Tải bản đầy đủ (.pdf) (56 trang)

Tây hành nhật ký – tác phẩm du ký chữ Hán của Phạm Phú Thứ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (913.01 KB, 56 trang )

TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA NGỮ VĂN

======

TRẦN THỊ NGỌC THANH

TÂY HÀNH NHẬT KÝ – TÁC PHẨM DU KÝ
CHỮ HÁN CỦA PHẠM PHÚ THỨ

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Văn học Việt Nam

Ngƣời hƣớng dẫn khoa hoc

Th.S LÊ THỊ HẢI YẾN

HÀ NỘI - 2017


LỜI CẢM ƠN
Tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành và lòng biết ơn sâu sắc tới ThS. Lê Thị
Hải Yến – Giảng viên Tổ Văn học Việt Nam; người trực tiếp hướng dẫn, chỉ bảo
tận tình giúp tôi trong suốt thời gian thực hiện khóa luận: “Tây hành nhật ký –
tác phẩm du ký chữ Hán của Phạm Phú Thứ”.
Tôi cũng xin gửi lời cảm ơn tới tất cả các thầy cô giáo trong Khoa Ngữ
Văn – Trường Đại học Sư Phạm Hà Nội 2 đã giúp đỡ và tạo điều kiện thuận lợi
để tôi hoàn thành khóa luận này.
Khóa luận được hoàn thành song không tránh khỏi những hạn chế,
thiếu sót, tôi rất mong nhận được những đóng góp ý kiến từ phía thầy cô và
các bạn để bài viết được hoàn thiện hơn.


Tôi xin trân trọng cảm ơn!
Hà Nội, ngày 20 tháng 4 năm 2017.
Tác giả khóa luận

Trần Thị Ngọc Thanh


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan khóa luận tốt nghiệp này là kết quả nghiên cứu của
tôi dưới sự hướng dẫn của ThS. Lê Thị Hải Yến. Kết quả thu được là hoàn
toàn trung thực và không trùng với kết quả nghiên cứu của những tác giả
khác.
Hà Nội, ngày 20 tháng 4 năm 2017.
Tác giả khóa luận

Trần Thị Ngọc Thanh


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
1. Lý do chọn đề tài ..................................................................................... 1
2. Lịch sử nghiên cứu .................................................................................. 2
3. Mục đích nghiên cứu ............................................................................... 6
4. Đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu.............................................................. 6
5. Phƣơng pháp nghiên cứu........................................................................ 6
6. Bố cục khóa luận ..................................................................................... 7
NỘI DUNG....................................................................................................... 7
Chƣơng 1. GIỚI THUYẾT CHUNG............................................................. 7
1.1. Thể tài “du ký” Việt Nam thế kỷ XVIII - XIX .................................. 7
1.1.1. Vấn đề thuật ngữ “du ký” .............................................................. 8

1.1.2. Phân loại “du ký”........................................................................... 9
1.1.3. Diện mạo “du ký chữ Hán” Việt Nam thế kỷ XVIII – XIX ....... 12
1.2. Tác giả Phạm Phú Thứ và Tây hành nhật ký................................... 15
1.2.1. Phạm Phú Thứ - Tiến sĩ Việt Nam đầu tiên tới trời Tây ......... 15
1.2.2. Tác phẩm Tây hành nhật ký ........................................................ 21
Tiểu kết chƣơng 1 ...................................................................................... 24
Chƣơng 2. TÂY HÀNH NHẬT KÝ - NHỮNG ĐẶC ĐIỂM TIÊU BIỂU .... 26
2.1. Đặc điểm về nội dung ......................................................................... 26
2.1.1. Tiếp xúc, ghi chép trực tiếp về phương Tây ............................... 26
2.1.2. Khát vọng canh tân đất nước ...................................................... 34
2.2. Đặc điểm nghệ thuật .......................................................................... 37
2.2.1. Điểm nhìn nghệ thuật .................................................................. 37
2.2.2. Hệ thống từ ngữ ........................................................................... 42
2.3. Đánh giá vị trí của Tây hành nhật ký................................................ 45


Tiểu kết chƣơng 2 ...................................................................................... 46
KẾT LUẬN .................................................................................................... 47
TÀI LIỆU THAM KHẢO


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Nửa sau thế kỷ XIX, chế độ phong kiến Việt Nam dưới triều Nguyễn,
đặc biệt là thời Tự Đức lâm vào cuộc khủng hoảng về tất cả các mặt. Đứng
trước những khó khăn về kinh tế ngày càng gay gắt, sự rối loạn về chính trị và
nguy cơ mất nước đang đến gần, những người Việt Nam có tri thức và tâm
huyết cứu nước đã mạnh dạn đưa ra những tư tưởng canh tân đất nước trên tất
cả các mặt: nội thương, ngoại giao, kinh tế cũng như văn hóa xã hội. Họ là
một số quan lại và sĩ phu tiến bộ thức thời – những người đã được tiếp xúc

trực tiếp với nền văn minh phương Tây. Trong đó, không thể không nhắc tới
Phạm Phú Thứ (1821 – 1882) cùng với Đặng Huy Trứ (1825 – 1874) và
Nguyễn Trường Tộ (1830 – 1871) là ba nhà duy tân lớn nhất Việt Nam nửa
sau thế kỷ XIX, tư tưởng canh tân của ông được thể hiện sâu sắc cả trên lý
thuyết và hành động thực tế. Về văn chương, Phạm Phú Thứ đã để lại sự
nghiệp sáng tác khá phong phú trong đó có tập Tây hành nhật ký được người
đọc đặc biệt chú trọng. Có thể nói, Tây hành nhật ký là tác phẩm làm nên tên
tuổi của Phạm Phú Thứ trong nền văn học trung đại Việt Nam. Tập du ký
được coi là cuốn nhật ký đầu tiên của người Việt ghi chép một cách tỉ mỉ, cụ
thể về đời sống sinh hoạt của người dân phương Tây.
Ngoài ra, đặt trong sự so sánh với các tác phẩm cùng thể loại du ký thì
Tây hành nhật ký có tầm quan trọng nổi bật, tập du ký hơn hẳn về quy mô và
phong phú gấp nhiều lần về nội dung. Trần Nghĩa với bài viết: “Vị trí Giá
Viên biệt lục trong văn học trung đại Việt Nam nửa cuối thế kỷ XIX” in trong
Giá Viên toàn tập của Phạm Phú Thứ đã nhận xét: “Giá Viên biệt lục vẫn
đánh dấu bước tiến mới về quy mô phản ánh và đối tượng phản ánh của ký
giai đoạn thứ tư – nửa cuối thế kỷ XIX. Nó chứng tỏ ký có khả năng to lớn,
phản ánh được những vấn đề quan trọng mà thời đại đặt ra, phản ánh những

1


vấn đề mang tầm vóc quốc tế, vượt qua giới hạn của phương Đông trung đại
đến với phương Tây hiện đại và vượt qua giới hạn của sự khác biệt giữa hai
hệ thống ngôn ngữ Đông – Tây.” [10, tr.2131].
Thực tế hiện nay tác giả Phạm Phú Thứ được giới phê bình, nghiên cứu
quan tâm và tìm hiểu trên nhiều bình diện tuy nhiên vẫn còn nhiều điều đáng nói.
Các sáng tác của Phạm Phú Thứ dung lượng khá lớn, tuy nhiên trong giáo
trình văn học trung đại thì cũng chưa giới thiệu nhiều đến những tác phẩm của
ông đặc biệt là tập Tây hành nhật ký.

Bản thân là một giáo viên tôi luôn mong muốn tìm hiểu sâu sắc các tác
giả và các tác phẩm thời xa xưa để có cái nhìn rộng hơn về văn học thời trung
đại. Đặc biệt là nhà nho có tư tưởng canh tân tiến bộ Phạm Phú Thứ.
Đây là những lý do mà chúng tôi chọn đề tài: Tây hành nhật ký – tác
phẩm du ký chữ Hán của Phạm Phú Thứ. Nghiên cứu về đề tài này phần nào
để thấy được giá trị của tập du ký đồng thời chỉ ra vị trí của tập du ký trong
tiến trình du ký Việt Nam thế kỷ XVIII – XIX cũng như thấy được vị trí của
nhà nho cánh tân Phạm Phú Thứ trong dòng chảy văn học dân tộc.
2. Lịch sử nghiên cứu
Qua hệ thống tài liệu tham khảo chúng tôi thấy tác phẩm Tây hành nhật
ký của Phạm Phú Thứ là đề tài khá hấp dẫn, được giới nghiên cứu quan tâm.
Bàn về vấn đề này đã có nhiều công trình nghiên cứu với hai quan điểm khác
nhau:
Thứ nhất là quan điểm cho rằng Tây hành nhật ký hay, đặc sắc có những
công trình nghiên cứu sau:
Ngày 29 tháng 5 năm 1994, Hội đồng hương Quảng Nam – Đà Nẵng tại
Thành phố Hồ Chí Minh và Hội khoa học Lịch sử Thành phố Hồ Chí Minh tổ
chức hội thảo Danh nhân Phạm Phú Thứ và in kỷ yếu Phạm Phú Thứ với tư
tưởng canh tân do Thái Nhân Hòa làm chủ biên. Kỉ yếu đã tập hợp nhiều bài

2


viết về con người, gia đình, công trạng, thơ văn và tập trung phân tích tư
tưởng canh tân Phạm Phú Thứ. Thái Nhân Hòa đã giới thiệu tác phẩm văn
chương Phạm Phú Thứ. Về Tây hành nhật ký, ông viết: “Tây hành nhật ký là
tập Nhật ký đi Tây của Phạm Phú Thứ trong phái bộ triều đình nhà Nguyễn
sang Pháp và Tây Ban Nha từ đầu tháng 6 năm 1863 đến cuối tháng 3 – 1864
(để chuộc lại ba tỉnh miền đông Nam Kỳ theo hiệp ước Nhâm Tuất 1862)
mang nội dung “tư tưởng canh tân” đã dâng lên vua Tự Đức ngày 31 – 3 –

1864” [4, tr.118].
Năm 1999, Hải Ngọc Thái Nhân Hòa nối tiếp những nghiên cứu về
Phạm Phú Thứ với công trình Trúc Đường Phạm Phú Thứ với xu hướng canh
tân. Thái Nhân Hòa đánh giá tư tưởng canh tân qua khảo sát các di thảo của
cụ Phạm Phú Thứ đồng thời đặt trong mối quan hệ với các nhà nho, trí thức
cùng thời có cùng tư tưởng như Phạm Phú Thứ. Đặc biệt, Thái Nhân Hòa cho
rằng chuyến đi sứ sang Pháp và Tây Ban Nha đã cho Phạm Phú Thứ cái nhìn
mới về xã hội phương Tây: “Tây hành nhật ký không chỉ là công trình khảo
sát thực tế mà còn là những đề xuất, gợi ý canh tân đất nước trên các mặt kinh
tế - xã hội, khoa học kỹ thuật và ngoại giao” [6, tr.56].
Năm 2007, Nguyễn Hữu Sơn có bài Thể tài du ký trên tạp chí Nam
Phong đăng trên Tạp chí Nghiên cứu văn học số 4 và xuất bản bộ sách Du ký
Việt Nam – Nam Phong tạp chí (1917 – 1934). Với hai công trình này,
Nguyễn Hữu Sơn đã đưa ra những phân tích, nhận định về thuật ngữ thể tài du
ký đồng thời đánh giá tác phẩm Tây hành nhật ký như là một trong những tác
phẩm tiêu biểu của du ký văn xuôi trung đại.
Năm 2011, trong Hội thảo quốc tế Những lằn ranh văn học tại Thành
phố Hồ Chí Minh Nguyễn Hữu Sơn có bài viết Thể tài văn xuôi du ký chữ
Hán thế kỷ XVIII – XIX và những đường biên thể loại đã đánh giá trong Tây
hành nhật ký có: “những giọng văn tả cảnh, tả vật, tả sự khác nhau và đan xen

3


trong đó một số ít đoạn văn hồi ức, kể sử, bình luận ngoại đề”, “cách ghi chép
khá đa dạng, phong phú” [22, tr.207].
Năm 2011, có Luận văn Thạc sĩ của tác giả Trần Minh Quý Nghệ thuật tự
sự trong Tây hành nhật ký của Phạm Phú Thứ. Tác giả luận văn đưa ra những
nhận định về giọng điệu tự sự, phương thức và ngôn ngữ tự sự của Phạm Phú
Thứ trong Tây hành nhật ký. Đây là căn cứ để Phạm Phú Thứ khám phá xã

hội, nền văn minh mới bên ngoài nước Việt.
Năm 2011, có công trình của Nguyễn Hoàng Thân Phạm Phú Thứ với
Giá Viên toàn tập tác giả đã giới thiệu về con người, cuộc đời, sự nghiệp
Phạm Phú Thứ, đặt ra và giải quyết vấn đề văn học, đánh giá giá trị học thuật
của Giá Viên toàn tập. Ông đã nhắc đến tác phẩm Tây hành nhật ký của Phạm
Phú Thứ như sau: “ghi chép chi tiết từng hoàn cảnh, sự kiện trên con đường đi
sứ theo từng thời điểm tương ứng” [25, tr.119].
Năm 2014, Trần Thị Mỹ Hạnh với luận văn Thể tài du ký trong văn xuôi
trung đại Việt Nam (Qua Thượng kinh ký sự, Tây hành kiến văn kỷ lược, Giá
viên biệt lục) đã nghiên cứu Giá Viên biệt lục (Tây hành nhật ký) trên khía
cạnh thể tài du ký. Đầu tiên, như về những điều trông thấy – nét đặc trưng của
thể tài du ký: “Phạm Phú Thứ đã giới thiệu về bức tranh hoành tráng tân kỳ
của nền văn minh châu Âu ở các nước phương Tây với những chi tiết sự kiện
chọn lọc.” [3, tr.16]. Hay về điểm nhìn nghệ thuật thì: “Còn ở Giá Viên biệt
lục, các trang viết được kết tinh bởi tầm nhìn của một nhà văn hóa, óc tư duy
của nhà khoa học và xúc cảm của một du khách.” [3, tr.21].
Năm 2014, có công trình nghiên cứu Thể tài du ký văn xuôi chữ Hán thế
kỷ XVIII – XIX, luận văn Tiến sĩ Hà Thị Thanh Nga, Viện Hàn lâm Khoa học
xã hội Việt Nam, Học viên Khoa học xã hội. Ở đây Tây hành nhật ký được
xem xét trên cả khía cạnh nội dung là tập du ký ghi chép toàn bộ cuộc sống
sinh hoạt của người dân các nước phương Tây và nghệ thuật của tác phẩm

4


trên phương diện điểm nhìn trần thuật, không gian, thời gian nghệ thuật của
tập du ký.
Năm 2015, Lê Nguyễn có bài viết Tây hành nhật ký – Tập sử liệu quý
của người xưa đăng trên trang . Bài nghiên cứu bàn về
những giá trị và đóng góp quan trọng của tập du ký đối với văn học cũng như

đối với lịch sử. Tây hành nhật ký là một tài liệu quý vừa là bản tấu của sứ bộ
dâng lên nhà vua, vừa là một tập du ký ghi chép thật tỉ mỉ và tinh tế những
chuyện mắt thấy tai nghe trong suốt cuộc hành trình của Phạm Phú Thứ.
Thứ hai, quan điểm cho rằng Tây hành nhật ký là sự đi xuống của thể
loại ký thể hiện trong bài viết của PGS-TS Nguyễn Đăng Na Vị trí Giá Viên
biệt lục (Tây hành nhật ký) trong văn học Việt Nam nửa cuối thế kỷ 19 in
trong Phạm Phú Thứ toàn tập (2014). Ở đây, tác giả nhận định: “Nhưng phải
thừa nhận rằng, Giá Viên biệt lục không tạo được sự khoái cảm ở người đọc
bằng Tây hành kiến văn kỷ lược. Những cảm xúc lạ lẫm hoặc ngạc nhiên đến
sung sướng đôi khi là rất ngây thơ trẻ con của Lý Văn Phức theo từng dòng
chữ ùa vào lòng người đọc. Người dọc hăm hở, hồi hộp, buồn vui, kinh dị…
theo tác giả. Ta khó có thể tìm thấy những cảm xúc kiểu đó khi đọc tác phẩm
của nhóm tác giả Phạm Phú Thứ.” [10, tr.2130]. Hay trong bài viết của mình
Nguyễn Đăng Na còn nói: “Và vì vậy, các tác giả đã đưa Giá Viên biệt lục
quay về với hình thức văn học chức năng. Hình thức (văn học chức năng) sẽ
tự mâu thuẫn với nội dung (hiện thực rộng lớn sống động của thế giới phương
Tây tư bản). Giá Viên biệt lục báo hiệu sự bế tắc của thể loại ký.” [10,
tr.2131].
Tóm lại, những công trình nghiên cứu này mới dừng ở mức độ khái quát
một vấn đề nào đó của tập du ký, mà nghiên cứu mang tính chất tổng quát về
nội dung và nghệ thuật của Tây hành nhật ký là chưa có. Với thái độ trân
trọng và kế thừa những thành tựu nghiên cứu của những người đi trước, trong

5


khuôn khổ cho phép, khóa luận xin tiếp tục nghiên cứu, mở rộng và bổ sung
nhiều ý kiến, quan điểm của bản thân về tập Tây hành nhật ký của Phạm Phú
Thứ trong tiến trình du ký Việt Nam thế kỷ XVIII – XIX.
3. Mục đích nghiên cứu

Thực hiện đề tài này chúng tôi hướng đến các mục đích sau:
- Góp phần tìm hiểu thêm một tác phẩm thuộc thể loại du ký, chỉ ra đặc
điểm nội dung, nghệ thuật của tập Tây hành nhật ký.
- Qua những đặc điểm về nội dung và nghệ thuật của Tây hành nhật ký,
khẳng định vị trí, vai trò của tập du ký nói riêng và thể tài du ký nói chung
trong giai đoạn văn học trung đại Việt Nam.
4. Đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Để thực hiện đề tài, đối tượng nghiên cứu là tập Tây hành nhật ký của
Phạm Phú Thứ.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi tư liệu: chúng tôi lựa chọn bản dịch Tây hành nhật ký của Phạm
Phú Thứ (Bản dịch in trong Phạm Phú Thứ toàn tập (2014), Phạm Ngô Minh
(chủ biên), NXB Đà Nẵng). Bên cạnh đó, để có cái nhìn đầy đủ, toàn diện và
khách quan trong phân tích, nhận xét, đánh giá, chúng tôi mở rộng biên độ đối
tượng và phạm vi nghiên cứu để so sánh, đối chiếu, khảo sát với 3 tập du ký
chữ Hán thế kỷ XVIII – XIX đó là: Thượng kinh ký sự (Lê Hữu Trác), Hải
trình chí lược (Phan Huy Chú) và Tây hành kiến văn kỷ lược (Lý Văn Phức).
Phạm vi nội dung: nghiên cứu đặc điểm nội dung, nghệ thuật của Tây
hành nhật ký và vị trí của Tây hành nhật ký trong thể tài du ký Việt Nam thế
kỷ XVIII – XIX.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Để thực hiện đề tài này, chúng tôi sử dụng các phương pháp nghiên cứu

6


sau đây:
- Phương pháp loại hình
- Phương pháp phân tích tổng hợp

- Phương pháp so sánh, đối chiếu
6. Bố cục khóa luận
Ngoài phần Mở đầu, phần Kết luận, Mục lục và Tài liệu tham khảo, phần
Nội dung chính của khóa luận bao gồm hai chương:
Chương 1. Giới thuyết chung
Chương 2. Tây hành nhật ký – những đặc điểm tiêu biểu

NỘI DUNG
Chƣơng 1. GIỚI THUYẾT CHUNG
1.1. Thể tài “du ký” Việt Nam thế kỷ XVIII - XIX

7


1.1.1. Vấn đề thuật ngữ “du ký”
“Du ký” hiểu theo cách triết tự: du là đi, ký là viết; du ký là đi và viết,
ghi chép những gì mắt thấy tai nghe trên đường đi đến một nơi nào đó. Trong
Từ điển Tiếng Việt (Hoàng phê chủ biên) du ký là thể ký “ghi lại những điều
người viết chứng kiến trong chuyến đi chơi xa” [16, tr.25]. Thuật ngữ du ký
cũng được dựa vào các từ điển chuyên ngành văn học và các nghiên cứu
thuộc lí luận văn học. Du ký cũng đã được nhắc đến với tư cách là một thể
văn trong sách Các thể văn chữ Hán Việt Nam: “Văn du ký là loại văn được
viết ra trong những chuyến đi, vừa để ghi lại hành trình, vừa để bày tỏ cảm
xúc về những điều mắt thấy tai nghe. Đặc điểm của văn du ký là chuyên lấy
việc mô tả thắng cảnh núi sông, phong vật làm đề tài, cách viết đa dạng, có
thể miêu tả, có thể trữ tình, có thể nghị luận, và phải là chính tác giả ghi chép
lại chuyến đi của chính mình, miêu tả lại cảm thụ của bản thân trước núi non,
phong vật.” [32, tr.113].
Từ điển thuật ngữ văn học xác định: “Du ký là một thể loại văn học
thuộc loại hình lý mà cơ sở là sự ghi chép của bản thân người đi du lịch ngoạn

cảnh về những điều mắt thấy, tai nghe của chính mình tại những xứ sở xa lạ
hay những nơi ít người có dịp đến. Hình thức của du ký rất đa dạng, có thể là
ghi chép, nhật ký, thư tín, hồi tưởng, miễn là mang lại những thông tin tri thức
và cảm xúc mới lạ về phong cảnh, phong tục chân tình của xứ sở ít người biết
đến” [2, tr.94].
Sách Giáo trình lý luận văn học tập 2: “Tác phẩm và thể loại văn học”
cũng có cách định nghĩa với những cách tương đồng:
“Có thể hiểu du ký là thể loại ghi chép về vẻ đẹp kì thú của cảnh vật
thiên nhiên và cuộc đời những cảm nhận, suy tưởng của con người trong
những chuyến du ngoạn, du lịch. Du ký phản ánh, truyền đạt những nhận biết,
những cảm tưởng, suy nghĩ mới mẻ của bản thân người du lịch về những điều

8


mắt thấy tai nghe ở những xứ sở xa lạ, những nơi mọi người ít có dịp đến,
chứng kiến” [23, tr.382].
Thông qua việc tìm hiểu ở trên, chúng tôi chủ trương đưa ra những đặc
điểm để nhận dạng du ký như sau:
- Du ký là một thể tài của ký, viết bằng văn xuôi, thường có dạng hồi ức
và dạng nhật ký, dành cho hoạt động di chuyển giữa các địa điểm có khoảng
cách lớn, ra bên ngoài không gian sống thường ngày, trong một khoảng thời
gian có độ dài nhất định.
- Du ký là những tác phẩm được ra đời từ cuộc hành trình của chính bản
thân người viết đến một vùng đất mới. Đó có thể là một chuyến đi mang tính
chất cá nhân để thăm thú, ngoạn cảnh, du lịch mang tính tự phát. Đó cũng có
thể là chuyến đi công cán, công vụ được tổ chức thành đoàn với mục đích
chính trị, xã hội, văn hóa. Người viết bao giờ cũng có ý thức ghi chép lại một
cách đầy đủ nhất những đặc điểm về vùng đất, con người nơi mình đi qua. Vì
thế, nội dung quan trọng nhất của du ký là người thật, việc thật được trải

nghiệm qua chính người viết. Và phải mang lại cho người tiếp nhận những
nhận thức, cảm xúc mới mẻ về các lĩnh vực tự nhiên, xã hội và con người.
- Du ký là chi chép sự thật nhưng nó được nhìn qua lăng kính chủ quan
của người viết nên mang dấu ấn cá nhân. Người kể chuyện chủ yếu ở ngôi thứ
nhất xưng “tôi”, đôi khi có thể kể chuyện ở ngôi thứ ba.
1.1.2. Phân loại “du ký”
Du ký xuất hiện đầu tiên trong văn học Lý – Trần. Du ký là một thể tài
của ký nên hình thức tồn tại đương nhiên là văn xuôi, căn cứ vào văn tự mà
văn du ký được chia thành văn du ký chữ Hán và văn du ký chữ Nôm. Các tác
phẩm văn du ký xuất hiện ở thế kỷ X đến hết thế kỷ XIV thể hiện qua những
bài du ngoạn ngắm cảnh vật như: đi chơi cảnh núi, đi thuyền trên sông và đi
viếng thắng tích chùa chiền... Cụ thể hơn nữa, đến thế kỷ XVIII – XIX với tác

9


phẩm Thượng kinh ký sự của Lê Hữu Trác đã đưa du ký viết bằng chữ Hán
tiến thêm một bước mới: ở đây có sự kết hợp đan xen giữa văn tường thuật và
văn du ký, giữa kể và tả, giữa tự truyện và trữ tình, giữa khách quan và chủ
quan... tạo nên kiểu văn du ký mẫu mực trong văn học Việt Nam. Mặt khác, ở
giai đoạn này đã xuất hiện một số tác phẩm văn du ký viết về các chuyến du
công ở nước ngoài như: Tây hành kiến văn kỷ lược của Lý Văn Phức (1785 –
1849), Hải trình chí lược của Phan Huy Chú (1782 – 1840), Như Tây ký của
Ngụy Khắc Đản (1817 – 1873)... Như vậy, du ký văn xuôi chữ Hán đã được
hình thành ở giai đoạn này. Đó không chỉ là du ký về những chuyến đi trong
nước mà còn là những chuyến viễn du ra ngoài biên giới Việt Nam và Trung
Hoa. Bên cạnh du ký viết bằng chữ Hán, đã xuất hiện một số tác phẩm viết
bằng chữ Nôm như: Tây phù nhật ký của Tôn Thọ Tường (1825 – 1877), Như
Tây ký của Ngụy Khắc Đản, Hương Sơn hành trình của Chu Mạnh Trinh
(1862 – 1905)... Ngoài du ký chữ Hán và du ký chữ Nôm, văn học giai đoạn

XVIII – XIX đã xuất hiện du ký bằng chữ Quốc ngữ như: Chư quấc thại hội,
Như Tây nhật trình của Trương Minh Ký (1855 – 1900), Chuyến đi Bắc Kỳ
năm Ất Hợi của Trương Vĩnh Ký (1837 – 1898). Tóm lại, dưới hình thức tự
sự, du ký rất đa dạng nhưng phát triển mạnh mẽ nhất là giai đoạn thế kỷ
XVIII – XIX.
Tuy nhiên, còn phải kể đến những tác phẩm thuộc thể loại khác có tính
chất du ký như: thơ, phú và truyện. Về các tác phẩm thơ có tính chất du ký thì
ở giai đoạn từ thế kỷ XV đến hết thế kỷ XVII có các tác phẩm: Hành dịch
đăng gia sơn (Nhân việc quan lên chơi núi quê nhà), Du Phật Tích sơn ngẫu
đề (Đi chơi núi Phật Tích ngẫu nhiên đề thơ), Đăng Thiên Kì lưu đề (Lên núi
Thiên Kì đề thơ lưu niệm), Sơn hành (Đi chơi núi) của Phạm Sư Mạnh, Du
Phật Tích Sơn đối giang ngẫu tác (Chơi núi Phật Tích Sơn đối diện dòng
sông ngẫu nhiên làm thơ), Du Côn Sơn (Chơi núi Côn Sơn), Thanh Hư động

10


ký (Bài ký động Thanh Hư) của Nguyễn Phi Khanh, bài Nguyệt tịch bộ Tiên
Du sơn tùng kính (Đêm trăng dạo bước trên đường thông núi Tiên Du) của
Chu Văn An (1292 – 1370), Trình Thiền sư tiêu dao ở Phúc Đường của Tuệ
Trung Thượng Sĩ (1230 – 1291)... Mặt khác, có những bài thơ du ký ra đời
trên con đường đi công cán, đi sứ. Những bài thơ này có nội dung liên quan
đến yếu tố lịch sử như Vương lang qui (Chàng Vương trở về) của Ngô Chân
Lưu (tức Khuông Việt: 933 – 1011), Quá Tống đô (Qua kinh đô nhà Tống)
của Trương Hán Siêu (? – 1354). Bên cạnh đó còn có các tác phẩm thơ đi sứ
như: Hiệp Thạch tập của Phạm Sư Mạnh, Giới Hiên thi tập của Nguyễn
Trung Ngạn, Kim Lăng ký của Nguyễn Đình Mỹ, Đỗ Cận; Bắc sứ quốc ngữ
thi tập của Hoàng Sĩ Khải, hay Mai lĩnh sứ Hoa thi tập của Phùng Khắc
Khoan… Còn ở thế kỷ XVIII đến thế kỷ XIX thì có một số tác phẩm thơ có
tính chất du ký nổi bật như: Tụng Tây Hồ phú và Ngự đạo hành cung nhật

trình (Nguyễn Huy Lượng), Nam trình liên thi tập (Ngô Thì Ức), Thanh Hiên
thi tập, Nam trung tạp ngâm, Bắc hành tạp lục (Nguyễn Du), thơ Hồ Xuân
Hương…
Về phú, có nhiều bài mang tính chất du ký xuất hiện những tác phẩm ở
thế kỷ X đến hết thế kỷ XVII như: Dục Thúy Sơn linh Tế tháp ký (Bài ký tháp
Linh Tế núi Dục Thúy), Bạch Đằng giang phú (Bài phú sông Bạch Đằng) của
Trương Hán Siêu (? – 1354), Vịnh Vân Yên tự phú (Bài phú Vịnh chùa Vân
Yên) của Huyền Quang thiền sư (1254 – 1334), Tịch cư ninh thể phú và Đại
Đồng phong cảnh phú của Nguyễn Hãng.
Mặt khác, đến thế kỷ thứ XVI đã xuất hiện tác phẩm du ký mang yếu tố
truyện như: Thường quốc nam chính ký (Thường Quốc Công chinh chiến
phương nam) của Nguyễn Quyện (1511 – 1593) viết về cuộc mang quân đi
đánh chiếm vùng Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh.
Như vậy, du ký là một thể tài của ký. Tuy nhiên, còn có những thể loại

11


khác mang tính chất của du ký như: thơ, phú, truyện. Trong phạm vi nghiên
cứu, chúng tôi lựa chọn nghiên cứu Tây hành nhật ký của Phạm Phú Thứ - tác
phẩm du ký chữ Hán Việt Nam tiêu biểu thế kỷ XVIII – XIX.
1.1.3. Diện mạo “du ký chữ Hán” Việt Nam thế kỷ XVIII – XIX
Để thấy được diện mạo du ký chữ Hán Việt Nam thế kỷ XVIII – XIX
chúng tôi đi khảo sát một số tác phẩm du ký tiêu biểu.
1.1.3.1. Thượng kinh ký sự - Lê Hữu Trác
Lê Hữu Trác (1720 – 1791) còn có tên khác là Lê Hữu Huân, hiệu Hải
Thương Lãn Ông, quê ở huyện Đường Hào, phủ Thượng Hồng, trấn Hải
Dương (nay thuộc xã Liêu Xá, huyện Yên Mỹ, tỉnh Hưng Yên).
Khác với con đường hành đạo, lập công danh của đa số các tri thức nho
sĩ phong kiến đương thời, Lê Hữu Trác chọn cho mình một hướng đi riêng.

Sự lập thân của ông trước hết gắn với nghề làm thuốc chữa bệnh cho nhân
dân, đem trí tuệ và nhiệt tâm để soạn bộ sách Y tâm tông lĩnh để lưu lại cho
hậu thế. Sự nghiệp của Lê Hữu Trác được tập hợp trong bộ Y tâm tông lĩnh
được ông biên soạn trong khoảng 40 năm. Tác phẩm có giá trị y học và văn
học đáng kể. Lê Hữu Trác không chỉ là một danh y lỗi lạc mà còn là một nhà
tư tưởng lớn, một nhà thơ, một nhà văn có đóng góp đáng kể trong nền văn
học trung đại Việt Nam.
Thượng kinh ký sự là tập ký bằng chữ Hán được Lê Hữu Trác hoàn thành
vào cuối năm Quý Mão Cảnh Hưng 44 (tức là tháng 11 năm 1783). Đây là
thời điểm ông đã hoàn thành chuyến lên kinh chữa bệnh cho thế tử Trịnh Cán.
Cuộc hành trình bắt đầu từ ngày 12 tháng 1 năm 1782 kéo dài gần một năm đi
từ vùng núi Hương Sơn, Hà Tĩnh đến kinh thành Thăng Long và ngày 1 tháng
11 năm 1782 Lê Hữu Trác về đến nhà.
Tác phẩm Thượng kinh ký sự đã phác họa bức chân dung Lê Hữu Trác,
ông đứng trên lập trường của một nhà nho có tầm vóc tư tưởng của một cao

12


nhân, ẩn sĩ. Lê Hữu Trác ghi chép chuyến đi của mình theo thời gian tuyến
tính và đánh dấu bằng ngày tháng cụ thể cùng các câu chuyện xảy ra. Trong
tác phẩm ông luôn có sự đan xen giữa du ký công vụ và ghi chép theo kiểu tự
thuật, hồi ức, nhật ký, ký sự, truyện ký văn học. Cảm hứng Đi – Xem trở
thành cảm hứng chủ đạo. Ông đặc biệt quan tâm đến những cảnh, những
người gặp trên đường và miêu tả lại, kể lại một cách tỉ mỉ, chi tiết cùng sự suy
ngẫm của bản thân mình. Giữa đêm đi thuyền trên sông vắng cảm tác mà làm
một bài thơ về nỗi khách tha hương. Đến Thăng Long thì luôn nhớ về cảnh
cũ, người xưa. Về cố hương thì vui sướng vì nếp nhà. Tái ngộ cố nhân lại ưu
tư về mối duyên không thành và cảm động tấm lòng người tri kỉ,... Bên cạnh
đó là những câu chuyện về việc chữa bệnh cho thế tử, về cảnh xa hoa trong

phủ chúa cùng nỗi niềm trước thời cuộc. Con đường đi lên kinh đô chữa bệnh
cho thế tử không thành nhưng Lê Hữu Trác đã để lại trong lịch sử văn học
một thiên du ký đặc sắc, mở đầu cho sự phát triển thể tài du ký trong văn học
trung đại Việt Nam.
1.1.3.2. Hải trình chí lược - Phan Huy Chú
Phan Huy Chú (1782 – 1840) có tên là Hạo, sau vì kiêng quốc Húy của
nhà Nguyễn mới đổi là Chú, tự Lâm Khanh, hiệu Mai Phong. Ông là một nhà
thơ, là thư tịch lớn, nhà bác học Việt Nam.
Sự nghiệp của Phan Huy Chú cũng có nhiều thăng trầm. Năm 1821, ông
được vua Minh Mạng cử giữ chức Biên tu trường Quốc tử giám ở Huế. Năm
này ông dâng lên vua bộ sách Lịch triều hiến chương loại chí do ông biên
soạn và được khen thưởng. Nhiều năm sau đó ông liên tục được giữ nhiều
chức quan to nhưng lại gặp khá nhiều trắc trở. Sau đó, ông cáo bệnh xin về ở
ẩn và làm nghề dạy học, soạn sách cho đến khi mất. Các tác phẩm chính: Lịch
triều hiến chương loại chí, Hoàng Việt dư địa chí, Mai Phong du Tây thành
dã lục, Hoa thiều ngâm lục, Hải trình chí lược...

13


Hải trình chí lược được Phan Huy Chú viết trong chuyến đi sứ từ năm
1832 đến khoảng giữa năm sau qua các cửa sông, cảng biển, hải đảo từ Quảng
Nam – Vịnh Thái Lan – Giang Lưu Ba (Singapo) – Batawa (Inđônêsia) – kinh
đô Huế. Đây cũng là một chuyến đi để hiệu lực. Tác phẩm hoàn thành và viết
lời tựa năm 1833. Tác phẩm gồm 43 mục, không ghi theo trình tự thời gian
mà viết theo hành trình đi qua các địa danh cả trong nước và nước ngoài.
Phan Huy Chú đặc biệt chú ý đến những giá trị nổi bật của nền văn minh
phương Tây như: hệ thống quân sự, pháp luật, giao thông, xưởng máy cưa,
lịch Pháp, tiền tệ, chữ viết,...
Phan Huy Chú đã sáng tác với tư duy của một nhân viên công vụ ghi

chép địa lí hành chính, vừa có ý thức điều tra dân tộc học và xã hội học, kinh
tế học, văn hóa học, nhân học, phong tục học. Với một người luôn có tư duy
khảo cứu cùng tư tưởng tiến bộ thì biểu hiện xã hội phương Tây là những
thành tựu lớn, gợi mở ra những định hướng cho sự phát triển của xã hội nước
nhà. Đó là điều luôn khiến một nhà nho cấp tiến như ông trăn trở khi nghĩ về
trình độ, sức mạnh của quốc gia, dân tộc.
1.1.3.3. Tây hành kiến văn kỷ lược - Lý Văn Phức
Lý Văn Phức (1785 – 1849) tự là Lâm Chi, hiệu Khắc Trai và Tố Xuyên,
xuất thân trong một gia đình nhà Nho gốc ở thôn Tây Hương, thuộc huyện
Long Khê, phủ Chương Thâu, tỉnh Phúc Kiến. Cuộc đời làm quan của Lý Văn
Phức lắm thăng trầm với bao lần thăng, biếm song cũng là nơi tạo điều kiện
cho ông thực hiện nhiều chuyến viễn nước ngoài, những chuyến đi này ảnh
hưởng sâu sắc đến nhãn quan nho gia và tạo nguồn cảm hứng vô tận cho ngòi
bút Lý Văn Phức. Sáng tác của Lý Văn Phức phong phú, đa dạng với nhiều
loại hình, cả chữ Hán và chữ Nôm, thơ ca lẫn văn xuôi, văn học nghệ thuật
cũng như văn học chức năng. Văn tài của ông có những đóng góp đáng kể vào
tiến trình phát triển của nền văn hóa, văn học dân tộc.

14


Tây hành kiến văn kỷ lược viết về chuyến đi các nước Đông Nam Á của
phái đoàn do vua Minh Mạng cử, trong đó có Lý Văn Phức với tư cách hiệu
lực. Chuyến đi khởi hành từ cửa biển Đà Nẵng ngày 18 tháng 1 năm 1830 đến
ngày 24 tháng 9 cùng năm thì về đến kinh đô Huế. Tác phẩm ra đời trên cơ sở
việc thực hiện chính sách ngoại giao của vua Minh Mạng. Phái đoàn của Lý
Văn Phức có nhiệm vụ tìm hiểu tình hình các nước Đông Nam Á dưới sự
thống trị của nhà nước tư bản Anh (Hồng Mao). Bởi thế, Lý Văn Phức đã có
sự quan sát tỉ mỉ, chi tiết về những điều mắt thấy tai nghe ở một xã hội đã
theo mô hình tư bản. Nguyễn Đăng Na đánh giá đây là một tác phẩm ký hết

sức độc đáo nó đã mở đầu cho những tác phẩm viết về phương Tây tư bản.
Nội dung tác phẩm này được tổ chức theo từng nội dung cụ thể, thể hiện sự
khoa học, chặt chẽ. Tác phẩm gồm bài Tựa cùng 14 mục chính văn: Danh
hiệu, Nhân vật, Khí tập, Y phục, Ẩm thực, Văn tự, Lễ tục, Quân sự, Thời hậu,
Ốc vũ, Xa thừa, Hóa tệ, Chu thuyền, Địa sản, phần cuối là phụ lục.
Tây hành kiến văn kỷ lược phản ánh cái nhìn của một nhà nho phương
Đông đối với xã hội Tây phương, ông đã vẽ ra một khung cảnh xã hội hoàn
toàn mới mẻ, lạ lùng trong nhãn quan của những người phương Đông. Ngay
trong từng nội dung, tác giả vừa ghi chép vừa kể chuyện, vừa có sự so sánh,
đánh giá trữ tình ngoại đề.
1.2. Tác giả Phạm Phú Thứ và Tây hành nhật ký
1.2.1. Phạm Phú Thứ - Tiến sĩ Việt Nam đầu tiên tới trời Tây
1.2.1.1. Bối cảnh chính trị - xã hội Việt Nam thế kỷ XVIII – XIX
Sang thế kỷ XVIII – XIX tình hình chính trị xã hội có sự thay đổi. Trong
nước hình thành nhiều lực lượng ở nhiều địa phương khác nhau. Tập đoàn
phong kiến Lê – Trịnh ở Thăng Long khủng hoảng trầm trọng, không còn khả
năng lãnh đạo đất nước và dẫn đến sụp đổ. Nhà Tây Sơn lên ngôi ở Phú Xuân.
Sau đó, nhà Nguyễn chiếm được quyền lực đã tạo ra một cục diện chính trị

15


mới. Các sĩ phu Bắc Hà di chuyển vào Nam làm quan cho nhà Tây Sơn rồi
nhà Nguyễn. Dấu ấn những chuyến đi này thể hiện trong tác phẩm của Bà
Huyện Thanh Quan, Nguyễn Du, Cao Bá Quát,…
Thời gian này thương nghiệp cũng phát triển lên một bước đáng kể, đặc
biệt là ngoại thương. Hoạt động buôn bán được tăng cường và mở rộng. Bên
cạnh các thương nhân Trung Quốc, Gia Va, Xiêm, Nhật Bản còn có thuyền
buôn các nước tư bản phương Tây. Đáng chú ý, trong những thế kỷ XVII,
XVIII các quốc gia phương Tây đang trên đường phát triển tư bản chủ nghĩa.

Ngoài việc buôn bán hàng hóa, cuộc tiếp xúc với văn minh phương Tây thông
qua hoạt động ngoại thương chắc chắn đã đưa đến cái nhìn về một thế giới
mới ngoài Trung Hoa với những tư tưởng tự do, phóng khoáng, ít nhiều người
Việt nghĩ đến sự thay đổi. Hoạt động ngoại thương ở sứ Đàng Trong diễn ra
náo nhiệt hơn Đàng Ngoài. Đàng Trong là vùng đất mới được khai phá, việc
tiếp nhận những trào lưu, tư tưởng, xu hướng mới dường như cũng nhanh
nhạy hơn.
Sự phát triển của công thương nghiệp đã làm xuất hiện một số thành thị
mới và làm hưng thịnh, phồn vinh các trung tâm kinh tế hàng hóa cũ. Kẻ Chợ,
Phố Hiến là hai đô thị nổi tiếng bấy giờ ở Đàng Ngoài. Hội An thành phố
cảng lớn nhất ở Đàng Trong. Bên cạnh đó, các đô thị mới ra đời tại những
vùng có điều kiện thuận lợi về giao thông đường bộ, đường sông, đường biển
như: Đồng Đăng, Kì Lừa (Lạng Sơn), Vân Đồn, Vạn Ninh, Đông Triều
(Quảng Ninh), Vị Hoàng (Nam Định), Phù Trạch, Phúc Lễ (Nghệ An),… Nền
kinh tế hàng hóa dần manh nha trong xã hội nông nghiệp, quan hệ sản xuất
phong kiến. Tầng lớp thị dân ra đời với lối sống phóng khoáng, tự do, dám
nói lên ý kiến cá nhân, dám phục vụ nhu cầu riêng tư,… Những điều này đã
có tác động đến tư duy nhà nho, lực lượng chính sáng tác văn học Việt Nam
thời trung đại.

16


Về phương diện đối ngoại, tầm nhìn của chính quyền Nguyễn còn được
thể hiện rõ trong thế ứng đối với các thế lực phương Tây và phương Đông.
Trong điều kiện chính trị thế giới cũng như khu vực có nhiều thay đổi, những
tri thức, triết luận nho giáo đã tỏ ra không còn là cơ sơ duy nhất, hữu hiệu cho
việc hoạch định kế hoạch, phương châm cho mọi hành động nữa. Trong bối
cảnh đó, lượng thông tin phong phú, đa diện, đa chiều, cùng quan điểm tư duy
thực tiễn, niềm tin sức mạnh của chính mình đã tạo nên những cơ sở chính

yếu cho các quyết sách của Đàng trong.
Bên cạnh đó, hoạt động truyền giáo của các giáo sĩ phương Tây cũng có
những ảnh hưởng nhất định đến đời sống, tư tưởng, ý thức hệ người Việt.
Thiên Chúa giáo mang theo quan niệm, lối sống Tây Âu, lại thuyết phục con
người bằng đức tín nên dần lấy được tình cảm của một bộ phận dân chúng.
Các giáo sĩ còn dạy tiếng Pháp, các bộ môn khoa học tự nhiên cho một số
giáo dân, thậm chí đưa họ sang Pháp.
Sự xuất hiện ngày càng nhiều của phương Tây ở Việt Nam đã làm triều
đình phong kiến lo sợ. Trong khoảng thời gian này một số quốc gia Đông
Nam Á đã trở thành thuộc địa của phương Tây. Bởi vậy, chế độ giáo dục thi
cử ở Việt Nam cũng được đẩy mạnh để phục vụ cho nhu cầu củng cố bộ máy
thống trị, đảm bảo quan hệ ngoại giao, mặt khác để tìm cách hạn chế sự xâm
nhập của phương Tây.
Như vậy, tình hình chính trị - xã hội Việt Nam thế kỷ XVIII – XIX cũng
đã góp phần vào sự ra đời và phát triển các tác phẩm du ký Việt Nam thế kỷ
XVIII – XIX.
1.2.1.2. Cuộc đời, con người Phạm Phú Thứ
Phạm Phú Thứ (1821 – 1882), tự Giao Chi, hiệu Trúc Đường, biệt hiệu
Giá Viên, là một đại thần triều nhà Nguyễn, quê ở làng Đông Bàn, huyện
Diên Phước, phủ Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam. Ông xuất thân trong một gia

17


đình Nho phong, tổ năm đời của ông vốn họ Đoàn, gốc Bắc Thành. Mẹ mất
sớm nhưng nhờ thông minh, chăm chỉ và từng được Tùng Thiện Vương dạy
dỗ nên ông sớm có tiếng là người học giỏi. Năm 23 tuổi, cụ đỗ Giải nguyên
Ân khoa năm Nhâm Dần, niên hiệu Thiệu Trị thứ 2 (1842) tại trường Thừa
Thiên. Năm 24 tuổi đỗ hội nguyên và đứng đầu bảng Đệ tam giáp đồng Tiến
sĩ xuất thân khoa thi Hội năm Quý Mão, niên hiệu Thiệu Trị thứ 3 (1843). Sau

khi đỗ được bổ chức Hàn lâm viện Biên tu, tri phủ Lạng Giang, thăng Thị
Độc, đổi bổ Tri Phủ, phủ Từ Nghĩa, ông được điều về kinh giữ chức Viên
ngoại lang ở Bộ lễ, cải bổ chức Án Sát Thanh Hóa, Hà Nội. Sau bị ốm và xin
về quê dưỡng bệnh. Trong thời gian ở quê nhà, ông đề xướng việc đào sông
đắp đê ở Quảng Nam làm lợi cho dân. Phạm Phú Thứ là một viên quan tốt,
một nhà thơ có tài. Thiếu tướng Đỗ Mậu trong hồi kí của mình cũng đã viết
rằng: “Cụ Phạm Phú Thứ là một nhà nho tuy ra làm quan… nhưng cụ luôn
hành xử một cách thanh liêm, cương trực và từng tỏ thái độ bất khuất đối với
người Pháp, nên được giới sĩ phu và nhân dân mình hết lòng ngưỡng mộ.” [9,
tr.58].
Nói về thơ Phạm Phú Thứ đó là tấm lòng của người con đất Quảng
cương trực, với tình cảm chân thành tha thiết, luôn quan tâm chia sẻ nỗi vui
buồn với ngư dân, nông dân trong cuộc sống hàng ngày. Cùng với Đặng Huy
Trứ, Nguyễn Trường Tộ, Phạm Phú Thứ sống trong bối cảnh lịch sử có nhiều
biến động ông cũng sớm có ý thức canh tân, đổi mới và thực hiện nhiều
chuyến đi sứ.
Đầu năm 1863, sau khi vua Tự Đức xét mấy điều khoản trong Hòa ước
Nhâm Tuất còn có chỗ chưa thỏa, liền sung Phạm Phú Thứ làm Khâm sai vào
ngay Gia Định, hội với Phan Thanh Giản và Lâm Duy Hiệp để đàm phán với
quan soái Pháp và quan đại thần nước Y Pha Nho (Tây Ban Nha). Không
hoàn thành nhiệm vụ ông phải bị giáng một cấp. Tháng 5 (âm lịch) năm này,

18


ông được cử làm Phó sứ, cùng với Chánh sứ Phan Thanh Giản và Bồi sứ
Ngụy Khắc Đản sang Pháp và Tây Ban Nha với nhiệm vụ xin chuộc lại ba
tỉnh miền Đông Nam Kì. Tháng 2 (âm lịch) năm 1864 sứ bộ về đến Huế. Sau
đó ngoài bản tường trình cốt để thuyết phục vua Tự Đức mau cải cách việc
học tập và phát triển công nghiệp, Phạm Phú Thứ còn dâng lên vua hai tác

phẩm do ông làm trong chuyến đi, đó là Tây hành nhật ký và Tây Phù thi
thảo. Vua xem cảm động có làm một bài thơ để ghi lại việc này. Được tin cậy
nhà vua thăng ông làm Tham tri bộ lại.
Năm 1865, thăng ông chức Thự Thượng thư bộ hộ, sung cơ mật viện đại
thần. Ở chức vụ này, ông đã mật tâu xin đặt bốn Tuyên phủ sứ ở Quảng Trị,
Bình Định, Nghệ An và Hưng Hóa, đồng thời xin đặt trường giao dịch chợ
búa, sửa thuế thương chính lập thổ tù ở nơi ấy để làm vững mạnh nơi biên
phòng. Ông luôn có tư tưởng canh tân, đổi mới nhưng không thành.
Năm 1866, quan soái Pháp phái tàu đến cửa Thuận An (Huế) đưa thư đòi
quản luôn ba tỉnh là Vĩnh Long, An Giang và Hà Tiên. Nhà vua liền phái
Phạm Phú Thứ và Phan Huy Vịnh đến xin giữ giao ước cũ lâu dài.
Năm 1867, Phan Thanh Giản mất, triều đình cử Phạm Phú Thứ làm
người điều đình với Pháp. Năm 1874, triều đình cho mở nhà thương chính ở
Bắc Kỳ. Nhà vua cho Phạm Phú Thứ là người am hiểu và có tài cán lão luyện
nên tháng 10 (âm lịch) năm đó, đổi ông làm Thự Tổng đốc Hải Yên kiêm
Tổng lý thương chánh Đại thần. Đến nơi gặp lúc đê huyện Văn Giang (nay
thuộc Hưng Yên) vỡ, nước lũ tràn cả hai phủ là Bình Giang và Ninh Giang
thuộc Hải Dương. Thấy dân đói khổ, ông lập tức xin trích năm vạn phương
gạo ở kho Hưng Yên để phát cho dân. Đồng thời lại phái thuộc hạ đem những
người dân còn khỏe mạnh đến Đông Triều, Nam Sách… khẩn hoang, cày cấy
kiếm sống.
Năm 1876, Phạm Phú Thứ được thực tụ chức Tổng đốc Hải An. Để yên

19


dân ông xin đặt trường mua gạo ở chợ An Biên (thuộc Hải Phòng) và Đồ Sơn
(thuộc Quảng Ninh) đồng Phái Thương Biện và Lương Văn Tiến (anh em họ
ngoại với Phú Thứ) đi hiểu dụ lưu dân, tạo công ăn việc làm cho họ để họ thôi
càn rỡ, ngang ngược. Ngoài ra, ông còn cho khai rộng sông ở phù Bình

Giang, mở Nha Thương Chánh và trường học chữ Pháp ở Hải Dương vào
năm 1878.
Năm 1880 ông bị giáng làm Quang lộc tự khanh lĩnh chức Tham tri bộ
Dinh. Sau đó nhân có bệnh ông xin về quê.
Phạm Phú Thứ đã đi sứ rất nhiều nơi qua những chuyến đi này ông rút ra
được nhận thức rằng chỉ có con đường canh tân mới giúp đất nước thoát khỏi
thảm họa lạc hậu vì vậy mà ông luôn luôn có tư tưởng đổi mới, canh tân đất
nước. Đây là yếu tố đã chi phối rất nhiều tới nội dung những tác phẩm của
Phạm Phú Thứ.
1.2.1.3. Sự nghiệp sáng tác
Sáng tác của Phạm Phú Thứ cũng phong phú, đa dạng như các hoạt động
chính trị - xã hội của ông. Những tác phẩm thơ văn tập hợp thành bộ Giá Viên
toàn tập (gồm 13 quyển thơ và 13 quyển văn). Riêng tác phẩm Tây hành nhật
ký (in riêng gọi là Giá Viên biệt lục) gồm 3 quyển: quyển hạ, quyển trung và
quyển thượng. Tập văn tập thơ trên ghi lại khá tỉ mỉ những điều mắt thấy tai
nghe về kinh tế, chính trị, phong tục tập quán của người phương Tây, trong
chuyến đi sứ dài ngày vào năm 1863.
Bên cạnh văn chương, Phạm Phú Thứ còn biên soạn một số tác phẩm sử
học như: Lịch triều thống hệ niên phả toát yếu, Bắc quốc lịch triều thông hệ
liên chứ. Khi về quê dưỡng bệnh ông có viết thêm cuốn Bản triều liệt thánh
sự lược toát (toản) yếu. Ngoài ra, ông còn khắc in để phổ biến một số sách
thực dụng cho người Trung Quốc dịch từ sách tiếng Anh ra chữ Hán như: Bác
vật tân biên (sách khoa học phổ thông), Hàng hải kim châm (sách nói về kỹ

20


×