
Ở đây, M.Pokrovxkij đã đề cập đến sự liên tưởng nhất định giữa các từ
trong cùng một trường và cơ sở để xác lập, tập hợp những nhóm từ trong
cùng một trường là sự đồng nghĩa hay trái nghĩa và có liên quan đến nhau
về mặt ngữ nghĩa.”
Theo J.Trer: “Trong ngôn ngữ mỗi từ tồn tại trong một trường, giá trị
của nó do quan hệ với các từ khác trong trường quyết định, rằng trường là
hiện thực ngôn ngữ nằm giữa từ riêng lẻ với toàn bộ từ vựng”
Còn theo L.Weisgerber: “Các trường cấu tạo từ, mỗi từ trong một dãy
là trung tâm của một trường cấu tạo bằng một yếu tố thống nhất nói chung
có ý nghĩa giống nhau”. Theo tác giả cẫn phải tính đến các góc nhìn khác
nhau mà tác động giữa chúng sẽ cho kết quả là sự ngôn ngữ hóa một số lĩnh
vực nào đó trong cuộc sống.

5


Đến Fe.DeSaussure cho rằng: “Giá trị của bất kì yếu tố nào cũng do
yếu tố xung quanh quy định”. Ông đã chỉ ra hai dạng chung nhất của ngôn

ngữ: quan hệ dọc và quan hệ ngang. Từ đó có hai loại trường nghĩa: trường
nghĩa dọc và trường nghĩa ngang.
Ở Việt Nam, trường nghĩa cũng được rất nhiều tác giả quan tâm,
nghiên cứu như: Đỗ Hữu Châu, Nguyễn Thiện Giáp, Đỗ Việt Hùng,..
Trong đó, Đỗ Hữu Châu là người đi đầu trong việc đưa ra lý thuyết về
trường nghĩa cũng như những phạm trù ngôn ngữ liên quan đến trường
nghĩa. Ông cho rằng: “Do các từ có không ít sự đồng nhất về hình thức và
về ý nghĩa, căn cứ vào giữa cái chung, giữa các từ để tiến hành sự phân
lập toàn bộ từ của Tiếng Việt thành những hệ thống nhỏ hơn để đưa vào
trường nghĩa” [2, 169]. Hệ thống là tính chất hàn lâm về ngữ nghĩa của từ
vựng. Tuy nhiên, do quá lớn và phức tạp nên những liên hệ ngữ nghĩa trong
từ vựng không thể hiện ra một cách trực tiếp giữa các từ được lựa chọn
ngẫu nhiên. Chẳng hạn, hai từ “mặt trời” và “đôi dép” ngưới ta khó có thể
nhận ra sự khác biệt giữa chúng.
Do thế giới phản ánh vào ngôn ngữ mang tính tổng thể, liên tục, để
hiểu được nó chúng ta buộc phải chia cắt tổng thể thành những bộ phận nhỏ
hơn. Chia hệ thống từ vựng thành hệ thống nhỏ hơn dựa trên ngữ nghĩa
giữa các từ riêng lẻ thể hiện qua quan hệ giữa các tiểu hệ thống của chúng.
Quan điểm về trường nghĩa trong luận văn này chúng tôi lấy quan
điểm của Đỗ Hữu Châu làm cơ sở nghiên cứu. Mỗi tiểu hệ thống ngữ nghĩa
được gọi là một trường nghĩa. Đó là những tập hợp từ đồng nhất với nhau
về ngữ nghĩa [2,170]
Chính do sự phong phú và phức tạp khi nghiên cứu các vấn đề liên
quan đến trường nghĩa. Việc tìm ra một khái niệm trường nghĩa đầy đủ, trọn
vẹn vẫn đang là một vấn đề được đặt ra. Nhưng để phục vụ cho phạm vi

6


nghiên cứu hiện nay của các nhà ngôn ngữ đã thống nhất đưa ra một định

nghĩa chung có tính chất tương đối gần với các quan điểm đưa ra trước đó:
“Trường nghĩa là sự tập hợp các từ có sự đồng nhất nào đó về nghĩa”.
1.1.2. Vấn đề phân lập trường
Fe.DeSaussure trong giáo trình Ngôn ngữ học đại cương đã chỉ ra hai
dạng quan hệ: quan hệ ngang (quan hệ hình tuyến, quan hệ tuyến tính, quan
hệ ngữ đoạn) và quan hệ dọc (quan hệ trực tuyến và quan hệ hệ hình)
Theo hai dạng quan hệ đó có thể có hai loại trường nghĩa là trường
nghĩa dọc (trường nghĩa trực tuyến) và trường nghĩa ngang (trường nghĩa
tuyến tính). Trong giáo trình Từ vựng - ngữ nghĩa Tiếng Việt, Đỗ Hữu
Châu cũng phân lập theo hướng trên và giới thiệu các loại trường nghĩa,
trong đó tác giả đi sâu vào hai trường nghĩa dọc: Trường nghĩa biểu vật và
trường nghĩa biểu niệm.
1.2. Các loại trƣờng nghĩa
1.2.1. Trường nghĩa dọc (trường biểu vật và trường biểu niệm)
a. Trường biểu vật
Một trường biểu vật là một tập hợp những từ đồng nghĩa về ý nghĩa
biểu vật [2, 171]. Để xác lập trường biểu vật chúng ta chọn các danh từ làm
gốc, các danh từ phải có ý nghĩa khái quát cao gần như tên gọi của các
phạm trù biểu vật như người, động vật, thực vật, vật thể chất liệu… Các
danh từ này cũng là tên gọi các nét nghĩa có tác dụng hạn chế ý nghĩa của
từ về mặt biểu vật, là những nét nghĩa cụ thể, thu hẹp ý nghĩa của từ. Như
vậy, chúng ta sẽ đưa một từ vào một trường nghĩa biểu vật nào đó khi nét
nghĩa biểu vật của nó trùng với tên gọi của danh từ trên.
Ví dụ với từ tay, ta có các trường sau:
- Bộ phận của tay: cánh tay, bàn tay, cổ tay, ngón tay, khuỷu tay, đốt,
móng, lòng bàn tay, mu bàn tay, bắp tay, kẽ tay, ngón cái, ngón trỏ, ngón
giữa, ngón nhẫn, ngón út, hoa tay…

7



- Đặc điểm ngoại hình của tay: (ngón tay) búp măng, dùi đục, (bàn
tay) mỏng, dày, thô, cứng, mềm mại, (tay) vượn…
- Hoạt động của tay (chưa phân hóa): ấn, bám, bào, bấu, bấm, bẻ, bóc,
bóp, bê, bế, bới, bốc, bưng, cào, cạo, cấu, cấy, chải, chặt, chẻ, chép, chỉ,
cởi, cù, cuốc, dắt, đan, đánh, đào, đẽo, điểm (huyệt), đơm, đút, đưa, ghìm,
gảy, giằng, giật, gieo, giữ, gõ, gói, gọt, hái, huých, kéo, khênh, khêu, kì, kí,
lau, lột, lượm, nắn, nặn, nắm, ném, ôm, quạt, quàng, quơ, sảy, sờ, xách…
Ví dụ với từ “mắt”, ta có các trường:
- Bộ phận của mắt: lông mày, lông mi, mí, lòng trắng, lòng đen, con
ngươi, nước mắt…
- Cảm giác về mắt: chói, quáng, hoa, cộm, xót,…
- Đặc điểm về ngoại hình của mắt: bồ câu, ốc nhồi, lợn luộc, dao cau,
lươn, lá răm, (mày) lưỡi mác, (mày) dài, chổi xể, nhung, huyền, xanh đen,…
- Đặc điểm về năng lực của mắt: đờ dẫn, sắc, lờ đờ, tinh anh, tốt, kém,
toét, mù, lòa,…
- Hoạt động của mắt: nhòm, trông, thấy, ngó, liếc, nghé, nom, dòm,
lúng liếng, đong đưa, nhìn trộm, trợn trừng, quắc…
- Bệnh của mắt: quáng gà, mắt hột, thong manh, cận thị, viễn thị, vảy
cá, hạt gạo,…
Khi xem xét các trường biểu vật cần chú ý những điều sau đây
So sánh các trường lớn với nhau cũng như so sánh các trường nhỏ
trong cùng một trường lớn (như trường biểu vật của tay so với của chân),
chúng ta thấy nó có sự khác nhau về số lượng từ ngữ và về tổ chức. Nếu lại
so sánh các trường cùng một tên gọi (tức các danh từ) trong các ngôn ngữ
khác nhau thì sự khác nhau trên càng rõ hơn nữa.
Nếu tạm gọi một trường nhỏ (hay một nhóm nhỏ trong một trường
nhỏ) là một “miền” của trường thì thấy, các miền trong các trường thuộc

8



các ngôn ngữ rất khác nhau. Có những miền trống - tức không có từ ngữ - ở
ngôn ngữ này nhưng lại không trống ở ngôn ngữ kia. Điều này khẳng định
tính ngôn ngữ và tính dân tộc của trường biểu vật.
Cần chú ý rằng, khi phân lập các trường, chúng ta cần chú ý đến nghĩa
biểu vật chứ không chú ý đến từ. Nói rõ hơn, phân lập trường không phải là
phân loại từ. Không phải một từ đã ở trường này thì không thể ở trường kia
được nữa. Vì từu có tính nhiều nghĩa biểu vật, do đó từ có thể nằm trong
nhiều trường biểu vật khác nhau hay trong nhiều trường nhỏ khác nhau tùy
theo số lượng các ý nghĩa biểu vật của nó. Tuy nhiên, vì có sự phân biệt ý
nghĩa biểu vật chính và ý nghĩa biểu vật phụ, cho nên chúng ta có thể phân
biệt các trường biểu vật chính và phụ của từ. Nếu nghĩa chính của từ nằm
trong trường nào thì trường đó là trường biểu vật chính của nó.
Như thế, chúng ta có thêm một chỉ số nữa để đánh giá các từ: chỉ số
đó là số lượng cá trường mà từ đó có thể đi vào như một thành viên.
Có những từ chỉ số trường là 1, có nghĩa là từ đó chỉ có thể nằm trong
một và chỉ một trường mà thôi (như các từ bồng, xách, quắc, phưỡn…). Đó
là những từ điển hình của trường.
Bên cạnh đó, lại có những từ đi vào hầu hết các trường biểu vật có thể
có của một ngôn ngữ, như các từ tốt, xấu, cao, thấp,… Rõ ràng là các từ có
chỉ số trường biểu vật thấp là những từ bị quy định về biểu vật rất mạnh,
trái lại những từ càng đi vào nhiều trường thì tính bị quy định về biểu vật
càng yếu, ý nghĩa càng khái quát.
Do chỗ có các từ đi vào nhiều trường, cho nên các trường biểu vật có
thể “thẩm thấu” vào nhau “giao thoa” với nhau. Hai trường biểu vật giao
thoa với nhau khi một số từ của trường này cũng nằm trong trường kia.
Căn cứ vào số lượng các từ chung cho hai trường nhiều hay ít mà
chúng ta nói đến tính độc lập tương đối nhiều hay ít giữa hai trường.


9


Ví dụ: Chúng ta nói hai trường “người” và “thực vật” độc lập với nhau
cao hơn là hai trường “người” và “động vật” (hầu hết các từ ngữ chỉ bộ
phận cơ thể của trường “người”, một số hoạt động của người đều dùng
chung cho động vật, trong khi đó, các từ của trường thực vật như cành, rễ,
ngọn, gốc… ít dùng cho người).
Như thế, quan hệ của các từ ngữ đối với một trường biểu vật không
giống nhau. Có những từ gắn rất chặt với trường (những từ ngữ điển hình),
có những từ ngữ gắn bó lỏng lẻo hơn. Căn cứ vào tính chất quan hệ giữa
các từ ngữ với trường, chúng ta nói các trường biểu vật có một cái lõi trung
tâm quy định những đặc trưng ngữ nghĩa của trường gồm những từ ngữ
điển hình cho nó.
Ngoài cái lõi của trường là các lớp từ khác mỗi lúc một đi xa ra khỏi
lõi, liên hệ với trường mờ nhạt đi.
b. Trường biểu niệm
Căn cứ để phân lập các trường biểu niệm là các ý nghĩa biểu niệm của từ.
Cấu trúc biểu niệm không chỉ riêng cho từng từ mà chung cho nhiều
từ. Một trường biểu niệm là một tập hợp các từ có chung một cấu trúc biểu
niệm [2, 176]
Ví dụ: Trường biểu niệm (vật thể nhân tạo)… (phục vụ sinh hoạt):
- Dụng cụ để ngồi, nằm: ghế, giường, phản, đi văng,…
- Dụng cụ để đặt: bàn, giá, gác, xích đông,…
- Dụng cụ để chứa đựng: tủ, rương, hòm, va li, chạn, thúng, mủng,
nong, nia, chai, lọ, chum, vại, hũ, bình,…
- Dụng cụ để mặc, che thân: áo, quần, khăn, khố, váy, giày, dép, ủng,
gang, bi tất,…
- Dụng cụ để che, phủ: màn, mùng, khăn, chăn, chiếu…
Ví dụ: Trường biểu niệm (hoạt động tác động đến X)… (làm X có tình

trạng Y)

10


Với cấu trúc biểu niệm này, chúng ta chỉ đưa vào trường những động
từ chỉ hoạt động tác động vào những đối tượng khác chủ thể của hoạt động
và gây ra những biến đổi thực sự nào đó ở đối tượng. Đây là một trường
lớn, căn cứ vào Y mà chia thành những trường nhỏ:
- Làm cho X động (tĩnh - động) hoặc tĩnh (động - tĩnh)
+ X động hay tĩnh tại chỗ một cách cơ giới: rung, lay, lắc, lung lay…
+ X dời chỗ hoặc dừng lại một cách cơ giới: đẩy, xô, ném, lao, giật,
bẩy, hàm, phanh, dừng…
+ X là thiết bị cơ giới: phát động, khởi động, nổ (nổ máy), hãm, tắt
(máy)…
- Làm cho X có những biến đổi cho bản thân: co, dãn, căng, mở, đóng,
khép, bẹp, xẹp, phình,…
- X bị chết, mất đi: giết, ám sát, sát hại, diệt, xử tử, hành hình, hành
quyết, ngộ sát, đầu độc, ám sát,…
Các trường biểu niệm lớn có thể phân chia thành các trường nhỏ và
cũng có những “miền” với mức độ khác nhau.
Do có hiện tượng nhiều nghĩa biểu niệm, cho nên một từ có thể đi vào
nhiểu trường biểu niệm (hay đi vào những trường nhỏ) khác nhau. Vì vậy,
cũng giống như các trường biểu vật, các trường biểu niệm có thể giao thoa
với nhau, thẩm thấu vào nhau và cũng có lõi trung tâm với các từ điển hình
và những từ ở những lớp kế cận trung tâm, những từ ở lớp ngoại vi.
Khi nói về hiện tượng nhiều nghĩa biểu niệm, chúng ta đề cập đến các
từ điển hình cho cấu trúc biểu niệm. Các từ điển hình này tạo thành những
cái lõi, thành những trung tâm của các trường biểu niệm. Nhờ chúng mà sự
tồn tại của một trường biểu niệm mới được khẳng định. Cũng chính nhờ sự

đối chiếu với chúng mà chúng ta mới biết một từ có thể thuộc về bao nhiêu
trường biểu niệm khác nhau. Trong các ví dụ về trường và về nhóm nhỏ

11


trong trường, chúng ta đã đưa ra không ít những từ điển hình và những từ
ngữ đi vào nhiều trường
Sự phân lập từ vựng thành trường biểu vật hay trường biểu niệm, như
đã nói, dựa trên sự phân biệt hai thành phần ngữ nghĩa trong từ. Nó phản
ánh hai cách nhìn từ vựng ở hai góc độ khác nhau. Tuy nhiên, hai loại
trường nghĩa dọc này có liên hệ với nhau: nếu lấy nét nghĩa biểu vật trong
cấu trúc biểu niệm làm tiêu chí lớn để tập hợp thì chúng ta có các trường
biểu vật. Nhưng chỉ cần phân lập một trường biểu vật thành các trường nhỏ
thì phải dựa vào các nét nghĩa khác trong cấu trúc biểu niệm. Trái lại, khi
phân lập các trường biểu niệm, chúng ta đưa vào cấu trúc biểu niệm, song
khi phân nhỏ chúng ra, đến một lúc nào đó phải sử dụng nét nghĩa biểu vật.
Ví dụ: Để phân nhỏ trường (hoạt động) (tác động đến X)… (làm X dời
chỗ), chúng ta phải dùng đến các nét nghĩa biểu vật như (người) (động vật),
(phương tiện vận tải) (nước)… để phân biệt các từ vác, khiêng, đẩy,… với
tha, quắp… với tải, chở… với cuốn…
Dựa vào ý nghĩa của từ mà chúng ta phải phân lập được các trường.
Nhưng, cũng nhờ các trường, nhờ sự định vị được từng từ một trong trường
thích hợp, mà chúng ta hiểu sâu sắc thêm ý nghĩa của từ.
1.2.2. Trường nghĩa ngang (trường tuyến tính)
Tiêu chí để phân loại trường tuyến tính là dựa hẳn vào ngữ nghĩa của
từ trung tâm. Để lập nên các trường nghĩa tuyến tính, chúng ta chọn một từ
làm gốc rồi tìm tất cả các từ có thể kết hợp với nó thành những chuỗi tuyến
tính (cụm từ, câu) chấp nhận được trong ngôn ngữ.
Ví dụ: Trong trường tuyến tính của từ tay là búp măng, mềm, ấm,

lạnh, nắm, cầm, dùi đục, bốc,… Những từ ngữ như: đá, đạp không thuộc
trường tuyến tính của từ tay.
Các từ trong một trường tuyến tính là những từ thường xuất hiện với
từ trung tâm trong các loại ngôn bản. Phân tích ý nghĩa của chúng, chúng ta

12


có thể phát hiện được những nội dung ngữ nghĩa của các quan hệ cú pháp
và tính chất của các quan hệ đó. Thực tế chúng là những từ cùng thuộc một
trường biểu vật đi với nhau sao cho nét nghĩa biểu vật của chúng phải phù
hợp với nhau. Chúng ta nói đi thoăn thoắt chứ không ai nói đi liến thắng,
vì liến thắng đòi hỏi nét nghĩa biểu vật nói, không đòi hỏi nét nghĩa đi mặc
dù cả hai từ thoăn thoắt và liến thắng đều có nét nghĩa biểu niệm “liên tiếp,
nhanh chóng thành từng chuỗi”.
Cùng với các trường nghĩa biểu vật và trường nghĩa biểu niệm, thì
trường nghĩa tuyến tính góp phần phát hiện ra tính hệ thống, quan hệ ngữ
nghĩa giữa các đơn vị từ vựng trong hệ thống từ vựng, phát hiện những đặc
điểm nội tại và những hoạt động của từ.
1.2.3. Trường liên tưởng
Sự phân lập các trường biểu vật, biểu niệm như trên là vấn đề cần thiết
để tìm hiểu và cấu trúc ngữ nghĩa - ngữ pháp, phát hiện những đặc điểm nội
tại và đặc điểm hoạt động của từ. Nhưng đó mới chỉ là sự phân tích “cấu
trúc bề mặt” của ngôn ngữ trong ngôn ngữ còn “cấu trúc bề sâu”. Đó là lý
do để xác lập trường liên tưởng
Nhà ngôn ngữ học người Pháp Ch. Bally là tác giả đầu tiên của khái
niệm trường liên tưởng. Theo ông, mỗi từ có thể là một trung tâm của trường
liên tưởng như từ bò của tiếng Pháp chẳng hạn, có thể gợi ra do liên tưởng:
+ Bò cái, bò mộng, bê, sừng, gặm cỏ, nhai trầu,…
+ Sự cày bừa, cái cày, cái ách,…

+ Những ý niệm về tính thụ động mà chúng ta gặp trong các lối so
sánh trong các thành ngữ Pháp.
Dễ dàng nhận thấy rằng các từ trong một trường liên tưởng là sự hiện
thực hóa, sự cố định bằng từ các ý nghĩa liên hội có thể có của từ trung tâm.
Các từ trong một trường liên tưởng trước hết là những từ cùng nằm
trong trường biểu vật, trường biểu niệm và trường tuyến tính, tức là những

13


từ có quan hệ cấu trúc đồng nhất và đối lập về ngữ nghĩa với từ trung tâm.
Song, trong trường liên tưởng còn có nhiều từ khác được liên tưởng tới do
xuất hiện đồng thời với từ trung tâm trong những ngữ cảnh có chủ đề tương
đối đồng nhất, lặp đi lặp lại. Điều này khiến cho các trường liên tưởng có
tính dân tộc, tính thời đại và cá nhân.
Ý nghĩa biểu vật có những từ trong trường liên tưởng giống nhau,
nhưng cũng có những từ khác nhau về nghĩa. Các trường liên tưởng thường
không ổn định, nên ít có tác dụng phát hiện những quan hệ cấu trúc về ngữ
nghĩa của các từ và từ vựng. Có nhiều trường hợp phải dùng tới nhiều trường
liên tưởng nhưng như vậy thì dẫn tới một chuỗi kết hợp mơ hồ về nghĩa.
Ví dụ: Khi nhắc tới chiến tranh thì ta liên tưởng tới: bom, đạn, hỏa
lực, pháo đài,…
Khi nhắc tới mùi vị thì ta liên tửng tới: mặn, nhạt, đắng, thơm,…
1.3. Hiện tƣợng chuyển trƣờng nghĩa
1.3.1. Khái niệm
Từ có thể đi vào một số trường lập thành ngoại vi của trường đó do:
- Tính nhiều nghĩa khiến từ nhập nhằng
- Do bản thân cấu trúc ngữ nghĩa mà chúng ta lấy làm cơ sở chứa một
hoặc một vài nét nghĩa chung, nét nghĩa này có mặt trong một số cấu trúc
ngữ nghĩa khác.

Ví dụ: từ “sập” trong tiếng Việt có thể phân biệt hai loại đồ dùng: loại
để chứa đựng điển hình là các từ: tủ, giường, ghế… loại để đỡ thân thể con
người giường, ghế, phản… Nhưng cái sập được cấu tạo vừa để đỡ thân thể
con người ở tư thế nghỉ ngơi và vừa được cấu tạo để chứa đựng. Do vậy, từ
sập có thể đi vào trường nghĩa thứ nhất hay thứ hai đều được.
Do đó hiện tượng chuyển trường biểu vật và biểu niệm nên một từ có
thể đi vào nhiều trường biểu vật, biểu niệm khác nhau vì thế xảy ra hiện
chuyển trường nghĩa của từ.

14


Các từ trong cùng một trường do có sự thống nhất về mặt ngữ nghĩa
nên các từ bao giờ cũng có sự trung hòa, dễ tạo ra sự mòn sáo. Để tạo sự lạ
hóa trong giao tiếp, người ta có thể nhắc từ ở trường này sang ở trường
khác. Nói cách khác, với sự chuyển nghĩa linh hoạt và thường xuyên của
các từ trong văn bản cũng như hoạt động giao tiếp thì ta thấy ranh giới giữa
các trường nghĩa bị xóa mờ, các từ có xu hướng thâm nhập từ trường nghĩa
này sang trường nghĩa khác. Đó là hiện tượng chuyển trường nghĩa.
Hiện tượng chuyển trường nghĩa là hiện tượng một trường thuộc ý
niệm này được chuyển sang dùng cho sự vật thuộc trường ý niệm khác
Do nhu cầu giao tiếp ngày càng đa dạng và phức tạp của con người, từ
(đơn hoặc phức) lúc mới xuất hiện chỉ có một nghĩa biểu vật nhưng khi sử
dụng một thời gian nó có thêm nhiều nghĩa biểu vật mới. Đó là sự chuyển
biến ý nghĩa biểu vật của từ. Khi nghĩa biểu vật của từ thay đổi thì nghĩa
biểu niệm của từ cũng có nhiều khả năng thay đổi. Từ đó, nghĩa biểu thái
của nó cũng có thể thay đổi theo.
Sự chuyển nghĩa trên của từ chính là cơ sở của sự chuyển trường
nghĩa của từ. Không phải bất cứ hiện tượng chuyển nghĩa nào cũng dẫn đến
sự chuyển trường nghĩa của từ, nhưng có thể khẳng định rằng, sự chuyển

trường nghĩa bắt đầu từ sự chuyển nghĩa của từ. Bởi vì, khi từ chuyển nghĩa
thì nội dung biểu thị của từ thay đổi dẫn đến từ cũng chuyển sang trường
nghĩa mới tương ứng với nội dung biểu thị mới của nó.
Ví dụ: từ “mũi” là từ có nhiều nghĩa, mỗi lần chuyển biến ý nghĩa thì
từ lại chuyển sang một trường nghĩa khác
- Bộ phận của cơ quan hô hấp: mũi người, mũi chó, mũi mèo,…
(Từ thuộc trường con người hoặc trường động vật)
- Phần trước của tàu thuyền: mũi tàu, mũi thuyền,…
(Từ thuộc trường phương tiện giao thông)

15


- Bộ phận nhọn của vũ khí: mũi dao, mũi gươm, mũi súng,..
(Từ thuộc trường đồ vật)
- Phần đất nhô ra ngoài biển: mũi đất, mũi Cà Mau,…
(Từ thuộc trường đất đai)
Khi các từ ngữ chuyển từ trường nghĩa này sang trường nghĩa khác,
chúng mang theo những đặc điểm vốn có của nó ở trong trường nghĩa ban
đầu. Như ở ví dụ từ “mũi” ở trên, nét nghĩa về sự vật (nhọn, nhô ra trước
hết so với cái toàn thể) của từ “mũi” trong trường hợp đầu tiên chuyển vào
nghĩa của các từ thuộc các trường nghĩa còn lại.
Hiện tượng chuyển trường nghĩa là hiện tượng thẩm thấu, giao thoa
lẫn nhau giữa các các trường và có lõi trung tâm với từ điển hình. Ở mỗi
trường nghĩa có những từ ngữ mang ý nghĩa mới bổ sung dựa trên nét
nghĩa cơ bản ban đầu.
Đây là hiện tượng có tính quy luật nên khi chuyển có những từ chuyển
hướng đồng loạt cùng hướng (các từ có phạm vi biểu vật hay cùng một cấu
trúc biểu niệm thì khi chuyển nó chuyển theo cùng một hướng).
Ví dụ: Khi chuyển trường nghĩa thì một số từ chỉ bộ phận của con

người: đầu, cổ, tay, mũi, miệng,… có thể chuyển sang một số trường nghĩa
khác như:
- Chuyển sang trường thực vật: mắt mỉa, tay tre,…
- Chuyển sang trường thiên nhiên: đầu núi, đầu sông, mặt trời, mặt đất,…
- Chuyển sang trường thực vật, hiện tượng: cổ chai, cổ áo, mũi thuyền,
mặt ghế,…
1.3.2. Tác dụng của hiện tượng chuyển trường nghĩa
Tác dụng đầu tiên của hiện tượng chuyển trường nghĩa đối với ngôn
ngữ là làm giàu vốn từ vựng. Khi một từ chuyển trường nó biến thành từ đa
nghĩa, từ vẫn giữ nguyên hình thức ngữ âm cũ nhưng lại mang một nội

16


dung mới hay nghĩa mới, nội dung này luôn có quan hệ tương sinh với nội
dung cũ (nghĩa cũ, nghĩa gốc) của từ. Từ càng chuyển qua nhiều trường
nghĩa thì càng mang nhiều nghĩa mới - nội dung biểu đạt của nó càng
phong phú. Thí dụ, từ tóc vốn thuộc về trường con người, biểu hiện sợi
lông mọc trên đầu người, khi chuyển sang trường sự vật nó biểu hiện dây
kim loại trong bóng đèn tròn (tóc bóng đèn)
Chuyển trường nghĩa của từ không chỉ có tác dụng làm giàu vốn từ
vựng, đáp ứng nhu cầu giao tiếp của con người mà còn góp phần làm tăng
khả năng diễn đạt, tăng sức biểu cảm của ngôn từ.
Khi chuyển trường nghĩa, ngoài những giá trị biểu đạt mới xuất hiện ở
trường nghĩa mới, từ còn giữ được những ấn tượng ngữ nghĩa vốn có của
trường nghĩa cũ. Đặc tính này làm cho giá trị biểu đạt của từ càng phong phú.
1.4. Đặc điểm học sinh lớp 4 và hoạt động dạy từ ngữ theo trƣờng
nghĩa cho học sinh lớp 4 tại trƣờng Tiểu học Hùng Vƣơng
1.4.1. Đặc điểm học sinh lớp 4
Chúng ta đã biết với đặc điểm của học sinh Tiểu học hiện nay là rất hiếu

động, thích khám phá. Việc tiếp nhận tri thức của các em ngày càng được nâng
cao, tư duy ngày càng phát triển hơn so với trước. Với học sinh lớp 4 thì năng lực
nhận thức, tiếp nhận tri thức của các em đã được nâng cao rõ rệt
a. Đặc điểm tâm lý
Học sinh tiểu học là một thực thể hồn nhiên, ngây thơ và trong sáng.
Ở giai đoạn này, hoạt động học tập có vai trò và ý nghĩa đặc biệt quan
trọng đối với sự phát triển tâm lí của học sinh tiểu học. Dựa trên những
thành tựu phát triển tâm lí đã đạt được của giai đoạn trước, trẻ sẽ tạo lập
nên những cái mới trong đời sống tâm lí của mình, mà trước hết là tính chủ
định, kĩ năng làm việc trí óc, sự phản tỉnh - những cấu tạo tâm lí mới đặc
trưng cho lứa tuổi này.

17


Tuổi tiểu học là tuổi của sự phát triển hồn nhiên bằng phương thức
lĩnh hội. Cùng với việc lĩnh hội, tiếp thu một hệ thống tri thức về các môn
học, trẻ em học cách học, học kĩ năng sống trong môi trường trường học và
môi trường xã hội. Cùng với sự ảnh hưởng khá lớn của môi trường giáo
dục gia đình và quan hệ bạn bè cùng tuổi, cùng lớp và trường học, học sinh
tiểu học lĩnh hội các chuẩn mực quy tắc đạo đức của hành vi. Sự lĩnh hội
trên tạo ra những biến đổi cơ bản trong sự phát triển tâm lí của học sinh
tiểu học. Chúng không chỉ đảm bảo cho các em thích ứng với cuộc sống
nhà trường và hoạt động học, mà còn chuẩn bị cho các em những bước
ngoặt quan trọng trong cuộc sống ở tuổi thiếu niên- lứa tuổi có xu thế vươn
lên làm người lớn.
b. Đặc điểm ng n ng
Hầu hết học sinh tiểu học lứa tuổi này có ngôn ngữ nói thành thạo,
ngôn ngữ viết đang dần thành thạo và bắt đầu hoàn thiện về mặt ngữ pháp,
chính tả và ngữ âm. Nhờ có ngôn ngữ phát triển mà trẻ có khả năng tự học,

tự đọc, tự nhận thức thế giới xung quanh và tự khám phá bản thân thông
qua các kênh thông tin khác nhau. Ngôn ngữ có vai trò hết sức quan trọng
đối với quá trình nhận thức cảm tính và lí tính của trẻ, nhờ có ngôn ngữ mà
cảm giác, tri giác, tư duy, tưởng tượng của trẻ phát triển dễ dàng và được
biểu hiện cụ thể thông qua ngôn ngữ nói và viết của trẻ. Mặt khác, thông
qua khả năng ngôn ngữ của trẻ ta có thể đánh giá được sự phát triển trí tuệ
của trẻ.
c. Đặc điểm tư duy
Ở học sinh lớp 4, đang trong giai đoạn cuối bậc Tiểu học tư duy của
học sinh sẽ chuyển từ trực quan cụ thể sang trừu tượng khái quát. Đó là kết
quả của quá trình học sinh tiếp xúc với thực tế, trao đổi với xã hội và học
tập và đặc biệt là hoạt động học tập trong nhà trường. Các thao tác phân

18


tích, tổng hợp, so sánh, trừu tượng hóa, khái quát hóa của học sinh được
hình thành và phát triển. Ở giai đoạn này, tư duy cụ thể ít mang tính trực
tiếp đã tách nhiều ra khỏi tri giác trực tiếp và dần mang tính trừu tượng
Tưởng tượng của các em đang hình thành và phát triển trong hoạt
động học tập và các hoạt động khác của các em. Khuynh hướng tưởng
tượng ở học sinh là tiến dần đến phản ánh một cách đúng đắn và đầy đủ
hiện thực khách quan trên cơ sở những tri thức tương ứng. Hình ảnh tưởng
tượng trở nên trọn vẹn hơn, phân biệt hơn bởi số lượng chi tiết nhiều hơn
và sự sắp xếp chúng càng chặt chẽ, có lí hơn
d. Đặc điểm ch ý
Ở đầu tuổi tiểu học chú ý có chủ định của trẻ còn yếu, khả năng kiểm
soát, điều khiển chú ý còn hạn chế. Ở giai đoạn này chú không chủ định
chiếm ưu thế hơn chú ý có chủ định. Trẻ lúc này chỉ quan tâm chú ý đến
những môn học, giờ học có đồ dùng trực quan sinh động, hấp dẫn có nhiều

tranh ảnh, trò chơi hoặc có cô giáo xinh đẹp, dịu dàng...Sự tập trung chú ý
của trẻ còn yếu và thiếu tính bền vững, chưa thể tập trung lâu dài và dễ bị
phân tán trong quá trình học tập.
Ở cuối tuổi tiểu học, đặc biệt là từ học sinh lớp 4 dần hình thành kĩ
năng tổ chức, điều chỉnh chú ý của mình. Chú ý có chủ định phát triển dần
và chiếm ưu thế, ở trẻ đã có sự nỗ lực về ý chí trong hoạt động học tập như
học thuộc một bài thơ, một công thức toán hay một bài hát dài,...Trong sự
chú ý của trẻ đã bắt đầu xuất hiện giới hạn của yếu tố thời gian, trẻ đã định
lượng được khoảng thời gian cho phép để làm một việc nào đó và cố gắng
hoàn thành công việc trong khoảng thời gian quy định.
1.4.2. Hoạt động dạy từ ng theo trường nghĩa cho học sinh lớp 4 tại
trường Tiểu học Hùng Vương, Ph c Yên, Vĩnh Ph c
Học sinh lớp 4 chưa được học khái niệm về trường nghĩa và hiện tượng
chuyển trường nhưng cácem đã được học biện pháp tu từ nhân hóa. Đây

19


thực chất là hiện tượng chuyển trường nghĩa từ các trường không chỉ người
sang trường con người. Vì vậy, để có thể hướng dẫn học sinh tìm hiểu, học
tập một cách tốt nhất thì giáo viên cần nắm vững, hiểu rõ về khái niêm
trường nghĩa, hiện tượng chuyển trường nghĩa và phân tích được các hiện
tượng chuyển trường nghĩa có ở các từ mà giáo viên đang giảng dạy. Nhưng
qua dự giờ và qua trao đổi với giáo viên, chúng tôi thấy giáo viên chưa có ý
thức làm rõ tác dụng của hiện tượng chuyển trường nghĩa của các từ đã làm
cho: con vật, đồ vật, thiên nhiên, cây cối .. sang trường con người có tác
dụng như thế nào. Giáo viên mới chỉ nói được nhân hóa làm cho các đối
tượng vô tri vô giác sống động như thế giới con người mà chưa có ý thức
làm sáng rõ cái hay của biện pháp nhân hóa mà thực chất là hiện tượng
chuyển trường nghĩa này, luôn làm người đọc đối chiếu hình ảnh đối tượng ở

hai trường nghĩa. Ví dụ hình ảnh nhân hóa chị Nhà Trò vừa cho người đọc
liên tưởng tới hình ảnh con vật mảnh mai, lại vừa liên tưởng tới hình ảnh cô
gái gầy gò yếu ớt. Liên tưởng này có được là do sự quan sát tài tình và cách
dùng từ ngữ để chuyển trường nghĩa của tác giả vô cùng chuẩn xác.
1.5. Tiểu kết chƣơng 1
Như vậy, ở chương này chúng tôi đã tổng hợp các vấn đề lý thuyết
trên ba phương diện.
Thứ nhất, đó là vấn đề trường nghĩa. Trường nghĩa được hiểu là một
tập hợp, một nhóm… các từ có quan hệ nào đó với nhau về ngữ nghĩa.
Chúng làm thành một tiểu hệ thống trong hệ thống từ vựng của một ngôn
ngữ và tìm hiểu được các loại trường nghĩa, trong đó có hai loại trường
nghĩa điển hình là trường nghĩa dọc và trường nghĩa ngang.
Thứ hai, đó là hiện tượng chuyển trường nghĩa. Đây là hiện tượng một
trường thuộc ý niệm này được chuyển sang dùng cho sự vật thuộc trường ý
niệm khác. Bên cạnh đó tìm hiểu được tác dụng của hiện tượng chuyển
trường nghĩa

20


×