Tải bản đầy đủ (.pdf) (128 trang)

Đối chiếu các phương tiện dùng để xưng hô trong truyện ngắn của nguyễn huy thiệp và truyện ngắn của nguyễn ngọc tư

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.92 MB, 128 trang )

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM
-------




HÀ NGỌC YẾN





ĐỐI CHIẾU CÁC PHƢƠNG TIỆN DÙNG ĐỂ XƢNG HÔ
TRONG TRUYỆN NGẮN CỦA NGUYỄN HUY THIỆP
VÀ TRUYỆN NGẮN CỦA NGUYỄN NGỌC TƢ






LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ HỌC













Thái Nguyên, 2009

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM
-------



HÀ NGỌC YẾN




ĐỐI CHIẾU CÁC PHƢƠNG TIỆN DÙNG ĐỂ XƢNG HÔ
TRONG TRUYỆN NGẮN CỦA NGUYỄN HUY THIỆP
VÀ TRUYỆN NGẮN CỦA NGUYỄN NGỌC TƢ




LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ HỌC



Chuyên ngành: Ngôn ngữ học
Mã số: 60.22.01



NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. PHẠM NGỌC THƢỞNG







Thái Nguyên, 2009

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên


LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các
kết quả trong luận văn là trung thực và chưa từng được công bố trong bất
cứ công trình nào.

Tác giả luận văn


Hà Ngọc Yến















Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên


LỜI CẢM ƠN

Luận văn này hoàn thành dưới sự hướng dẫn tận tình của TS Phạm
Ngọc Thưởng. Tác giả xin gửi đến thầy lời cảm ơn sâu sắc.
Tác giả cũng xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành của mình tới tất cả
những thầy cô, những người đã trực tiếp giúp tác giả nâng cao vốn kiến thức
ngôn ngữ trong thời gian tác giả theo học chương trình thạc sĩ Ngôn ngữ
khóa 2007-2009 tại trường Đại học sư phạm Thái Nguyên.
Tác giả cũng xin bày tỏ lòng biết ơn đối với bạn bè và những người
thân đã động viên, giúp đỡ tác giả trong thời gian hoàn thành luận văn.

Tác giả luận văn



Hà Ngọc Yến


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
1
MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU ....................................................................................................... 3
1. Lí do chọn đề tài ......................................................................................... 3
2. Lịch sử vấn đề ............................................................................................ 3
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu............................................................... 5
4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu .............................................................. 6
5. Phương pháp nghiên cứu ............................................................................ 6
6. Cấu trúc của luận văn ................................................................................. 7
Chƣơng 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN ........................................................................ 8
1.1. Giao tiếp và hoạt động giao tiếp .............................................................. 8
1.1.1. Nhân vật giao tiếp ............................................................................. 8
1.1.2. Hoàn cảnh giao tiếp .........................................................................12
1.2. Lý thuyết về hội thoại .............................................................................15
1.2.1. Khái niệm hội thoại .........................................................................15
1.2.2. Quy tắc chi phối quan hệ liên cá nhân – phép lịch sự .......................17
1.3. Phạm trù xưng hô ...................................................................................19
1.3.1. Khái niệm xưng hô ..........................................................................19
1.3.2. Các phương tiện dùng để xưng hô ...................................................21
1.4. Tiểu kết chương 1 ...................................................................................26
Chƣơng 2: CÁC PHƢƠNG TIỆN DÙNG ĐỂ XƢNG HÔ TRONG
TRUYỆN NGẮN CỦA NGUYỄN HUY THIỆP VÀ TRUYỆN NGẮN
CỦA NGUYỄN NGỌC TƢ ............................................................................28
2.1. Các phương tiện dùng để xưng hô trong truyện ngắn của Nguyễn
Huy Thiệp .....................................................................................................28

2.1.1. Các yếu tố xưng hô bằng lời (dạng hiển ngôn) .................................29
2.1.2. Các yếu tố xưng hô phi lời (dạng hàm ngôn) ...................................45
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
2
2.2. Các phương tiện dùng để xưng hô trong truyện ngắn của Nguyễn
Ngọc Tư ........................................................................................................48
2.2.1. Các yếu tố xưng hô bằng lời (dạng hiển ngôn) .................................48
2.2.2. Các yếu tố xưng hô phi lời (dạng hàm ngôn) ...................................60
2.3. Tiểu kết chương 2 ...................................................................................61
Chƣơng 3. SỰ ĐỒNG NHẤT VÀ KHÁC BIỆT GIỮA CÁC PHƢƠNG
TIỆN DÙNG ĐỂ XƢNG HÔ TRONG TRUYỆN NGẮN CỦA NGUYỄN
HUY THIỆP VÀ TRUYỆN NGẮN CỦA NGUYỄN NGỌC TƢ .....................63
3.1. Sự đồng nhất ..........................................................................................63
3.2. Sự khác biệt ............................................................................................66
3.3. Xu hướng “gia đình hoá” trong xưng hô ngoài xã hội ở truyện ngắn
của Nguyễn Huy Thiệp và truyện ngắn của Nguyễn Ngọc Tư .......................71
3.4. Những đặc sắc trong sử dụng các phương tiện xưng hô trong truyện
ngắn của Nguyễn Huy Thiệp và truyện ngắn của Nguyễn Ngọc Tư ..............74
3.4.1. Các yếu tố xưng hô phi lời (dạng hàm ngôn) ...................................74
3.4.2. Các yếu tố xưng hô bằng lời (dạng hiển ngôn) .................................77
3.5. Phong cách nhà văn ................................................................................92
3.6. Tiểu kết chương 3 ...................................................................................94
KẾT LUẬN ..................................................................................................95
TÀI LIỆU THAM KHẢO ...........................................................................98
PHỤ LỤC................................................................................................... 101










Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
3
MỞ ĐẦU

1. Lí do chọn đề tài
Trong giao tiếp bằng ngôn ngữ, xưng hô là yếu tố đầu tiên mà các vai
giao tiếp cần phải lựa chọn để xác lập vị trí của mình. Dựa vào xưng hô mà
quan hệ giữa các vai giao tiếp được thiết lập. Do đó, sử dụng từ xưng hô
không chỉ giúp cuộc thoại có thể tiến hành mà nó còn ảnh hưởng lớn đến
chiến lược và hiệu quả giao tiếp. Xưng hô đúng, hay sẽ góp phần thúc đẩy
giao tiếp phát triển. Ngược lại, xưng hô không hợp lý sẽ gây ra những hậu quả
không mong muốn trong giao tiếp. Qua cách sử dụng từ xưng hô người ta có
thể biết được tình cảm, thái độ, mối quan hệ, trình độ học vấn của các nhân
vật tham gia giao tiếp.
Nguyễn Huy Thiệp và Nguyễn Ngọc Tư là hai tác giả lớn và đã khẳng
định được vị trí của mình trong nền văn học Việt Nam đương đại. Mỗi tác giả
ở một vùng miền, mang một phong cách nghệ thuật khác nhau ... Do đó, cách
lựa chọn và sử dụng ngôn từ nghệ thuật cũng khác nhau, đặc biệt trong cách
dùng các phương tiện dùng để xưng hô cũng mang đậm đặc điểm của phương
ngữ hai vùng Nam - Bắc.
Lý thuyết giao tiếp và hội thoại đã được đưa vào giảng dạy ở nhà
trường phổ thông. Để hiệu quả giảng dạy cao, người giáo viên văn ngoài việc
nắm vững tri thức cần tạo sức hút cho học sinh thông qua những tác phẩm văn
học đặc sắc, cụ thể.
Với những lý do nêu trên, chúng tôi mạnh dạn đề xuất nghiên cứu đề
tài: "Đối chiếu các phương tiện dùng để xưng hô trong truyện ngắn của

Nguyễn Huy Thiệp và truyện ngắn của Nguyễn Ngọc Tư".
2. Lịch sử vấn đề
Xưng hô từ lâu đã là vấn đề khá thú vị và được bàn đến khá nhiều trong
giới ngôn ngữ học. Khi nghiên cứu đề tài này chúng tôi đã bước đầu tìm hiểu
một số công trình, bài viết về xưng hô của một số tác giả. Cụ thể:
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
4
- Các bài báo, bài viết nghiên cứu về xưng hô:
+ Hoàng Thị Châu (1995), Vài đề nghị về chuẩn hoá cách xưng hô
trong xã giao, Tạp chí Ngôn ngữ và đời sống, số 3.
+ Nguyễn Văn Chiến (1993), Từ xưng hô trong tiếng Việt. Việt Nam
những vấn đề ngôn ngữ và văn hoá, Hội ngôn ngữ học Việt Nam, Trường
ĐHNN Hà Nội.
+ Stankêvich (1993), Cần tìm hiểu thêm về cách xưng hô trong tiếng
Việt, Việt Nam những vấn đề ngôn ngữ và văn hoá, Hội ngôn ngữ học Việt
Nam, Trường ĐHNN Hà Nội.
+ Phạm Văn Tình (1997), Nhân xem Bảy sắc cầu vồng bàn thêm về
cách xưng hô trong nhà trường, Tạp chí Ngôn ngữ và đời sống, số 9.
+ Phạm Ngọc Thưởng (1994), Về đại từ nhân xưng ngôi thứ 3, Tạp chí
Nghiên cứu Giáo dục, số 10.
+ Phạm Ngọc Thưởng (1995), Xưng hô giữa vợ và chồng trong gia
đình người Tày - Nùng, Tạp chí Dân tộc học, số 1.
+ Như ý (1990), Vai xã hội và ứng xử ngôn ngữ trong giao tiếp, Tạp chí
Ngôn ngữ, số 3.
+ Bùi Minh Yến (1990), Xưng hô giữa vợ và chồng trong gia đình
người Việt, Tạp chí Ngôn ngữ, số 3.
+ Bùi Minh Yến (1993), Xưng hô giữa anh chị và em trong gia đình
người Việt, Tạp chí Ngôn ngữ, số 3.
+ Bùi Minh Yến (1994), Xưng hô giữa ông bà và cháu trong gia đình
người Việt, Tạp chí Ngôn ngữ, số 2.

- Các công trình luận văn, luận án nghiên cứu về xưng hô:
+ Hồ Thị Lân (1989), Tìm hiểu vai trò của từ xưng hô trong giao tiếp
và các nhân tố tác động đến từ xưng hô, Luận văn sau đại học, Trường
ĐHSP Hà Nội.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
5
+ Phạm Ngọc Thưởng (1998), Cách xưng hô trong tiếng Nùng, Luận án
tiến sĩ, Trường ĐHSP Hà Nội.
+ Lê Thanh Kim (2000), Từ xưng hô và cách xưng hô trong các
phương ngữ tiếng Việt từ góc nhìn của lý thuyết xã hội ngôn ngữ học, Luận án
tiến sĩ, Viện Ngôn ngữ học, Hà Nội.
+ Bùi Minh Yến (2001), Từ xưng hô trong gia đình đến xưng hô ngoài
xã hội của người Việt, Luận án tiến sĩ, Viện Ngôn ngữ học, Hà Nội.
Điểm qua một số công trình trên, chúng ta thấy xưng hô được nghiên
cứu dưới những góc nhìn khác nhau trong đời sống. Tuy nhiên, theo khảo sát
ban đầu của chúng tôi thì các phương tiện dùng để xưng hô trong một tác
phẩm chưa được đề cập nhiều, đặc biệt là hầu như chưa có công trình nào
nghiên cứu một cách toàn diện và hệ thống các phương tiện dùng để xưng hô
trong các tác phẩm của các tác giả ở những vùng miền khác nhau. Kế thừa
thành quả các công trình của những nhà nghiên cứu trước đây, chúng tôi hi
vọng luận văn này sẽ có hướng đi mới trong việc tìm hiểu các phương tiện
dùng để xưng hô của người Việt nói chung và các tác phẩm văn học nói riêng.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Trong luận văn này, chúng tôi tập trung, nghiên cứu, tìm hiểu các
phương tiện dùng để xưng hô trong truyện ngắn của Nguyễn Huy Thiệp và
truyện ngắn của Nguyễn Ngọc Tư.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Do yêu cầu của đề tài, chúng tôi tìm hiểu các phương tiện dùng để xưng hô
trong 15 truyện ngắn của Nguyễn Huy Thiệp: Chảy đi sông ơi, Tướng về hưu,

Muối của rừng, Phẩm tiết, Kiếm sắc, Thương nhớ đồng quê, Truyện tình kể
trong đêm mưa, Con gái thuỷ thần, Những người thợ xẻ, Không có vua,
Những ngọn gió Hua Tát, Những bài học nông thôn, Huyền thoại phố
phường, Giọt máu, Chút thoáng Xuân Hương (Nhà xuất bản Hội nhà văn, Hà
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
6
Nội, 2005). 14 truyện ngắn trong tập “Cánh đồng Bất Tận” cña NguyÔn Ngäc
T-: Cải ơi, Thương quá rau răm, Hiu hiu gió bấc, Huệ lấy chồng, Cái nhìn
khắc khoải, Nhà cổ, Mối tình năm cũ, Cuối mùa nhan sắc, Biển người mênh
mông, Nhớ sông, Dòng nhớ, Duyên phận so le, Một trái tim khô, Cánh đồng
Bất Tận (Nhà xuất bản Trẻ, Hà Nội, 2006).
4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
4.1 Mục đích nghiên cứu
- Nghiên cứu các phương tiện dùng để xưng hô để thấy được đặc điểm
ngôn ngữ và giá trị sử dụng của chúng trong các truyện ngắn.
- Chỉ ra sự đồng nhất và khác biệt trong cách sử dụng các phương tiện
dùng để xưng hô trong tác phẩm của Nguyễn Huy Thiệp và Nguyễn Ngọc Tư.
Qua đó thấy được sự khác nhau trong cách sử dụng các phương tiện dùng để
xưng hô của phương ngữ Bắc và phương ngữ Nam.
4.2 Nhiệm vụ nghiên cứu
- Xác lập những cơ sở lí luận được sử dụng để nghiên cứu các phương
tiện dùng để xưng hô.
- Khảo sát, thống kê, phân loại ... các phương tiện dùng để xưng hô
trong các truyện ngắn của Nguyễn Huy Thiệp và Nguyễn Ngọc Tư.
- Miêu tả, phân tích và nhận xét những đặc điểm trong cách sử dụng
các phương tiện xưng hô để thấy được sự đồng nhất và khác biệt trong truyện
ngắn của Nguyễn Huy Thiệp và truyện ngắn của Nguyễn Ngọc Tư.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Để nghiên cứu luận văn này, chúng tôi sử dụng những phương pháp
nghiên cứu chủ yếu sau:

- Phương pháp thống kê - phân loại: phương pháp này giúp tập hợp các
phương tiện dùng để xưng hô đã khảo sát được rồi phân loại chúng theo
những tiêu chí đã định sẵn.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
7
- Phương pháp phân tích - tổng hợp: phương pháp này được dùng để
miêu tả đối tượng nghiên cứu và bước đầu tổng kết những kết quả đã nghiên
cứu được.
- Phương pháp so sánh - đối chiếu: phương pháp này được dùng để so
sánh, đối chiếu các phương tiện dùng để xưng hô trong truyện ngắn của
Nguyễn Huy Thiệp và truyện ngắn của Nguyễn Ngọc Tư.
6. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, thư mục tài liệu tham khảo, phụ lục,…
luận văn gồm 3 chương:
- Chương 1: Cơ sở lí luận
- Chương 2: Các phương tiện dùng để xưng hô trong truyện ngắn của
Nguyễn Huy Thiệp và truyện ngắn của Nguyễn Ngọc Tư.
- Chương 3: Sự đồng nhất và khác biệt giữa các phương tiện dùng để
xưng hô trong truyện ngắn của Nguyễn Huy Thiệp và truyện ngắn của
Nguyễn Ngọc Tư.



Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
8
Chƣơng 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN

1.1. Giao tiếp và hoạt động giao tiếp
Theo Các Mác thì : “Con người là tổng hoà các mối quan hệ xã hội” và

các quan hệ này được biểu hiện rõ nhất trong giao tiếp. Chính vì vậy, giao
tiếp không chỉ là một hoạt động xã hội cơ bản mà nó còn đánh dấu sự phát
triển vượt bậc của loài người. Nghiên cứu từ xưng hô do đó không thể đặt
ngoài quá trình giao tiếp. Theo GS. Đỗ Hữu Châu, trong giao tiếp bằng ngôn
ngữ đáng chú ý là sự có mặt của các nhân tố giao tiếp sau: ngữ cảnh, ngôn
ngữ và diễn ngôn.
Trong khuôn khổ phạm vi đề tài này, chúng tôi chỉ xin trình bày nhân
tố ngữ cảnh giao tiếp trong việc ảnh hưởng đến việc lựa chọn và sử dụng từ
xưng hô của các tác giả.
Ngữ cảnh giao tiếp là những nhân tố có mặt trong một cuộc giao tiếp
nhưng nằm ngoài diễn ngôn. Nó là một tổng thể của những hợp phần như:
nhân vật giao tiếp và hiện thực ngoài diễn ngôn (hoàn cảnh giao tiếp). Chúng
tôi sẽ đi sâu tìm hiểu cụ thể hai nhân tố này trong việc ảnh hưởng đến việc lựa
chọn các phương tiện dùng để xưng hô trong sáng tác của Nguyễn Huy Thiệp
và Nguyễn Ngọc Tư.
1.1.1. Nhân vật giao tiếp
“Nhân vật giao tiếp là những người tham gia vào một cuộc giao tiếp
bằng ngôn ngữ, dùng ngôn ngữ để tạo ra các lời nói, các diễn ngôn qua đó
mà tác động vào nhau. Đó là những người tương tác bằng ngôn ngữ.” [7, 15]
Nhân vật giao tiếp đóng vai trò quan trọng trong quá trình giao tiếp, nó
có thể thúc đẩy hoặc tự kết thúc cuộc thoại. Do đó nó chính là linh hồn của
cuộc thoại. Giữa các nhân vật giao tiếp có quan hệ vai giao tiếp và quan hệ
liên cá nhân.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
9
1.1.1.1. Vai giao tiếp
Để tiến hành giao tiếp các thành viên tham gia giao tiếp phải xác lập
vị thế giao tiếp của mình, nghĩa là phải nhận thức được đầy đủ về đối tượng
tham gia giao tiếp (về tuổi tác, nghề nghiệp, địa vị xã hội, mục đích giao
tiếp,vốn sống,...) và về chính bản thân mình. Nếu giao tiếp mới là sự gặp gỡ,

tiếp xúc lần đầu thì các thành viên tham gia giao tiếp phải có bước thăm dò
đối tượng thông qua cách giao tiếp, trình độ văn hoá ứng xử của mình để có
thể thu thập thông tin về đối phương.“Vai giao tiếp chính là cương vị xã hội
của một cá nhân nào đó trong một hệ thống các quan hệ xã hội. Vai được
hình thành trong quá trình xã hội hoá các nhân”. [15, 30]
Mỗi cá nhân trong mỗi hoàn cảnh giao tiếp nhất định lại đóng một vai
khác nhau hợp thành một bộ vai cho mình trong hệ thống giao tiếp chung,
chẳng hạn: khi đi học là sinh viên, khi đi xem phim là khán giả, khi ở nhà là
con đối với bố mẹ, là anh đối với các em, là cháu đối với ông bà, ... Sự phong
phú trong các vai giao tiếp từ đó cũng tạo nên sự phong phú trong cách xưng
hô cho mỗi cá nhân.
Các nhân vật trong một cuộc giao tiếp thường có sự phân vai khá rõ
ràng: vai phát ra diễn ngôn tức là vai nói (viết) và vai tiếp nhận diễn ngôn (vai
nghe). Khi giao tiếp trực tiếp, hai vai này thường luân chuyển, đổi vai cho
nhau. Việc đổi vai không chỉ thúc đẩy giao tiếp phát triển mà đôi khi còn kết
thúc giao tiếp: “Trong quá trình giao tiếp, người nhận có thể đóng vai trò tích
cực hay tiêu cực. Người nhận tích cực khi anh ta luôn thay đổi vai trò người
nhận - người phát, khi giao tiếp diễn ra ở hai chiều. Người nhận tiêu cực khi
anh ta luôn giữ vai trò người nhận trong suốt quá trình giao tiếp, nghĩa là khi
giao tiếp chỉ diễn ra một chiều”. [5, 43]
Trên cơ sở có được thông tin về đối tượng giao tiếp mà nhân vật giao
tiếp lựa chọn từ xưng hô thích hợp. Trong nhiều trường hợp, tuỳ thuộc vào
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
10
ngữ cảnh mà nhân vật giao tiếp lại giữ một vị thế giao tiếp nhất định. Không
phải cứ nhiều tuổi, địa vị xã hội cao, chức vụ lớn, ... thì sẽ giữ vị thế giao tiếp
cao hơn đối tượng còn lại mà chúng ta phải xác định trong ngữ cảnh đó yêu
cầu gì của cuộc giao tiếp là nổi bật, giá trị nào là ưu tiên để từ đó lựa chọn các
phương tiện xưng hô thích hợp. Cách xưng hô trong quan hệ gia tộc khác
cách xưng hô ngoài xã hội. Do đó nhân vật phải xác định đúng vị thế giao

tiếp, xây dựng chiến lược, động cơ, mục đích giao tiếp phù hợp mới tạo hiệu
quả cao trong giao tiếp.
Ví dụ: (Cuộc nói chuyện giữa ông Cơ và Thuỷ)
- Sao không cho vào máy xát? Sao để ông biết?
- Cháu quên, cháu xin lỗi mợ. [27, 20]
Ở đây, xét về tuổi tác thì ông Cơ xếp vào bậc cha chú của Thuỷ. Nhưng
xét về vị thế giao tiếp thì ông Cơ là người giúp việc, Thuỷ là con dâu của chủ
ngôi nhà. Do xác định được vị thế của mình, trong đoạn thoại trên,Thuỷ chọn
cách xưng hô trống không (xưng hô phi lời) thể hiện được vai trò người chủ,
bậc trên; ông Cơ đứng ở vai trò người làm nên chọn cách xưng hô như trong
gia đình phong kiến xưa (gọi người chủ trẻ tuổi là cậu, mợ) bất chấp vấn đề
tuổi tác... Mặt khác, cách xưng hô trên cũng có thể là chiến lược giao tiếp của
ông Cơ khi tạo sự gần gũi, thân mật, và tỏ ra biết lỗi mong sự tha thứ từ cô chủ.
1.1.1.2. Quan hệ liên cá nhân
“Quan hệ liên cá nhân là quan hệ so sánh xét trong tương quan xã hội,
hiểu biết, tình cảm giữa các nhân vật giao tiếp với nhau”. [7, 17]
Quan hệ liên cá nhân giữa các nhân vật giao tiếp này có thể diễn
tiến theo 2 kiểu: quan hệ vị thế xã hội (quyền uy) và quan hệ khoảng cách
(thân cận).





Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
11
Quan hệ

Đặc điểm
Quan hệ liên cá nhân

Quan hệ vị thế xã hội
(quyền uy)
Quan hệ khoảng cách
(thân cận)
Khái niệm - Là quan hệ ứng xử xã
hội dựa trên những quy
tắc giao tiếp nhất định.
- Là quan hệ ứng xử giữa
các cá nhân thể hiện thái
độ, tình cảm của các vai
giao tiếp.
Cơ sở xác lập - Dựa vào tuổi tác, nghề
nghiệp, chức quyền, thứ
bậc,...
- Dựa theo mức độ hiểu
biết lẫn nhau, thân thiện
với nhau.
Quan hệ giữa các
nhân vật giao tiếp
- Phi đối xứng, nghĩa là
sẽ giữ nguyên không
thay đổi trong quá trình
giao tiếp.
- Đối xứng, có thể tạo sự
thân tình hoặc xa lạ với
những mức độ khác nhau.
Qua thương lượng có thể
thay đổi khoảng cách.
Yếu tố đặc trưng - Quan hệ này đặc trưng
bởi yếu tố quyền lực và

tạo ra khoảng cách giữa
hai bên giao tiếp.
- Quan hệ này đặc trưng
bằng yếu tố cận kề, gần
gũi theo mức độ tình cảm
và luôn hướng tới sự đồng
đẳng, thân mật.
Biểu hiện - Quan hệ nơi công sở,
nghi thức,...
- Quan hệ bạn bè, đối tác,
trong gia đình,...

[ Xem thêm 7, 17 - 18]
Quan hệ liên cá nhân chi phối cả tiến trình giao tiếp, cả nội dung và
hình thức của diễn ngôn, do đó, xưng hô chịu áp lực rất mạnh từ quan hệ này.
Qua việc sử dụng từ xưng hô mà vai nghe biết được vai nói xác định quan hệ
vị thế và quan hệ xã hội với mình như thế nào. Trong tiếng Việt, lựa chọn và
sử dụng từ xưng hô được coi như là một chiến lược trong việc thiết lập quan
hệ liên cá nhân trong hội thoại.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
12
Trong những cơ quan, công sở,... thì nghi thức giao tiếp là một điều bắt
buộc mọi người phải tuân theo, do đó, quan hệ quyền uy ở đây được xác lập
một cách vững vàng và ít bị thay đổi nhất. Nhân viên và thủ trưởng đã có
những từ xưng hô giúp định vị thứ bậc rõ ràng không thể có sự đổi ngôi trừ
khi xuất hiện vấn đề tình cảm, mục đích riêng,... chi phối giao tiếp.
Thực ra, trong đời sống thường ngày thì giao tiếp trong gia đình, tiêu
biểu là trong cách lựa chọn từ xưng hô đã cho chúng ta thấy đây không chỉ là
biểu hiện của việc tôn trọng quan hệ thân cận mà còn là biểu hiện của quan hệ
quyền uy trong việc tạo ra không khí vừa tôn nghiêm vừa thân mật trong gia

đình. Chẳng hạn, thay bằng cách xưng ông (bà) và hô cháu thì các nhân vật
giao tiếp ở đây chuyển thành cách xưng ông (bà) và hô con, em,... Thay bằng
cách gọi bố (mẹ) thì người con (đã có con) chọn cách xưng con thông thường
nhưng chuyển cách hô mà đứng ở vị trí con mình gọi bố (mẹ) là ông (bà),...
1.1.2. Hoàn cảnh giao tiếp
Hoàn cảnh giao tiếp là một trong những yếu tố chủ đạo chi phối hoạt
động giao tiếp của con người. Đó là thế giới thực tại mà chúng ta đang sống
với tất cả những nhân tố xã hội - ngôn ngữ ảnh hưởng đến việc lựa chọn và sử
dụng các phương tiện ngôn ngữ, như: hiểu biết về thế giới xã hội, văn hoá, tôn
giáo, lịch sử, ...; phong tục, tập quán; trình độ học vấn; kinh nghiệm xã hội;
thói quen sử dụng ngôn ngữ; phạm vi giao tiếp (công sở, gia đình, ngoài xã
hội, trong các vùng lãnh thổ riêng,...); đề tài, chủ đề hay hình thức giao tiếp....
Chẳng hạn, trong đoạn đối thoại sau đây:
- Chỉ qua bến Cốc thôi nhá - Ông chủ hào hiệp của tôi mặc cả - Thằng
ngu như chó, trời rét thế này về mà nằm ổ. Mày định học đánh cá mòi để làm
gì thế?
- Nó định lớn lên lập hợp tác xã! - Một gã béo lẳn và đen trùi trũi ở
chiếc thuyền bên mỉm cười thâm hiểm - Giêsuma! Ông lỏi đã sành đi đánh cá
đêm thì ta chỉ còn xương cá mà ăn thôi đấy!
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
13
- Quẳng nó xuống sông cho Hà Bá bắt! - Một gã nào đấy hăm doạ.
Thuyền gã lướt qua và gã dùng chiếc mái chèo thúc vào sườn tôi đau điếng.
- Ông cho nó đi xúi cả mẻ cá đêm nay là ăn đòn đấy! - Một lão mắt
chột gầm gừ. Lão giơ mái chèo vẻ chẳng có gì là đùa bỡn cả.
- Thôi mày xuống đi! - Ông chủ của tôi hốt hoảng - Cái lão trùm Thịnh
không đùa với lão được đâu.
- Cháu xin bác… - Tôi rên rỉ - Bác bảo cho cháu đến cuối bến Cốc cơ mà!
- Cốc với cò gì... - Ông chủ của tôi lái thuyền vào bờ, nửa như bực bội
nửa như ngượng nghịu - Mày chỉ mới ngồi mà nước tràn cả vào thuyền, đến

cuối bến Cốc thì tao xuống dưới đáy sông với Hà Bá à? [27, 6]
Trong đoạn thoại trên có thể xác định được hoàn cảnh giao tiếp như sau:
+ Chủ đề giao tiếp: việc xin đi đánh cá đêm của cậu bé.
+ Phạm vi giao tiếp: bến sông.
+ Hình thức giao tiếp: đối thoại trực tiếp (trong cuộc đối thoại này
hình thức là đa thoại với 5 nhân vật tham gia giao tiếp xoay quanh một chủ
đề chính).
+ Phong tục, thói quen: tục đi đánh cá mòi đêm của ngư dân vùng biển.
+ Trình độ học vấn: là những người dân lao động.
+ Tư tưởng, quan niệm: bảo thủ, lạc hậu,... (sợ vía người lạ đi cùng
khiến mẻ cá đêm bị xui).
Trong hoàn cảnh giao tiếp người ta đặc biệt chú ý đến sự tồn tại của
tính quy thức và phi quy thức trong giao tiếp thông qua sự diễn đạt ngôn ngữ
của các vai giao tiếp.
Tính quy thức ở đây được hiểu là những yêu cầu, những quy tắc, những
nghi lễ,... trong những hoàn cảnh giao tiếp hẹp (không gian, thời gian cụ thể
để cuộc giao tiếp diễn ra như trong các nghi lễ ngoại giao, tôn giáo, trong
công sở, nhà trường,...). Đây là các nghi thức mang tính quy phạm, có chuẩn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
14
mực riêng mà các thành viên tham gia giao tiếp ngầm hiểu và tôn trọng thực
hiện nó.
Ngược lại, tính phi quy thức là những hành vi giao tiếp ngoài xã hội,
nơi những hoạt động giao tiếp diễn ra mà không chịu ảnh hưởng chi phối
của bất cứ quy tắc, nghi lễ nào. Các vai giao tiếp được tự do, thoải mái bộc
lộ mình.
Tính quy thức/phi quy thức của hoàn cảnh giao tiếp còn ảnh hưởng lớn
đến việc lựa chọn và sử dụng các từ xưng hô, “nó có mối quan hệ rất chặt chẽ
với các chức năng của từ xưng hô cũng như vị thế xã hội và quyền uy của
nhân vật giao tiếp” [26, 43]. Do đó, có thể nói trong hệ thống từ xưng hô

chúng ta có thể xét đến từ xưng hô có tính quy thức và từ xưng hô không có
tính quy thức.
Ở những người có vị thế ngang bằng nhau như bạn - bạn thì việc sử
dụng từ xưng hô ít tính quy thức hơn. Ngược lại, xưng hô ở vị thế không
ngang bằng thì vai giao tiếp (nhất là vai thấp hơn) thường có lối xưng hô quy
thức, chuẩn mực, “xưng khiêm hô tôn”.
Các đại từ xưng hô thực thụ trong tiếng Việt (trừ đại từ tôi) phần lớn ít
có tính quy thức. Các danh từ thân tộc (ông, bà, cô, chú, anh, ...) đang chiếm
ưu thế trong các giao tiếp xã hội cùng các danh từ chỉ chức vụ, nghề nghiệp
(giáo sư, bác sĩ, thầy giáo, ...) ... mang tính quy thức cao trong hoạt động giao
tiếp. Trong khi đó danh từ chỉ tên riêng lại mang tính chất trung gian và
thường phải căn cứ vào hoàn cảnh giao tiếp cụ thể mà xác định tính quy
thức/không quy thức.
Chẳng hạn, trong các phát ngôn sau:
- Mời em Dung lên bảng!
- Dung lấy cho chị cái lọ hoa ở trên bàn nhé!
Cùng là hai nhân vật, mối quan hệ là chị em nhưng đặt trong hai hoàn
cảnh giao tiếp mỗi người lại đóng một vai khác nhau do đó tính quy thức cũng
được biểu hiện khác nhau:
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
15
+ Trong phát ngôn 1: có 2 vai giao tiếp cô giáo/học sinh. Trong môi
trường học tập yêu cầu tính nghi thức cao do đó cách hô bằng tên riêng (em)
“Dung” thể hiện tính quy thức cao hơn.
+ Trong phát ngôn 2: có 2 vai giao tiếp chị/em. Xét trong tương quan
thì vai giao tiếp là không ngang bằng nhưng ở đây hoàn cảnh giao tiếp chi
phối chính việc sử dụng từ xưng hô kết hợp với nhân tố thái độ, ngữ điệu,...
khiến việc sử dụng từ hô bằng tên riêng “Dung” ít tính quy thức hơn.
1.2. Lý thuyết về hội thoại
1.2.1. Khái niệm hội thoại

Hội thoại là một vấn đề đã được nghiên cứu từ lâu trên thế giới và hiện
nay ngôn ngữ học của hầu hết các quốc gia đều bàn đến hội thoại.
Ở Việt Nam, kế thừa những thành quả của ngôn ngữ học thế giới, hội
thoại đã trở thành mảng nghiên cứu hấp dẫn của ngôn ngữ học ứng dụng.
Xoay quanh khái niệm “hội thoại”, chúng ta có thể kể đến khái niệm của một
số tác giả sau:
Theo Hồ Lê thì “Hội thoại là hành vi thể hiện ngôn giao hai chiều, cụ
thể và xác định, làm chuyển hoá vị thế của người thụ ngôn thành vị thế của
người phát ngôn và ngược lại, đồng thời tạo ra sự liên kết hành vi phát ngôn
với hành vi thụ ngôn tạo thành một thể thống nhất”. [dẫn theo 18, 13]
Nguyễn Thiện Giáp: “Giao tiếp hội thoại là hành thức cơ bản của ngôn
ngữ. Giao tiếp hội thoại luôn luôn có sự hồi đáp giữa người nói và người
nghe, chẳng những người nói và người nghe tác động lẫn nhau mà lời nói của
từng người cũng tác động lẫn nhau”. [11, 63]
Nhìn chung khái niệm “hội thoại” được các nhà nghiên cứu nhắc đến
đều bao gồm yếu tố chỉ nhân vật tham gia hội thoại và quy tắc luân phiên lượt
lời giữa các vai giao tiếp thúc đẩy hội thoại phát triển.
Đỗ Hữu Châu đưa ra khái niệm “hội thoại‟ một cách bao quát và rộng
hơn, có thể áp dụng cho nhiều loại hình ngôn ngữ: “Hội thoại là hình thức
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
16
giao tiếp thường xuyên, phổ biến của ngôn ngữ, nó cũng là hình thức cơ sở
của mọi hoạt động ngôn ngữ khác. Hội thoại là khái niệm dành cho mọi hình
thức hội thoại khác nhau”. [7, 201]
Theo Đỗ Hữu Châu thì hội thoại có một số đặc điểm sau:
- Thoại trường khác nhau sẽ có cuộc hội thoại khác nhau. Tức là với
một không gian - thời gian cụ thể sẽ tương ứng với hình thức hội thoại phù
hợp với nó.
- Số lượng tham gia hội thoại cũng khiến hội thoại mang những tính
chất với những tên gọi khác nhau. Chẳng hạn, với hai người tham gia, chúng

ta đặt tên hình thức hội thoại là song thoại, ba người tham gia – tương ứng với
nó là hình thức tam thoại, nhiều người tham gia hội thoại hơn nữa thì có hình
thức đa thoại. Cách đặt tên này cũng chỉ mang tính chất tương đối.
- Cương vị và tư cách của những người tham gia hội thoại cũng sẽ ảnh
hưởng lớn đến cuộc thoại. Theo đó, vị thế giao tiếp sẽ trở thành nhân tố nhằm
duy trì, thúc đẩy hoặc kết thúc cuộc thoại.
- Các cuộc hội thoại đều có những “đích” cụ thể của mình. Để bắt đầu
cuộc thoại các đối tác hội thoại đã phải xác định mục tiêu giao tiếp mà mình
cần đạt được từ đó xây dụng chiến lược phù hợp. Tuy nhiên, đối với những
cuộc tán gẫu thì “đích” này thường không cụ thể và mang tính tự phát.
- Các cuộc hội thoại khác nhau về tính có hình thức hay không có hình
thức. Căn cứ vào từng cuộc thoại mà hình thức thể hiện, quy trình tổ chức,
dẫn dắt,... cũng khác nhau... có khi không cần hình thức tổ chức hỗ trợ nào cả.
- Với những hình thức hội thoại khác nhau thì ngữ vực để thể hiện nó
cũng khác nhau.
[xem thêm 7, 201]
Hội thoại rất quan trọng trong cuộc sống, nhưng là ngôn ngữ, nó vẫn
chỉ là một công cụ. Cách sử dụng công cụ ấy sẽ góp phần vào kết quả của các
cuộc giao tiếp.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
17
1.2.2. Quy tắc chi phối quan hệ liên cá nhân – phép lịch sự
Hội thoại không phải diễn ra một cách tuỳ tiện mà theo những quy tắc
nhất định. Một cuộc thoại thông thường phải đảm bảo những quy tắc nhất
định sau: quy tắc điều hành sự luân phiên lượt lời, quy tắc điều hành nội dung
của cuộc thoại, quy tắc chi phối cấu trúc của hội thoại và quy tắc chi phối
quan hệ liên cá nhân của hội thoại (phép lịch sự). Trong các quy tắc trên thì:
quy tắc chi phối quan hệ liên cá nhân (phép lịch sự) có ảnh hưởng rõ rệt đến
sự lựa chọn và sử dụng các phương tiện dùng để xưng hô trong các tác phẩm
văn học.

Lịch sự là hiện tượng có tính phổ quát đối với mọi xã hội và trong mọi
lĩnh vực. Có thể nói: “Phép lịch sự là hệ thống những phương thức mà người
nói đưa vào hoạt động nhằm điều hoà và gia tăng giá trị của đối tác với
mình”. [7, 280]
1.2.2.1. Thể diện
Dựa trên khái niệm “thể diện” (face) của Goffman, Brown và Levinson
đã định nghĩa “thể diện” là: “hình ảnh về ta công cộng mà mỗi thành viên
muốn mình có được” [dẫn theo 7, 264]. Đây chính là hình ảnh hoặc ấn tượng
tích cực mà cái “ta” tự xây dựng lên cho mình nhằm chỉ ra cho những người
tham gia giao tiếp được biết. Theo lý thuyết này, “thể diện” được phân chia
thành hai phương diện: thể diện âm tính và thể diện dương tính.
Theo G.Yule thì: “Thể diện dương tính của một người là cái nhu cầu
được chấp nhận, thậm chí được yêu thích bởi người khác, được đối xử như là
thành viên của cùng một nhóm xã hộ và nhu cầu được biết rằng mong muốn
của mình cũng được người khác chia sẻ. Nói đơn giản thì thể diện âm tính là
nhu cầu được độc lập còn thể diện dương tính là nhu cầu được liên thông với
người khác”. [dẫn theo 7, 264]
Thể diện âm tính bao gồm những cái tương ứng gọi là “lãnh địa của cái
tôi” như: lãnh địa cơ thể, không gian, thời gian, tài sản vật chất hay tinh thần.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
18
Tuy nhiên, đề cao thể diện âm tính cũng sẽ dẫn tới sự bảo thủ cố hữu của mỗi
cá nhân. Còn thể diện dương tính, nói theo C.K.Orecchioni thì “thể diện
dương tính tương ứng với tính quá tự mê,... tự đề cao giá trị của mình... và cố
gắng áp đặt cho người khác trong tương tác”. [dẫn theo 7, 266]. Do đó, sự
cân bằng giữa thể diện âm tính và thể diện dương tính là một yêu cầu cần thiết
và khá khó khăn đối với mỗi cá nhân trong việc tự hoàn thiện mình.
1.2.2.2. Hành vi đe doạ thể diện
Đại bộ phận các hành vi ngôn ngữ đều tiềm ẩn khả năng làm tổn hại
đến thể diện. Tương ứng với các thể diện sẽ xuất hiện các hành vi đe doạ thể

diện như sau:
- Hành vi đe doạ thể diện âm tính của người thực hiện như: biếu, tặng,
thề thốt,...
- Hành vi đe doạ thể diện dương tính của người thực hiện như: cảm ơn,
xin lỗi, thú tội,...
- Hành vi đe doạ thể diện âm tính của người tiếp nhận như: khuyên
nhủ, nói chặn, dặn dò,...
- Hành vi đe doạ thể diện dương tính của người tiếp nhận như: phê
bình, mắng mỏ,...
[xem thêm 7, 267]
Mức độ đe doạ thể diện của một hành vi ngôn ngữ theo Brown và
Levinson được đánh giá theo các thông số: quyền lực, khoảng cách và mức độ
trầm trọng (mức độ áp đặt) của các hành vi đe doạ thể diện.
Do tiềm năng đe doạ thể diện như vậy nên lịch sự trong giao tiếp chủ
yếu là sự điều phối các thể diện bằng hành vi ngôn ngữ nhằm tôn trọng thể
diện của mình cũng như thể diện của người đối thoại. Xác định rõ điều này,
khi tiến hành hoạt động lịch sự, người nói nên cân nhắc hiệu lực đe doạ thể
diện ở hành vi tại lời mà mình sắp thực hiện.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
19
Lịch sự không chỉ giúp đạt hiệu quả giao tiếp cao, giúp tôn vinh bản
thân và đối tượng mà lịch sự còn là nét văn hoá, là đặc thù trong giao tiếp của
mỗi dân tộc. Do đó, lịch sự còn là vấn đề chung của loài người trên thế giới.
1.3. Phạm trù xƣng hô
1.3.1. Khái niệm xưng hô
Để cuộc thoại có thể tiến hành, đầu tiên chủ thể giao tiếp phải tìm cách
đưa mình và đối tượng vào diễn ngôn bằng cách lựa chọn những từ xưng hô
thích hợp. Do đó, trong một cuộc thoại đầy đủ và đảm bảo tính lịch sự thì
xưng hô có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong việc thiết lập quan hệ liên cá
nhân và xác định thái độ, tình cảm giữa các vai giao tiếp. Khái niệm phạm trù

“xưng hô” cũng được hiểu và lý giải theo nhiều cách khác nhau.
Diệp Quang Ban cho rằng: “Đại từ xưng hô dùng thay thế và biểu thị
các đối tượng tham gia quá trình giao tiếp”. [1, 111]. Theo ông thì đối tương
tham gia quá trình giao tiếp (người, vật) được chỉ ra một cách chung nhất ở
cương vị ngôi (đại từ xưng hô dùng ở một ngôi xác định: ngôi 1, ngôi 2, ngôi
3 và đại từ xưng hô dùng ở nhiều ngôi linh hoạt).
Theo Bùi Minh Yến: “Khái niệm xưng hô được ý thức như là một hành
vi ngôn ngữ có chức năng xác lập vị thế xã hội của những người tham gia giao
tiếp và tương quan tâm thế giữa họ với nhau ttrong quá trình giao tiếp. Khi
thực hiện chức năng này, hành vi ngôn ngữ xưng hô đồng thời đảm nhận nhiệm
vụ khởi sự tạo sự tương tác ngôn ngữ cho cuộc thoại, điều chỉnh cuộc thoại
theo đích đã định, bảo đảm hiệu lực hành vi”. [34, 17]
Đồng tình với quan điểm của Đỗ Hữu Châu, Phạm Ngọc Thưởng đã cắt
nghĩa và xác định vai trò của từng yếu tố như sau:
- “Xưng” là hành động người nói dùng một biểu thức ngôn ngữ để
đưa mình vào trong lời nói, để người nghe biết rằng mình đang nói và
mình chịu trách nhiệm về lời nói của mình. Đó là hành động tự quy chiếu
của người nói (ngôi 1). [26, 12]
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
20
- “Hô” là hành động người nói dùng một biểu thức ngôn ngữ để đưa
người nghe vào trong lời nói. (ngôi 2) [26, 12]
Trong hoạt động giao tiếp, các vai giao tiếp phải trực tiếp giao thiệp với
nhau bằng lời, trong đó các phương tiện xưng hô sẽ được sử dụng. Do đó,
những nhân vật, những đối tượng không trực tiếp tham gia vào hoạt động giao
tiếp trong cuộc thoại sẽ không được chú ý, không phải là đối tượng khảo sát
của luận văn.
Các nhà nghiên cứu phân chia thành biểu thức xưng hô và biểu thức gọi
trong giao tiếp.
- Về ý nghĩa, “Gọi là dùng một biểu thức hướng về một người nào đó

nhằm làm cho người này biết rằng người gọi muốn nói gì với anh ta”. [7, 78]
Do đó, biểu thức này còn có tên là “biểu thức lôi kéo”. Biểu thức xưng hô có
ý nghĩa thiết lập và duy trì cuộc thoại.
- Về tần số xuất hiện, trong giao tiếp, biểu thức gọi thường xuất hiện ít với
mục đích kéo đối tượng vào cuộc thoại. Việc sử dụng nhiều biểu thức gọi trong
một cuộc thoại cũng đồng nghĩa với việc giao tiếp gần như thất bại. Trong khi đó,
biểu thức xưng hô được dùng một cách thường xuyên để thúc đẩy giao tiếp.
Bằng cách lựa chọn từ “xưng” và “hô” mà chủ thể giao tiếp đã định ra
cho đối tượng giao tiếp và chính bản thân mình một khung quan hệ liên cá
nhân. Và để thay đổi khung giao tiếp này, người giao tiếp phải dùng từ xưng
hô để thương lượng dưới sự hợp tác của đối tượng tham gia giao tiếp.
Các nhà nghiên cứu chỉ ra các yếu tố chi phối từ xưng hô bao gồm:
- Xưng hô phải thể hiện vai giao tiếp. Dựa vào việc dùng từ xưng hô
mà người nghe biết được người nói đặt mình trong quan hệ và vị thế xã hội
như thế nào.
- Xưng hô phải thể hiện được quan hệ quyền uy. Đó cũng là cách xưng
hô thể hiện được sự tôn trọng đối với vai có địa vị cao hơn mình hoặc thể hiện
vai trò, ảnh hưởng đối với vai thấp hơn mình trong giao tiếp.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
21
- Xưng hô phải thể hiện quan hệ thân cận. Chủ yếu cách xưng hô này
thể hiện trong giao tiếp gia đình hay những giao tiếp ngoài xã hội đã được
“thương lượng” dùng những từ xưng hô mang xu hướng “gia đình hoá”.
- Xưng hô phải phù hợp với ngữ vực. Mỗi một từ xưng hô nếu có một
ngữ điệu thể thể hiện cho phù hợp sẽ làm tăng hiệu lực giao tiếp.
- Xưng hô phải thích hợp với thoại trường. Yêu cầu này cho thấy, cùng
một từ xưng hô nhưng ở trong những hoàn cảnh khác nhau lại mang nghĩa
khác nhau. Do đó, từ xưng hô cũng phải biến đổi linh hoạt cho thích nghi với
hoàn cảnh giao tiếp.
- Xưng hô phải thể hiện được tình cảm của người nói đối với người

nghe. Trong giao tiếp, người nói thường hướng người đối thoại vào hai thái
độ: lịch sự/ không lịch sự ... mà từ đó lựa chọn từ xưng hô tương ứng.
[ xem thêm 7, 79]
Do xưng hô là một hành vi ngôn ngữ nên tuỳ theo sự biến động của sáu
nhân tố trong ngữ cảnh cụ thể mà các đối tượng tham gia giao tiếp sẽ lựa chọn
những từ xưng hô để đạt hiệu quả giao tiếp cao nhất.
Xưng hô không phải là yếu tố cố định, bất biến mà có sự thay đổi theo
lịch sử, theo diễn biến của cuộc giao tiếp.
Tóm lại, xưng hô là một hành vi ngôn ngữ mà ở đó các nhân vật giao tiếp
dùng biểu thức quy chiếu để đưa mình và người đối thoại vào trong lời nói.
1.3.2. Các phương tiện dùng để xưng hô
1.3.2.1. Đại từ nhân xưng
Trong xưng hô, đại từ nhân xưng đều có mặt trong tất cả các ngôn ngữ
trên thế giới. Tuy nhiên, ở Việt Nam, việc phân chia đại từ nhân xưng thành
các ngôi vẫn còn là vấn đề gây tranh cãi.
Theo Phạm Ngọc Thưởng thì “những đại từ nào chỉ rõ vai nhân vật tham gia
trực tiếp vào hành vi xưng hô mới được coi là những đại từ xưng hô thực
thụ”. [26, 45]. Để phân biệt ranh giới giữa xưng hô và đại từ, Benveniste gọi

×