Tải bản đầy đủ (.pdf) (50 trang)

Lớp từ, ngữ thông tục trong truyện ngắn của Nguyễn Huy Thiệp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (788.47 KB, 50 trang )

TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA NGỮ VĂN
======

VŨ THỊ THANH HÀ

LỚP TỪ, NGỮ THÔNG TỤC
TRONG TRUYỆN NGẮN CỦA
NGUYỄN HUY THIỆP

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Ngôn ngữ học
Ngƣời hƣớng dẫn khoa học

ThS.GVC LÊ KIM NHUNG

HÀ NỘI, 2017


LỜI CẢM ƠN
Trong quá trình thực hiện khóa luận, em đã nhận đƣợc sự hƣớng dẫn
nhiệt tình và chu đáo của cô giáo ThS.GVC Lê Kim Nhung – Giảng viên tổ
Ngôn ngữ, cùng sự ủng hộ, góp ý của toàn thể các thầy cô trong khoa Ngữ
văn – trƣờng Đại học Sƣ phạm Hà Nội 2.
Em xin đƣợc bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc nhất tới các thầy cô, đặc biệt là
ThS.GVC Lê Kim Nhung, ngƣời đã giúp đỡ em hoàn thành khóa luận này.
Hà Nội, ngày

tháng
Sinh viên


Vũ Thị Thanh Hà

năm2017


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan khóa luận tốt nghiệp này là kết quả nghiên cứu của
riêng tôi, dƣới sự hƣớng dẫn của cô giáo ThS.GVC Lê Kim Nhung. Khóa
luận tiếp thu và kế thừa có chọn lọc kết quả nghiên cứu của những ngƣời đi
trƣớc, song không trùng với kết quả nghiên cứu của tác giả nào khác. Nếu sai,
tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm.
Hà Nội, ngày

tháng

năm 2017

Sinh viên

Vũ Thị Thanh Hà


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ........................................................................................................... 1
1. Lí do chọn đề tài ............................................................................................ 1
2. Lịch sử vấn đề ............................................................................................... 2
3. Mục đích nghiên cứu ..................................................................................... 6
4. Nhiệm vụ nghiên cứu .................................................................................... 7
5. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu................................................................. 7
6. Phƣơng pháp nghiên cứu............................................................................... 7

7. Đóng góp của khóa luận................................................................................ 7
8. Bố cục khóa luận ........................................................................................... 8
NỘI DUNG ....................................................................................................... 9
CHƢƠNG 1: CƠ SỞ LÍ LUẬN ........................................................................ 9
1.1. Từ ngữ thông tục ........................................................................................ 9
1.1.1. Khái quát ................................................................................................. 9
1.1.2.Từ khẩu ngữ ........................................................................................... 10
1.1.3.Từ ngữ thông tục .................................................................................... 11
1.2 Tác giả Nguyễn Huy Thiệp ....................................................................... 12
1.2.1 Cuộc đời và sự nghiệp............................................................................ 12
1.2.2 Vài nét về phong cách tác giả Nguyễn Huy Thiệp ................................ 13
CHƢƠNG 2: KẾT QUẢ KHẢO SÁT, THỐNG KÊ ..................................... 15
2.1. Kết quả thống kê ...................................................................................... 15
2.2 Miêu tả kết quả thống kê ........................................................................... 16
2.2.1 Từ thông tục qua cách xƣng hô trong lời thoại của nhân vật. ............... 16
2.2 Ngôn ngữ thông tục qua các lời chửi, câu chửi. ....................................... 18
2.3 Từ ngữ thông tục thuộc nhóm kiêng kị trong giao tiếp ............................ 20
CHƢƠNG 3. VAI TRÒ CỦA TỪ NGỮ THÔNG TỤC TRONG
TRUYỆN NGẮN NGUYỄN HUY THIỆP .................................................... 25


3.1 Từ ngữ thông tục góp phần khắc họa tính cách nhân vật ......................... 25
3.2 Từ ngữ thông tục phản ánh tính chất quan hệ giữa các nhân vật............. 31
3.3 Từ ngữ thông tục thể hiện cảm xúc , thái độ của nhà văn trƣớc cuộc
sống. ................................................................................................................ 34
3.4 Ngôn ngữ thông tục với việc thể hiện phong cách tác giả. ...................... 36
KẾT LUẬN ..................................................................................................... 42
TÀI LIỆU THAM KHẢO



MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
1.1. Cơ sở lí luận
Ngôn ngữ nghệ thuật là biểu hiện đầy đủ và nổi bật nhất của ngôn ngữ
văn hóa. Hơn thế, khác với các phong cách ngôn ngữ khác, phong cách ngôn
ngữ nghệ thuật vƣợt ra ngoài khuôn khổ của chuẩn và sử dụng tất cả các
phƣơng tiện ngôn ngữ, trƣớc hết là các phƣơng tiện từ vựng, của các phong
cách ngôn ngữ khác trong nó. Những phƣơng tiện ngôn ngữ này khi đƣợc sử
dụng trong phong cách ngôn ngữ nghệ thuật đã đƣợc cải tạo về mặt chức
năng. Nghĩa là đã trở thành những phƣơng tiện biểu đạt đƣợc sử dụng với
mục đích tu từ. Tác giả Đinh Trọng Lạc khẳng định: “Ngôn ngữ nghệ thuật
trong những phạm vi nhất định, sử dụng cả những phương tiện ngôn ngữ
ngoài ngôn ngữ văn hóa, như những từ địa phương, những từ tiếng lóng,
những từ tục. Ngôn ngữ nghệ thuật hiểu theo một nghĩa nào đó là giàu có hơn
ngôn ngữ toàn dân.” [3; 120]. Nhƣ vậy, khi xem xét giá trị tác phẩm văn học
từ góc độ ngôn ngữ thì việc nghiên cứu giá trị sử dụng của từ ngữ thông tục là
cần thiết và có một ý nghĩa về mặt lí luận.
1.2. Cơ sở thực tiễn
Trong các nhà văn hiện đại, Nguyễn Huy Thiệp nổi lên nhƣ một hiện
tƣợng đặc sắc, độc đáo.Tác phẩm của Nguyễn Huy Thiệp đem đến cho công
chúng một cái nhìn mới, khai thác từng khía cạnh đổi mới của đời sống con
ngƣời trong cuộc sống hàng ngày. Nguyễn Huy Thiệp đƣợc ngƣời ta quan tâm
nhiều trƣớc hết là những cách tân mới mẻ về nghệ thuật. Đề tài của ông không
mới, nó có một chút của Vũ Trọng Phụng, của Tô Hoài, của Ma Văn
Kháng….tuy vậy nhƣng nó vẫn rất hấp dẫn ngƣời đọc. Có đƣợc những điều
này là nhờ vào sự cách tân nghệ thuật của tác giả đặc biệt là trong cách sử
dụng ngôn ngữ. Nguyễn Huy Thiệp đã đặc biệt tỉ mỉ, kĩ lƣỡng trong cách

1



miêu tả mọi biến động của cuộc sống. Tác giả Hoàng Ngọc Hiến nhận xét:
Nguyễn Huy Thiệp không ngần ngại nêu lên những sự bê tha nhếch nhác
trong cuộc sống, kể cả những sự thật rùng rợn, khủng khiếp. Cốt truyện của
ông không hề giật gân mà nó chỉ là cuộc sống bình thƣờng của ngƣời dân lao
động và cuộc sống cứ thế chảy để rồi chảy vào nhịp của văn chƣơng. Cuộc
sống hỗn loạn xô bồ. Văn của Nguyễn Huy Thiệp là cả một tổng thể hỗn loạn
sự kiện và ngƣời đọc bị cuốn theo tổng thể ấy.Việc tiếp cận và cảm nhận văn
của Nguyễn Huy Thiệp không hề đơn giản, nó đòi hỏi độc giả phải có tầm
hiểu biết, vốn sống, tri thức, sự tìm tòi. Do vậy việc nghiên cứu tác phẩm có
thể dựa trên nhiều phƣơng diện: ngôn ngữ, các biện pháp tu từ…Mỗi phƣơng
diện nghiên cứu sẽ cho chúng ta thấy một khía cạnh mới của tác phẩm. Ở đề
tài này, ngƣời viết sẽ tìm hiểu lớp từ ngữ thông tục trong truyện ngắn của ông.
Thông qua việc tìm hiểu này sẽ giúp cho bạn đọc thấy nhiều khía cạnh hơn
của văn học. Việc tìm hiểu lớp từ ngữ thông tục có ý nghĩa tích cực trong việc
tiếp cận truyện ngắn hiện đại nói chung và truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp
nói riêng.
Xuất phát từ cơ sở lí luận và thực tiễn trên, chúng tôi lựa chọn nghiên
cứu đề tài:“Lớp từ, ngữ thông tục trong truyện ngắn của Nguyễn Huy
Thiệp”.
2. Lịch sử vấn đề
2.1 Nghiên cứu truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp từ góc độ văn học.
Nguyễn Huy Thiệp là tên thật và cũng là bút danh. Ông là một tác giả
tiêu biểu của văn học đƣơng đại Việt Nam. Độc giả biết đến ông là một nhà
văn, nhà văn mang những tƣ tƣởng đầy táo bạo và tiến bộ.
Nhà phê bình La Khắc Hòa khẳng định rằng “Tôi không nghiên cứu
Nguyễn Huy Thiệp chỉ từ những cách tân văn chƣơng, tôi nghiên cứu ông nhƣ
một hiện tƣợng tạo ra bƣớc ngoặt trong văn chƣơng Việt Nam sau 1975” và

2



“Nguyễn Minh Châu mở đƣờng đổi mới văn học Việt Nam sau 1975 với
truyện ngắn “Bức tranh”. Còn Nguyễn Huy Thiệp là ngƣời đầu tiên tạo ra
bƣớc ngoặt quan trọng của đổi mới”[4]. Không phải tự nhiên mà tác giả La
Khắc Hòa lại nhận định rằng Nguyễn Huy Thiệp là hiện tƣợng tạo ra bƣớc
ngoặt trong văn chƣơng. Để hiểu thêm về nhận định này nhà phê bình cũng
giải thích thêm là bởi Nguyễn Huy Thiệp đã sử dụng ngôn ngữ sinh hoạt để
phản ánh cuộc đời. Đây là điểm độc đáo và khác biệt với tất cả những nhà văn
khác. “Văn chƣơng là nghệ thuật ngôn từ” nhƣng ngôn từ trong tác phẩm của
Nguyễn Huy Thiệp chƣa có nghệ thuật nhiều. Lớp ngôn từ đó phần nhiều đƣợc
lấy ra từ trong cuộc sống hàng ngày của những ngƣời dân lao động. Chính
những từ ngữ đầy bụi bặm, tục tĩu đấy lại làm nên một bức tranh cuộc sống
nhiều màu sắc hơn và cũng sinh động hơn. Trong một số tác phẩm của nhà văn
Nguyễn Huy Thiệp đôi lúc còn xuất hiện cả những từ thô tục, những từ mà
chƣa một nhà văn nào đƣa vào trong tác phẩm văn học của mình.
Tác giả cũng khẳng định: Văn của Nguyễn Huy Thiệp là truyện kể, xóa
bỏ trật tự tôn ti, lấy “mạt thế” làm khung, còn trƣớc đó văn xuôi Việt Nam
chủ yếu viết theo kiểu huyền thoại. Hầu hết truyện ngắn của ông đều viết dƣới
dạng kể lại. Trong truyện ngắn “Huyền thoại phố phường”,Nguyễn Huy
Thiệp đã kể lại khát vọng muốn làm giàu mà bất chấp thủ đoạn của nhân vật
Hạnh. Để đạt đƣợc mục đích của mình, Hạnh sẵn sang mơn chớn bà Thiều để
chiếm đoạt cái vé số đã đƣợc đem đi cầu ở đền. Nhƣng cuối cùng Hạnh phải
nhận cái kết cục đau đớn, đó là tờ vé số đó không trúng và cậu đã phát điên.
Lối viết đơn giản giống nhƣ kể chuyện đã tạo ấn tƣợng mạnh mẽ với bạn đọc.
Dù cốt truyện sâu sắc hay đơn giản thì nó cũng đủ để lƣu lại trong tâm trí bạn
đọc. Ở đây còn có sự xuất hiện của ngôn từ hội thoại càng làm cho tác phẩm
trở nên phong phú hơn và đa dạng hơn. Lối viết văn theo hƣớng kể chuyện
còn đƣợc nhà văn sử dụng để kể về những vấn đề ở nông thôn. Truyện ngắn


3


“Những bài học ở nông thôn” đã cho nhân vật “tôi” rất nhiều cảm nhận khác
nhau về cuộc sống của vùng quê. Phải chăng đó còn là những thay đổi cơ thể
về mặt sinh học hay những đụng chạm tuổi mới lớn. Bằng những lời văn mộc
mạc đúng chất của ngƣời nông dân, Nguyễn Huy Thiệp đã hé thêm một cánh
cửa mới cho bạn đọc nhìn thấy những góc khuất của cuộc sống.
Nhà văn Đỗ Đức Hiếu nhận xét: “Trong hành trình Đi tìm Nguyễn Huy
Thiệp, tôi thấy một giọt vàng rơi vào lòng mình, giọt vàng ròng ngời sáng. Đó
là truyện ngắn của anh. Anh tái tạo truyện ngắn ở Việt Nam vào những năm
cuối thế kỷ XX này và nâng nó lên một tầm cao mới: thơ ca và triết lý, truyền
thống và hiện đại, phƣơng Đông và toàn nhân loại”[5]. Trong hành trình ấy,
ngƣời viết đã tìm thấy đƣợc “giọt vàng” của nhân loại, phải chăng đó là một
tia sáng cho văn học Việt Nam giai đoạn này. Khi đọc các tác phẩm của
Nguyễn Huy Thiệp, ngƣời đọc nhƣ đang trong cuộc hành trình phiêu lƣu
trong văn bản ngôn từ phức hợp, tuyệt vời ấy, và cũng nhiều cạm bẫy. Đồng
thời, ngƣời đọc khám phá những hạt vàng lấp lánh trong trái tim mình. Hai
động thái ấy tác động đến đáy sâu tâm hồn ngƣời đọc, nó rung lên, nó tạo nên
những lớp sóng lan tỏa xung quanh. Một thế giới mới hình thành trong lòng
ngƣời đọc. Nhà văn Nguyễn Huy Thiệp đã đặt vào trong nhận thức của bạn
đọc một cái nhìn mới mẻ hơn, khách quan hơn trƣớc hiện thực cuộc sống đầy
xô bồ này.
Nhƣ vậy, các nhà nghiên cứu, nhà phê bình đã đã chú ý đến sự đổi mới
về mặt ngôn ngữ của Nguyễn Huy Thiệp và những đóng góp của Nguyễn Huy
Thiệp đối với văn học đƣơng đại Việt Nam, đặc biệt trong việc sử dụng từ
ngữ thông tục.
2.2. Nghiên cứu truyện ngắn của Nguyễn Huy Thiệp từ góc độ ngôn ngữ
Tạp chí “Ngôn ngữ và Đời sống” số 2/1998 có bài “Tiếng lóng trong
giao thông vận tải” của tác giả Chu Thị Thanh Tâm [7]. Sau quá trình tập hợp


4


những định nghĩa các từ điển giải thích, tác giả rút ra định nghĩa về tiếng
lóng. Tiếng lóng là một loại từ ngữ thông tục, không mang tính truyền thống.
Nó vừa là cách nói tỉnh lƣợc và là thứ ngôn ngữ dùng để trêu đùa, vui vẻ hoặc
bí mật. Ngôn ngữ mà nhà văn Nguyễn Huy Thiệp sử dụng trong các sáng tác
của mình có sự xuất hiện của các tiếng lóng, lớp từ ngữ thông tục và cả những
tiếng chửi. Chính điều này đã mang lại điểm khác biệt cho nhà văn với các
nhà văn khác cùng thời. Đọc truyện ngắn của ông, chúng ta thấy sự mới mẻ,
khác biệt so với văn học cùng thời và ngôn ngữ cũng là yếu tố quyết định sự
thành công của tác phẩm.
Tác giả Phùng Gia Thế trong bài viết “Tính chất Các-na-van trong ngôn
ngữ văn xuôi đƣơng đại” [8] có bàn về việc sử dụng ngôn ngữ của nhà văn
Nguyễn Huy Thiệp. Tác giả đề cập đến sự xuất hiện khá nhiều các từ ngữ
thông tục nhƣ “ngu như chó”, “thằng khốn nạn”,… hay sự xuất hiện của các
từ chỉ chất thải nhƣ “phân”, “cứt”….Cũng trong bài viết này, Tiến sĩ Phùng
Gia Thế đã lí giải nguyên nhân và tác dụng của việc sử dụng từ ngữ thông tục
trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp. Theo tác giả, nhà văn đã nhìn thấu
những lỗ hổng của hiện thực đƣơng thời để rồi để cho nhân vật của mình thốt
ra những tiếng chửi, những từ ngữ tục tằn. Có thể nói, sự xuất hiện công
nhiên các thể loại lời thông tục trong các truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp có
căn nguyên từ quan niệm về hiện thực và về ngôn từ văn học của nhà văn.
Chính kiểu phát ngôn này đã đƣa nhân vật truyện ngắn của Nguyễn Huy
Thiệp trở về với đời sống thƣờng nhật thô nhám. Nhân vật của ông, cho dù có
vai xã hội thế nào thì cũng đƣợc xếp trên cùng một mặt sân giá trị bình đẳng.
Tiến sĩ Nguyễn Thị Tuyết Minh, giảng viên trƣờng Đại học Sƣ phạm Hà
Nội 2, có bài viết “Lớp ngôn từ thông tục trong văn xuôi đƣơng đại Việt
Nam” [6]. Ở bài viết này, tác giả đã dành một phần để nhận xét việc sử dụng

ngôn ngữ trong văn chƣơng của Nguyễn Huy Thiệp. Tác giả cho rằng,

5


Nguyễn Huy Thiệp đã sử dụng ngôn từ thô nhám, gai góc, bóc trần bản chất
sự vật, có khi còn đẩy tới cực đại, không nƣơng nhẹ, không e ấp, ngại ngần.
Ví dụ:
- Bây giờ tao nói chuyện đàn ông với mày..
- Tôi cũng vô giáo dục nhưng không nhìn trộm phụ nữ cởi truồng..
Ngôn từ thông tục đã xuất hiện trong văn chƣơng Việt Nam mà điển
hình ở đây là Nguyễn Huy Thiệp là một sự sáng tạo vƣợt bậc của nhà văn,
nhà văn muốn đem lại những nguồn sáng mới cho ngƣời tiếp nhận. Ngôn ngữ
thông tục làm cho mỗi nhân vật xuất hiện trong tác phẩm đều có những dấu
ấn riêng và mỗi lúc nhân vật xuất hiện lại làm cho tác phẩm nhƣ sáng hơn,
sâu sắc hơn.
Nhƣ vậy, việc nghiên cứu về từ ngữ thông tục trong văn học hiện đại nói
chung, trong sáng tác của Nguyễn Huy Thiệp nói riêng đã đƣợc quan tâm
nghiên cứu. Điều này chứng tỏ, đây là một vấn đề có tính thời sự và cần thiết
phải tìm hiểu. Tuy nhiên, những bài luận, nghiên cứu về Nguyễn Huy Thiệp
chủ yếu dừng lại ở mức độ nhận xét, minh họa mà chƣa đi sâu vào nghiên
cứu, tìm hiểu một cách có hệ thống về việc sử dụng lớp từ ngữ thông tục
trong tác phẩm của ông.
Trên cơ sở những gợi ý của các nhà nghiên cứu, ở khóa luận này, ngƣời
viết sẽ đi tìm hiểu truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp thông qua việc sử dụng
lớp ngôn từ thông tục để từ đó góp thêm một tiếng nói khẳng định những giá
trị nghệ thuật cũng nhƣ đóng góp của tác giả đối với nền văn học đƣơng đại
Việt Nam.
3. Mục đích nghiên cứu
- Tìm hiểu, nghiên cứu và khẳng định một vấn đề lí thuyết về ngôn ngữ

học.

6


- Góp phần khẳng định những đóng góp của nhà văn Nguyễn Huy Thiệp
trong việc đổi mới ngôn ngữ, cụ thể là việc sử dụng lớp từ ngữ thông tục đầy
mới lạ vào trong sáng tác của mình.
- Góp phần phục vụ cho việc nghiên cứu, học tập, giảng dạy văn học và
tiếng Việt trong chƣơng trình Ngữ văn phổ thông.
4.Nhiệm vụ nghiên cứu
- Tập hợp các vấn đề lí thuyết có liên quan đến đề tài.
- Khảo sát, thống kê, phân loại, nhận xét lớp từ, ngữ thông tục trong
truyện ngắn của Nguyễn Huy Thiệp.
- Phân tích, xem xét hiệu quả sử dụng lớp từ ngữ thông tục trong truyện
ngắn của Nguyễn Huy Thiệp.Từ đó rút ra những kết luận cần thiết.
5.Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
5.1 Đối tượng nghiên cứu
Lớp từ, ngữ thông tục trong truyện ngắn của Nguyễn Huy Thiệp.
5.2 Phạm vi nghiên cứu
Tuyển tập “Truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp”, Nhà xuất bản Văn hóa,
Sài Gòn, 2007.
6. Phƣơng pháp nghiên cứu
- Phƣơng pháp khảo sát, thống kê, phân loại
- Phƣơng pháp phân tích, so sánh
- Phƣơng pháp tổng hợp
7.Đóng góp của khóa luận
- Về mặt lí luận: Khóa luận góp phần làm rõ về hƣớng tiếp cận văn học
từ góc độ ngôn ngữ, cụ thể thông qua lớp từ, ngữ thông tục – lớp từ xuất hiện
khá nhiều trong truyện ngắn của nhà văn.

- Về mặt thực tiễn: Khóa luận cung cấp tƣ liệu cho quá trình học tập,
giảng dạy Ngữ Văn trong nhà trƣờng phổ thông nói riêng và việc cảm thụ văn
học nói chung.

7


8. Bố cục khóa luận
Ngoài phần mở đầu và kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, khóa luận
đƣợc cấu trúc thành 3 chƣơng:
Chƣơng 1: Cơ sở lí luận
Chƣơng 2: Kết quả khảo sát, thống kê.
Chƣơng 3: Vai trò của lớp từ, ngữ thông tục trong truyện ngắn của
Nguyễn Huy Thiệp.

8


NỘI DUNG
CHƢƠNG 1: CƠ SỞ LÍ LUẬN
1.1. Từ ngữ thông tục
1.1.1. Khái quát
Ngôn ngữ giao tiếp của con ngƣời thƣờng đƣợc tồn tại dƣới hai dạng đó
là dạng viết và dạng nói. Về mặt thuật ngữ, trƣớc đây chúng ta vẫn thƣờng
gặp các tên gọi “phong cách nói” hoặc “phong cách khẩu ngữ” đặt trong thế
đối lập với “phong cách viết” hoặc “phong cách sách vở”.
Tuy gọi tên nhƣ vậy, nhƣng bản chất trong nội hàm đó là sự phân biệt
giữa một bên là ngôn ngữ thông tục, “đời thƣờng”, chƣa có sự gia công, trau
dồi, ít gắn với những chuẩn mực nguyên tắc; và một bên là ngôn ngữ đƣợc trau
dồi, chọn lọc, gắn liền với những chuẩn tắc của văn hóa xã hội và cộng đồng.

Thực tế, ngay trong phong cách nói cũng có sự phân biệt giữa lời nói
đƣợc chọn lọc, trau dồi (ví dụ nhƣ lời diễn giảng, thuyết trình, lời phát biểu
chính thức có chuẩn bị sẵn,...) với lời nói chƣa đƣợc chọn lọc kĩ và trau dồi
cẩn thận (ví dụ nhƣ trong nói năng thân mật thông thƣờng hàng ngày, thậm
chí có thể chấp nhận cả tính chất thông tục trong đó). Loại thứ nhất ở đây
nhích gần về phía ngôn ngữ thuộc phong cách viết hơn, còn loại thứ hai, từ
bản chất của nó, đƣợc gọi đích danh là khẩu ngữ – một tên gọi mà tuy không
nói ra một cách hiển minh, nhƣng ít nhiều bên trong, ngƣời ta có ý phân biệt
nó với ngôn ngữ nói, nói chung.
Nhƣ thế, có thể nhận ra trong từ vựng có ba lớp từ mang đặc điểm của ba
phong cách: lớp từ khẩu ngữ, lớp từ ngữ thuộc phong cách viết, và cuối cùng
là lớp từ ngữ trung tính (hoặc còn gọi là trung hoà về phong cách) có thể dùng
trong mọi phong cách khác nhau.Từ, ngữ thông tục thuộc về lớp từ khẩu ngữ.

9


1.1.2.Từ khẩu ngữ
Theo tác giả Đinh Trọng Lạc: “Từ khẩu ngữ (từ hội thoại) là những từ
được dùng đặc biệt trong lời nói miệng của sinh hoạt hàng ngày, nhất là
trong đối thoại.” [3; 196].
Trong giáo trình “Từ vựng học tiếng Việt”, trang 285, tác giả Đỗ Hữu
Châu chia từ vựng hội thoại thành hai loại: Từ vựng hội thoại toàn dân (bao
gồm từ vựng hội thoại văn hóa và từ vựng nói chuyện tự nhiên) và từ vựng
hội thoại hạn chế về lãnh thổ hay xã hội (bao gồm: từ địa phƣơng, từ lóng).
Cũng theo tác giả Đỗ Hữu Châu: “Từ vựng nói chuyện tự nhiên bao gồm cả
những từ thô tục. Những từ này có tính chất suồng sã, thậm chí thô lỗ”.[1;
286).
Từ khẩu ngữ của tiếng Việt một số đặc điểm nhƣ sau:
Về mặt cấu trúc hình thức, các từ ngữ thuộc lớp này khi đi vào hoạt động

giao tiếp, ít nhiều có thể “tự do, phóng túng” nếu điều kiện cho phép. Nói
cách khác, chúng có nhiều khả năng biến đổi cấu trúc vốn có của mình.
Ƣa dùng những từ ngữ có sắc thái đánh giá cực đại theo chiều nào đó để
cƣờng điệu sự đánh giá của ngƣời nói, lôi cuốn sự chú ý của ngƣời nghe. Ví
dụ: lo thắt ruột, chờ đỏ mắt, đánh sặc tiết, chạy bở hơi tai, chẻ xác ra, no đòn,
cứng họng, (tức) sôi máu, (giận) tím mặt,...
Chấp nhận những lối xƣng hô thân mật hoặc đậm màu sắc bày tỏ thái độ.
Bên cạnh đó là những từ ngữ có sắc thái thông tục, thậm chí thô thiển. Chẳng
hạn, về xƣng hô, có thể dùng: mày, tao, cậu, tớ, mình, chúng mình, bọn mình,
y, hắn, hắn ta, bọn nó, tụi nó, thằng, thằng cha, con mẹ, mụ, con mụ, mụ ta,...
Về những từ đánh giá hoặc miêu tả hành vi có: ngu, tồi, mèng, chẳng ra chó
gì, chẳng nƣớc mẹ gì, ăn thua gì, ăn thua mẹ gì, nƣớc non gì, ăn vàng ăn bạc
gì, biết tay, phải lòng, cực, cực kì, nghiêm, gìn,...

10


Rất ƣa dùng các quán ngữ, thành ngữ để đƣa đẩy, rào đón, hoặc diễn đạt
cho sinh động. Ví dụ: của đáng tội, có đời thuở nhà ai, thôi thì..., thì đã đành
là vậy, nó chết một nỗi (một cái) là..., đánh đùng một cái, ấm ớ hội tề, chầu rìa
hút thuốc vặt, tuần chay nào cũng có nƣớc mắt, ai biết quan đái mà hạ võng,
luỵ nhƣ luỵ đò,...
Sắc thái khẩu ngữ và biểu cảm của lớp từ khẩu ngữ còn thể hiện rõ ở sự
hiện diện và hoạt động của những từ thƣa gửi (dạ, thƣa,...), các từ ngữ cảm
thán (ôi, ối, ôi trời, trời ơi, trời đất ơi, cha mẹ ơi,...), ở các ngữ khí từ (à, ƣ,
nhỉ, nhé)...
Mặt khác, việc dùng các từ ngữ với sắc thái nghĩa mới, hoặc kèm theo
những nghĩa ngữ cảnh, nghĩa lâm thời, khá phổ biến. Bởi một lí do đơn giản
là: khẩu ngữ ít nhiều “phóng túng” về mặt chuẩn tắc. Tuy vậy, cũng phải
khẳng định rằng tính thông tục của khẩu ngữ nói chung và từ vựng khẩu ngữ

nói riêng, không phải là sự nói tục và các từ tục. Nếu không thấy sự khác biệt
về bản chất này, lạm dụng các từ tục thì sẽ dẫn đến chỗ làm vẩn đục ngôn
ngữ, phá mất cái gọi là thẩm mĩ ngôn ngữ, thậm chí vi phạm đạo đức trong
giao tiếp.
Theo tác giả Đinh Trọng Lạc: “Trong sáng tác văn học, những từ hội
thoại được nhà văn sử dụng như một công cụ lợi hại nhất để miêu tả, tái tạo
cuộc sống thực. Nhiều khi chỉ cần một vài từ hội thoại là tính cách nhân vật
cũng đã hiện ra rất rõ nét.”[3; 198].
1.1.3.Từ ngữ thông tục
Hiện nay còn nhiều ý kiến khác nhau về từ ngữ thông tục, nhƣng cách
hiểu phổ biến cho rằng đây là lớp từ phổ dụng trong giao tiếp bằng lời nói tự
nhiên (còn gọi là khẩu ngữ) và đại đa số có gốc thuần Việt. Tác giả Đinh
Trọng Lạc định nghĩa: “Từ thông tục là những từ chỉ được dùng trong lời nói
miệng thoải mái, thậm chí thô lỗ, tục tằn.”[3; 198]. Từ ngữ thông tục thuộc

11


nhóm từ vựng nói chuyện tự nhiên. Từ thông tục không nằm trong từ vựng
của hội thoại văn hóa. Trong hội thoại văn hóa thông dụng, ngƣời ta tránh
dùng những từ ngữ này. Có nghĩa là những từ thông tục chỉ đƣợc dùng trong
hội thoại tự nhiên thông tục giữa các cá nhân có quan hệ tự do, thỏa mái,
suồng sã. Từ ngữ thông tục gồm những nhóm nhƣ: các từ ngữ tình thái chỉ sự
suồng sã (cái nhà anh này, mụ nhà tôi,con mẹ,chó đểu, thằng cha); các từ tục
tĩu, lời chửi (đ. mạ, cứt, thằng chó, cha bố mày…); các quán ngữ đƣa đẩy
(thôi thì, thì đã đành là vậy, của đáng tội, đánh đùng một cái, lo sốt vó);
những từ phủ định ( đếch, cóc…); từ lóng ( chặn họng, gà mờ, đánh chén…).
Tác phẩm văn học thuộc phong cách viết, tức là phong cách sử dụng ngôn
từ có sự chọn lọc, trau chuốt, gọt giũa. Tuy vậy, trong các sáng tác của mình,
bên cạnh việc sử dụng lớp từ thuộc phong cách viết, nhà văn có thể sử dụng lớp

từ thuộc phong cách nói, trong đó có lớp từ ngữ thông tục. Nhƣng phạm vi sử
dụng lớp từ ngữ thông tục trong tác phẩm văn học là có điều kiện, tức là chúng
chỉ xuất hiện ở ngôn ngữ nhân vật (phần thội thoại mang phong cách nói) mà
hầu nhƣ không xuất hiện trong ngôn ngữ tác giả (phần dẫn thoại, trần thuật,
mang phong cách viết). Tác giả Đinh Trọng Lạc khẳng định: “Các từ thông tục
có thể được dùng trong các văn bản báo, đặc biệt là trong văn xuôi nghệ thuật
để làm phương tiện tu từ nêu đặc trựng của lời nói nhân vật.”[3; 198].
1.2 Tác giả Nguyễn Huy Thiệp
1.2.1 Cuộc đời và sự nghiệp
1.2.1.1 Cuộc đời
Nguyễn Huy Thiệp (26/7/1950) quê Thanh Xuân – Hà Nội. Thƣở nhỏ,
ông cùng gia đình lƣu lạc khắp nông thôn đồng bằng Bắc Bộ từ Thái Nguyên
qua Phú Thọ, Vĩnh Phúc. Năm 1960, gia đình ông chuyển về quê định cƣ ở
xóm Cò, làng Khƣơng Hạ- Hà Nội. Năm 1970, ông tốt nghiệp khoa Sửtrƣờng Đại học Sƣ phạm Hà Nội và lên dạy học tại Tây Bắc đến năm 1980.

12


Cũng trong năm đó, ông chuyển về làm việc tại Bộ giáo dục và Đào tạo, sau
đó làm việc tại công ty Kĩ thuật trắc địa bản đồ - Cục Bản đồ cho đến khi nghỉ
hƣu. Năm 1994 Nguyễn Huy Thiệp gác bút và xoay sang mở nhà hàng ở Hà
Nội, tên là “Hoa Ban” rất ăn khách. Hiện nay, ông sống tại Hà Nội và là hội
viên Hội nhà văn Việt Nam.
1.2.1.2 Sự nghiệp
Nguyễn Huy Thiệp viết rất nhiều ở các thể loại khác nhau: truyện ngắn,
tiểu thuyết, kịch, tiểu luận, phê bình, tập văn. Nhƣng thành công hơn cả là
truyện ngắn. Tác phẩm Nguyễn Huy Thiệp in dấu khá đậm nét về nông thôn
và những ngƣời lao động. Tác phẩm tiêu biểu:
Truyện ngắn: Tƣớng về hƣu (1987), Kiếm sắc (1988),Vàng lửa (1988),
Phẩm tiết (1988), Con gái thủy thần (1998)……

Kịch: Suối nhỏ dịu êm, Còn lại tình yêu, Xuân hồng, Gia đình……
Tiểu thuyết: Tuổi hai mƣơi yêu dấu, Tiểu long nữ, Gạ tình lấy điểm….
Ngoài ra, ông còn viết thơ. Tuy chƣa xuất bản tập thơ nào nhƣng xuất
hiện khá nhiều trong các tập truyện ngắn của ông.
1.2.2 Vài nét về phong cách tác giả Nguyễn Huy Thiệp
Nguyễn Huy Thiệp là ngƣời có khả năng cuốn hút, ông thể hiện sự sâu
sắc, quyết đoán và khá ngay thẳng trong khi đối thoại. Có thể nói rằng, đằng
sau vẻ ngoài lãnh đạm, khắc khổ của con ngƣời “từng trải” đó là một tâm hồn
nhạy cảm hơn ta tƣởng. Để diễn đạt nỗi buồn hay sự phiền lụy trong đời sống,
ông có thói quen dùng từ “đau khổ” hay “khổ”. Phong cách Nguyễn Huy
Thiệp có thể khái quát ở một số đặc điểm nhƣ sau:
Trƣớc hết là cốt truyện ly kì thƣờng xây dựng nên những cuộc phiêu lƣu
của nhân vật này, nhân vật nọ để mƣợn cớ đƣa ngƣời đọc vào những thế giới
đầy cảnh lạ, chuyện lạ. Một thế giới nhân vật cũng toàn những con ngƣời gân
guốc. Ngƣời nào dƣờng nhƣ cũng sống đến tận cùng cá tính của mình. Có

13


những ngƣời xuất thân từ đáy xã hội, là những ngƣời rác rƣởi, tâm địa đen tối
nhƣng thi thoảng trong tâm hồn họ vẫn lóe lên một tia sáng của lƣơng tâm.
Ngôn ngữ trong văn chƣơng Nguyễn Huy Thiệp khá mới mẻ và độc đáo,
nó cũng làm cho nhiều ngƣời cảm thấy rờn rợn ghê ghê. Đó cũng là một nét
hấp dẫn của văn Nguyễn Huy Thiệp. Một thứ ngôn ngữ táo bạo đôi khi nhƣ là
đột nhiên lột tả hết những ý nghĩ, thèm khát mà con ngƣời ta vẫn thƣờng phải
che đậy.
Thơ ca và triết lý là đặc trƣng cơ bản của truyện ngắn Nguyễn Huy
Thiệp. Truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp rất hiện đại về cấu trúc, ngôn từ, về
chính cái “viết” của nó: nó tự viết, tự hình thành, nó vừa đáng giá vừa sâu sắc,
vừa trực giác, vừa lí trí , nó lôi cuốn ngƣời đọc.

Nhƣ vậy, Nguyễn Huy Thiệp là sản phẩm tất yếu của sự gặp gỡ giữa tài
năng với khát vọng dân chủ và đổi mới mà sự vận động ý thức xã hội cũng
nhƣ văn học sau 1975 đem lại. Nguyễn Huy Thiệp là tài năng hiếm và độc
đáo. Đúng nhƣ Nguyễn Đăng Mạnh khái quát: “Nguyễn Huy Thiệp không
phải là xu hƣớng phổ quát và tất cả của đổi mới nhƣng nó là dòng mạch xuất
hiện đồng thời đổi mới”.

14


CHƢƠNG 2: KẾT QUẢ KHẢO SÁT, THỐNG KÊ
2.1. Kết quả thống kê
-Trong tổng số 45 truyện ngắn mà chúng tôi khảo sát thì từ ngữ thông
tục đƣợc sử dụng ở 36 truyện với 296 phiếu. Nhƣ vậy lớp từ ngữ thông tục
đƣợc nhà văn Nguyễn Huy Thiệp sử dụng tƣơng đối nhiều. Bằng cách sử
dụng lớp từ ngữ thông tục một cách khá dày đặc vừa thể hiện cá tính sáng tạo
của nhà văn lại vừa mang sự phá cách mới của văn học Việt Nam hiện đại.
Nhà văn sử dụng lớp từ ngữ thông tục này nhƣ một điểm nhấn nhằm làm tỏa
sáng tác phẩm.Có thể thấy, những từ ngữ thông tục xuất hiện phổ biến nhất
đều là những từ tục quen thuộc, đƣợc sử dụng rất nhiều trong lời nói sinh
hoạt. Chúng tạo nên một không khí đối thoại suồng sã, thậm chí thô lậu
nhƣng cũng dễ dàng làm cho ngƣời đọc cảm nhận đƣợc sự tự nhiên, chân thực
của đời sống.
-Việc sử dụng từ ngữ thông tục vào trong sáng tác văn chƣơng đã mang
lại những thành công nhất định cho nhà văn. Trong truyện ngắn Nguyễn Huy
Thiệp, “tần suất” sử dụng từ ngữ thông tục khá dày đặc. Từ ngữ thông tục
xuất hiện với nhiều dạng, loại nhƣ: đại từ xƣng hô, lời chửi, câu chửi hay các
từ ngữ thuộc nhóm kiêng kị trong giao tiếp.
-Từ kết quả khảo sát, thống kê, chúng tôi thấy những từ thông tục đƣợc
sử dụng nhiều nhƣ “mày’, “tao”, “mẹ chúng mày”, “cha chúng mày’, “cứt”…

Những từ này xuất hiện khá nhiều trong tập truyện ngắn mà chúng tôi khảo
sát. Các từ “ mày”, “chúng mày” “chúng tao” xuất hiện 197 lần (chiếm 66%).
Điều này cũng dễ giải thích rằng văn xuôi Việt Nam ngày càng hiện đại hơn
và nó làm cho ngôn ngữ sáng tác cũng thay đổi rất nhiều. Nhà văn Nguyễn
Huy Thiệp là nhà văn đầy táo bạo khi mang ngôn ngữ đời sống sinh hoạt vào
trong văn chƣơng và làm cho văn của mình theo kịp nhịp sống hiện đại. Khác

15


với văn xuôi truyền thống, văn xuôi hiện đại đi sâu vào khai thác thế giới nội
tâm nhân vật, chú ý đến những dòng cảm xúc, những tâm trạng, những suy tƣ
của con ngƣời. Vì thế ngôn từ bao giờ cũng dùng để phản ánh cuộc sống của
ngƣời dân và nó luôn phản ánh một cách chân thực nhất. Nguyễn Huy Thiệp
sử dụng lớp từ ngữ thông tục nhƣ nhấn mạnh thêm sự thay đổi của xã hội đã
tác động đến con ngƣời nhƣ thế nào và nhằm thể hiện dòng cảm cảm xúc tâm
trạng của mình.Việc sử dụng lớp từ ngữ thông tục tạo sự chú ý cho ngƣời đọc
và tác động mạnh vào lí trí, tình cảm của ngƣời đọc.
-Từ thông tục “mẹ’, “mẹ nó” cũng đƣợc nhà văn sử dụng nhiều, xuất
hiện 49 lần ( chiếm 16,4%). Khi những ngôn ngữ của đời sống đƣợc đƣa vào
trong văn chƣơng, nó sẽ làm cho tác phẩm trở nên gần gũi với con ngƣời hơn,
mang theo hơi thở của sộng sống hiện dại xô bồ vào văn học. Sử dụng từ ngữ
thông tục khi viết truyện ngắn không chỉ có tác dụng thu hút sự chú ý của bạn
đọc mà còn tạo ra điểm nhấn, gây ấn tƣợng mạnh mẽ cho ngƣời đọc. Bạn đọc
sẽ có những ấn tƣợng sâu sắc hơn, mới mẻ hơn với tác phẩm của nhà văn
Nguyễn Huy Thiệp.
2.2 Miêu tả kết quả thống kê
2.2.1 Từ thông tục qua cách xƣng hô trong lời thoại của nhân vật.
Từ là do tiếng tạo thành, mỗi từ đều mang một ý nghĩa và có thể dùng
độc lập trong câu. Đặc điểm đầu tiên là các từ xƣng hô (gồm các đại từ nhân

xƣng, các từ khác dùng để xƣng hô) của lời nói thƣờng ngày xuất hiện khá
nhiều ở lời thoại nhân vật trong truyện ngắn của Nguyễn Huy Thiệp. Trong
truyện ngắn “Huyền thoại phố phƣờng”: con gái, ông công chức, bà mẹ, bà
Thiều, cậu Phúc, anh ấy, chị, em, cậu ấy, anh, cha bố cô…Trong “Không có
vua”: mày, tao, chúng mày,cha chúng mày, mẹ mày, mẹ chúng mày, bọn
chúng mày, lũ chúng mày, tôi, chú, công chức gì mặt mày, ….Trong “Những

16


ngƣời thợ xẻ”: mẹ đĩ, chúng mày, bố tiên sư chúng nó, mày, tao, chó, cứt chó,
anh, tôi……
Đặc sắc của truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp là các tác phẩm của ông
dung lƣợng không dài nhƣng lại đi sâu vào miêu tả cuộc sống của những
ngƣời lao động nghèo trong những năm sau khi đất nƣớc đƣợc giải phóng,
đang trên con đƣờng đổi mới. “Những bài học nông thôn” là tác phẩm tiêu
biểu. Truyện chỉ dài hai mƣơi mốt trang giấy nhƣng nó đã tái hiện đƣợc một
phần cuộc sống ở nông thôn. Đó là một vùng nông thôn mang đặc trƣng cho
bao vùng nông thôn thuần hậu trên đất nƣớc Việt Nam. Nhà văn Nguyễn Huy
Thiệp rất tinh tế trong việc sử dụng từ ngữ thông tục trên nền của làng quê
Việt Nam bình yên, dân dã. Nó làm cho khung cảnh ấy mất đi vẻ yên bình
vốn có của nó.
Từ xƣng hô trong truyện ngắn cũng giản dị đậm chất nông thôn, nó chƣa
bị pha trộn quá nhiều ngôn ngữ của cuộc sống. Lớp từ thông tục mang hơi thở
của đời sống hiện đại, mang sự thay đổi về với miền quê, sự thay đổi này là từ
từ không mạnh mẽ. Những gì mà văn học thời đại trƣớc kiêng kị, những ngôn
ngữ mà các nhà văn đi trƣớc chƣa dám đƣa vào văn chƣơng thì đến thời kì
hậu hiện đại, Nguyễn Huy Thiệp đã dám đƣa vào trong sáng tác của mình.
Đây là một quyết định cực kì táo bạo. Truyện ngắn này đã để lại nhiều cảm
xúc khác nhau cho ngƣời đọc và điều rõ nhất là nó để lại đó chính là nhịp

sống hiện đai, con ngƣời hiện đại và cuộc sống hối hả, vội vã đang tràn về
làng quê yên bình này. Nhƣ vậy nhà văn Nguyễn Huy Thiệp đã rất thành công
trong việc đƣa ngôn ngữ thông tục về với làng quê Việt Nam, phản ánh cuộc
sống sinh động, đa chiều và xô bồ của làng quê. Lớp từ, ngữ thông tục đã làm
cho văn học trở nên đa sắc màu hơn và chắc hẳn nhiều bạn đọc chƣa thể bắt
kịp. Từ dùng để xƣng hô trong hội thoại giữa các nhân vật đã có sự thay đổi.
Số lƣợng xuất hiện các từ ngữ thông tục không nhiều nhƣng nó đủ để chúng

17


ta nhận ra sự mới mẻ và sáng tạo trong văn chƣơng của nhà văn. Cuộc sống
làm cho con ngƣời trở nên chật vật hơn, hỗn độn hơn. Lời thoại của các nhân
vật trong truyện đã tái hiện cuộc sống hiện tại một cách chân thực và sâu sắc
nhất.
2.2.2 Ngôn ngữ thông tục qua các lời chửi, câu chửi.
Ngôn ngữ nhân vật trong truyện ngắn của nhà văn Nguyễn Huy Thiệp
xuất hiện tần số khá cao các lời chửi, câu chửi. Chửi là hành vi kiêng kị trong
giao tiếp, nhƣng trong tác phẩm của mình, Nguyễn Huy Thiệp lại sử dụng với
những mục đích nhất định.
Trong truyện ngắn “Không có vua”, lời chửi và các câu chửi xuất hiện
tƣơng đối nhiều. Lão Kền mắng thằng con trai lão:
- “Cha chúng mày, chúng mày ám hại ông”…
- “Mẹ cha mày, mày ăn nói với bố thế à”…
- “Mẹ cha này thế mày nâng bát cơm lên miệng hàng ngày mày có nghĩ
không?”
- “Bọn chúng mày bây giờ thì vực đạo gì?”
- “Mẹ cha mày, tao chỉ nghĩ thân tao thì lũ chúng mày được thế này
à?”
Hay lời của nhân vật Bƣờng trong “Những người thợ xẻ” :

- “Chúng mày thông cảm”.
- “Mẹ đĩ về đi”.
- “Chúng mày cẩn thận.Ở Hà Nội ăn cắp như rươi”.
- “Cái thằng nào nghĩ ra cái tên Bình Minh ở cái đất khỉ ho cò gáy này
thật là một thằng bịp bợm khốn nạn”.
- “Tiên sư đời, khốn nạn chưa”.
- “Tiếng kêu bệnh hoạn của dục vọng suy đồi”.
- “Đừng bẫy tao vào chính trị tư tưởng,mày đểu lắm”.

18


- “Đồ chó, nếu muốn đánh nhau thì ra ngoài kia”.
Sự xuất hiện của một loạt các lời chửi, câu chửi trong truyện ngắn có thể
làm cho bạn đọc ngỡ ngàng nhƣng chính bạn đọc lại đƣợc đi từ bất ngờ này
sang bất ngờ khác. Nhà văn sử dụng lớp ngôn từ thông tục này càng làm cho
kịch tính của truyện đƣợc đẩy lên cao. Trong truyện ngắn “Không có vua”
nhà văn đã miêu tả xuất sắc diễn biến của xã hội Việt Nam những ngày đầu
mới độc lập. Con ngƣời bƣớc đầu bị cuốn theo vòng quay của xã hội của công
việc. Câu chuyện mà họ xoay quanh không còn là những chuyện thƣờng nhật
nữa mà là chuyện tiền bạc, ăn uống, thậm chí là gái. Cuộc đấu khẩu của Lão
Kền với Đoài nhƣ phơi bày hết tất cả những xấu xa trong xã hội cũ. Chỉ vì
dây điện hở mà lão Kền bị giật mà ông sẵn sàng chửi luôn những đứa con của
mình. “Cha chúng mày, chúng mày ám hại ông”; Lão Kền bảo “Làm người
nhục lắm” rồi lão chửi “Mẹ cha mày, tao chỉ nghĩ cho thân tao thì chúng
mày được thế này à?” .Ngôn ngữ trong gia đình bị đảo lộn, những câu chửi
xuất hiện nhiều hơn và làm cho cuộc sống trở nên hỗn độn, cha con bất đồng.
Ngôn ngữ hội thoại trong gia đình bị chi phối bởi cuộc sống xã hội quá nhiều.
Qua những lời chửi, câu chửi của lão Kền, phần nào chúng ta cũng hiểu đƣợc
những điều bức bối mà nhà văn đang nhìn thấy và phải chứng kiến trong xã

hội lúc bấy giờ. Nguyễn Huy Thiệp nhìn thấy nhƣng ông không thể thay đổi
đƣợc, cái duy nhất ông có thể thay đổi đó chính là mang tiếng chửi vào trong
truyện ngắn của mình. Tiếng chửi giống nhƣ ông đang hét vào cái xã hội mà
ông đang sống. Đây cũng là một cách mà nhà văn thể hiện thái độ và quan
điểm của mình về cuộc sống. Một nhà văn luôn nhìn thấy những mảng tối,
những góc khuất của cuộc sống, vì vậy những gì ông mang vào văn chƣơng
đều là những gì chân thực nhất.
Ngoài truyện ngắn “Không có vua”,“Những người thợ xẻ” thì truyện
“Chuyện bà Móng” cũng xuất hiện nhiều những lời chửi, câu chửi. Nhà văn

19


không để cho nhân vật của mình chửi nữa mà là một con vật cũng biết chửi con nhồng : “đời cũng chó nhỉ?”.
Mọi nhân vật trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp đều có thể chửi. Tác
giả Phùng Gia Thế cho rằng: nhà văn đã nhìn thấu những lỗ hổng của hiện
thực đƣơng thời để rồi để cho nhân vật của mình thốt ra những tiếng chửi,
những từ ngữ tục tằn; nhân vật của ông, cho dù có vai xã hội thế nào thì cũng
đƣợc xếp trên cùng một mặt sân giá trị bình đẳng. Có thể là ngƣời nông dân
lao động trƣớc những bí bách của cuộc sống mà bật ra tiếng chửi và cũng có
thể là những ngƣời thủ lĩnh lãnh đạo chửi. Truyện ngắn “Mưa Nhã Nam” kể
về Đề Thám – một anh hùng trong thời kì chiến tranh. Trong cuộc nói chuyện
Đề Thám phải thốt ra rằng: “Thời đại chó má!”. Ở thời đại này, họ sẵn sàng
dốc vào họng thứ rƣợu nấu bằng sắn, thứ rƣợu mạnh đến nỗi có thể châm lửa
đốt cháy đƣợc để hòng làm dịu đi nỗi phiền muộn.
Dù xuất hiện trong hoàn cảnh nào thì các lời chửi, câu chửi trong các
truyện ngắn ấy cũng có những ý nghĩa nhất định. Cái đặc sắc nhất ở đây chính
là nhà văn đã lƣu lại đƣợc những góc khuất tối nhất của cuộc sống và những
gì thô nhám nhất còn xuất hiện trong xã hội.
2.2.3 Từ ngữ thông tục thuộc nhóm kiêng kị trong giao tiếp.

Những từ ngữ thông tục mà ngƣời ta kiêng kị trong giao tiếp lại đƣợc
nhà văn Nguyễn Huy Thiệp sử dụng rất nhiều trong sáng tác văn học. Đó là
những từ nhƣ “cứt”, “chim”, “bướm”, “dái”, “con b..”…đƣợc xuất hiện với
tần số cao.
Nói đến chuyện hố xí hai ngăn, chuyện hót phân ở Hà Nội mà lại không
nhắc đến Nguyễn Huy Thiệp thì đúng là một thiếu sót. Có thể nói, trong văn
chƣơng Việt Nam đƣơng đại, không ai quan tâm đến “cứt” nhiều nhƣ Nguyễn
Huy Thiệp. Trong các truyện ngắn, ông cho từ ấy xuất hiện khá nhiều, một
cách trần trụi, hung hãn, đầy bạo động. Nó tuôn ra từ miệng của vua Quang

20


×