Tải bản đầy đủ (.pdf) (58 trang)

Giá trị thơ vịnh sử trong Hồng Đức quốc âm thi tập của Lê Thánh Tông và hội Tao Đàn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.03 MB, 58 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA NGỮ VĂN

======

ĐỖ THỊ PHƯƠNG THẢO

GIÁ TRỊ THƠ VỊNH SỬ
TRONG HỒNG ĐỨC QUỐC ÂM THI TẬP
CỦA LÊ THÁNH TÔNG VÀ HỘI TAO ĐÀN
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Văn học Việt Nam

Người hướng dẫn khoa học
Th.S. An Thị Thuý

HÀ NỘI - 2017


LỜI CẢM ƠN
Trong quá trình thực hiện khóa luận này, tôi đã nhận được sự hướng
dẫn nhiệt tình của các thầy cô giáo trong khoa Ngữ văn – trường Đại học Sư
phạm Hà Nội 2, đặc biệt là các thầy cô trong tổ Văn học Việt Nam và ThS.
An Thị Thúy là người hướng dẫn trực tiếp.
Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn và gửi lời cảm ơn trân trọng nhất đến các
thầy cô!
Hà Nội, ngày 10 tháng 04 năm 2017
Tác giả khóa luận

Đỗ Thị Phương Thảo



LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan những nội dung trình bày trong khóa luận là kết quả
quá trình nghiên cứu của bản thân tôi. Những nội dung này không trùng khớp
với kết quả nghiên cứu của người khác.
Hà nội, ngày 10 tháng 04 năm 2017

Tác giả khóa luận

Đỗ Thị Phương Thảo


MỤC LỤC

MỞ ĐẦU ........................................................................................................... 1
1. Lý do chọn đề tài ........................................................................................... 1
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề ............................................................................ 2
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu.................................................................... 4
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu................................................................. 4
5. Phương pháp nghiên cứu............................................................................... 5
6. Bố cục của khóa luận .................................................................................... 5
NỘI DUNG.......................................................................................................6
Chương 1. NHỮNG VẪN ĐỀ CHUNG ........................................................... 6
1.1. Tác giả và tác phẩm.................................................................................... 6
1.1.1. Tác giả ..................................................................................................... 6
1.1.2. Tác phẩm ................................................................................................. 9
1.2. Thơ vịnh sử .............................................................................................. 12
1.2.1. Khái niệm thơ vịnh sử ........................................................................... 12
1.2.2 Thơ vịnh sử trước và sau Hồng Đức quốc âm thi tập............................ 13
Chương 2. GIÁ TRỊ NỘI DUNG VÀ NGHỆ THUẬT CỦA THƠ VỊNH SỬ

TRONG HỒNG ĐỨC QUỐC ÂM THI TẬP .................................................. 18
2.1. Thống kê và phân loại .............................................................................. 18
2.2. Thơ vịnh sử trong Hồng Đức quốc âm thi tập nhìn từ phương diện nội
dung ............................................................................................................... 19
2.2.1. Thơ vịnh về các nhân vật lịch sử ........................................................... 19
2.2.2. Thơ vịnh về các nhân vật truyền thuyết ................................................ 30
2.2.3. Thơ vịnh về di tích lịch sử ..................................................................... 39


2.3. Thơ vịnh sử trong Hồng Đức quốc âm thi tập nhìn từ phương diện nghệ
thuật. ............................................................................................................... 42
2.3.1. Thể thơ.................................................................................................. 42
2.3.2. Giọng điệu ............................................................................................. 46
2.3.3 Sử dụng điển tích, điển cố ...................................................................... 48
KẾT LUẬN ..................................................................................................... 51
TÀI LIỆU THAM KHẢO


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Thời đại Hồng Đức không những đánh dấu một giai đoạn cực thịnh trong
xã hội phong kiến Việt Nam mà còn ghi lại một mốc lớn trên con đường phát
triển của lịch sử văn học dân tộc với sự ra đời của tập thơ Hồng Đức quốc âm
thi tập. Tập thơ Hồng Đức quốc âm thi tập do những nhân sĩ của hội Tao Đàn
sáng tác dưới sự chủ xướng của vua Lê Thánh Tông. Tuy sáng tác còn nặng
lối cung đình tuy nhiên tập thơ đã đem đến cho văn học những vần thơ hết sức
thi vị. Có thể thấy ở tập thơ này, về mặt nội dung rất phong phú, có sự kế thừa
và tiếp thu những tinh hoa nghệ thuật của thơ Nôm trước đó.
Từ trước đến nay đã có nhiều độc giả đón nhận và khai thác tập thơ
Hồng Đức quốc âm thi tập không chỉ để hiểu rõ cái hay về nội dung và nghệ

thuật của tác phẩm mà còn tiếp cận tác phẩm như một nguồn tài liệu lịch sử
quý giá về một giai đoạn lịch sử dân tộc, có thêm sự hiểu biết về các nhân vật
lịch sử của Trung Quốc và của dân tộc ta.
Trong tập thơ Hồng Đức quốc âm thi tập đề tài thơ vịnh sử là một đề tài
lớn không chỉ trong tác phẩm mà còn của cả văn học trung đại, được gợi ra từ
cảm hứng lịch sử của Trung Quốc và Việt Nam. Qua những lời thơ đánh giá
và bình luận về một nhân vật hoặc một sự kiện lịch sử đã có độ lùi về thời
gian, bằng hình tượng văn học và ngôn ngữ thi ca người đọc sẽ hiểu thêm về
quan điểm nhân sinh của các tác giả hội Tao Đàn và đặc biệt với những bài
thơ vịnh nhân vật Nam sử ta còn có thêm tình yêu và lòng tự hào đối với dân
tộc.
Từ trước đến nay tập thơ Hồng Đức quốc âm thi tập được đưa vào giảng
dạy ở các trường chuyên nghiệp, tuy nhiên người học hầu như chỉ quan tâm
đến thơ vịnh cảnh, vịnh vật mà chưa có sự quan tâm đúng mức đến một đề tài
lớn trong tác phẩm đó là thơ vịnh sử. Cộng với đó là khoảng cách thời gian

1


lịch sử và hạn chế trong việc giới thiệu tài liệu học tập nên người học và độc
giả khó khăn về mặt tiếp cận, hơn nữa các tài tiệu nghiên cứu chỉ dừng lại ở
việc khái quát chung mà chưa đi vào những vấn đề cụ thể.
Xuất phát từ những lý do trên, chúng tôi chọn đề tài “Giá trị thơ vịnh
sử trong Hồng Đức quốc âm thi tập của Lê Thánh Tông và hội Tao Đàn”
với mong muốn được tìm hiểu, học hỏi tài năng văn chương và nhân cách
lịch sử của những nhà thơ thế kỉ thứ XV và hy vọng đề tài sẽ soi sáng một
phần quan trọng trong Hồng Đức quốc âm thi tập. Từ đó giúp bạn đọc có
những hiểu biết cơ bản về Lê Thánh Tông và hội Tao Đàn, cũng như giúp
cho việc học tập giảng dạy những bài thơ trong Hồng Đức quốc âm thi tập
có hiệu quả hơn.

2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Hồng Đức quốc âm thi tập là tập thơ lớn của Lê Thánh Tông và hội Tao
Đàn ở thế kỉ thứ XV. Đã có rất nhiều công trình nghiên cứu về tập thơ nổi
tiếng này. Tuy nhiên hầu hết các nghiên cứu đều dừng lại ở việc phân tích
khái quát tập thơ, chứ chưa đi vào từng khía cạnh cụ thể. Riêng với đề tài
“Giá trị thơ vịnh sử trong Hồng Đức quốc âm thi tập của Lê Thánh Tông
và hội Tao Đàn” thì ít tác giả đề cập đến, nếu có thì các tác giả cũng chỉ nói
một cách chung chung mà chưa nói đến những giá trị cụ thể của thơ vịnh sử
được thể hiện trong tập thơ.
Trong lời giới thiệu về tập thơ Hồng Đức quốc âm thi tập của tác giả
Phạm Trọng Điền và tác giả Bùi Văn Nguyên (phiên âm – chú giải – giới
thiệu) có viết “ nếu như tình thơ của tác giả chan chứa trước cảnh trí thiên
nhiên trong mục (Thiên đạo môn), thì tình thơ của tác giả cũng tha thiết đối
với vận mệnh đất nước, cũng tràn đầy tự hào dân tộc trong mục ( Nhân đạo
môn ), và các mục khác …. Nhưng đọc những vần thơ vịnh sử ta mới thấy ý

2


kiến trên được diễn ra đầy đủ hơn…” [3, tr21]. Song những ý kiến này chỉ
dừng lại ở những nhận xét ban đầu chưa đi vào vấn đề cụ thể.
Trong cuốn Văn học trung đại Việt Nam (tập 1) của tác giả Nuyễn Đăng
Na (chủ biên), Lã Nhâm Thìn – Định Thị Khang đã phân tích những nội dung
cơ bản về nội dung và nghệ thuật của tập thơ Hồng Đức quốc âm thi tập.
Trong giáo trình này, các tác giả đã đề cập đến thơ vịnh sử trong Hồng Đức
quốc âm thi tập “ Lòng yêu nước, niềm tự hào dân tộc còn thể hiện qua mảng
thơ viết về đề tài lịch sử. Có thể nói đây là một trong những mảng thơ đặc sắc
nhất của Hồng Đức quốc âm thi tập” [7, tr153] .Tuy nhiên, việc nghiên cứu
chỉ dừng lại ở việc khảo sát chứ chưa thực sự đi sâu phân tích cụ thể giá trị
của thơ vịnh sử trong tập thơ.

Trên tạp chí Văn học số 8-1997, trong bài Cảm hứng dân tộc và cảm
hứng nhân văn qua thơ nôm vịnh sử của Lê Thánh Tông PGS. Bùi Duy Dân
đã khẳng định rằng : “Chỉ đến thời Lê Thánh Tông mới xuất hiện lối thơ vịnh
Nam sử và viết bằng chữ Nôm của chính nhà vua. Lê Thánh Tông là người
đầu tiên dùng chữ Nôm vịnh nhân vật lịch sử dân tộc mở đường cho sự xuất
hiện một lối thơ rất độc đáo và rất phong phú về cảm hứng dân tộc, cảm hứng
nhân văn trong văn học Trung Đại Việt Nam”. Và "Cái mới của Lê Thánh
Tông so với các tác giả khác ở chỗ ông đó biết kết hợp hài hòa hơn tinh thân
thần dân tộc và tinh thần Nho giáo, trong việc xác định tiêu chí cái đẹp có
tính lịch sử cho thơ vịnh sử. Thơ vịnh sử của ông đầy cảm hứng dân tộc, cảm
hứng nhân văn cảm hứng lịch sử, và luôn có khả năng trở thành những bài ca
yêu nước và tự hào về nền văn hiến dân tộc" .
Nhìn chung, vấn đề về thơ vịnh sử trong Hồng Đức quốc âm thi tập của
Lê Thánh Tông và hội Tao Đàn đã được đề cập ở nhiều góc độ khác nhau,
hoặc gián tiếp hoặc trực tiếp. Tuy nhiên, những bài viết đó, chưa đặt thành
vấn đề riêng biệt, chưa khảo sát toàn diện hệ thống, mà còn mang tính tản

3


mạn. Chính vì vậy tiếp thu thành tựu của các nhà nghiên cứu đi trước chúng
tôi mạnh dạn tìm hiểu đề tài “Giá trị của thơ vịnh sử trong Hồng Đức quốc
âm thi tập của Lê Thánh Tông và hội Tao Đàn”. Hy vọng tìm ra những nét
độc đáo, hấp dẫn và khẳng định được giá trị to lớn của tập thơ trên thi đàn văn
học dân tộc.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
3.1 Mục đích nghiên cứu
Đề tài hướng tới những mục đích sau
- Góp phần tìm hiểu về tác giả Lê Thánh Tông và hội Tao Đàn
- Có được cái nhìn khái quát nhất về thơ vịnh sử trong văn học trung đại

Việt Nam, đặc biệt là trong tập thơ Hồng đức quốc âm thi tập.
3.2 Nhiệm vụ nghiên cứu
- Nêu được những nét khái quát nhất về thơ vịnh sử trong văn học trung
đại.
- Thấy được giá trị của thơ vịnh sử trong Hồng Đức quốc âm thi tập trên
cả hai phương diện nôi dung và nghệ thuật.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1 Đối tượng nghiên cứu
Với khuôn khổ của một khóa luận và khả năng làm chủ tư liệu có hạn,
đối tượng nghiên cứu của khóa luận là những bài thơ viết về những nhân vật
và sự kiện lịch sử trong cuốn Hồng đức quốc âm thi tập do tác giả Phạm
Trọng Điền và Bùi Văn Nguyên phiêm âm, chú giải và giới thiệu.
4.2 Phạm vi nghiên cứu
Giới hạn phạm vi nghiên cứu của khóa luận là chỉ tập trung nghiên cứu
một khía cạnh của tập thơ Hồng Đức quốc âm thi tập, cụ thể là “giá trị của
thơ vịnh sử” được thể hiện trong tập thơ.

4


5. Phương pháp nghiên cứu
Để khai thác để khai thác được đề tài này, chúng tôi sử dụng một số
phương pháp chính sau:
- Phương pháp thống kê, phân loại
- Phương pháp phân tích, bình giảng
- Phương pháp đối chiếu, so sánh
- Phương pháp tổng hợp
6. Bố cục của khóa luận
Ngoài phần mục lục, mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo, nội dung
của khóa luận gồm hai chương chính.

Chương 1. Những vấn đề chung
Chương 2. Giá trị nội dung và nghệ thuật của thơ vịnh sử trong Hồng
Đức quốc âm thi tập của Lê Thánh Tông và hội Tao Đàn

5


NỘI DUNG
Chương 1
NHỮNG VẪN ĐỀ CHUNG
1.1. Tác giả và tác phẩm
1.1.1. Tác giả
Tác giả của tập thơ Hồng Đức quốc âm thi tập là những nhân sĩ thời
Hồng Đức mà chủ yếu là những nhân sĩ tập hợp trong hội Tao Đàn.
Theo các sách Đại Việt sử kí toàn thư đời Lê, Việt sử thông giám cương
mục đời Nguyễn, tháng 11 năm Ất Mão (1495) nhân gặp thời tiết thuận hòa,
mùa màng tươi tốt, mọi việc nhàn rỗi, Lê Thánh Tông sáng tác chín khúc ca
làm thành Quỳnh uyển cửu ca, tự soạn bài tựa, tự xưng là Tao đàn nguyên
súy, chọn hai mươi tám văn thần ứng với hai mươi tám ngôi sao trên trời,
phong làm Tao Đàn nhị thập bát tú, và truyền họa lại dung vần chín khúc
Quỳnh uyển cửu ca nói trên. Hai mươi tám người đó là
Đại nguyên soái: Lê Thánh Tông
1.

Thân Nhân Trung, (Yên Ninh – Yên Dũng - Bắc Giang), Đông các đại
học sĩ, Phó Nguyên Súy.

2.

Đỗ Nhuận, (Kim Anh - Phúc Yên), Đông các đại học sĩ, Phó nguyên súy.


3.

Ngô Luân, (Tam Sơn - Từ Sơn - Bắc Ninh), Đông các hiệu thư.

4.

Ngô Hoán, (Tượng Đáp - Nam Sách - Hai Dương), Đông các hiệu thư

5.

Lưu Hưng Hiếu, (Hà Lương - Quảng Hóa - Hưng Hóa), Hàn lâm viện thị
độc tham trưởng viện sự.

6.

Nguyễn Xung Xác, (Kim Đôi - Võ Giàng - Bắc Ninh), Hàn lâm viện thi
độc tham trưởng viện sự.

7.

Nguyễn Quang Bật (Bình Ngô - Gia Bình - Bắc Ninh), Hàn lâm viện thị
thư.

6


8.

Nguyễn Đức Huấn, (Yên Định - Chí Linh - Hải Dương), Hàn lâm viện

thị thư.

9.

Vũ Dương, (Mạnh Nhuế - Nam Sách - Hải Dương), Hàn lâm viện thị
thư.

10. Ngô Thầm, (Tam Sơn - Từ Sơn - Bắc Ninh), Hàn lâm viện thị thư.
11. Ngô Văn Cảnh, (Yên Ninh - Yên Dũng - Bắc Ninh), Hàn lâm viện thì
chế.
12. Phạm Trí Kiêm, (An Trang - Lang Tài - Bắc Ninh), Hàn lâm viện thị
chế.
13. Lưu Thư Mậu, (Đa Nghi - Vĩnh Bảo - Hải Dương), Hàn lâm viện thị chế.
14. Nguyễn Tôn Miệt, (Vĩnh Phú), Hàn lâm viện hiệu lý.
15. Nguyễn Nhân Bị, (Kim Đôi - Võ Giàng - Bắc Ninh), Hàn lâm viện lý.
16. Ngô Quyền, (Nghiêm Xá – Thường Tín - Sơn Nam - Hà Đông), Hàn lâm
viện lý.
17. Nguyễn Bảo Khê, (Lý Hải - Yên Lăng - Sơn Tây), Hàn lâm viện lý.
18. Bùi Phố, (Lê Xá - Kiến Thụy - Kiến An - Hải Dương), Hàn lâm viện lý.
19. Dương Trực Nguyên, (Thượng Phúc - Thường Tín - Hà Đông - Hà Nội),
Hàn lâm viện lý.
20. Bùi Phổ, (Lê Xá - Kiến Thụy - Kiến An - Hải Dương), Hàn lâm viện lý.
21. Chu Hoãn, (Hải Dương), Hàn lâm viện lý.
22. Phạm Cẩn Trực, ( Đàm Xá - Gia Lộc - Hải Dương), Hàn lâm viện kiểm
thảo.
23. Nguyễn Ích Tốn, (Mậu Hòa - Đan Phượng - Hà Nội), Hàn lâm viện kiểm
thảo.
24. Đỗ Thuần Thứ, (Tú Kiều - Khoái Châu - Hưng Yên), Hàn lâm viện kiểm
thảo.
25. Phạm Như Huệ, (Thái Bình), Hàn lâm viện kiểm thảo.


7


26. Lưu Dịch, (Lãi Xuyên - Kim Thành - Hải Dương), Hàn lâm viện kiểm
thảo.
27. Đàm Nhuận Huy, (Hương Mặc - Từ Sơn - Bắc Ninh), Hàn lâm viện
kiểm thảo.
28. Phạm Đạo Phú, (Nghĩa Hưng - Sơn Nam - Nam Định), Hàn lâm viện
kiểm thảo.
29. Chu Huân, (Ngọc Đô - Võ Giàng - Bắc Ninh), Hàn lâm viện kiểm thảo.
Theo sách Thoái thực kí văn còn có thêm hai người nữa gọi là sái phu:
Lương Thế Vinh (Cao Hưng - Nghĩa Hưng - Nam Định) và Thái Thuận (Liễu
Lâm - Thuận Thàn - Bắc Ninh).
Hội viên Tao Đàn thường làm thơ chữ Hán, hoặc quốc âm để xướng họa
cùng nhau, hay nói dùng hơn là họa những bài xướng của Lê Thánh Tông.
Lê Thánh Tông là người đứng đầu hội Tao Đàn và là người đứng ra
thành lập hội.
Lê Thánh Tông sinh ngày 20 tháng 7 năm Nhâm Tuất (1442), mất ngày
30/1 năm Đinh Tỵ (1497), có tên là Tư Thành, là con trai út của vua Thái
Tông. Thân Mẫu là bà Ngô Thị Ngọc Dao con gái của Thái Bảo Ngô Từ, một
trong những công thần khai quốc nhà Lê, người làng Động Bàng, huyện Yên
Định (Thanh Hóa). Vua Lê Thánh Tông là vị vua không chỉ có tài trị quốc mà
còn là vị vua có tâm hồn thi sĩ, học sĩ Đào Cử đã nói về Lê Thánh Tông một
cách hết sức tôn kính như sau: “Từ khi đức vua lên ngôi, trong ngoài đều
phục, mưa nắng thuận hòa , dân yên, vật thịnh. Trong khi nhàn rỗi nhà vua
thường bỏ hết thú vui như đàn hát, săn bắn, khiến cho sạch lòng, dục ít. Như
cây ngay từ gốc, nước trong từ nguồn…, biểu hiện ở lời ngâm vịnh. Ngài chỉ
phóng bút một lúc chín bài xong ngay. Trước thì vịnh thời tiết thuận năm
được mùa …. Nghĩa lý thật cao xa, lời lẽ thật mạnh mẽ, thiện ý khuyên răn,

chan chứa ở lời, thực là văn dạy người ở bậc đế vương….” [10, 125]. Người

8


đã cổ súy việc bình thơ và sáng tác thơ, tạo điều kiện cho thơ ca phát triển,
trong tập thơ Hồng Đức quốc âm thi tập, Lê Thánh Tông là một tác giả lớn
với nhiều bài thơ được xác định do nhà vua sáng tác, đó là những bài xướng
về những chủ đề như vịnh năm canh, vịnh tứ thời, vịnh các nhân vật lịch sử
Trung Quốc, vịnh các nhân vật lịch sử Việt Nam. Được sự khuyến khích của
nhà vua, các nhân sĩ thời Hồng Đức đều hăng say sáng tác thơ, những bài
mang tính chất vịnh được xác định là của các văn thân xong rất khó xác định
một cách chính xác ai đã viết bài nào.
Như vậy, có thể khẳng định tập thơ Hồng Đức quốc âm thi tập là tập hợp
những sáng tác của nhiều tác giả, chủ yếu là thành viên của hội Tao Đàn trong
đó không thể thiếu vua Lê Thánh Tông, cũng có người không phải là thành
viên của hội Tao Đàn, bình thơ và sáng tác thơ dưới sự chủ súy của nhà vua.
1.1.2. Tác phẩm
1.1.2.1 Hoàn cảnh ra đời
Văn học là một hiện tượng xã hội vì thế sự hình thành và phát triển của
một nền văn học, một dòng văn học hay chỉ đơn thuần là một tác phẩm văn
học bao giờ cũng gắn liền với những tiền đề lịch sử - xã hội, văn hóa – văn
học nhất định. Sự ra đời của Hồng Đức quốc âm thi tập cũng không nằm
ngoài quy luật ấy.
Cuộc kháng chiến chống quân Minh thắng lợi, hòa bình được lập lại, Lê
Thái Tổ đã xây dựng một nhà nước phong kiến trung ương tập quyền dựa trên
một cơ sở xã hội khác hẳn thời Trần. Sự nghiệp đó tiếp tục được củng cố về
mọi mặt qua các đời vua Thái Tông, Nhân Tông, đặc biệt là vua Thánh Tông.
Đến nửa sau thế kỉ thứ XV, nhà nước phong kiến thời Hậu Lê đã đạt tới giai
đoạn cực thịnh, là quốc gia cường thịnh nhất khu vực Đông Nam Á lúc bấy

giờ. Đây cũng chính là tiền đề quan trọng cho sự phục hưng văn hóa, văn học
thế kỉ thứ XV nói chung và nửa sau thế kỉ thứ XV nói riêng.

9


Công cuộc phục hưng văn hóa thế kỉ thứ XV xuất phát xuất phát từ hoàn
cảnh lịch sử những năm đầu thế kỉ. Có thể khẳng định: công cuộc phục hưng
văn hóa thời Hậu Lê được tiến hành đồng bộ qua cánh ứng xử với văn hóa vật
chất, chú ý nâng cao văn hóa – tổ chức đời sống xã hội và phát triển mạnh văn
hóa giáo dục. Bên cạnh đó, sự phát triển của Nho giáo đã đồng thời khích lệ
sự phát triển của văn hóa, văn học… Môi trường xã hội ấy là những tiền đề
quan trọng cho việc phát triển một nền văn hóa, văn học rực rỡ. Vì thế văn
học nửa sau thế kỉ thứ XV đã kế tục xuất sắc những thành tựu văn học của
thời đại Lý – Trần, văn học nửa đầu thế kỉ tiếp nối và phát triển dòng thơ
Nôm Đường luật với một đội ngũ sáng tác đông đảo, đứng đầu là Lê Thánh
Tông. Hồng Đức quốc âm thi tập đã ra đời trong không khí xã hội ấy.
Không chỉ có vậy, sự ra đời của Hồng Đức quốc âm thi tập còn chịu ảnh
hưởng sâu sắc của dòng văn học chữ Nôm trước đó. Đặc biệt là tập Quốc âm
thi tập của Nguyễn Trãi.
Có thể khẳng định rằng, Quốc âm thi tập của Nguyễn Trãi là một cột
mốc lớn, ở vị trí hàng đầu của chặng đường phát triển tiếng Việt, là tiền đề
quan trọng cho sự ra đời của Hồng Đức quốc âm thi tập, tạo nên một thời đại
thơ Nôm phát triển rực rỡ nhất trong lịch sử văn học tiếng Việt thời trung đại.
Đặc biệt, tháng 11 năm Ất Mão (1495) nhân gặp tiết trời thuận hòa, mùa
màng tươi tốt, mọi việc nhàn rỗi, Lê Thánh Tông sáng tác chín khúc ca làm
thành Quỳnh uyển cửu ca, tự soạn bài tựa, tự xưng là Tao đàn nguyên súy,
chọn hai mươi tám văn thần, phong làm Tao đàn nhị thập bát cú, và truyền
họa lại đúng vần chín khúc Quỳnh Uyển cửu ca nói trên. Sự ra đời của hội
Tao đàn chính là một nguyên nhân quan trọng dẫn đến sự ra đời của Hồng

Đức quốc âm thi tập.
Trên đây là những tiền đề lịch sử - xã hội, văn hóa – văn học đưa đến sự
ra đời của Hồng Đức quốc âm thi tập. Hiểu được những tiền đề xuất hiện tác

10


phẩm này sẽ giúp chúng ta có được cái nhìn, một cách đánh giá đầy đủ, khoa
học và chính xác hơn, tránh được lối áp đặt, giáo điều khi khảo sát, nghiên
cứu khi khảo sát văn chương nhất là văn chương cổ.
1.1.2.2. Nội dung chính
Về nội dung của tập Hồng Đức quốc âm thi tập, tác giả Phạm Trọng
Điền và Bùi Văn Nguyên trong cuốn Hồng Đức quốc âm thi tập cho rằng: “
Đây là tập hợp thơ nhiều tác giả cho nên ý thơ và lời thơ cũng muôn màu muôn
vẻ… Tuy nhiên, hướng sáng tác vẫn tập trung dưới sự chỉ đạo của nhà vua, từ
trật tự đến các chủ đề chung: tình yêu thiên nhiên, yêu đất nước, yêu chính
nghĩa, yêu trí óc thông minh, yêu tâm hồn trong sáng, và từ đó toát lên niềm tự
hào dân tộc, trong tổ quốc độc lập và thanh bình.” [3, tr 17]
Bên cạnh đó, Hồng Đức quốc âm thi tập cũng có nét mô tả đời sống
nhân dân trong thôn xóm, trong đồng ruộng mặc dù còn sơ sài nhưng rất quý.
Các nhà thơ ở đây đã chú ý đến hình dáng “con trâu”, “đụn củi”, đến “cơm
trắng”, “cá tươi” của người bình dân và phần nào thấy được cảnh khổ của
những người thuộc lớp dưới.
Toàn tập thơ Hồng Đức quốc âm thi tập hiện có 328 bài, chia làm năm
phần như sau:
1.

Thiên địa môn, gồm 59 bài.

2.


Nhân đạo môn, gồm 46 bài.

3.

Phong cảnh môn, gồm 66 bài.

4.

Phẩm vật môn, gồm 69 bài.

5.

Nhàn ngâm chư phẩm, gồm 83 bài.

Hồng đức quốc âm thi tập cũng là một tập thơ nhiều tác giả, cho nên nội
dung cũng như nghệ thuật có nhiều hình, nhiều vẻ và khi nhận định không thể
đánh đồng nhất loạt được. Bên cạnh mặt hạn chế thì tập thơ cũng thể hiện
được những mặt tích cực và khả thủ về nội dung cũng như về hình thức ngôn

11


ngữ văn học. Đồng thời tập thơ cũng phản ánh được một số vấn đề thuộc lĩnh
vực đời sống của dân tộc trong thời bấy giờ…
1.2. Thơ vịnh sử
1.2.1. Khái niệm thơ vịnh sử
Theo Từ điển thuật ngữ văn học “ Thơ vịnh sử là thơ ca vịnh sự kiện và
nhân vật lịch sử. Bài thơ vịnh sử nổi tiếng đầu tiên trong lịch sử văn học
Trung Quốc là của Ban Cổ đời Hán, viết về sự tích nàng Đề Oanh xin chịu tội

thay cha, lấy “ Vịnh sử” làm tên bài thơ. Nhưng thơ vịnh sử có thể bắt đầu
sớm hơn từ trong Kinh Thi và Li Tao”. [4, tr320]
Theo giáo trình Văn học Việt Nam thế kỉ thứ X đến nửa đầu thế kỉ thứ
XVIII: “ Thơ vịnh sử là loại thơ vịnh truyện cũ người xưa “ Làm thơ vịnh sử
chủ yếu gửi gắm ý khen chê” trích lời tự tập thơ Việt giám vịnh sử của Đặng
Minh Khiêm). Cũng như các thể tài khác, thơ vịnh sử được sáng tác theo
những quan niệm truyền thống, trong đó nổi bật là tính chất sùng cổ và tính
giáo huấn theo quan niệm chính thống” [6, tr204]
Như vậy, khái niệm về thơ vịnh sử đã chỉ cho thấy hai yếu tố căn bản:
Thứ nhất là thể loại thơ ca. Thứ hai là đề tài viết về lịch sử.
Nói về đề tài lịch sử thì thơ vịnh sử khai tác chất liệu lịch sử ở ba bình
diện.
1-

Nhân vật lịch sử

2-

Sự kiện lịch sử

3-

Di tích lịch sử (phong cảnh, địa danh có liên quan đến lịch sử, ghi

dấu những sự kiện lịch sử).
Các tác giả lấy chất liệu lịch sử ở hai nguồn cơ bản:
1-

Truyền thuyết, truyện cổ dân gian Việt Nam và Trung Quốc.


2-

Sách sử (dã sử và chính sử), ghi chép lịch sử dân tộc, lịch sử Trung

Quốc (Bắc sử và Nam sử).

12


Dựa vào những bình diện khác nhau trong khai thác chất liệu lịch sử,
người ta chia thơ vịnh sử ra làm nhiều loại: vịnh nhân vật lịch sử, sự kiện lịch
sử… (đối với thơ vịnh nhân vật các tác giả chia làm nhiều loại nhân vật, thí
dụ Đặng Minh Khiêm trong Thoát Hiên thi tập phân thành danh thân; danh
nho; danh tướng; nữ chúa…) có khi ở dạng vịnh đền miếu, chùa quán nhưng
tính chất vịnh sử thường thể hiện rõ ở loại vịnh nhân vật, các tác giả cũng
thiên về vịnh nhân vật.
Vì là thơ vịnh nên có những đặc điểm khác thơ ca bình thường. Thơ vịnh
luôn biểu lộ thái độ, tình cảm của người làm thơ trước đối tượng được đưa ra
làm khách thể. Có thể nói, thơ vịnh sử là những áng văn chương nhằm xác định
giá trị của nhân vật hoặc sự kiện lịch sử, dưới góc độ một lý tưởng nào đó.
Người làm thơ vịnh sử có thể bộc lộ thái độ khen chê, tán thưởng hay
phê phán, tự hào, khâm phục… trước sự liện lịch sử, trước nhân vật được
nhắc tới tùy theo góc nhìn nhận.
Việc thống kê và phân tích thơ vịnh sử trong Hồng Đức quốc âm thi tập
sẽ cụ thể hóa khái niệm thơ vịnh sử của một thời kì.
1.2.2. Thơ vịnh sử trước và sau Hồng Đức quốc âm thi tập
1.2.2.1. Thơ vịnh sử trước Hồng Đức quốc âm thi tập
Dòng văn học Việt Nam được hình thành cùng với sự ra đời của quốc gia
phong kiến độc lập đầu tiên đứng đầu là vua Lý Thái Tổ (thế kỷ thứ X). Từ
thời Lý, bên cạnh loại văn học chính luận (hịch, chiếu, biểu)… đã có văn học

hình tượng, điểm xuyết trong những lời truyền đạo, giảng kinh (thường là
những bài thơ ngắn theo thể cổ phong) đã có những hình ảnh, liên tưởng thoát
ra ngoài ý nghĩa biểu hiện khô khan, khuân sáo. Các nhà sư không chỉ dùng
“ngôn từ” cô đọng để minh họa giáo lý nhà Phật, quan niệm thế giới, nhân
sinh mà dần dùng thơ để “tỏ chí”, biểu lộ cảm xúc cuộc đời, những bài thơ
“ngôn hoài”, “thuật hoài” đã kín đáo bộc lộ cái “bản ngã” “cái riêng” của nhà

13


sư (đồng thời là thi sĩ) thời Lý. Sự khảng định “chân giá trị” của con người từ
chỗ ý thức về sự tồn tại cá nhân (tiểu hồn) trong vũ trụ, (đại hồn) mở rộng dần
ra đối tượng khách quan. Thơ ca ngợi những nhân vật của lịch sử (những con
người có tác động đến lịch sử, đó không phải là những nhân vật anh hùng
trong thần thoại hoặc truyền thuyết, những anh hùng chống ngoại xâm mà chủ
yếu là những nhà sư). Thơ thời Lý bị thất truyền nhiều, số còn lại với chúng ta
ngày nay bao gồm nhiều loại trong đó có những bài thơ vịnh nhân vật. Như
Lý Nhân Tông có bài Tặng Giác Hải thiền sư. Ở thời kì mà Phật giáo đang
thịnh hành thì những môn đồ của Thích Ca trở thành thần tượng được cả xã
hội tôn thờ. Sự tồn tại của những nhà sư gắn liền với sự tồn tại của một thời kì
lịch sử, có ảnh hưởng nhất định đối với sự phát triển của lịch sử.
Sang thời Trần (thế kỉ thứ XIV) lối thơ vịnh bằng chữ Hán đã bắt đầu
xuất hiện nhưng còn rất ít, số tác phẩm được lưu lại không nhiều, nếu như ở
thời Lý đối tượng vịnh là các nhà sư thì đến thời Trần, đối tượng vịnh được
mở rộng hơn nhân vật là những anh hùng dân tộc như Hưng Đạo Vương, Trần
Nguyên Đán. Những người có công xây dựng văn hiến như Chu Văn An,
những nhân vật trong lịch sử Trung Quốc như Hán Cao Tổ, Đường Trúc
Tông, Hạng Vũ. Bên cạnh những bài thơ vịnh nhân vật còn có những bài thơ
vịnh dấu tích lịch sử (vịnh cảnh có liên quan tới chiến tích), ví dụ như: Hàm
Tử Quan (Trần Lâu), Chi Lăng Động (Phạm Sư Mạnh), Bạch Đằng Giang (

Trần Minh Tông)… hoặc những địa danh liên quan tới truyền thuyết như Tản
Viên Sơn, Vọng Phu Thạch…..
Đầu thế kỉ thứ XV, Lý Tử Thần có bài ca Pháp vân cổ tự kí kể về truyền
thuyết Nam Vương được coi là bài thơ vịnh sử (theo Lê Quý Đôn), Nguyễn
Trãi cũng có một số bài thơ bằng chữ Hán vịnh di tích lịch sử như Vân Đồn,
Bạch Đằng Giang, Đề Kiếm… số lượng các bài thơ là quan trọng nhưng quan
trọng hơn là ý thức của các tác giả trong sáng tác theo một “kiểu thơ” lấy đề

14


tài trong lịch sử, nó không bó hẹp ở các dạng viếng, tặng một cách trực tiếp
mà vịnh cả nhân vật xa xưa được sử sách ghi chép lưu truyền (thơ Trần Anh
Tông).
Điểm qua một số thành tựu của văn học trước Hồng Đức quốc âm thi tập
để có thể thấy rằng: xu hướng tái hiện sự kiện lịch sử của văn học bằng những
hình thức nhất định đã được hình thành từ trước thế kỉ thứ XV thời điểm ra
đời của Hồng Đức quốc âm thi tập, lịch sử (qua nhân vật lịch sử) và sự kiện
lịch sử trở thành đối tượng (đề tài) của thơ ca.
1.2.2.2. Thơ vịnh sử sau Hồng Đức quốc âm thi tập
Từ sau thế kỉ thứ XV, thơ vịnh sử đã phát triển mạnh. Bên cạnh những
bài thơ vịnh nhân vật Bắc sử còn chú trọng cả nhân vật Nam sử, nhưng từ sau
thế kỉ thứ XV, thơ vịnh sử phát triển là một biểu hiện khuynh hướng cảm thán
thời thế của các nhân sĩ trước thực trạng xã hội phong kiến suy vi, thơ vịnh sử
tiếp tục chủ nghĩa yêu nước trong văn học ở loại đề tài lịch sử. Sự phát triển
của thơ vịnh sử được đánh dấu bằng:
Thứ nhất, là những bài thơ vịnh sử có tính chất hệ thống, chuyên đề.
Ngay cùng thời với Hồng Đức quốc âm thi tập, Lê Thánh Tông bên cạnh việc
khuyến khích các văn thần xướng họa, vịnh nhân vật lịch sử, các sử gia sưu
tập sự tích chuyện dân gian để viết bộ sử nước nhà, ông còn sáng tác tập thơ

vịnh sử bằng chữ Hán Cổ tâm bách vịnh là tập thơ vịnh sử có hệ thống đầu
tiên trong văn học viết Việt Nam. Hầu hết các tác giả thơ văn từ thế kỉ thứ
XVI đều có thơ vịnh sử, nhiều tác giả có những tập thơ vịnh sử lớn có ý thức
trong sáng tác thơ vịnh sử. Thơ vịnh sử không còn phát triển lác đác, thưa thớt
mà đã trở thành một dòng văn học. Các tác giả lớn của dòng thơ vịnh sử thời
kì này: Đặng Minh Khiêm với tác phẩm Việt giám vịnh sử gồm 125 bài thơ
(ông vịnh các nhân vật nước Nam từ vua chúa, tướng lĩnh đến các văn thần,
danh nho, liệt nữ…), Hà Nhiệm Đại với Khiếu vịnh thi tập gồm 106 bài thơ

15


(vịnh các đề xướng, công thần, gian thần thuộc thời Lê), Lê Quang Bí và Vũ
Công Đạo với tác phẩm Tư hương vạn lục (Vịnh các nhân vật Nam sử vừa có
tính chất địa phương vừa có tính chất gia tộc, hai ông đã để công trong việc
sưu tập truyện kể về thần hoàng ở các làng xã, đền miếu và những con người
cụ thể ở địa phương). Ngoài các tác giả với những thi tập lớn còn có những
tác giả khác có sáng tác thơ vịnh sử như Phùng Khắc Khoan, Lê Công Triều,
Nguyễn Cư Trinh, Ngô Thì Ức, Phạm Lan Anh… hàng loạt các tác giả sáng
tác thơ vịnh sử, hàng loạt tác phẩm được sáng tác với đề tài vịnh sử đã chứng
tỏ sự phát triển của đề tài này từ sau thế kỉ thứ XV khuynh hướng phát triển
ấy dẫn đến sự hình thành của loạt diễn ca lịch sử vào thế kỉ thứ XVII.
Thứ hai, là đến thế kỉ thứ XVII, về mặt thể loại của thơ ca đã có sự phát
triển, không chỉ có thơ cổ phong, thơ hàn luật, Đường luật… mà nhu cầu phản
ánh cuộc sống, đời sống tình cảm đã thúc đẩy thơ lục bát và song thất lục bát
phát triển. Trước khi được sáng tác khúc ngâm và truyện thơ, loại thể này đã
được dùng để “viết sử”, người ta đã có những sáng tác “dài hơi” hơn để kể
chuyện lịch sử. Ví dụ như Thiên nam ngữ lục xuất hiện vào nửa đầu thế kỉ
XVIII với hơn 8000 câu thơ lục bát giống như cuốn biên niên bằng thơ làm
sống lại các thời kì lịch sử của dân tộc. Thiên nam ngữ lục đánh đấu thành tựu

lớn của thể loại lịch sử - văn học không phải ở trữ lượng sự kiện lịch sử được
phản ánh mà đáng kể nhất là ngôn ngữ Nôm tiếp tục phát huy được vai trò
của nó trong việc tái hiện lịch sử. Thơ vịnh sử Nôm bắt đầu từ Hồng Đức
quốc âm thi tập nhưng đến thế kỉ thứ XVII các nhà thơ ít sử dụng chữ Nôm
trong thơ vịnh sử (phần lớn các bài thơ vịnh sử được viết bằng chữ Hán).
Tiếp sau Thiên Nam ngữ lục nửa cuối thế kỉ XVII, tập diễn ca lịch sử
Thiên Nam minh giám ra đời với 936 câu thơ song thất lục bát tái hiện lịch sử
dân tộc. Không phải ngẫu nhiên mà bên cạnh những bộ sử kí (chính sử) đồ sộ
lại có những truyện thơ về lịch sử, truyện thơ lịch sử (diễn ca lịch sử) không

16


những tái hiện lịch sử mà còn tái tạo lịch sử bằng hình tượng lịch sử. Nó cung
cấp không chỉ những cứ liệu lịch sử mà còn đem đến những rung cảm thẩm
mỹ đối với nhân vật và sự kiện lịch sử, diễn ca lịch sử tạo ra con đường riêng
của nghệ thuật đối với chức năng nhận thức lịch sử và phản ánh lịch sử.
Thứ ba, vào thế kỉ thứ XVIII các tác giả tiếp tục sáng tác thơ vịnh sử.
Nguyễn Du trong Bắc hành tạp lục đã vịnh các nhân vật Bắc sử (Hàn Tín,
Tào Tháo, Dương Quý Phi, Đỗ Phủ..). Thơ vịnh sử của Nguyễn Du thể hiện
cái nhìn nhân đạo của ông. Ông thường chú ý “vịnh” số phận bi kịch của con
người hơn là những phẩm chất anh hùng. So với thơ vịnh sử của các tác giả
khác cùng thời thì thơ vịnh sử của Nguyễn Du có bản sắc riêng. Cuối thế kỉ
thứ XVIII, Cao Bá Quát viết khá nhiều thơ vịnh nhân vật Bắc sử và Nam sử.
Thơ vịnh sử là nơi ông gửi gắm ý chí, phẩm cách cao khiết của mình. Thơ
vịnh sử không chỉ phản ánh lịch sử mà còn là sự thể hiện mình đối với các tác
giả từ sau Hồng Đức quốc âm thi tập thơ vịnh sử mang cảm xúc cá nhân rõ rệt
hơn. Đó cũng là sự phát triển của thơ vịnh sử qua tài năng sáng tạo của các tác
gia văn học viết.
Như vậy, cùng với sự phát triển của văn học viết, thơ vịnh sử sau Hồng

Đức quốc âm thi tập đã phát triển với một số lượng ngày càng lớn, đặc biệt
hơn nữa thời kì này thơ vịnh sử đã lấy chất liệu từ lịch sử Việt Nam. Thơ vịnh
sử được sáng tác theo những nguyên tắc nghệ thuật của thơ ca cổ nhưng vấn đề
cơ bản là sáng tạo ra những vần thơ mang tâm hồn của dân tộc. Điều đó khiến
cho lịch sử được khúc xạ vào nghệ thuật không còn đơn thuần là lịch sử.

17


Chương 2
GIÁ TRỊ NỘI DUNG VÀ NGHỆ THUẬT CỦA
THƠ VỊNH SỬ TRONG HỒNG ĐỨC QUỐC ÂM THI TẬP
2.1. Thống kê và phân loại
Sau khi tiến hành khảo sát tập thơ Hồng Đức quốc âm thi tập chúng tôi
thấy có 48 bài thơ vịnh sử và được phân loại như sau :
2.1.2. Vịnh về nhân vật
STT

Nhân vật được đề Số lượng
vịnh
bài

Loại nhân vật được
đề vịnh
Nhân vật Nhân vật
truyền
lịch sử
thuyết

Nhân vật Nhân vật

Việt
Trung
Nam
Quốc

1

Ngưu Lang Chức Nữ

3 bài

x

x

2

Thánh Gióng

1 bài

x

x

3

Chử Đồng Tử

1 bài


x

x

4

Triệu Ân

1 bài

x

x

5

Trưng Vương

1 bài

x

x

6

Lý Ông Trọng

1 bài


x

x

7

Lê Du

1 bài

x

x

8

Lương Thế Vinh

1 bài

x

x

9

Nguyễn Trực

1 bài


x

x

10

Vũ Nương

1 bài

x

x

11

Mỵ Ê

1 bài

x

x

12

Lưu Nguyễn

1 bài


x

18

x


13

Vương Chiêu
Quân

3 bài

14

Tô Vũ

2 bài

x

x

15

Khổng Tử

3 bài


x

x

16

Quan Vân
Trường

6 bài

x

x

17

Gia Cát Lượng

1 bài

x

x

18

Triệu Tử Lang


1 bài

x

x

19

Tào Tháo

1 bài

x

x

20

Điêu Thuyền

1 bài

x

x

21

Hán Cao Tổ


1 bài

x

x

22

Hạng Vũ

1 bài

x

x

23

Trương Lương

1 bài

x

x

24

Tiêu Hà


1 bài

x

x

25

Hàn Tín

1 bài

x

x

26

Mẹ Vương Bằng

1 bài

x

x

x

2.1.2. Vịnh về địa danh lịch sử
1. Bạch Đằng giang

2.2. Thơ vịnh sử trong Hồng Đức quốc âm thi tập nhìn từ phương diện nội
dung
2.2.1. Thơ vịnh về các nhân vật lịch sử
2.2.1.1. Khắc họa chân dung anh hùng dân tộc

19


Thơ vịnh sử bên cạnh gửi gắm tâm trạng chủ quan của tác giả thì chủ
yếu là giải quyết những vẫn đề của lịch sử. Khác với những thể loại văn học
phản ánh hiện thực lịch sử (tức là những vấn đề lịch sử đang đặt ra, ví dụ
trong Hịch, Cáo…), thơ vịnh sử lại đặt nặng những vấn đề suy tư lịch sử.
Trước Hồng Đức quốc âm thi tập đã có nhiều bài thơ vịnh sử song đó chủ yếu
là thơ vịnh các nhân vật lịch sử Trung Quốc và được viết bằng chữ Hán. Đề
tài, chủ đề vịnh sử Nôm chỉ thực sự được khai mở từ Hồng Đức quốc âm thi
tập, các nhà thơ Nôm khác ít viết về đề tài chủ đề lịch sử. Vì thế có thể khẳng
định Hồng Đức quốc âm thi tập ra đời đánh dấu bước phát triển mới cho thơ
vịnh sử Nôm “Do thái độ sùng cổ nhân và mục đích giáo hóa của văn
chương, văn học mới có đề tài vịnh sử. Thể tài ấy mới thấy ít bài chữ Hán
vịnh các nhân vật Bắc sử thời Trần. Đến Lê Thánh Tông thơ vịnh sử trải qua
bước phát triển mới … Có ý nghĩa hơn cả là những bài vịnh sử Nôm, tuy chỉ
vài chục bài, lại vịnh Bắc sử khá nhiều, nhưng những bài vịnh Nam sử của Lê
Thánh Tông và các tác giả thời Hồng Đức đến nay vẫn là cổ kính nhất [10,
tr.121].
Trước những cái đã qua, con người được phán xét và khái quát thành
quy luật: Lê Thánh Tông và những văn thần thời ông hiểu sự tồn tại của thời
đại mình từ những cái bắt đầu như thế nào. Con người Đại Việt từ bao đời đã
phát huy ý thức độc lập tự cường, luôn khẳng định mình, luôn đấu tranh để
bảo vệ quyền sống trên mảnh đất phương Nam vốn được định bởi “sách trời”.
Lê Thánh Tông đã kế tục sự nghiệp dựng nước trên những thành quả đổi bằng

xương máu của các thế hệ trước. Vịnh những nhân vật lịch sử Việt Nam (gắn
nhân vật với sự kiện lịch sử) chính là “nỗi niềm ưu ái”, sự trân trọng quá khứ
dân tộc của các tác giả thời Hồng Đức.
Nếu như các bài thơ vịnh nhân vật lịch sử Trung Quốc thể hiện khá rõ
tính khuôn mẫu, điền phạm của văn chương nhà Nho (sùng bái cổ nhân với

20


×