Tải bản đầy đủ (.pdf) (67 trang)

Dấu ấn chủ nghĩa tượng trưng trong tập Tinh huyết của Bích Khê

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (962.75 KB, 67 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA NGỮ VĂN

----

NGÔ THỊ OANH

DẤU ẤN CHỦ NGHĨA TƯỢNG TRƯNG
TRONG TẬP TINH HUYẾT
CỦA BÍCH KHÊ

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Lí luận văn học

Người hướng dẫn khoa học:

TS. MAI THỊ HỒNG TUYẾT

HÀ NỘI - 2017


LỜI CẢM ƠN
Em xin được bày tỏ lòng cảm ơn chân thành và sâu sắc đến các thầy cô
giáo trong khoa Ngữ văn, Trường Đại học Sư phạm Hà nội 2, đặc biệt là
TS.Mai Thị Hồng Tuyết đã trực tiếp tạo mọi điều kiện, giúp đỡ, chỉ bảo tận
tình cho em trong suốt thời gian nghiên cứu, hoàn thành khóa luận này.
Do còn hạn chế về thời gian cũng như kiến thức của bản thân nên khóa
luận này không thể tránh khỏi những thiếu sót. Kính mong nhận được sự góp
ý từ các thầy cô và các bạn sinh viên.

Hà Nội, tháng 4 năm 2017


Tác giả khóa luận
Ngô Thị Oanh


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan:
-Khóa luận này là sự nghiên cứu của cá nhân dưới sự hướng dẫn của TS Mai
Thị Hồng Tuyết
-Những số liệu và tài liệu được trích dẫn trong đây là trung thực;
-Kết quả nghiên cứu này không trùng lặp với bất cứ công trình nào được công
bố trước đó.
Tôi xin chịu trách nhiệm trước lời cam đoan của mình.
Hà Nội, tháng 4 năm 2017
Tác giả
Ngô Thị Oanh


MỤC LỤC

MỞ ĐẦU ........................................................................................................... 1
1. Lí do chọn đề tài ............................................................................................ 1
2. Lịch sử vấn đề ............................................................................................... 2
2.2. Giai đoạn từ 1945 đến 1975 ....................................................................... 3
2.3. Giai đoạn sau 1975 cho đến ngày nay ....................................................... 5
3. Mục đích và nhiệm vụ của khóa luận ........................................................... 7
3.1. Mục đích của khóa luận ............................................................................. 7
3.2. Nhiệm vụ của khóa luận............................................................................. 7
4.Đối tượng, phạm vi nghiên cứu ..................................................................... 7
5. Phương pháp nghiên cứu............................................................................... 8
6. Cấu trúc khóa luận ........................................................................................ 8

Chương 1: KHÁI QUÁT VỀ CHỦ NGHĨA TƯỢNG TRƯNG VÀ ẢNH
HƯỞNG CỦA NÓ ĐẾN PHONG TRÀO THƠ MỚI GIAI ĐOẠN CUỐI ..... 9
1.1. Khái quát về chủ nghĩa tượng trưng........................................................... 9
1.1.1. Khái niệm tượng trưng ............................................................................ 9
1.1.2. Sự hình thành của chủ nghĩa tượng trưng ............................................. 10
1.1.3. Tuyên ngôn và đặc trưng thẩm mĩ của chủ nghĩa tượng trưng ............. 12
1.2. Ảnh hưởng của chủ nghĩa tượng trưng đến phong trào Thơ mới giai đoạn
cuối .................................................................................................................. 16
1.2.1. Khái quát về phong trào Thơ mới giai đoạn cuối ................................. 16
1.2.2. Dấu ấn chủ nghĩa tượng trưng trong phong trào Thơ mới giai đoạn cuối
......................................................................................................................... 18
Chương 2: DẤU ẤN CHỦ NGHĨA TƯỢNG TRƯNG TRONG TẬP TINH
HUYẾT CỦA BÍCH KHÊ ............................................................................... 22
2.1. Trực giác và vô thức trong Tinh huyết ..................................................... 23


2.1.1. Khái niệm trực giác và vô thức ............................................................. 23
2.1.2. Biểu hiện của trực giác và vô thức trong Tinh huyết ............................ 26
2.2. Biểu tượng trong Tinh huyết của Bích Khê ............................................. 35
2.2.1. Khái niệm biểu tượng ............................................................................ 35
2.2.2. Biểu tượng nghệ thuật trong Tinh huyết của Bích Khê......................... 38
2.3. Cấu trúc hình ảnh như là sự tương giao giữa các giác quan .................... 48
2.4. Nhạc tính trong Tinh huyết....................................................................... 51
2.4.1. Nhạc tính được tạo nên từ “thanh” và “ vần” ....................................... 52
2.4.2. Nhạc tính được tạo nên từ những cấu trúc đặc biệt .............................. 56
KẾT LUẬN ..................................................................................................... 58
TÀI LIỆU THAM KHẢO


MỞ ĐẦU

1. Lí do chọn đề tài
Vào những năm đầu thế kỉ XX, ở Việt Nam đã diễn ra nhiều biến đổi
sâu sắc trên tất cả các phương diện đời sống, trong đó có văn học. Một trong
những thay đổi lớn của nền văn học là sự xuất hiện của phong trào Thơ mới
(1932 - 1945). Dù ra đời và phát triển trong khoảng thời gian không dài
nhưng Thơ mới đã có đóng góp hết sức to lớn cho văn học nước nhà. Chính
nó đã mở đầu cho sự phát triển của thơ ca Việt Nam hiện đại và đã làm xuất
hiện một loạt các nhà thơ mới với cá tính sáng tạo độc đáo như: Thế Lữ, Xuân
Diệu, Chế Lan Viên, Hàn Mặc Tử, Bích Khê, Vũ Hoàng Chương... Trong số
đó, Bích Khê là một trường hợp khá đặc biệt. Tác giả này bước vào làng thơ
rất sớm, khi còn tuổi thiếu niên và đã có nhiều bài thơ đạt đến trình độ già
dặn, được nhiều bậc túc nho tán thưởng. Nhưng đến năm 1936, ông không
sáng tác theo lối thơ cũ mà lại đi theo lối sáng tác của thơ mới. Vừa xuất hiện
trên thi đàn Thơ mới, ông đã làm kinh ngạc biết bao người, bởi cách cảm thụ
thế giới bằng cả cảm giác và trực giác, tưởng tượng lẫn trí tuệ; bởi cách xây
dựng các lớp hình tượng mới mẻ bằng một thứ ngôn ngữ “quái đản”, biến
hoá, bất ngờ, táo bạo; và bởi lối diễn đạt mới lạ, giăng mắc, mê hoặc và đầy
ám ảnh. Tuy nhiên, cho đến nay, do nhiều nguyên nhân chủ quan và khách
quan, thơ Bích Khê vẫn chưa được nhìn nhận, đánh giá và nghiên cứu một
cách đúng mức, thoả đáng.
Trong số các tác phẩm của Bích Khê, tập thơ Tinh huyết hiển nhiên là
tác phẩm được biết đến rộng rãi hơn cả, giản dị là vì đây có lẽ là tác phẩm duy
nhất của nhà thơ này được in thành sách ngay sinh thời tác giả, trong khi
những tác phẩm còn lại phải chịu khoảng thời gian nằm trong im lặng khá lâu
(tính bằng hàng mấy chục năm) mới đến được công chúng, và đến công
chúng chỉ với tư cách là những di cảo. Ðiều này cũng có nghĩa là, nếu muốn

1



luận bàn về ảnh hưởng của thơ Bích Khê đến phong trào Thơ Mới đương thời,
hiển nhiên phải tập trung chú ý vào tập thơ này.
Tinh huyết của Bích Khê chịu ảnh hưởng sâu sắc từ chủ nghĩa tượng
trưng, do đó nó được viết theo một lối thơ hoàn toàn mới. Chính cái mới ấy
đã tạo ra rào cản đối với quá trình tiếp nhận văn học theo cách truyền thống
của bạn đọc. Nhưng hơn hết, những cái mới ấy đã tạo nên được nét độc đáo
và đóng góp rất nhiều trong việc tạo nên tên tuổi của nhà thơ.
2. Lịch sử vấn đề
Từ trước đến nay, trong các công trình nghiên cứu về Bích Khê, vấn đề
dấu ấn chủ nghĩa tượng trưng trong thơ ông ít nhiều đã được đề cập đến. Sau
đây, trên cơ sở điểm qua quá trình nghiên cứu về thơ ông, chúng tôi sẽ điểm
lại những bài viết, những công trình đề cập hoặc có liên quan đến tập thơ này.
Nhìn trên tổng thể, lịch sử nghiên cứu thơ Bích Khê có thể chia làm ba
giai đoạn: trước năm 1945, từ năm 1945 đến năm 1975 và từ năm 1975 đến
nay.
2.1. Giai đoạn trước 1945
Đương thời ông chỉ mới kịp in tập Tinh huyết do Trọng Miên xuất bản
tại Hà Nội (1939). Tập thơ gồm 4 phần với tổng số 34 mục bài. Do đó, thời
kỳ này người ta bàn về thơ ông chưa nhiều. Có thể kể đến mấy bài viết của
các tác giả như Hàn Mặc Tử, Trọng Miên, Hoài Thanh, Hoài Chân.
Hàn Mặc Tử trong bài tựa Bích Khê - thi sĩ thần linh đã thực sự rung
động, đồng cảm, nhập thân và nhiệt thành đánh giá cao Bích Khê “Bích Khê
là người có tài, có sẵn cái tài đã lâu, chỉ gặp cơ hội là phát triển, là bao
nhiêu anh hoa đều tiết lộ ra ngoài” [7,10] và không hết lời ca ngợi tài năng
của ông “bắt cái vô hình trở nên hữu hình, khiến cái chết trở nên sống, cho sự
vật câm không còn là câm nữa”.

2



Cùng với Hàn Mặc Tử, Trọng Miên trong Lời bạt Tinh huyết, cũng đã
có những cảm nhận, khái quát ngắn gọn và đánh giá cao Bích Khê cả về
nguồn cảm xúc và thi tứ đạt đến tột đỉnh mọi sắc độ: “Tinh huyết vang dội
một nỗi đau khổ tuyệt vọng phủ qua màu sắc truỵ lạc ồ ạt như muốn chảy tràn
vào đường gân, mạch máu của tôi... Nhạc và lệ, đẹp và dâm, cuồng và ánh
sáng, Bích Khê hoà hợp thành một dòng Tinh huyết tân kỳ” [dẫn theo Nguyễn
Hữu Sơn, 113, tập1, 134].
Tiếp đến, Hoài Thanh trong Thi nhân Việt Nam (1942) thì lại tỏ ra ngập
ngừng, e dè khi làm quen thơ Bích Khê. Ông viết: “Tôi đã đọc không biết đọc
mấy chục lần bài Duy tân, tôi thấy trong đó có nhiều câu thật đẹp. Nhưng tôi
không dám chắc bài thơ đã nói hết cùng tôi những nỗi niềm riêng của nó...
hình như vẫn còn gì nữa... còn các bài khác hoặc chưa xem hoặc mới đọc có
đôi ba lần. Mà thơ Bích Khê, đọc đôi ba lần thì cũng như chưa đọc” [4, 279].
Dù thế nào thì đây cũng là những lời đánh giá thật sự thành thực của Hoài
Thanh về thơ Bích Khê. Lí giải cho cách đánh giá của Hoài Thanh về thơ
Bích Khê có lẽ là do Hoài Thanh đánh giá Thơ mới từ nhãn quan của chủ
nghĩa lãng mạn nhưng thơ Bích Khê lại được viết theo chủ nghĩa tượng trưng.
Chính vì vậy mà những đánh giá của Hoài Thanh là hoàn toàn dễ hiểu.
Như vậy, trong khoảng thời gian này, mặc dù người ta bàn về ông chưa
nhiều nhưng nhìn chung, những người đương thời đã sớm nhận ra và đánh giá
cao tài năng của Bích Khê .
2.2. Giai đoạn từ 1945 đến 1975
Ở thời điểm mà đất nước bị chia cắt thành hai miền Bắc-Nam, thơ Bích
Khê ở miền Bắc không được đón nhận, bởi lẽ ông bị vướng vào một nghi án
chính trị. Nhưng ở miền Nam lại hoàn toàn khác, Bích Khê được biết đến như
một thiên tài thơ ca có những đóng góp lớn vào nền thi ca hiện đại Việt Nam.
Người mở đầu cho giai đoạn nghiên cứu này là Đinh Cường với bài viết Cuộc

3



đời và thi nghiệp Bích Khê đăng trên tạp chí Văn hoá Á Châu số 22 tháng 1
năm 1960. Năm 1963, Đinh Cường có tiếp bài Nhạc và hoạ trong thơ Bích
Khê, tác giả chỉ ra:“Bích Khê đã phát ra một rung động mới mẻ và thường
dùng những biểu tượng để diễn tả những hình ảnh và những ý tưởng khác lạ
có đủ ma lực để gợi ra hay làm sáng tỏ đối tượng” [17, 164]. Và đến năm
1966, trên báo Văn, một tập san Văn học nghệ thuật có uy tín được xuất bản ở
đô thị miền Nam trước năm 1975, đã cho ra một số báo đặc biệt để tưởng
niệm Bích Khê: số 64 ra ngày 15/8/1966. Trên tập san này đã giới thiệu 8 bài
viết đặc sắc của các tác giả là nhà văn, nhà thơ, nhà phê bình văn học như:
Đôi nét về cuộc đời Bích Khê của Quách Tấn; Bích Khê có khuynh hướng
chính trị không; Nhân nhớ Bích Khê và thơ bích Khê bàn về thơ tượng trưng
của Tam Ích; Người em Bích Khê của Lê Thị Ngọc Sương...
Năm 1974, trên tạp chí Văn học số chuyên đề về Bích Khê ra ngày 2011 có bài viết Bích Khê: Dòng thơ, khoảng thơ và thời gian của Phạm Hoài
Việt; Thế giới thơ tượng trưng Bích Khê của Phạm Kim Thịnh và Tinh huyết
của Bích Khê của Lê Huy Oanh. Trong bài viết này, tác giả Lê Huy Oanh đã
phát hiện thấy ở ông một tài năng xây dựng biểu tượng rất độc đáo, ám gợi.
Ngoài các số báo chuyên đề, Bích Khê còn xuất hiện trong các tuyển
thơ như của Nguyễn Tấn Long, Thi ca Việt Nam hiện đại của Trần Tuấn Kiệt
(1965), Thi nhân tiền chiến (quyển hạ 1969), Đời Bích Khê của Quách Tấn
(1971)... Nhìn chung trong các bài viết này, các tác giả đều tập trung nghiên
cứu đời và thơ Bích Khê, đặc biệt là thơ. Tuy các ý kiến của các bài viết nhiều
khi chưa thống nhất nhưng nhìn chung, họ đều khẳng định Bích Khê là “nhà
thơ của sáng tạo và cách tân, là người gieo hạt giống thơ cho mùa sau” (Trần
Hoài Anh).

4


2.3. Giai đoạn sau 1975 cho đến ngày nay

Sau khi nước nhà độc lập, đặc biệt sau 1986, cũng như Thơ mới nói
chung, Bích Khê và thơ Bích Khê được nhìn nhận lại một cách khách quan và
công bằng hơn. Hàng loạt những bài viết với những kiến giải, phân tích khá
sâu sắc và thấu đáo nối tiếp nhau xuất hiện. Năm 1988, tập Thơ Bích Khê do
Sở văn hoá thông tin Nghĩa Bình phát hành, di sản thơ ca của thi nhân đã có
dịp đến với người đọc tương đối đầy đủ. Ngoài ra, còn có một số công trình
khác có giá trị như: Bích Khê, khuôn mặt độc đáo trong phong trào Thơ mới
(Lê Hồng Khánh, 1990), Bích Khê, con chim yến của thời gian (Võ Tấn
Cường, 1995), Bích Khê - sự nhận thức ngôn từ (Đỗ Lai Thuý, 1997)...
Tiếp đến năm 2005, Nhà xuất bản Văn học đã cho ra đời cuốn 70 năm
đọc thơ Bích Khê sưu tầm 59 bài thơ và 16 bài viết của nhiều tác giả đọc thơ
Bích Khê hơn 70 năm qua, nhằm mục đích để trân trọng và bảo tồn “một loại
di sản văn hoá có giá trị”.
Đến tháng 2 năm 2006, một Hội thảo về thơ Bích Khê được tổ chức tại
Quảng Ngãi để kỉ niệm 60 năm ngày mất của thi nhân. Đây là cuộc hội thảo
đầu tiên về thơ Bích Khê được tổ chức khá quy mô, với trên 40 tham luận của
các nhà thơ, nhà văn, nhà nghiên cứu có tên tuổi trong cả nước. Các tham
luận: Đặc sắc thơ Bích Khê của nhà thơ Vũ Quần Phương, Tập thơ Tinh
Huyết của Bích Khê và giai đoạn phát triển thứ hai của thơ mới của nhà phê
bình Lại Nguyên Ân; Bích Khê với ca trù của nhà thơ Nguyễn Thuỵ Kha;
Những đóng góp của Bích Khê vào nền thơ ca hiện đại Việt Nam của giáo sư
Lê Hoài Nam... đều nói lên cái hay, cái đẹp trong thơ Bích Khê, cũng như
cuộc đời và sự nghiệp của ông đã cống hiến hết mình vì thi ca; đồng thời các
tham luận cũng lên tiếng minh oan cho nhà thơ tài hoa nhưng bạc mệnh này.
Trong số đó, có nhiều bài viết đề cập và phân tích những dạng thức
khác nhau của biểu tượng trong thơ Bích Khê như Ảnh hưởng của Baudelaire

5



trong thơ Bích Khê của Nguyễn Thị Đỗ Quyên. Ở bài viết này tác giả đã chỉ
ra những điểm tương đồng giữa Bích Khê và Ch.Baudelaire trong quan niệm
thẩm mỹ: “cái đẹp hiện diện ngay trong những cái hỗn độn xô bồ của cuộc
sống”. Đặc biệt là Bích Khê đã ảnh hưởng và học tập Baudelaire “tính biểu
trưng”, tức là đều chủ trương phản ánh thế giới bằng biểu tượng. Đó cũng là lí
do khiến Bích Khê chọn biểu tượng làm phương tiện biểu hiện đắc lực trong
thơ mình. Tác giả còn cho rằng biểu tượng trong thơ Bích Khê đều là những
“mã hoá” đang cần những chìa khoá giải mã
Như vậy, với việc điểm qua những công trình, bài viết liên quan đến
thơ Bích Khê, chúng tôi thấy rằng, viết về ông tuy ít nhưng hầu như thời nào
cũng có. Có ý kiến thì đề cao khẳng định thơ ông và những cách tân về thơ;
có ý kiến thì vẫn còn dè dặt, phân vân... Mặc dù còn có nhiều cách tiếp cận
không giống nhau như thế là do khác nhau về tâm lí, về thời đại... song nhìn
chung, các tác giả đều khẳng định vẻ đẹp cuộc đời và thơ Bích Khê với những
giá trị mới lạ, nó như là một “viên ngọc quý... một loại di sản văn hoá có giá
trị cần được trân trọng và bảo tồn” [8].
Còn với những công trình có đề cập đến Dấu hiệu của chủ nghĩa tượng
trưng trong thơ Bích Khê thì còn hạn chế. Chính vì thế, khiến cho người đọc
trong quá trình tìm hiểu và cảm nhận về thơ Bích Khê chưa có một cái nhìn
bao quát và toàn diện về những đóng góp của ông. Trong điều kiện như vậy,
chúng tôi cố gắng đưa ra một cách nghiên cứu tương đối có tính hệ thống về
Dấu ấn chủ nghĩa tượng trưng trong thơ Bích Khê, trên cơ sở tiếp thu có lựa
chọn của những công trình trước.
Do đó, trong công trình này, chúng tôi triển khai vấn đề này để người
đọc có thêm một góc nhìn, một cơ sở đánh giá những thành tựu mà Bích Khê
đã đạt được.

6



3. Mục đích và nhiệm vụ của khóa luận
3.1. Mục đích của khóa luận
Thực hiện đề tài: Dấu ấn chủ nghĩa tượng trưng trong tập Tinh huyết
của Bích Khê, chúng tôi hy vọng đem đến một cách nhìn đầy đủ về ảnh
hưởng của chủ nghĩa tượng trưng đến Bích Khê cũng như những sáng tạo
riêng của nhà thơ.
3.2. Nhiệm vụ của khóa luận
Nhiệm vụ nghiên cứu của khóa luận này chúng tôi đi sâu tìm hiểu về
“Dấu ấn chủ nghĩa tượng trưng trong tập Tinh huyết của Bích Khê”, trong
tương quan của chủ nghĩa tượng trưng tiếp nhận và ảnh hưởng của nó đến thơ
Bích Khê mà cụ thể hơn là tập thơ Tinh huyết. Để từ đó thấy được những giá
trị độc đáo trong thơ ca của Bích Khê cũng như vai trò của ông trong phong
trào Thơ mới giai đoạn cuối
4.Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Chúng tôi là tập trung đi tìm hiểu: Dấu ấn chủ nghĩa tượng tương trong
tập Tinh huyết của Bích Khê.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Về tài liệu: Chúng tôi có sử dụng những bài nghiên văn học cứu xoay
quanh các vấn đề: chủ nghĩa tượng trưng, thơ Bích Khê, tập Tinh huyết.
- Về phạm vi vấn đề: Chúng tôi tập trung vào mấy vấn đề chính sau:
+ Vị trí và vai trò của Bích Khê trong Thơ mới giai đoạn cuối
+ Ảnh hưởng của chủ nghĩa tượng trưng đến phong trào Thơ mới giai
đoạn cuối.
+ Dấu ấn chủ nghĩa tượng trưng trong thơ Bích Khê nói chúng hay tập
Tinh huyết nói riêng.

7



Trong phạm vi nghiên cứu của khóa luận này chúng tôi tập trung đi
nghiên cứu về tập thơ Tinh huyết với những dấu hiệu của chủ nghĩa tượng
trưng.
5. Phương pháp nghiên cứu
Để tiến hành nghiên cứu thành công đề tài khóa luận Dấu ấn chủ nghĩa
tượng trưng trong tập Tinh huyết của Bích Khê chúng tôi có sử dụng kết hơp
nhiều phương pháp khác nhau:
- Phương pháp hệ thống.
- Phương pháp so sánh.
- Phương pháp thống kê.
6. Cấu trúc khóa luận
Bên cạnh các phần như mở đầu, phần kết luận và tài liệu tham khảo,
khóa luận của chúng tôi triển khai thành hai chương:
Chương 1. Khái quát về chủ nghĩa tượng trưng và ảnh hưởng của nó
đến phong trào Thơ mới giai đoạn cuối
Chương 2. Dấu ấn của chủ nghĩa tượng trưng trong Tinh huyết của Bích
Khê

8


Chương 1
KHÁI QUÁT VỀ CHỦ NGHĨA TƯỢNG TRƯNG VÀ ẢNH HƯỞNG
CỦA NÓ ĐẾN PHONG TRÀO THƠ MỚI GIAI ĐOẠN CUỐI

1.1. Khái quát về chủ nghĩa tượng trưng
1.1.1. Khái niệm tượng trưng
Có nhiều cách định nghĩa khác nhau về “tượng trưng”, ở mỗi quan
điểm thì lại có những sự đúng đắn nhất định. Tuy nhiên đến nay vẫn chưa
thống nhất được một cách toàn vẹn nhất về khái niệm “tượng trưng”. Chúng

tôi xin được đưa ra một vài định nghĩa khác nhau về “tượng trưng”.
Trong cuốn Mĩ học, Heghen có nêu: “Tượng trưng là một sự vật bên
ngoài, một dẫn liệu trực tiếp và nối thẳng với trực giác của chúng ta: tuy vậy
sự việc này không phải được lựa chọn và chấp nhận như nó tồn tại trong thực
tế và bản thân nó, trái lại nó được chấp nhận với một ý nghĩa rộng lớn hơn và
khái quát hơn nhiều” [9, 7].
Trong cuốn Từ điển tiếng Việt đã nêu ra ba nghĩa của từ tượng trưng. Ở
nghĩa thứ nhất, “tượng trưng là cho liên tưởng đến một cái trìu tượng nào đó
bằng một sự vật cụ thể: chim bồ câu tượng trưng cho hòa bình”. Nghĩa thứ
hai “tượng trưng là dùng một vật cụ thể để tượng trưng cho cái trừu tượng
nào đó: xiềng xích tượng trưng cho sự nô lệ”. Nghĩa thứ ba “mang tính chất
tượng trưng” [11, 1743].
Tác giả Luc Benoist trong cuốn Dấu hiệu, biểu trưng và thần thoại, lý
giải nguồn gốc của từ tượng trưng “Biểu trưng (symbole) bắt nguồn từ Hy
Lạp sumballein có nghĩa là nối lại với nhau từ symbole dùng để chỉ dấu hiệu
để nhận biết, một vật được cắt làm đôi và khi ghép lại có thể giúp cho những
người mang hai nửa đó nhận ra họ là anh em, mặc dù trước đó họ chưa gặp
nhau.”[1, 3-4]

9


Trong cuốn Từ điển Thuật ngữ văn học do Lê Bá Hán chủ biên: “Theo
nghĩa rộng, tượng trưng là hình tượng được hiểu ở bình diện kí hiệu, là kí
hiệu chứa tính đa nghĩa của hình tượng. Mọi tượng trưng đều là hình tượng,
nhưng phạm trù tượng trưng nhằm chỉ cái phần mà hình tượng vượt ra khỏi
chính nó, chỉ là sự hiện diện của một lớp nghĩa nào đó vừa hòa hợp với hình
tượng vừa không đồng nhất với hình tượng”. Theo nghĩa hẹp “tượng trưng là
một dạng chuyển nghĩa. Khi kết hợp hai bình diện: nội dung “vật thể” và
nghĩa bóng của nó sẽ tạo thành một đối sánh tượng trưng. [4, 390]. Có nghĩa

là, mọi tượng trưng đều là hình tượng, nhưng phạm trù của tượng trưng nhằm
chỉ cái phần mà hình tượng vượt ra khỏi chính nó, chỉ sự thể hiện một nghĩa
nào đó vừa hòa hợp với hình tượng vừa không đồng nhất với hình tượng.
Như vậy, điều chúng tôi muốn khẳng định: tượng trưng là một phạm
trù phổ quát của mỹ hoc, được xác lập thông qua đối chiếu với hai phạm trù
kế cận: một phía là kí hiệu, một phía là hình tượng nghệ thuật.
1.1.2. Sự hình thành của chủ nghĩa tượng trưng
Chủ nghĩa tượng trưng là một trào lưu nghệ thuật cuối thế kỉ XIX tại
Pháp và dần lan rộng sang các nước lân cận châu Âu, Nga và Mỹ. Trào lưu
này xem trí tượng tượng là nguồn sáng tạo. Trào lưu này được bắt nguồn từ
thơ ca: thơ phải dùng những ngôn từ khó hiểu để kích thích cảm quan, tạo ra
sự huyễn hoặc mê ly, tạo ra những liên tưởng từ sự huyễn hoặc mê ly. Nên
người ta gọi đó là tượng trưng.
Cơ sở lí thuyết của chủ nghĩa tượng trưng bắt nguồn từ triết học duy
tâm của Schopenhauer và Hecmann với tư tưởng chính là quan niệm thần bí
của thuyết nhị nguyên. Các nhà văn nhà thơ thời kì này đã bộc lộ những tư
tưởng mới mẻ của mình trong quan niệm về thi ca. Nhà văn Huygo cho rằng:
“Thi ca, đó là những gì sâu kín trong tất cả và theo ông, dưới thế giới thực tại
có một số thế giới lí tưởng đẹp đẽ”. Trong khi đó, Nerval nêu ra sự thể

10


nghiệm về cái siêu thực và sự tràn ngập những giấc mơ trong đời sống con
người. Và nếu như Baudeline nêu lên sự tương ứng kì bí giữa các giác quan,
tình cảm thì Varlaine cho rằng thơ ca là thứ âm nhạc gợi cảm, qua sắc thái và
biểu tượng tinh tế dẫn đếnnhững tình cảm bán ý thức. Chính những quan
niệm mới mẻ đó đã dần đưa các nhà thơ đến với thế giới của riêng mình, thế
giới của tượng trưng.
Không chỉ vậy, chủ nghĩa tượng trưng ra đời còn là do cuộc tổng khủng

hoảng của văn hóa nhân văn tư sản dẫn đến sự chống lại các nguyên tắc Thực
chứng luận của nhóm Thi sơn và chủ nghiã tự nhiên. Chủ nghĩa tự nhiên tồn
tại vào khoảng những năm 1860-1880 với những đại diện tiêu biểu như:
Edmond, Goncourt, Zola… Họ yêu cầu mô tả cuộc sống bằng phương pháp
khoa học tự nhiên, sử dụng những dữ liệu mới do khoa học tự nhiên đem lại
để đưa vào sáng tác văn học. Chính vì vậy mà trong các sáng tác văn học các
nhà tự nhiên chủ nghĩa coi trọng việc quan sát, sưu tầm tư liệu hơn là sử dụng
trí tưởng tượng. Còn nhóm Thi sơn là nhóm các nhà thơ trẻ xuất hiện vào
những năm 60 của thế kỉ XIX với tuyển tập Thi sơn đương đại xuất bản lần
đầu năm 1866. Đặc trưng của nhóm này là rất chú trọng đến dáng vẻ, đường
nét, âm thanh của thế giới bên ngoài.
Tuy nhiên cho đến cuối thế kỉ XIX các nhà thơ tượng trưng vẫn còn
tránh né danh xưng “chủ nghĩa tượng trưng”. Mặc dù vậy, chúng ta không thể
phủ nhận các sáng tác của nhiều nhà thơ lớn của chủ nghĩa tượng trưng như:
P.Verlaine (1844-1869), A.Rimbaud (1854-1891)… vừa là những người sáng
lập vừa là những đại biểu xuất sắc của trường phái này. Những tác phẩm của
họ không chỉ có ý nghĩa xã hội mà còn có giá trị nhân văn rộng lớn, nói về nỗi
đau khổ tinh thần, sự chán ghét những hình thức tư hữu của xã hội đang tàn
phá tâm hồn con người, niềm tin vào những giá trị văn hóa lâu đời.

11


1.1.3. Tuyên ngôn và đặc trưng thẩm mĩ của chủ nghĩa tượng trưng
Bất cứ một trường phái nào ra đời cũng đều có những tuyên ngôn và
đặc trưng riêng của nó. Chủ nghĩa tượng trưng cũng không nằm ngoài điều
đó, nó cũng có tuyên ngôn riêng. Tuyên ngôn của chủ nghĩa tượng trưng được
đánh dấu và thể hiện rõ nét nhất trong bài thơ Tương ứng của Baudelaire được
in trong cuốn Tuyển tập thơ văn xuôi (Việt Nam và nước ngoài), Quỳnh Như
Nhiên dịch và Đồng Hoài hiệu đính:

Thiên nhiên là một ngôi đền trong đó những cột sinh linh
Thỉnh thoảng phát ra những ngôn ngữ mơ hồ:
Con người đi trong Thiên Nhiên qua những rừng biểu tượng
Chúng quan sát con người với những cái nhìn rất thân quen.
Như những phán hướng dài hỗn độn từ xa
Trong một thể thống nhất tối tăm và xâu thẳm.
Mênh mông như đêm tối và như ánh sáng.
Hương thơm, màu sắc và âm thanh tương ứng.
Có những hương thơm tươi mát như da thịt trẻ thơ.
Ngọt ngào như kèn bấm, xanh tươi như đồng cỏ,
-

Và những loại khác: đồi bại, phong phú và ưu thẳng

Hãy khuếch trương những sự vật vô tận,
Như hồ phách, xạ hương, an tức hương và trần hương
Chúng hát ca những nhiệt ứng tâm hồn và giác quan”
[5, 445-446]
Chủ nghĩa tượng trưng có một đặc điểm nổi bật đó là thể hiện thế
giới mơ hồ và huyền bí. Chủ nghĩa tượng trưng cho rằng, bản thân thế giới là
“không rõ ràng”, người nghệ sĩ phải biết tìm thấy trong cuộc phiêu lưu của

12


thơ ca cách thức khám phá ra những điều người khác chưa được biết đến.
Người nghệ sĩ không chỉ cảm thấu thế giới bên ngoài, mà còn nhận biết thế
giới bên trong, không chỉ nắm bắt cái hiện hữu mà còn nghe thấy, cảm thấy
cái vô hình, cái bí ẩn mơ hồ nằm trong một màn sương dày đặc. Để tìm ra một
sợi dây liên hệ giữa thế giới vô thức và thế giới hữu thức, người nghệ sĩ phải

có một cái nhìn “thấu thị” xuyên suốt các sự vật để có thể “chọc thủng” màn
sương bí ẩn, mơ hồ đó, nhằm tìm ra chân lý đích thực của nghệ thuật. Nói như
nhà thơ tượng trưng Bỉ Vacharen [trích trong Ảnh hưởng của chủ nghĩa tượng
trưng trong Thơ mới của Kiêm Thêm]: “Tượng trưng là sự thăng hoa của tri
giác và cảm giác, nó không chứng minh gì, mà làm nảy sinh một trạng trái ý
thức, nó phá vỡ mọi ngẫu nhiên, nó là biểu hiện cao nhất tinh thần mà nghệ
thuật có thể được”. Các nhà tượng trưng cho rằng, tính chất cảm xúc, trữ tình
của chủ nghĩa lãng mạn không thể giúp họ hoàn thành thiên chức của người
nghệ sĩ, họ phải cần đến “sự tổng hòa các giác quan”. Phát huy tối đa sự
cộng hưởng giữa các giác quan ấy, nó có thể mang lại cho chúng ta một bản
nhạc huyền diệu trong sự giao thoa giữa các âm nhạc, màu sắc, ánh sáng và
hương thơm.
Đây là một đặc điểm vượt xa thi pháp lãng mạn, tiến tới phương pháp
mới trong nhận thức thực tại: không giãi bày tình cảm một cách trực tiếp,
không miêu tả, giải thích sự vật một cách lồ lộ, rõ nghĩa. Ở đây “ý nghĩa
được gợi lên bởi sự tượng trưng hoàn toàn không tồn tại trong chính ý
tưởng đó, nó được nảy sinh từ sự xích lại gần nhau của những cảm giác và
những thực tế cụ thể thường làm tách biệt với nhau”.
Sự tương hợp giữa các giác quan là một đặc điểm nữa của chủ nghĩa
tượng trưng. Baudelare quan niệm vũ trụ và con người có mối quan hệ bí mật
mà giác quan bình thường không thể nhìn thấy được. Baudelare cho rằng: vì
vũ trụ có những tương quan bí mật nên các hương thơm, màu sắc và âm thanh

13


tương hợp với nhau. Mà muốn tìm hiểu được thì chúng ta phải tìm hiểu biểu
tượng mỗi biểu tượng, người ta có thể ngửi thấy một màu sắc, nghe thấy một
hương thơm. Đây là sự nhất quán của giác quan. Quan niệm này trở thành
một nguyên tắc thẩm mỹ trong sáng tạo thơ ca của chủ nghĩa tượng trưng.

Valery đưa ra một định nghĩa về thơ gắn với nguyên tắc trường hợp: “thơ là
sự giao động giữa âm thanh và ý nghĩa”. Rimbaud lại cho rằng, người nghệ sĩ
phải đến với thơ ca bằng con đường thấu thị của một kẻ có thiên nhãn.
Trong bài Tương ứng, Baudelare đã tìm thấy mối liên hệ siêu việt, vô
hình giữa vũ trụ, con người và tạo vật:
Thiên nhiên là một ngôi đền trong đó những cột sinh linh
Thỉnh thoảng phát ra những ngôn ngữ mơ hồ:
Con người đi trong Thiên Nhiên qua những rừng biểu tượng
Chúng quan sát con người với những cái nhìn rất thân quen.
Như những phán hướng dài hỗn độn từ xa
Trong một thể thống nhất tối tăm và xâu thẳm.
Mênh mông như đêm tối và như ánh sáng.
Hương thơm, màu sắc và âm thanh tương ứng.
(Tương ứng)
Quả thật, bằng “cảm quan về cuộc sống sâu sa của tinh thần” Badelare
đã đánh thức vùng vô thức ngủ yên trong con người trở nên linh động tỏa
sáng soi rọi và cái đẹp huyền diệu, tiềm ẩn đằng sau sự vật, hiện tượng. Nhà
thơ tượng trưng không chỉ miêu tả hiện thực khách quan, không diễn giải,
phơi bày tình cảm mà khám phá, nắm bắt lòng người, tạo vật thông qua biểu
tượng bằng phép loại suy. Đây là một nguyên tắc mỹ học của thơ tượng trưng
vượt qua thi pháp lãng mạn làm nảy sinh ra một lối tư duy mới trong nhận
thức thế giới.

14


Để mở cánh cửa của một cõi vô tận đó, Baudelare đã phát huy tối đa
phương thức kết hợp tượng trưng: ông táo bạo kết hợp những hình ảnh cụ thể
hay những cảm giác, chăm chút những phép tỉnh lược và tạo ra những câu có
chất nhạc và ngữ nghĩa mới. Từ đó nảy sinh một quan hệ mới với thế giới mà

trong đó có cảm giác lẫn lộn với nhau và những mô thuẫn đớn đau biến mất.
Tâm hồn có thể uống ừng ực hương thơm, âm thanh và màu sắc..
Yếu tố âm nhạc là một đặc điểm quan trọng của thơ tượng trưng. Các
nhà thơ tượng trưng cho rằng, để thể hiện thế giới tiên nhiệm cần phải đem
tinh thần âm nhạc vào thế giới thơ ca. Câu thơ phải có nhạc điệu và âm hưởng
để đi vào trực giác của con người. Verlaine quan niệm: Nhạc điệu là trước
hết. Thơ phải “gợi cảm” chứ không kể lể miểu tả. Để đạt được hiệu quả “gợi
cảm” thì thơ phải có nhạc điệu. Schoopenhauer chỉ ra rằng âm thanh có khả
năng đi sâu vào bản chất thuần túy của sự vật và thể hiện nó bằng những giai
điệu huyền bí nhất. Khi nghe nhạc người ta cảm nhận và rung động được
trước khi hiểu bằng lí trí. Có người ví âm nhạc như tiếng nói của thánh thần,
có khả năng đi vào tiềm thức của tâm hồn, bất chấp rào cản lí trí. Âm nhạc đã
thoát ra khỏi sự nô lệ trong việc bắt chước cái vỏ vật chất của sự vật cần thể
hiện. Âm nhạc có “ngôn ngữ” riêng của nó, có sức mạnh sở trường trong việc
thể hiện những gì mơ hồ huyền bí nhất. Cũng như âm nhạc, thơ tượng trưng
đã mang âm điệu quyến rũ tâm hồn, có giá trị như một câu ‘thần chú” say
đắm, mê hoặc con người.
Như vậy, với sự tiếp thu những tinh hoa của văn học nước ngoài thì thơ
tượng trưng đã mang lại một nhãn quan mới cho các thi sĩ thuộc phong trào
Thơ mới giai đoạn cuối, góp phần vào việc đa dạng hóa các thể loại thơ ca
Việt Nam.

15


1.2. Ảnh hưởng của chủ nghĩa tượng trưng đến phong trào Thơ mới giai
đoạn cuối
1.2.1. Khái quát về phong trào Thơ mới giai đoạn cuối
Một trào lưu văn học ra đời bao giờ cũng phản ánh những yêu cầu nhất
định của lịch sử bởi nó là tiếng nói, là nhu cầu của một tầng lớp giai cấp trong

xã hội. Thơ mới là tiếng nói của giai cấp tiểu tư sản và tư sản. Sự xuất hiện
của hai giai cấp này cùng với những tư tưởng tình cảm mới, những thị hiếu
thẩm mỹ mới cùng sự giao lưu văn hóa Đông Tây là nguyên nhân dẫn đến sự
ra đời của phong trào Thơ mới (1932-1945).
Thơ mới được “thai nghén” từ trước năm 1932 và Tản Đà chính là
“gạch nối của hai thế kỉ”, là người dạo bản hòa tấu đầu tiên trong bản hòa tấu
phong trào Thơ mới. Trong cuốn Thi nhân Việt Nam Hoài Thanh-Hoài Chân
đã xếp Tản Đà lên đầu tiên như một sự tôn trọng đối với đóng góp cuả ông.
Cho đến ngày 10/3/1932 khi Phan Khôi cho dăng bài thơ Tình già trên báo
Phụ nữ tân văn số 22, cùng với bài tự giới thiệu “Một lối thơ mới trình chánh
giữa làng thơ” thì phát súng lệnh của Phong trào Thơ mới chính thức bắt đầu.
Thơ mới phát triển qua ba giai đoạn: 1932-1936, 1936-1939, 19391945 ở mỗi giai đoạn phát triển lại gắn liền với những tên tuổi cùng đóng
góp của họ cho phong trào. Thơ mới giai đoạn 1939-1945 được gọi là phong
trào Thơ mới giai đoạn cuối.
Giai đoạn cuối, phong trào Thơ mới xuất hiện sự phân hóa và hình
thành một số khuynh hướng sáng tác khác nhau tiêu biểu đó là nhóm Dạ đài
bao gồm: Vũ Hoàng Chương, Trần Dần, Đinh Hùng… nhóm Xuân Thu Nhã
tập gồm có: Nguyễn Xuân Sanh, Đoàn Phú Tứ, Nguyễn Đỗ Cung… và nhóm
Trường thơ Loạn bao gồm: Chế Lan Viên, Hàn Mặc Tử, Bích Khê.
Có thể nói các khuynh hướng thoát ly ở giai đoạn này đã chi phối sâu
sắc cảm hứng thẩm mỹ và tư duy nghệ thuật trong sáng tác của các nhà thơ
mới. Thân phận của họ chủ yếu là những người dân mất nước và bị xã hội

16


thực dân chèn ép, bản thân họ lúc này như kẻ đứng giữa ngã ba đường, họ sẵn
sàng đón nhận những luồng gió mới. Bên cạnh đó thì vẫn còn một bộ phận
các nhà thơ mới rơi vào trạng thái mất phương hướng, bế tắc không lối thoát
như Chế Lan Viên, Huy Cận.

Thơ mới giai đoạn cuối không giống như con đường mà nó đã đi trước
kia, nó không còn là thơ lãng mạn nữa mà đã đi đến bến bờ của thơ tượng
trưng siêu thực. Yếu tố siêu thực đã xuất hiện từ trước nhưng phải đến thời kì
này mới thực sự trở thành khuynh hướng. Do cùng một lúc tiếp cận nhiều
nguồn tư tưởng khác nhau nên siêu thực trong Thơ mới là một tạp chất, ở một
vài tác giả tượng trưng và siêu thực đã hòa hợp với nhau đến mức không thể
tách rời. Chủ nghĩa siêu thực ảnh hưởng trực tiếp đến phong trào Thơ mới
giai đoạn cuối thông qua giấc mơ và những ám ảnh vô thức. Nếu “mộng”
trong thơ lãng mạn chủ yếu là cõi lí tưởng, đối lập với thực tại hàng ngày
hoặc là phương cách thoát li thực tại thì “mộng” của các nhà thơ này là khác
hẳn: nó là một thế giới thực tại của chiêm bao. “Mộng” ở đây không phải là
sản phẩm của trí tưởng tượng mà là sản phẩm của hoạt động vô thức, là sự lên
tiếng của những ẩn ức, ám ảnh bị đè nén bên trong. Nó là một thế giới đa diện
trùng phức chứ không phải là thế giới phẳng như trong thơ lãng mạn.
Xuất phát từ những quan điểm sai lầm nên trong một thời gian dài độc
giả chỉ nhìn nhận phong trào Thơ mới là phong trào thơ ca tư sản, tiểu tư sản
tiêu cực, đồi trụy có hại cho cách mạng vô sản cần phải thay thế bằng một nền
thơ dành cho giai cấp công nông. Không chỉ độc giả thông thường mà các nhà
nghiên cứu cũng đã có những cái nhìn đơn chiều về phong trào Thơ mới trong
đó có Hoài Thanh và Phan Cự Đệ…
Cho đến nay cách nhà nghiên cứu đã đem đến cho phong trào Thơ mới
một tiếng nói công bằng, khách quan hơn. Công nhận những đóng góp của
phong trào này cho thơ ca Việt Nam.

17


1.2.2. Dấu ấn chủ nghĩa tượng trưng trong phong trào Thơ mới giai đoạn
cuối
Nằm trong dòng chảy của quá trình hiện đại hóa văn học trong nửa đầu

thế kỉ XX, thơ ca Việt Nam không ngừng vận động và phát triển tạo nên
những cú nhảy ngoạn mục, đem đến nhiều biến chuyển sâu sắc, rộng lớn cả
về chất lượng đến số lượng. Đặc biệt, phong trào Thơ mới đã làm nên cuộc
cách mạng trong lịch sử thơ ca dân tộc. Thơ mới quy tụ một lực lượng trí thức
Tây học trẻ, táo bạo, có tâm huyết muốn cách tân đem lại những cấu trúc hiện
đại phương Tây vào thi ca Việt Nam.
Phong trào Thơ mới là sự gặp gỡ, kết tinh văn hóa Đông - Tây. Các nhà
Thơ mới thông qua trường học, sách báo, dịch thuật đã tiếp xúc, làm quen với
các trào lưu văn học hiện vốn đã phát triển hoàn chỉnh ở phương Tây. Vì thế,
trong lúc phôi thai cho đến khi những đứa con tinh thần của họ trào đời, mầm
mống ấy được nuôi dưỡng bằng nhiều nguồn dưỡng chất. Với chỉ hơn một
thập kỉ, Thơ mới đã đi trọn con đường hơn 100 năm thơ Pháp.
Đến với Việt Nam, thơ tượng trưng nhanh chóng được tầng lớp trí thức
trẻ tiếp thu. Hầu hết họ bị ám ảnh bởi những tính chất hiện đại của thơ
Baudelare. Xuân Diệu, Huy Cận, Đoàn Phú Tứ học được ở Baudelare “nghệ
thuật tinh vi”, các sáng tạo những bản nhạc huyền diệu bằng sự liên tưởng
tinh tế, sự hòa hợp tương giao giữa âm thanh, màu sắc hương vị. Hàn Mặc
Tử, Chế Lan Viên, cặp song sinh của trường thơ Loạn đã viết nên những vần
thơ kì lạ, kinh dị, ma quái từ các siêu thăng của tâm hồn. Lưu Trọng Lư tìm
thấy giai điệu dịu dàng, trong sáng, mênh mông, hư ảo, huyền hồ trong
Verlane. Đặc biệt là nhóm Xuân Thu nhã tập, đã nâng lên thành Đạo thiêng
liêng, cao quý.
Nhà thơ Xuân Diệu, một trong những nhà thơ sớm ảnh hưởng của thơ
tượng trưng Baudelare. Trong bài diễn thuyết tại trường Sorbonne ông nói:

18


“Với Baudelare, tôi đi toàn vẹn vào tính chất hiện đại của thơ”. Trong quan
niệm sống và yêu Xuân Diệu hăng hái, say mê đi tìm ảo ảnh trong mộng đến

an ủi hồn mình, muốn điên và hoan lạc, thân xác cho lịm đi những khắc khoải
giữa đời thường:
“Trăng vú mộng muôn đời thi sĩ
Giơ hai tay mơn trớn vẻ tròn đầy”
(Ca tụng)
Trong lời tựa tập “Đau thương”, Hàn Mặc Tử viết: “Tôi làm thơ?
Nghĩa là tôi yếu đuối quá! Tôi bị cám dỗ, tôi phản lại tất cả những gì mà lòng
tôi, máu tôi, hồn tôi đều hết sức giữ bí mật. Và cũng có nghĩa là tôi đã mất trí,
tôi phát điên” [17, 10]. Trong Mùa thu đã tới , ông còn khẳng định: “Nhà
nghệ sĩ bao giờ cũng điên” và tự họa bức chân dung “người thơ” ấy:
“ Tôi điên tôi nói như người dại
Van lạy không gian xóa những ngày…”
(Lưu luyến)
Nói đến dấu ấn của chủ nghĩa tượng trưng trong Thơ mới, chúng ta
không thể bỏ qua quan niệm “tương ứng cảm quan” của Baudelare. Các nhà
Thơ mới đã phối ứng lại thế giới tự nhiên theo những chiều kích thước khác
nhau. Trong đau thương, Hàn Mặc Tử chết lịm, mê man với hồn, với máu, với
trăng. Chúng bao bọc, vắt kiệt tinh lực của nhà thơ vì ở đâu cũng đầy trăng,
đầy máu, đầy hồn nhưng chúng cũng là nguồn sáng tạo vô biên:
“Không gian dày đặc toàn trăng cả
Tôi cũng trăng mà nàng cũng trăng”
(Huyền ảo)
Trăng trong thơ Hàn Mặc Tử không đem lại cảm giác thanh bình, tĩnh
lặng đọc thơ Hàn Mặc Tử chúng ta bắt gặp một thế giới tràn ngập ánh sáng của
trăng, một niềm ác mộng của hồn, một niềm đau thương nhuộm màu của máu

19


và ẩn sau đó là lòng yêu cuộc đời. Lòng yêu ấy lại ẩn dấu trong những ý thơ lạ

ngỡ như là điên rồ.
Một đặc điểm nữa là Thơ mới in dấu ấn chủ nghĩa tượng trưng “là để
thể nghiệm thế giới tiên nhiệm, thế giới chiếm bao là tiềm thức” cần phải
“mang tinh thần âm nhạc” vào thơ ca. Thơ mới đã nhấn mạnh thêm một bước
trên con đường chinh phục âm nhạc hiện đại cho thơ. Đó cũng là nguyên nhân
dẫn đến sự bùng nổ và thắng thế của Thơ mới. Nói như thế không có nghĩa là
thơ cổ điển không chú ý đến nhạc điệu. Trái lại, các nhà thơ xưa có hẳn một
tiêu chí “thi trung hữu nhạc” nhưng tính nhạc của thơ được tạo ra bằng âm
thanh những từ được lựa chọn, sắp đặt cốt sao không theo những thi điệu,
nhịp điệu có sẵn (miễn là đúng liêm luật), thành ra trong thơ cũ, âm thanh và
ý nghĩa bị tách ra, mỗi thứ một đường.
Âm nhạc đã mê hoặc, dẫn dắt thi sĩ bước đi như người mộng du vào thế
giới thực hư, huyền ảo của miền quá khứ trong cảm xúc bồng bềnh, chơi vơi:
“Sương nương theo trăng ngừng lưng trời
Tương tư nâng lòng lên chơi vơi”
(Nhị hồ)
Nếu Xuân Diệu học tập thơ tượng trưng Pháp cách tạo nhạc cho thơ ở
bước thể nghiệm thì đến Xuân Thu nhã tập được triển khai trên bình diện rộng
với những phá cách táo bạo… Bích Khê có hẳn một bản nhạc đàn được phối
kết từ nhiều thanh âm: Mộng cầm ca, Tỳ bà… Với nhạc thi sĩ thể hiện cách
thẩm âm độc đáo, lạ lẫm, không bằng thính giác mà bằng cõi lòng, bằng tâm
hồn phiêu thăng trong trạng thái ngưng đặc biệt:
“Thơ bay! Thơ bay vô bàn tay ngà.
Thơ ngà ngà say! Thơ ngà ngà say!
Nàng ơi! Đừng động…có nhạc trong dây!
Nhạc gây hoa mộng, nhạc ngát trong mây

20



×