Tải bản đầy đủ (.pdf) (141 trang)

Phương pháp giảng dạy nhật ký trong tù của hồ chí minh theo đặc trưng thể loại

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.77 MB, 141 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC GIÁO DỤC

PHẠM THUỲ HƢƠNG

PHƢƠNG PHÁP GIẢNG DẠY “NHẬT KÝ TRONG TÙ”
CỦA HỒ CHÍ MINH THEO ĐẶC TRƢNG THỂ LOẠI

LUẬN VĂN THẠC SĨ SƢ PHẠM NGỮ VĂN

Chuyên ngành: Lý luận và phƣơng pháp dạy học
(Bộ môn Ngữ văn)
Mã số: 60 14 10

Người hướng dẫn khoa học: PGS. TS. TRẦN KHÁNH THÀNH

HÀ NỘI – 2010


KÍ HIỆU VIẾT TẮT

GD

Giáo dục

GV

Giáo viên

HS


Học sinh

PPDH

Phƣơng pháp dạy học

THPT

Trung học phổ thông


MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài …………………….........................................................1
2. Lịch sử vấn đề …………………………………….....................................4
3. Mục đích nghiên cứu ………………………………….………………......6
4. Nhiệm vụ nghiên cứu ………………………………………..……………7
5. Giả thuyết khoa học ……………………………………………..…...........7
6. Phƣơng pháp nghiên cứu …………………………..………………….......7
7. Đóng góp mới của luận văn ………………………….……………………7
8. Cấu trúc của luận văn …………………………..………………………....8
Chƣơng 1 : CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA ĐỀ TÀI …………………………….9
1.1. Những vấn đề chung về lý luận dạy học ………………………………..9
1.1.1. Đổi mới phƣơng pháp dạy học ở trƣờng THPT ………………..…......9
1.1.2. Đổi mới phƣơng pháp dạy học Ngữ văn ở trƣờng THPT …………......9
1.2. Những vấn đề chung về Nhật kí trong tù …............................................11
1.2.1.Hoàn cảnh ra đời …...............................................................................11
1.2.2.Giá trị nội dung ……………………………………..............................12
1.2.3. Giá trị nghệ thuật ……………………………......................................18

1.3. Nhật kí trong tù nhìn từ đặc trƣng thể loại ……………….……….........20
1.3.1. Đặc trƣng kí…………………………………………………………...20
1.3.2.Đặc trƣng thơ ………………….............................................................25
1.3.3. Nhật kí trong tù là một tác phẩm kí ………….………….……………28
1.3.4. Nhật kí trong tù là một tác phẩm thơ……………………………….…33
Chƣơng 2: THỰC TRẠNG VÀ ĐỊNH HƢỚNG GIẢNG DẠY NHẬT
KÍ TRONG TÙ Ở TRƢỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNG………........39
2.1. Thực trạng giảng dạy Nhật ký trong tù trong chƣơng trình
Ngữ văn THPT................................................................................................39
2.1.1. Vị trí của Nhật ký trong tù trong chƣơng trình Ngữ văn THPT……………39
2.1.2. Những thuận lợi – khó khăn…………………………………………..41


2.1.3. Thực trạng giảng dạy Nhật ký trong tù ở trƣờng THPT ………….….43
2.2. Định hƣớng giảng dạy Nhật ký trong tù ở trƣờng THPT …………..….48
2.2.1. Hƣớng khai thác từ đặc trƣng ký ………………………………...…..48
2.2.2. Hƣớng khai thác từ đặc trƣng…...........................................................54
2.2.3. Hƣớng khai thác từ đặc trƣng thơ Đƣờng luật ……….........................63
Chƣơng 3 : ĐỀ XUẤT PHƢƠNG PHÁP GIẢNG DẠY NHẬT KÍ
TRONG TÙ Ở TRƢỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNG ……………...67
3.1. Đề xuất phƣơng pháp …………………………………………….......67
3.1.1. Đề xuất phƣơng pháp giảng dạy văn bản Chiều tối ở trƣờng THPT…….64
3.1.2. Đề xuất phƣơng pháp giảng dạy văn bản Lai Tân ở trƣờng THPT ....73
3.2. Thiết kế giáo án thể nghiệm ……………………………………………77
3.2.1. Giáo án thể nghiệm bài thơ Chiều tối …………………………..……77
3.2.2. Giáo án thể nghiệm bài thơ Lai Tân …………………………....……94
KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ ……………………………………....109
1. Kết luận……………………………………………………………….…109
2. Khuyến nghị………………………………………………………..……111
TÀI LIỆU THAM KHẢO…………………………………………..……112

PHỤ LỤC


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
1.1. Trong những năm gần đây, vấn đề chất lượng giáo dục đã trở thành mối
quan tâm lớn không chỉ của riêng ngành giáo dục mà của toàn xã hội. Chính
vì thế, đổi mới phương pháp dạy học được coi là một trong những nhiệm vụ
quan trọng của cải cách giáo dục nói chung cũng như cải cách cấp THPT
nhằm nâng cao chất lượng dạy và học nói riêng. Điều này đã được đề cập tại
Điều 5 Luật Giáo dục nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam: “Phương
pháp giáo dục phải phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động tư duy sáng tạo
của người học, bồi dưỡng năng lực tự học, lòng say mê học tập và ý chí vươn
lên [1, t.15]. Trong “Những định hướng đổi mới chương trình – sách giáo
khoa THPT cũng đã nêu rõ: “Tập trung đổi mới phương pháp dạy học, thực
hiện dạy học dựa vào hoạt động học tập tích cực, chủ động, sáng tạo với sự tổ
chức, hướng dẫn đúng mức của giáo viên, góp phần hình thành phương pháp
và nhu cầu tự học” [1, t.109]. Thực tế việc thực hiện ở các trường đã có nhiều
cố gắng và đạt được những tiến bộ nhất định. Tuy nhiên, cần phải có sự tích
cực hơn nữa từ phía các giáo viên để đổi mới phương pháp dạy học thực sự
đem lại hiệu quả lâu dài và toàn diện.
Trong xu thế chung đó, môn Ngữ văn cũng đã có những bước đổi mới
quan trọng nhưng vẫn chưa thấy rõ được hiệu quả. Thực trạng dạy và học Văn
trong nhà trường phổ thông hiện nay vẫn còn có nhiều hạn chế và tồn tại: “đó
là sự khủng hoảng về nội dung, chất lượng và phương pháp” [25, t.14], giáo
viên còn lúng túng trong đổi mới phương pháp dạy học, một số ít giáo viên
còn có tâm lí ngại đổi mới trong khi còn nhiều học sinh ngày càng ít hứng thú
đối với môn Văn. Thực trạng hoạt động của trò tồn tại lớn nhất là thói quen
thụ động: Nghe - ghi chép và nhắc lại những điều thầy nói chứ không chịu tư
duy, độc lập suy nghĩ khám phá cái hay cái đẹp về nội dung, nghệ thuật của


1


tác phẩm văn chương qua dẫn dắt của người thầy. Ngay cả khi giáo viên đưa
ra những tình huống có vấn đề để người học tìm tòi tự khám phá, lĩnh hội tri
thức thì cũng chỉ nhận lại những ánh mắt “vô cảm” nơi các em. Hoặc những
vấn đề cần thảo luận học sinh làm việc theo nhóm, nói lên suy nghĩ, cách nhìn
nhận của mình về vấn đề, rồi từ đó khái quát vấn đề - một phương pháp học
tập rất tích cực nhưng chỉ một số rất ít học sinh là thực sự làm việc, hoạt động
nhóm số còn lại đều có tâm lý và hành động ỷ vào những người trong nhóm,
tham gia một cách chiếu lệ thậm chí có những em không tham gia. Từ đó,
hiệu quả của việc đổi mới chưa phát huy hết những tác dụng của nó. Không ai
phủ nhận tầm quan trọng ý nghĩa và tính cấp bách của việc đổi mới phương
pháp dạy học nhưng để biến nó thành hiện thực không phải là chuyện có thể
hoàn thành trong một sớm một chiều. Bởi một chủ trương mới dù tiến bộ đến
đâu, khi đi vào thực tế cũng vấp phải những khó khăn. Tuy nhiên hệ thống
giáo dục trung học phổ thông của nước ta hiện nay để vươn tới, đuổi kịp và
hoà nhập với xu thế phát triển giáo dục trung học trên thế giới, trước hết là
các nước trong khu vực thì vấn đề đổi mới phương pháp dạy học đã trở thành
một đòi hỏi bức thiết, không thể trì hoãn.
1.2. Môn Văn trong nhà trường phổ thông có vị trí và thế mạnh riêng. Môn
Văn giúp người học tiếp xúc với vẻ đẹp kì diệu và phong phú của tiếng mẹ
đẻ, tiếp xúc với vốn văn hóa tri thức của dân tộc và nhân loại kết tinh trong tác
phẩm văn chương. Vì vậy môn Văn trang bị kiến thức, bồi dưỡng tâm hồn và
góp phần hình thành, phát triển nhân cách học sinh. Tuy nhiên, dạy học văn
như thế nào để phù hợp với bản chất của văn học và đạt được có hiệu quả vẫn
đang là vấn đề cần giải quyết từ lý luận đến thực tiễn. Theo ý kiến của viện sĩ
Sec-bi-na “Vấn đề dạy học văn trong nhà trường quả là một vấn đề cực kì phức
tạp... Quá trình dạy học văn là một quá trình phức hợp đan kết nhiều quá trình

tâm lí, ngôn ngữ, văn hóa, sư phạm. Dạy văn là một quá trình đòi hỏi nhiều
tìm tòi sáng tạo của cá nhân người lên lớp” [25, tr.25].

2


Trong văn học, mỗi thể loại đều có những đặc trưng riêng. Đối với thể
loại trữ tình, một số nhà nghiên cứu đã rất lưu ý đến việc dạy học tác phẩm
thơ cần dựa vào đặc trưng thể loại. Tác giả Trần Đình Sử nhấn mạnh “Cần
đưa kiến thức về thể loại, về luật thơ, về thể thức bài văn, các phép tu từ,
đặc điểm phong cách nói, nói chung là thi pháp vào nội dung chính của
chương trình môn Văn chứ không nên đưa vào mục chú thích, học cũng
được mà không học cũng thôi” [14, tr.17].
Trong chương trình trung học phổ thông, Nhật kí trong tù chiếm một vị
trí hết sức quan trọng bởi nó là tiếng nói tâm hồn của Bác Hồ, thể hiện sâu sắc
tư tưởng, tình cảm, cá tính, phong cách, sở thích và tài hoa Hồ Chí Minh.
Nhật kí trong tù còn là một văn kiện lịch sử vô giá, một thi phẩm đặc sắc đạt
tới đỉnh cao của truyền thống thơ ca dân tộc. Nhật kí trong tù là một tập thơ
tràn đầy cảm hứng và khát vọng tự do tuy Người phải ở trong cảnh mất tự do.
Nhà tù không thể làm nao núng tinh thần đấu tranh cho dân tộc của Người,
không thể giam hãm ý chí của Người. Tinh thần của Người luôn chủ động,
kiên quyết, thấu suốt và tự do. Nhật kí trong tù toát lên sâu sắc nội dung đó.
Tuy nhiên, trong thực tế giảng dạy, việc tiếp nhận tác phẩm còn nhiều
khó khăn bởi thực tế tâm lý phổ biến của đời sống văn học trong nhà trường ít
quan tâm đến đặc trưng thể loại mà chỉ chú trọng tới nội dung văn bản. Hơn
nữa, việc nắm vững đặc trưng thể loại của tác phẩm sẽ giúp học sinh dễ dàng
tìm hiểu các tác phẩm văn chương cùng thể loại. Cảm nhận thấu đáo một tác
phẩm thơ, đặc biệt là thơ Bác, là một việc làm không dễ đối với học sinh thậm
chí ngay cả với giáo viên. Bên cạnh đó, thể loại là một phạm trù cơ bản và
phổ biến của văn học, chi phối cả sáng tác, lưu truyền, tiếp nhận văn học. Bất

kì tác phẩm văn học nào cũng đều tồn tại trong một dạng thức nhất định. Đó
là sự thống nhất mang tính chỉnh thể của một loại nội dung với những phương
thức biểu đạt và hình thức tổ chức tác phẩm, tổ chức lời văn. Thể loại văn học

3


chính là sự phân chia loại hình tác phẩm theo những căn cứ nêu trên. Thể loại
văn học là sự thống nhất giữa một loại nội dung với một dạng hình thức văn
bản và phương thức tái hiện đời sống. Học và phân tích một tác phẩm văn học
càng không thể không quan tâm đến đặc điểm thể loại của tác phẩm ấy. Bởi vì
thể loại chính là cơ sở tạo nên tính thống nhất chỉnh thể của một tác phẩm, tổ
chức liên kết các yếu tố nội dung và hình thức, từ đề tài, chủ đề, cảm hứng
đến hệ thống nhân vật, kết cấu và lời văn nghệ thuật. Thể loại không những
qui định cách thức tổ chức tác phẩm mà còn định hướng cho việc tiếp nhận
của độc giả, tạo nên kênh giao tiếp giữa tác phẩm và người đọc. Thể loại của
tác phẩm vừa có tính kế thừa, tính liên tục, lại vừa có tính độc đáo, tính biến
đổi do sự sáng tạo của tác giả. Vì thế, phân tích tác phẩm theo đặc trưng thể
loại không chỉ dừng lại ở đặc điểm chung của một thể loại thể hiện trong tác
phẩm mà còn cần phải chỉ ra nét riêng biệt, độc đáo, thể hiện sự sáng tạo
không lặp lại của tác giả mà Nhật kí trong tù của Hồ Chí Minh là tác phẩm
tiêu biểu.
Với mong muốn tìm hiểu cái hay, cái đẹp trong thơ Hồ chủ tịch cùng
với sự day dứt băn khoăn về hiệu quả tiếp nhận tác phẩm văn chương của học
sinh ở trường trung học phổ thông, tôi quyết định chọn đề tài “Phƣơng pháp
giảng dạy Nhật kí trong tù của Hồ Chí Minh theo đặc trƣng thể loại” với
mong muốn góp phần nâng cao khả năng chuyên môn nghiệp vụ của giáo
viên, kích thích sự hứng thú và phát triển năng lực cảm thụ văn chương của
học sinh trong chương trình Ngữ văn trung học phổ thông.
2. Lịch sử vấn đề

Nghiên cứu Nhật kí trong tù trong nhà trường phổ thông là một vấn đề
không mới, tuy nhiên do phần lớn giáo viên hiện nay mới chỉ chú trọng đi sâu
tìm hiểu nội dung văn bản từ ngôn từ nên nghiên cứu Nhật kí trong tù từ đặc
trưng thể loại vẫn chưa được quan tâm đúng mức.

4


Về đặc trưng thể loại của Nhật kí trong tù, đã có những nghiên cứu như:
- Tác giả Đặng Thai Mai trong bài viết “Đọc tập thơ Ngục trung nhật kí”,
(Nhật kí trong tù và những lời bình, NXB Văn hóa thông tin 1998) đã gọi yếu
tố thời gian là “tính chất ghi hàng ngày”, với không gian được ví như “một
bản đồ tương đối chi tiết, có ghi rõ tên huyện, tên xã của tỉnh Quảng Tây
những năm 1940”.
- Nguyễn Viết Lãm trong “Học tập thơ Hồ Chủ tịch qua tập Nhật kí trong
tù” cảm nhận tập thơ đến với bạn đọc quả là hạt châu nổi sáng trong lòng để
nhớ mãi. Mỗi bài thơ là một đoạn nhật kí. Viết nhật kí bằng thơ, đó là một thể
tài ít thấy trong lịch sử văn học.
-

Trong “Bác Hồ làm thơ và thơ của Bác” (Hoàng Trung Thông), nhà thơ

nhận xét: Nhật kí trong tù mở ra một thế giới những con người trong và ngoài
nhà tù, một khung cảnh cuộc sống phong phú và dồi dào. Tập thơ chủ yếu
không phải là chỉ tố cáo xã hội đầy rẫy bất công và tàn ác mà là lòng thương
yêu mênh mông bao trùm lên mọi tầng lớp người trong xã hội ấy, nhất là
những con người cực khổ.
- Trong công trình nghiên cứu “Phương pháp nghiên cứu thơ văn Hồ Chí
Minh”, tác giả Nguyễn Đăng Mạnh đã đề cập tới các đặc trưng thể loại của
văn thơ Hồ Chí Minh như viết bằng chữ Hán, tính chất nhật kí, thể tứ tuyệt cổ

điển, giọng điệu – bút pháp đa dạng. Ông cho rằng: “Nghiên cứu Nhật kí
trong tù là đi sâu vào thế giới tâm hồn của Hồ Chí Minh. Nếu không chú ý tới
nhũng đặc trưng nói trên cảu tác phẩm thì e rằng thế giới ấy không chịu mở
hẳn ra với các nhà nghiên cứu”
- “Thơ Bác với thơ Đường” của tác giả Phương Lựu cho thấy sự đổi mới
trong thơ chữ Hán của Bác đói với hình thức Đường thi.
-

Bài viết “Ngục trung nhật kí, bức tranh thu nhỏ của một chế độ, nhạt kí

của một tâm hồn tuyệt đẹp” của Huỳnh Lý tập trung khai thác Ngục trung

5


nhật kí trên hình thức là một tập nhật kí ghi sự việc Bác đã sống, đã tham gia
hay chứng kiến…
-

Công trình nghiên cứu “Các thước đo thời gian của Nhật kí trong tù”

(Phùng Văn Tửu) nhấn mạnh ý niệm thời gian trong Nhật kí trong tù trong đó
chỉ ra tính chất kí của tác phẩm.
-

Ngoài ra còn một số bài viết nghiên cứu về tác phẩm thơ Nhật kí trong tù

như bài viết của Trần Khánh Thành về bài thơ “Chiều tối” in trong cuốn
Giảng văn văn học Việt Nam – NXB Giáo dục 1997 đã đề cập tới đặc trưng
thể loại của Nhật kí trong tù ở cả hai phương diện thơ và kí; bài viết của Vũ

Dương Quỹ (Báo Giáo dục và thời đại, tháng 5 - 1994) đi sâu xem xét đặc
trưng thơ tứ tuyệt của Nhật kí trong tù.
Nhìn chung những công trình nghiên cứu và các bài viết đều thể hiện
được những cái nhìn khác nhau và có những đóng góp quan trọng về đặc
trưng thể loại của Nhật kí trong tù. Nhưng có lẽ do một số điều kiện khách
quan và chủ quan nên các tác giả chưa đi sâu vào vấn đề này một cách có hệ
thống và toàn diện, đặc biệt là vấn đề phương pháp giảng dạy tác phẩm Nhật kí
trong tù từ đặc trưng thể loại. Trên cơ sở tiếp thu những ý kiến của những
người đi trước tôi muốn tìm hiểu và đề xuất vấn đề cụ thể hơn đó là “Phƣơng
pháp giảng dạy “Nhật kí trong tù” của Hồ Chí Minh theo đặc trƣng thể
loại”. Hi vọng công trình nghiên cứu này có thể hình thành cho học sinh kĩ
năng đọc hiểu tác phẩm văn chương từ đặc trưng thể loại, qua đó các em có
được “chìa khóa” để tự tiếp cận, khám phá được giá trị nội dung và nghệ thuật
thơ Bác, đặc biệt là Nhật kí trong tù.
3. Mục đích nghiên cứu
Từ việc tìm hiểu đặc trưng thể loại của tác phẩm thơ Nhật kí trong tù,
thực trạng giảng dạy tác phẩm thơ Nhật kí trong tù trong trường phổ thông,
luận văn đề xuất những PPDH theo đặc trưng thể loại nhằm góp phần nâng

6


cao chất lượng dạy và học môn Ngữ văn nói chung và dạy - học thơ Bác nói
riêng theo tinh thần đổi mới.
4. Nhiệm vụ nghiên cứu
4.1. Khách thể nghiên cứu: Quá trình dạy và học môn Ngữ văn ở trường phổ
thông.
4.2. Đối tượng nghiên cứu: Trên cơ sở nghiên cứu về đổi mới phương pháp
dạy học và chương trình ngữ văn Trung học phổ thông, đối tượng mà đề tài
hướng tới là những tác phẩm thơ Nhật kí trong tù được đưa vào giảng dạy

trong chương trình ngữ văn Trung học phổ thông.
4.3. Phạm vi khảo sát: 2 tác phẩm Chiều tối và Lai tân
5. Giả thuyết khoa học
Nếu đổi mới phương pháp dạy tác phẩm thơ Nhật kí trong tù theo đặc
trưng thể loại sẽ góp phần nâng cao năng lực đọc hiểu và cảm nhận tác phẩm
thơ trong trường THPT nói chung và tác phẩm thơ Nhật kí trong tù nói riêng.
6. Phƣơng pháp nghiên cứu
- Phương pháp nghiên cứu tài liệu: Tham khảo các tài liệu giáo trình có nội
dung liên quan đến đề tài.
- Phương pháp điều tra quan sát: Thông qua việc dự giờ thăm lớp, qua thực tế
dạy học.
- Phương pháp nghiên cứu từ đặc điểm thi pháp học.
- Phương pháp tổng kết và đúc rút kinh nghiệm.
7. Đóng góp mới của luận văn
Luận văn đã chỉ ra thực trạng của việc giảng dạy và học tập văn bản thơ Nhật
kí trong tù, từ đó đề xuất đổi mới phương pháp dạy học 2 tác phẩm Chiều tối
và Lai Tân, giúp giáo viên và học sinh có thêm những gợi mở cần thiết khi
dạy học những tác phẩm này.

7


8. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và khuyến nghị, tài liệu tham khảo, phụ
lục, nội dung chính của luận văn được trình bày trong 3 chương.
Chương 1: Cơ sở lý luận của đề tài.
Chương 2: Thực trạng giảng dạy văn bản thơ Nhật ký trong tù ở trường THPT.
Chương 3: Những đề xuất về phương pháp dạy Nhật ký trong tù ở trường THPT.

8



CHƢƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA ĐỀ TÀI
1.1. Những vấn đề chung về lý luận dạy học
1.1.1. Đổi mới phương pháp dạy học ở trường THPT
Hiện nay khoa học kĩ thuật trên thế giới phát triển như vũ bão, đất nước
bước vào thời kì công nghiệp hóa, hiện đại hóa, do vậy ngành Giáo dục – đào
tạo cũng từng bước thay đổi để bắt nhịp cùng thời đại. Một vấn đề bức xúc
đặt ra cho ngành giáo dục là phải đổi mới phương pháp dạy học. Việc đổi mới
ấy nhằm giúp học sinh được học một cách chủ động, tích cực mà không phải
giáo viên làm thay, học thay cho học sinh.
Vậy đổi mới phương pháp dạy học là gì? Trong từng môn học, người
giáo viên phải vận dụng phương pháp đó ra sao? Đây là một vấn đề vừa dễ lại
vừa khó mà không phải giáo viên nào cũng thực hiện được. Đổi mới phương
pháp đòi hỏi học sinh phải học tập một cách sáng tạo, chủ động, là trung tâm
của hoạt động học. Để đáp ứng yêu cầu này người giáo viên phải đóng vai trò
là người dẫn dắt, gợi mở, cung cấp cho học sinh phương pháp tự học, tự
chiếm lĩnh tri thức. Như vậy, điểm cốt lõi của đổi mới PPDH là hướng tới
hoạt động học tập chủ động, học sinh năng động, có hứng thú tìm tòi và có
năng lực giải quyết vấn đề.
1.1.2. Đổi mới phương pháp dạy học Ngữ văn ở trường THPT
Văn học là một môn học rất quan trọng trong nhà trường, là môn học hỗ
trợ cần thiết cho các môn học khác.
Trong nhà trường phổ thông, môn Ngữ văn là môn học có vị trí đặc biệt
quan trọng trong việc giáo dục nhân cách và bồi dưỡng tâm hồn, tình cảm cho
học sinh. Tuy nhiên, mỗi tiết học để tạo ra hứng thú, đem lạ kết quả học tập
tốt cho học sinh là điều mỗi giáo viên chúng ta phải suy nghĩ và mong muốn
thực hiện tốt.


9


Vấn đề đổi mới PPDH là vấn đề hết sức cần thiết trong nhà trường, đổi
mới để dáp ứng yêu cầu xã hội. Những năm gần đây việc đổi mới PPDH ở
nhà trường nói chung, môn Ngữ văn nói riêng luôn được sự chú ý quan tâm
của các trường phổ thông đồng thời cũng là mục tiêu hướng tới của mỗi giáo
viên Ngữ văn hiện nay.
Đổi mới PPDH là điều tất yếu, là con đường đi rất khoa học. Giao việc cho
học sinh cũng là một trong những phương pháp học tập nhằm phát huy tính tích
cực, chủ động của học sinh. Học sinh học tập mang tính cá thể hóa cao, có cơ
hội được tự học, tự khám phá, tìm tòi bộc lộ được những suy nghĩ cảm xúc của
mình, tính độc lập trong học tập có tác dụng cao tạo tiền đề định hướng cho ý
thức tự lập, tự đáp ứng trước đòi hỏi của cuộc sống không đơn giản.
Giáo viên giao việc hợp lí sẽ thể hiện được vai trò chủ động về kiến thức
trong bài giảng. Học sinh được thể hiện mình trước tập thể một cách tự tin.
Giao việc phù hợp sẽ thực hiện được sự đổi mới trong cách thiết kế bài dạy là
tổ chức tốt các hoạt động học tập trong một giờ đọc hiểu văn bản, từ đó thầy
mới chủ động tổ chức cho học sinh lĩnh hội tri thức, trò mới chủ động tiếp thu
kiến thức.
Hàng loạt các hình thức giao việc đa dạng, phong phú của thầy sẽ phát
triển năng lực học tập của học sinh, tạo tình huống để học sinh chủ động, tích
cực học tập, tham gia vào bài học. Điều đó là vô cùng cần thiết.
Xuất phát từ yêu cầu đổi mới giáo dục hiện nay, việc đổi mới phương
pháp học tập phát huy tính tích cực của học sinh trong các trường phổ thông
còn có nhiều điều cần phải suy nghĩ.
Thực tế cho thấy: học sinh chưa chăm, học hành chỉ mang tính chất gò
ép, miễn cưỡng. Có em có thói quen dựa vào thầy vào bạn, thiếu năng động,
nói theo làm theo, bắt chước một cách máy móc.


10


Nhiều học sinh không thích học văn, phương pháp học còn thụ động,
phụ thuộc nhiều vào bài mẫu, sách học tốt, sách giải bài tập. Phụ huynh lại
muốn con mình theo học các môn tự nhiên, thuận lợi cho việc thi cử vào các
trường Đại học sau này. Vì vậy kết quả học văn cũng như năng lực cảm thụ
văn chương của học sinh còn nhiều hạn chế, tính tích cực của học sinh chưa
được phát huy.
1.2. Những vấn đề chung về Nhật kí trong tù
1.2.1.Hoàn cảnh ra đời
Hồ Chí Minh là anh hùng giải phóng dân tộc, vị lãnh tụ thiên tài của
cách mạng Việt Nam, danh nhân văn hóa xuất sắc của nhân loại, nhà văn –
nhà thơ lớn của nền văn học hiện đại Việt Nam. Nhân cách và tài năng của
Người là một tấm gương sáng cho các thế hệ học tập và noi theo. Người để lại
một di sản văn học đồ sộ, lớn lao về tầm vóc, đa dạng về thể loại, phong phú
trong bút pháp thể hiện. Văn thơ Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh có một vị
trí đặc biệt quan trọng trong chương trình giảng dạy ở các trường phổ thông.
Trong số đó, Nhật kí trong tù giữ một vị trí đặc biệt quan trọng, là tập thơ tiêu
biểu nhất trong di sản thơ ca của Người, có những đóng góp quan trọng cho
nền thơ ca Việt Nam cả về nội dung và nghệ thuật.
Tập nhật kí bằng thơ này có một hoàn cảnh ra đời hết sức đặc biệt.
Tháng 8 năm 1942, Bác Hồ sang Trung Quốc với tư cách là đại biểu của tổ
chức Việt Nam độc lập đồng minh, tìm cách liên lạc với các tổ chức cách
mạng ở Trung Quốc. Đây là lần đầu tiên trong đời hoạt động cách mạng của
mình Người dùng tên Hồ Chí Minh. Lấy cớ là giấy tờ mang theo không hợp
lệ và quá hạn, lính canh của quân đội Tưởng đã bắt Người tại phố Túc Vinh,
huyện Đức Bảo, tỉnh Quảng Tây. Cũng từ đó, gần 13 tháng, Người bị giam
cầm, đày ải qua các nhà tù của Tưởng Giới Thạch. Đây chính là thời gian Hồ
Chủ tịch viết Nhật kí trong tù - một tập nhật kí bằng thơ viết bằng chữ Hán


11


trong thời kì Người bị bọn Quốc dân Đảng bắt giữ và trải qua 13 tỉnh huyện
tỉnh Quảng Tây Trung Quốc. Bài thơ đầu “Thân thể ở trong lao, Tinh thần ở
ngoài lao, Muốn nên sự nghiệp lớn, Tinh thần càng phải cao” có thể coi như
một lời đề từ cho cả tập thơ. Khai quyển là bài số 1 mở đầu tập Nhật kí trong
tù và kết luận là bài số 133. Ở trang kết thúc Nhật kí trong tù có đề ngày tháng
29/08/1942 – 10/ 09/1943.
1.2.2.Giá trị nội dung
Trước hết, Nhật kí trong tù cho chúng ta hiểu về một tâm hồn vĩ đại – Hồ
Chí Minh. Nó không phải là một lời thanh minh, lời cảm khái về thân phận
long đong cực khổ của một người tù. Và giá trị của nó có lẽ cũng không phải
ở chỗ được một biểu tượng lớn của người Việt Nam và một phần nhân loại ở
thế kỉ XX: hình tượng người tù, hình tượng người lưu đày. Nhật kí trong tù đã
tố cáo cái tính chất phi lí, bất công vốn là nét bản chất của chế độ xã hội thối
nát Tưởng Giới Thạch. Âm hưởng tố cáo vang lên mạnh mẽ, sắc sảo trong
những bài thơ mang giọng điệu hài hước, châm biếm (Cái cùm, Quán trọ,
Tiền đèn, Tiền vào nhà giam, Đánh bạc, Mới đến nhà lao Thiên Bảo…), lên
án cái chế độ nhà tù mọt ruỗng, thối nát và tàn bạo kiểu phong kiến trung cổ
phương Đông. Nhưng giá trị chính của Nhật kí trong tù là những bài học lớn,
những tình cảm lớn của một tâm hồn vĩ đại, một trí tuệ sắc sảo của “bậc đại
nhân, đại trí, đại dũng”. Tìm hiểu Nhật kí trong tù, cái tòa nhà bằng ngôn ngữ
vẵng chắc và đẹp, người ta có cảm giác như mỗi bước đi đều chạm vào gốc rễ
sâu xa của một trong những con người kì diệu ít có, những con người như
những tảng đá lớn làm nền cho nhân loại, những con người qua cuộc đời mình
đã dạy cho mọi người hiểu rằng đối với con người không đỉnh cao nào là
không thể đạt tới . Nhật kí trong tù thể hiện sự bình tĩnh, ung dung thanh thản
của một chiến sĩ đã hơn nửa đời người chịu đựng mọi gian khổ, mọi khó khăn

để làm cách mạng giải phóng cho dân tộc mình và các dân tộc bị áp bức trên

12


thế giới. Tự xác định cho mình con đường cách mạng là con đường đấu tranh
gian khổ nên vào tù, sống trong cảnh bị đày đọa thiếu thốn, Hồ Chí Minh vẫn
giữ một thái độ bình thản. Những “tai ương” gặp phải chẳng qua cũng chỉ là
những thử thách trên đường đời, người chiến sĩ cách mạng phải phát huy hết
sức mạnh của ý chí và nghị lực để vượt lên những thử thách đó. Hồ Chí Minh
thường lấy qui luật vận động của tự nhiên để liên tưởng đến những qui luật
vận động của xã hội và con người. Trong sự tuần hoàn của tạo vật không có
cảnh “đông tàn” làm sao có cảnh “huy hoàng ngày xuân”. Cho nên những
năm tháng gian truân chẳng qua cũng chỉ là thời gian thử thách, rèn luyện con
người thêm vững vàng bản lĩnh. Một con người đã bôn ba khắp năm châu bốn
biển bỗng rơi vào cái tình cảnh sống bưng bít, cách biệt, con người ấy rất trân
trọng, chắt chiu từng nhịp đập của cuộc sống xã hội và thiên nhiên bên ngoài
vang vọng vào nhà tù: tiếng chim hót, tiếng gà gáy sáng, ánh mặt trời hồng
lúc bình minh, ánh trăng thu trong xanh ngoài cửa sổ, tiếng giã gạo lúc chiều
hôm, tiếng người đàn bà khóc chồng nửa đêm về sáng… Thiên nhiên và cuộc
sống bên ngoài đã tiếp thêm nguồn sinh lực mới cho người chiến sĩ và gợi lên ở
Người những tứ thơ độc đáo. Tư tưởng của người cộng sản vốn có một sức mạnh
vĩ đại mà không một nhà tù đế quốc nào có thể khuất phục nổi. Bài thơ đề từ của
tập Nhật kí trong tù làm hiện lên vẻ đẹp của người chiến sĩ trong cái thế đối chọi
giữa sức mạnh tinh thần của lí tưởng cộng sản và sức mạnh vật chất của xà lim,
báng súng. Tinh thần không hề có ý nghĩa siêu hình, linh hồn mà trái lại nó là yếu
tố cao quý trong con người, làm cho con người có thể vươn cao hơn tầm vóc nhỏ
bé của thể xác, vượt qua mọi gian khổ của xiềng xích nhà tù trên con đường đấu
tranh cách mạng để đi tới thắng lợi cuối cùng. Những người tù cộng sản luôn ở thế
đứng cao, thế đứng của một người bất khuất, người nắm được quy luật vận động

biện chứng của lịch sử. Trong nhà tù bị đọa đầy, bị xiềng xích, mà nhà thơ
vẫn vui đùa, vẫn giữ một phong thái ung dung tự tại:

13


“Hôm nay xiềng xích thay dây trói,
Mỗi bước leng keng tiếng ngọc rung;
Tuy bị tình nghi là gián điệp,
Mà như khanh tướng vẻ ung dung”
(Đi Nam Ninh)
Trong tập Nhật kí trong tù, sức mạnh của lí tưởng cộng sản, của niềm tin và
khí phách đã tạo cho người chiến sĩ một thế đứng cao hơn hẳn cái hiện thực đen
tối đó. Vì thế câu thơ của Hồ Chí Minh lạc quan, ung dung, thanh thản lạ
thường. Ở đây cũng thể hiện sự chiến thắng của sức mạnh tinh thần với sức
mạnh vật chất:
“Đáp thuyền thẳng xuống huyện Ung Ninh
Lủng lẳng chân treo tựa giảo hình
Làng xóm ven sông đông đúc thế
Thuyền câu rẽ sóng nhẹ tênh tênh”.
(Giữa đường đáp thuyền đi Ung Ninh)
Ở Nhật kí trong tù còn thể hiện khát vọng độc lập, tự do. Khát vọng
thường trực của chủ tịch Hồ Chí Minh là “không có gì quí hơn độc lập, tự
do”, “tôi chỉ có một ham muốn, ham muốn tột bậc là làm sao cho nước ta
được hoàn toàn độc lập, dân tộc được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có
cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành”. Khát vọng độc lập tự do của Hồ Chí
Minh bắt nguồn từ khát vọng dân tộc, dân chủ của nhân dân trong mấy ngàn
năm lịch sử. Khát vọng độc lập, tự do cũng là một trong những nội dung cơ
bản của Nhật kí trong tù. Hình tượng người chiến sĩ cách mạng thức suốt đêm
không ngủ vì lo lắng cho vận mệnh của đất nước đã trở thành một mô típ

quen thuộc gắn liền với cảm hứng chủ đạo trong thơ Hồ Chí Minh. Trong
những nhà lao ở Quảng Tây đã nhiều đêm người thao thức không ngủ. Không
ngủ được vì bị đày đọa và cuộc sống vật chất quá kham khổ. Có ngày Người

14


bị giải đi năm mươi ba cây số, mũ áo ướt đầm, giầy rách hết… Thế mà tối đến
vào nhà lao Thiên Bảo vẫn không có chỗ ngủ. Có những đêm thu lạnh quá,
nhà thơ thao thức đến gần sáng:
“Đêm thu không đệm cũng không chăn,
Gối quắp, lưng còng, ngủ chẳng an;
Khóm chuối, trăng soi càng thấy lạnh;
Nhòm song, Bắc đẩu đã nằm ngang”
(Đêm lạnh)
Không ngủ được vì đêm thu lạnh, vì đói rét, nhưng chủ yếu là vì những nỗi
lo lắng, xót xa cho tình cảnh đất nước trong vòng nô lệ, vì nỗi lo lắng thường trực
cho độc lập tự do của dân tộc. Có độc lập cho Tổ quốc thì mới có tự do cho mỗi
người. Tổ quốc đang trong tình cảnh nô lệ thì cá nhân cũng bị tước đoạt tự do.
Trong nhà tù Quốc dân Đảng, Hồ Chí Minh bị câu thúc trong mọi chuyện đi lại,
ăn uống, sinh hoạt hàng ngày, thậm chí không được tự do ngắm một vầng trăng
thu, đón một tia nắng hồng buổi sớm. Nhưng nỗi đau khổ nhất của Bác là thấy
mình quá nhàn rỗi trong lúc bên ngoài không khí cách mạng sôi sục, đòi hỏi gấp
rút hành động. Nỗi lo lắng, quan tâm lớn lao nhất của người cán bộ lãnh đạo vẫn
là độc lập, tự do cho dân tộc. Đấu tranh cho tự do của bản thân cũng là nhằm để có
điều kiện trực tiếp đấu tranh cho tự do của đất nước:
“Trên đời nghìn vạn điều cay đắng;
Cay đắng chi bằng mất tự do”.
(Cảnh binh khiêng lợn cùng đi)
“Thà chết chẳng cam nô lệ mãi,

Tung bay cờ nghĩa khắp trăm miền;
Xót mình còn hãm trong tù ngục
Chưa được xông ra giữa trận tiền”.
(Việt Nam có bạo động)

15


Nhật kí trong tù 13 lần nhắc đến chữ “tự do”. Từ cảnh ngộ của riêng
mình, từ những từng trải của cuộc đời mình, Hồ Chí Minh đã đúc kết nên
những chân lí của thời đại.
Nhật kí trong tù chan chứa tình yêu thương đối với con người và cuộc
sống. Chủ nghĩa nhân đạo cách mạng của Hồ Chí Minh thật bao la và độ
lượng. Là thân phận một người tù, Hồ Chí Minh quên nỗi đau khổ của riêng
mình để chia sẻ nỗi đau buồn ở xung quanh. Người cảm thông với từng cảnh
ngộ éo le, phức tạp của những người bạn tù. Có người bị rơi vào cảnh oan
trái, có người tù vì cờ bạc, lại có cả em bé và phụ nữ chịu tội thay người trốn
lính. Trong nhà lao, nghe tiếng sáo sầu thảm của người bạn tù nhớ quê hương
Hồ Chí Minh thương cảm và như thấy hiện ra trước mắt một làng quê nào đó
có người thiếu phụ bước lên thêm một tầng lầu ngóng về phương xa:
“Bỗng nghe trong ngục sáo vi vu,
Khúc nhạc tình quê chuyển điệu sầu;
Muôn dặm quan hà khôn xiết nỗi,
Lên lầu, ai đó ngóng trông nhau”.
(Người bạn tù thổi sáo)
Tấm lòng nhân ái, bao dung và độ lượng của Hồ Chí Minh chắc chắn đã
cảm hóa được nhiều người trong cái nhà tù thối nát của chế độ Quốc dân
Đảng. Trong nhà ngục của chúng, Hồ Chí Minh cũng rất quí trọng, nâng niu
những tâm hồn trong sạch, lương thiện còn sót lại. Người tỏ lòng biết ơn
“khoa trưởng họ Ngũ, khoa viên họ Hoàng” đã ân cần thăm hỏi và giúp đỡ tù

nhân. Nhật kí trong tù là một bài học về lòng nhân ái, bao dung, thái độ tin
yêu và trân trọng Con Người. Hồ Chí Minh là một biểu tượng của chủ nghĩa
nhân văn chân chính của thời đại mới.
Nhật kí trong tù không chỉ thể hiện vẻ đẹp tâm hồn, khát vọng độc lập tự
do, tình yêu thương đối với con người và cuộc sống mà còn chứa chan cảm

16


xúc trữ tình trước thiên nhiên. Hồ Chí Minh là một chiến sĩ mang tâm hồn
nghệ sĩ. Tình cảm đối với thiên nhiên có một vị trí đặc biệt trong thơ Người.
Thiên nhiên trong thơ Người ở mỗi thời kì có một ý nghĩa, một sắc thái riêng.
Ở Nhật kí trong tù, cảm hứng đối với thiên nhiên là biểu hiện một thái độ
muốn vượt lên cái hiện thực bị giam cầm:
“Mặc dù bị trói chân tay
Chim ca rộn núi, hương bay ngát rừng;
Vui say, ai cấm ta đừng,
Đường xa, âu cũng bớt chừng quạnh hiu”
(Trên đường)
Những bài thơ mang cảm xúc trữ tình trước thiên nhiên, thơ nói đến
trăng, đến hoa cũng là “thơ thép”. Trong bài “Vọng nguyệt”, thi nhân thả
hồn lên với trăng nhưng vẫn không quên cảnh xiềng xích trong nhà tù. Việc
ngắm trăng ở đây mang một ý nghĩa sâu hơn thường tình, nó trở thành một
cuộc vượt ngục của người chiến sĩ. Nhiều bài thơ của Hồ Chí Minh vừa hiện
thực lại vừa lãng mạn. Sự rung cảm bắt đầu từ hiện thực của thân phận
người tù bị đày đọa, bị tước đoạt tự do, nhưng tiếp theo là cảm hứng lãng
mạn bay bổng. Tư tưởng Đông phương cổ đại với yếu tố biện chứng thô sơ
đã quan niệm vũ trụ là một khối thống nhất: “Thiên địa vạn vật nhất thể”.
Trong thơ của Hồ Chí Minh, đất nước, thiên nhiên, con người là một tổng
thể hài hòa “Còn non, còn nước, còn người”. Con người trong thơ Hồ Chí

Minh có một mối quan hệ đồng cảm với thiên nhiên. Cảnh với người, sự vật
khách quan và cái tôi của chủ thể trữ tình soi bóng vào nhau, hòa quyện
khăng khít với nhau:
“Hương hoa bay thấu vào trong ngục
Kể với tù nhân nỗi bất bình”.
(Chiều tối)

17


“Người ngắm trăng soi ngoài cửa sổ
Trăng nhòm khe cửa ngắm nhà thơ”.
(Ngắm trăng)
Thiên nhiên là người bạn tâm tình của thi sĩ cho nên thiên nhiên trong
thơ Bác bao giờ cũng ấm cúng tình người:
“Cô em xóm núi xay ngô tối
Xay hết, lò than đã rực hồng”
(Chiều tối)
Con người hài hòa với thiên nhiên, đó là nét giống nhau giữa thơ Hồ Chí
Minh và thơ Đường. Nhưng trong thơ Hồ Chí Minh con người lại là chủ thể
của thiên nhiên. Trong Nhật kí trong tù ta thấy phảng phất cái thi vị của thơ
Đường. Nhưng Bác Hồ thường đưa vào cái thiên nhiên vĩnh cửu của câu thơ
xưa một nội dung xã hội.
Nhật kí trong tù ra đời trong một hoàn cảnh lịch sử đặc biệt. Có lẽ
đó là một tác phẩm cuối cùng viết bằng chữ Hán nhưng lại là một trong
những tập thơ cách mạng đầu tiên ở nước ta. Nhật kí trong tù cho ta hiểu
một quãng đời gian khổ của chủ tịch Hồ Chí Minh. Nó đã phản ánh được
một số nét khá tiêu biểu của tư tưởng đạo đức tình cảm Hồ Chí Minh.
Tác phẩm còn là một bài học lớn về tinh thần đấu tranh kiên cường, bất
khuất cho độc lập, tự do, về chủ nghĩa nhân đạo cộng sản, về chủ nghĩa

lạc quan cách mạng.
1.2.3. Giá trị nghệ thuật
Thơ Hồ Chí Minh vừa cổ điển vừa hiện đại. Cái phong thái ung dung tự
tại của người chiến sĩ trong những bài thơ của tập Nhật kí trong tù rất gần gũi
mà cũng rất khác xa với cái ung dung của những bậc hiền giả phương Đông.
Các nhà Nho xưa ung dung thanh thản khi đã ở bên lề của cuộc đời mặc kệ mọi
cuộc thăng trầm của thế sự. Còn ở Hồ Chí Minh là phong thái ung dung thanh

18


thản của một người chiến sĩ dày dạn, đứng giữa sóng to gió lớn mà vẫn bình
tĩnh, tự tin vì đã nắm được những qui luật của cuộc sống, của lịch sử.
Thơ Hồ Chí Minh mang nhiều đặc điểm của thơ ca phương Đông, hội
họa phương Đông. Đó là cái thiên nhiên vĩnh cửu chưa được cá thể hóa trong
thơ Đường. Lối vẽ chấm phá để nhiều khoảng trống, nhiều sự im lặng dành
chỗ cho sự tưởng tượng của người đọc (Đêm lạnh, Hoàng hôn…). Đó là lối
thơ giản dị mà hàm súc, nhiều ẩn dụ, nhiều tượng trưng, cấu tạo theo nhiều tầng
ý nghĩa, mở ra nhiều liên tưởng trong tâm tư của người đọc theo kiểu “thi tại
ngôn ngoại” (Cảnh chiều tối, Giải đi sớm, Học đánh cờ, Cột cây số, Nghe tiếng
giã gạo…). Roger Denux, nhà văn Pháp, đã nhận xét tinh tế về thơ Hồ Chí
Minh: “Thơ người nói ít mà gợi nhiều, là loại thơ có màu sắc thanh đạm, có âm
thanh trầm lắng, không phô diễn mà như cố khép lại trong đường nét để cho
người đọc tự thưởng thức lấy cái phần ý ở ngoài lời. Phải yên lặng một mình đọc
thơ Người, phải thỉnh thoảng ngừng lại để suy nghĩ mới cảm thấy hết những âm
vang của nó và nghe những âm vang ấy cứ ngân dài mãi” [26].
Nhật kí trong tù đã kế tục nghệ thuật châm biếm sâu sắc trong các tác
phẩm văn xuôi của Nguyễn Ái Quốc. Đối tượng châm biếm ở đây là chế độ
Quốc dân đảng tàn bạo, thối nát. Nhà thơ đã phát hiện ra bản chất hài kịch của
họ trên con đường suy thoái. Tiếng cười nảy sinh do mâu thuẫn giữa bản chất

và hiện tượng, giữa nội dung và hình thức, giữa cái thực chất xấu xa bên trong
của chế độ thống trị và mọi hình thức ngụy trang giả dối bên ngoài. Những
người tù cờ bạc bị giải vào nhà lao mới biết pháp luật của chính quyền Tưởng
Giới Thạch là một cái gì hết sức giả dối và ngược đời:
“Đánh bạc ở ngoài quan bắt tội;
Trong tù đánh bạc được công khai;
Bị tù con bạc ăn năn mãi;
Sao trước không vô quách chốn này”
(Đánh bạc)

19


Nhật kí trong tù là một bước tổng hợp mới của thi ca hiện đại Việt Nam.
Tác giả đã sử dụng mọi thủ pháp nghệ thuật: tả thực, tượng trưng, ước lệ,
chiết tự, chơi chữ, nói nhại và lúc cần tung phá cả luật lệ. Tập thơ đã kết hợp
một cách khá nhuần nhị chất thép và chất trữ tình, trữ tình và tự sự, lãng mạn
và hiện thực, phản ánh và triết lí, tính cổ điển và tính hiện đại. Nhật kí trong
tù là một tác phẩm lớn của nền văn học cách mạng, là tập thơ đã cắm một cái
mốc quan trọng trong lịch sử thơ ca Việt Nam.
1.3. Nhật kí trong tù nhìn từ đặc trƣng thể loại
1.3.1. Đặc trưng kí
1.3.1.1. Khái niệm
Trong văn xuôi, bên cạnh tiểu thuyết, các thể kí văn học có một tầm
quan trọng đặc biệt. Kí văn học là thể loại linh hoạt, nhạy bén trong việc phản
ánh hiện thực ở cái thế trực tiếp nhất, ở những nét sinh động và tươi mới nhất.
Kí phản ánh sự việc và con người có thật trong cuộc sống. Tính chính xác tối
đa là đặc trưng cơ bản của kí. Do đó, sức hấp dẫn, sức thuyết phục của kí một
phần lớn do chính sự việc được phản ánh trong tác phẩm. So với truyện ngắn,
tiểu thuyết, kí phản ánh nhanh chóng và linh hoạt cuộc sống. Tác phẩm kí vừa

có khả năng đáp ứng được những yêu cầu bức thiết của thời đại đồng thời vẫn
giữ được tiếng nói vang xa, sâu sắc của nghệ thuật. Bao gồm nhiều thể khác
nhau như kí sự, phóng sự, tùy bút, bút kí, nhật kí… nên tính chất cơ động của
kí còn thể hiện ở chỗ nó có khả năng bám sát cuộc sống, phản ánh linh hoạt
hiện thực bằng nhiều dạng thức khác nhau. Trong kí, các yếu tố tự sự, trữ
tình, chính luận hào lẫn nên kí có thể phản ánh linh hoạt các sắc thái muôn
màu của cuộc sống. Hư cấu trong kí giữ vai trò thứ yếu nhưng vai trò chủ
quan của người viết kí cũng rất quan trọng. Tài nghệ của tác giả thể hiện ở
chỗ biết chọn đúng đối tượng để viết, tìm hiểu đúng đối tượng để làm nổi bật
tầm tư tưởng. Các thể kí văn học luôn được mở rộng khả năng sáng tạo cho

20


phù hợp với tính chất phong phú của đối tượng miêu tả. Tùy theo hình thức
khác nhau của đối tượng miêu tả, nghệ thuật kí có cách xử lí và tái hiện riêng
cho phù hợp. Kí cũng không gò bó người viết trong một phương thức biểu
hiện và một phong cách duy nhất mà mở rộng, thừa nhận nhiều hình thức và
nhiều phong cách sáng tạo. Kí văn học là nơi quy tụ và chọn lọc vào cửa ngõ
nghệ thuật nhiều ngọn nguồn hoạt động ý thức và ghi chép về đời sống.
Kí không phải là một thể loại thuần nhất mà bao gồm nhiều hình thức
ghi chép, miêu tả và biểu hiện của cuộc sống trong văn xuôi từ kí sự, phóng
sự, bút kí, hồi kí cho đến nhật kí, tùy bút, bút kí chính luận. Với thể kí văn
học thì nguyên tắc quan trọng của việc miêu tả người thật việc thật là phải tôn
trọng tính xác thực của đối tượng miêu tả. Dù ở thể loại nhỏ nào thì vẫn phải
lấy điểm tựa ở sự thật khách quan của đời sống và tôn trọng tính xác thực của
đối tượng miêu tả.
1.3.1.2.Đặc trưng kí
Kí trước hết nhằm thông tin sự thật. Chức năng “ghi để nhớ không quên”
có từ cội nguồn thể loại khiến các nhà viết kí trước hết phải hướng về tìm tòi,

nghiên cứu, phát hiện rồi ghi lại những “người thật, việc thật”, những biến cố,
những vấn đề của đời sống. “Kí văn học có cách thức xây dựng điển hình
không giống với các thể loại văn học như kịch, tiểu thuyết, thơ ca. Nó không
theo con đường khái quát tổng hợp mà lựa chọn từ những người thật việc thật
điển hình trong đời sống” [8, t.250]. Phần nhiều tác phẩm kí ra đời như bộc lộ
phản ứng trực tiếp với những biến cố thời sự, những vấn đề nóng bỏng đang
được đặt ra trong đời sống. Người viết kí không chỉ đặc biệt quan tâm và tôn
trọng những sự kiện xã hội – lịch sử, mà chú ý tới tất cả các biểu hiện, những
dạng hướng tồn tại và phát triển của cuộc sống, truyền đạt trung thực những gì
mà theo tác giả là có giá trị, ý nghĩa với con người. Với thể loại kí, cõi thực vốn
là bản gốc của tác phẩm, “tính chính xác tối đa là đặc trưng cơ bản của kí” [18,

21


×