Tải bản đầy đủ (.pdf) (70 trang)

Hành vi chê trong một số tác phẩm văn học hiện thực phê phán tiêu biểu giai đoạn 1930 - 1945

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (767.72 KB, 70 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2
;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;
KHOA NGỮ VĂN
;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;
**************
;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;
;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;
;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;
NGUYỄN THỊ THU HUYỀN
;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;

;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;
;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;
;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;

HÀNH VI CHÊ TRONG MỘT SỐ

;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;

TÁC PHẨM VĂN HỌC HIỆN THỰC

;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;
;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;

PHÊ PHÁN TIÊU BIỂU

;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;
;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;

GIAI ĐOẠN 1930 - 1945


;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;
;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;
;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;
;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;
Chuyên ngành: Ngôn ngữ học
;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;
;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;
;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;
;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;
;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;
;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;
;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;
;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;
HÀ NỘI – 2017


TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA NGỮ VĂN
**************

NGUYỄN THỊ THU HUYỀN

HÀNH VI CHÊ TRONG MỘT SỐ
TÁC PHẨM VĂN HỌC HIỆN THỰC
PHÊ PHÁN TIÊU BIỂU
GIAI ĐOẠN 1930 - 1945
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Ngôn ngữ học


Người hướng dẫn khoa học

TS. KHUẤT THỊ LAN

HÀ NỘI – 2017


LỜI CẢM ƠN
Trước tiên, em xin chân thành bày tỏ lòng biết ơn đến TS. Khuất Thị
Lan, người thầy đã hết lòng hướng dẫn và giúp đỡ em hoàn thành khóa
luận này.
Em xin gửi lời biết ơn tới toàn thể các thầy cô trong tổ Ngôn ngữ,
khoa Ngữ văn, trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2 đã ủng hộ và tận tình chỉ
bảo, tạo điều kiện thuận lợi cho em hoàn thành khóa luận tốt nghiệp. Bản
thân em đã hết sức cố gắng nhưng việc thực hiện khóa luận tốt nghiệp
không thể tránh khỏi một số thiếu sót. Vì vậy, em kính mong nhận được sự
góp ý chỉ bảo của các thầy, cô và các bạn sinh viên quan tâm.
Hà Nội, tháng 4 năm 2017
Sinh viên

Nguyễn Thị Thu Huyền


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi và được
sự hướng dẫn khoa học của TS. Khuất Thị Lan. Các nội dung nghiên cứu,
kết quả trong đề tài này là trung thực và chưa công bố trong công trình
nghiên cứu trước đây. Ngoài ra, trong khóa luận còn sử dụng một số nhận
xét, đánh giá của các công trình nghiên cứu khác đều có trích dẫn và chú

thích nguồn gốc.


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................................... 1
1. Lí do lựa chọn đề tài ................................................................................................. 1
2. Lịch sử vấn đề ........................................................................................................... 1
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ............................................................................ 3
4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu ............................................................................ 3
5. Phương pháp nghiên cứu .......................................................................................... 4
6. Đóng góp của đề tài .................................................................................................. 4
7. Bố cục của khóa luận ................................................................................................ 5
NỘI DUNG ....................................................................................................................... 6
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÍ LUẬN ....................................................................................... 6
1.1. Một số vấn đề về hành vi ngôn ngữ ....................................................................... 6
1.1.1. Khái niệm hành vi ngôn ngữ ........................................................................... 6
1.1.2. Phân loại hành vi ngôn ngữ ............................................................................ 8
1.1.3. Hành vi ở lời trực tiếp và hành vi ở lời gián tiếp .......................................... 12
1.1.3.1. Khái niệm “hành vi ở lời” ...................................................................... 12
1.1.3.2. Điều kiện sử dụng hành vi ở lời ............................................................. 12
1.1.3.3. Hành vi ở lời trực tiếp và hành vi ở lời gián tiếp ................................... 15
1.2. Hành vi ngôn ngữ chê .......................................................................................... 18
1.2.1. Khái niệm hành vi ngôn ngữ chê .................................................................. 18
1.2.2. Hành vi chê trực tiếp và hành vi chê gián tiếp .............................................. 19
1.2.3. Các nhân tố giao tiếp ảnh hưởng đến hành vi ngôn ngữ chê ........................ 21
1.3. Hành vi chê trong văn hoá giao tiếp của người Việt ........................................... 24
1.3.1. Các quan niệm về văn hoá ............................................................................ 24
1.3.1.1. Trên thế giới ........................................................................................... 24
1.3.1.2. Ở Việt Nam ............................................................................................ 25
1.3.2. Quan niệm của người Việt về hành vi chê .................................................... 26

CHƯƠNG 2: KHẢO SÁT HÀNH VI CHÊ TRONG MỘT SỐ .................................... 28
TÁC PHẨM VĂN HỌC HIỆN THỰC PHÊ PHÁN TIÊU BIỂU ................................. 28
GIAI ĐOẠN 1930 - 1945 ............................................................................................... 28
2.1. Khảo sát hành vi chê được sử dụng trong một số tác phẩm văn học hiện thực phê
phán tiêu biểu giai đoạn 1930 - 1945 .......................................................................... 28
2.1.1. Kết quả khảo sát ............................................................................................ 28


2.1.2. Nhận xét kết quả khảo sát ............................................................................. 29
2.2. Hành vi chê trực tiếp và các biểu thức sử dụng ................................................... 30
2.3. Hành vi chê gián tiếp và các biểu thức sử dụng .................................................. 45
2.4. Ảnh hưởng của văn hóa giao tiếp đến việc sử dụng hành vi chê ......................... 52
2.4.1. Ảnh hưởng của văn hóa đến chủ đề chê ....................................................... 52
2.4.2. Ảnh hưởng của văn hóa đến cách thức chê .................................................. 54
KẾT LUẬN..................................................................................................................... 60
TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................................................................


BẢNG KÍ HIỆU VIẾT TẮT
ĐTNVC

: Động từ ngữ vi biểu thị hành vi chê

ĐTT

: Động từ thường

NDMĐC

: Nội dung mệnh đề nêu nội dung chê


SP1

: Người nói

SP2

: Người nghe

X

: Chủ ngữ của nội dung mệnh đề chê trong biểu thức
ngữ vi chê nguyên cấp

V

: Vị ngữ trong nội dung mệnh đề chê của biểu thức ngữ
vi chê nguyên cấp


MỞ ĐẦU
1. Lí do lựa chọn đề tài
Trong đời sống hàng ngày, khen - chê là hai mặt của một vấn đề. Tuy
nhiên, người nghe vẫn thích nghe phát ngôn khen hơn là chê. Vì thế mà
hành vi chê ít được ưa chuộng sử dụng.
Về mặt lí thuyết, hành vi chê là hành vi được sử dụng với hiệu lực
không tích cực. Song, trên thực tế, hành vi chê lại được sử dụng với nhiều
hiệu lực ở lời khác nhau. Hành vi chê có thể làm cho mối quan hệ liên cá
nhân giữa người tham gia giao tiếp trở nên xa cách. Ngược lại, nếu hành vi
chê được sử dụng đúng lúc, đúng chỗ và chừng mực cũng có thể làm cho

mối quan hệ giữa những người giao tiếp thêm gần gũi, thân thiết.
Hành vi chê là hành vi ngôn ngữ mang tính đánh giá. Người ta có thể
nhận ra quan điểm sống, đôi khi nhận ra cả trình độ văn hóa, ứng xử của
người thực hiện hành vi chê. Qua hành vi chê, cho thấy những phát hiện
tinh tế cũng như sự “khéo nói” của một người nào đó.
Trong văn học, cùng với những hành vi ngôn ngữ khác, hành vi chê là
hành vi ngôn ngữ góp phần làm nên một tác phẩm văn học hoàn chỉnh.
Trong một số tác phẩm văn học tiêu biểu giai đoạn 1930 - 1945, không thể
phủ nhận hành vi chê đã góp phần tạo nên bức tranh đa sắc màu trong văn
học giai đoạn này.
Từ những lí do trên, chúng tôi quyết định lựa chọn khóa luận với tiêu
đề: “Hành vi chê trong một số tác phẩm văn học hiện thực phê phán tiêu
biểu giai đoạn 1930 - 1945”.
2. Lịch sử vấn đề
Luận văn thạc sĩ của các tác giả Nguyễn Thị Ngận, Lê Thị Thu Hoa,
Đinh Thị Hà (1996), đã nghiên cứu về cấu trúc ngữ nghĩa của một số nhóm
động từ nói năng biểu thị các hành vi ngôn ngữ trong tiếng Việt như:

1


Nhóm thông tin; nhóm bàn, tranh luận, cãi; nhóm khen, chê; các luận văn
này đã đặt động từ nói năng trong hội thoại và xây dựng được cấu trúc ngữ
nghĩa của một số động từ nói năng cụ thể, đồng thời có đề cập đến vấn đề
biểu thức ngữ vi, những cách xác định vai trò của biểu thức ngữ vi trong
biểu đạt và nhận diện một hành vi ngôn ngữ.
Năm 1999, luận án tiến sĩ của tác giả Nguyễn Quang đã đặt hành vi
khen và tiếp nhận lời khen trong sự khảo sát và so sánh để tìm ra sự khác
biệt trong việc sử dụng hành vi này giữa người Việt và người Mỹ. Tác giả
chủ yếu đi sâu nghiên cứu cách sử dụng, không mô tả cụ thể cấu trúc của

những biểu thức ngữ vi. Khen và chê là hai mặt của một vấn đề. Vì vậy
chúng tôi cho rằng hành vi chê cũng có thể được tiếp cận từ góc độ nghiên
cứu này.
Năm 2000, các luận văn của Vũ Tố Nga, Lê Thị Thu Hoa, Hà Thị Hải
Yến đã đặt các hành vi ngôn ngữ cam kết, chê, cảm thán trong tương tác
thoại để nghiên cứu.
Năm 2001, các luận văn của Trịnh Thanh Trà, Nguyễn Thị Vân Anh,
Chử Thị Bích, Phạm Hùng Linh đã nghiên cứu một số hành vi ngôn ngữ
(điều khiển, thỉnh cầu, cho, tặng, kể) và các cặp thoại có chứa hành vi ngôn
ngữ đó trong tổ chức của một sự kiện lời nói trong những tình huống giao
tiếp cụ thể để tìm hiểu. Từ những kết quả nghiên cứu này mở ra một hướng
nghiên cứu các hành vi ngôn ngữ trong đó có hành vi chê.
Tác giả Nguyễn Thị Hoài Linh (năm 2003) và Nguyễn Thu Hạnh
(năm 2005) cũng đã đặt hành vi ngôn ngữ “mách” và “trách” trong sự
tương tác hội thoại để xem xét. Nguyễn Thu Hạnh đã bước đầu đề cập đến
vấn đề lịch sự trong việc sử dụng hành vi trách. Từ đây, chúng tôi nhận
thấy có thể vận dụng hướng nghiên cứu này vào nghiên cứu hành vi chê.

2


Năm 2006, luận án tiến sĩ Sự kiện lời nói chê trong tiếng Việt (cấu
trúc và ngữ nghĩa) của Nguyễn Thị Hoàng Yến đã tìm hiểu về sự kiện lời
nói chê trong tiếng Việt chủ yếu ở góc độ cấu trúc và ngữ nghĩa, tức tìm
hiểu các thành phần cấu tạo nên sự kiện lời nói chê và ngữ nghĩa của các
thành tố đó.
Hành vi chê được người Việt sử dụng với nhiều mục đích khác nhau
và sự kiện lời nói chê trong tiếng Việt có thể được xem xét ở nhiều góc độ
khác nhau. Tiếp thu kết quả nghiên cứu của các tác giả trên, chúng tôi tiến
hành nghiên cứu đề tài của mình. Hi vọng kết quả nghiên cứu sẽ là cơ sở

giúp người sử dụng và tiếp nhận hành vi chê có thể hiểu và lí giải được vấn
đề trong quá trình giao tiếp.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Vấn đề chủ yếu được tìm hiểu trong khóa luận là: Hành vi chê trong
một số tác phẩm văn học hiện thực phê phán tiêu biểu giai đoạn 1930 1945 và ảnh hưởng của văn hóa giao tiếp đến việc sử dụng hành vi chê.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Các hành vi giao tiếp trong ngôn ngữ vô cùng phong phú và đa dạng.
Khóa luận của chúng tôi chỉ đi sâu nghiên cứu một hành vi ngôn ngữ cụ
thể (hành vi chê) trong phạm vi một số tác phẩm văn học hiện thực phê
phán tiêu biểu giai đoạn 1930 – 1945 của các tác giả: Nguyễn Công Hoan,
Ngô Tất Tố, Nguyên Hồng, Nam Cao, Vũ Trọng Phụng.
4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
4.1. Mục đích
Cung cấp những lý thuyết cơ bản về giao tiếp nói chung và lý thuyết
về hành vi ngôn ngữ nói riêng.

3


Giúp cho người học thấy được đặc trưng của hành vi ngôn ngữ chê
trong hoạt động giao tiếp nói chung và tác phẩm văn học nói riêng; thấy
được đặc trưng văn hóa và tư duy của người Việt khi sử dụng hành vi ngôn
ngữ chê.
Nâng cao năng lực tư duy và năng lực phân tích tác phẩm văn học,
tích lũy ngữ liệu để có thể dạy tốt môn Ngữ văn ở trường Trung học phổ
thông.
4.2. Nhiệm vụ
Tổng thuật tình hình nghiên cứu về những vấn đề có liên quan đến
đề tài.

Khảo sát, thống kê những hành vi chê trong một số tác phẩm văn
học hiện thực phê phán tiêu biểu giai đoạn 1930 - 1945.
Sử dụng những phương pháp nghiên cứu đã chọn lựa để phân tích
ngữ liệu nhằm xác định hiệu quả ở lời của hành vi chê trong một số tác
phẩm văn học hiện thực phê phán tiêu biểu giai đoạn 1930 - 1945.
5. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp thống kê, khảo sát: Chúng tôi sử dụng trong việc thống
kê, khảo sát các hành vi chê trong một số tác phẩm văn học hiện thực phê
phán tiêu biểu giai đoạn 1930 - 1945.
Phương pháp phân tích: Chúng tôi sử dụng phương pháp phân tích
để xem xét, nghiên cứu các hành vi chê được sử dụng phân tích các ngữ
liệu làm rõ hơn các khái niệm.
Phương pháp hệ thống hóa: Trên cơ sở đã phân tích những ngữ liệu,
chúng tôi xem xét các vấn đề thuộc hành vi chê.
6. Đóng góp của đề tài
6.1. Về lí luận

4


Cung cấp thêm những lí thuyết về hành vi ngôn ngữ nói chung và
hành vi chê nói riêng.
6.2. Về thực tiễn
Mô tả chi tiết và khái quát được những đặc điểm của hành vi chê
trong tiếng Việt nói chung và một số tác phẩm văn học hiện thực phê phán
tiêu biểu giai đoạn 1930 - 1945.
Thấy được nét riêng của hành vi chê trong sử dụng của các nhà văn
hiện thực phê phán tiêu biểu giai đoạn 1930 - 1945.
7. Bố cục của khóa luận
Ngoài phần mở đầu, kết luận, thư mục tài liệu tham khảo, luận văn

gồm hai chương:
Chương 1: Cơ sở lí luận.
Chương 2: Khảo sát hành vi chê trong một số tác phẩm văn học hiện
thực phê phán tiêu biểu giai đoạn 1930 - 1945.

5


NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÍ LUẬN
1.1. Một số vấn đề về hành vi ngôn ngữ
1.1.1. Khái niệm hành vi ngôn ngữ
Đặt nền móng cho việc nghiên cứu lí thuyết hành vi ngôn ngữ là nhà
triết học người Anh J.L.Austin với công trình How to do things with
word.(Hành động như thế nào bằng lời nói)
Người đã phát triển lí thuyết này là nhà triết học J.Searle với công
trình nổi tiếng Speech Acts. (Hành động lời nói)
Trên cơ sở lí luận của Austin và Searle trong các công trình nghiên
cứu trên, các nhà nghiên cứu ngôn ngữ học Việt Nam đã đưa ra các khái
niệm về “hành vi ngôn ngữ”.
Theo tác giả Đỗ Hữu Châu: “Khi chúng ta nói năng là chúng ta
hành động, chúng ta thực hiện một loại hành động đặc biệt mà phương tiện
là ngôn ngữ. Một hành động ngôn ngữ được thực hiện khi một người nói
(hoặc viết) SP1 nói ra một phát ngôn U cho người nghe (hoặc người đọc)
SP2 trong ngữ cảnh C”. [1; tr.88]
Tác giả Nguyễn Thiện Giáp gọi hành vi ngôn ngữ là hành động ngôn
từ. Ông cho rằng: “Hành động ngôn từ chính là ý định về mặt chức năng
của một phát ngôn”. [5; tr.337-338]
Trong Từ điển giải thích thuật ngữ ngôn ngữ học, hành vi ngôn ngữ
được các nhà nghiên cứu định nghĩa là: “Một đoạn lời nói có tính mục đích

nhất định được thực hiện trong những điều kiện nhất định, được tách biệt
bằng các phương tiện tiết tấu - ngữ điệu và hoàn chỉnh, thống nhất về mặt
cấu âm - âm học mà người nói và người nghe đều có liên hệ với một ý
nghĩa như nhau trong hoàn cảnh giao tiếp nào đó”. [9; tr.107]

6


Như vậy ta thấy rằng, xung quanh khái niệm “hành vi ngôn ngữ”, có
không ít khái niệm được đưa ra. Khóa luận này, chúng tôi thống nhất chọn
khái niệm sau làm cơ sở nghiên cứu về hành vi ngôn ngữ:“Hành vi ngôn
ngữ là những phát ngôn mà khi người ta nói chúng ra thì đồng thời người
ta thực hiện ngay cái việc được biểu thị trong phát ngôn”.[1; tr.88]
J.Austin (1962) đã phân biệt phát ngôn khảo nghiệm và phát ngôn
ngữ vi. Từ đó, ông phát hiện ra bản chất của hành vi ngôn ngữ là hành vi
nói năng. Ông cho rằng khi chúng ta nói năng tức là chúng ta hành động,
chúng ta thực hiện một hành vi đặc biệt mà phương tiện là ngôn ngữ. Theo
Austin, khi người ta sử dụng ngôn ngữ để giao tiếp thì đồng thời thực hiện
3 hành vi: hành vi tạo lời, hành vi mượn lời và hành vi ở lời.
Hành vi tạo lời là hành vi sử dụng các yếu tố của ngôn ngữ (như ngữ
âm, từ,..), các nguyên tắc của ngôn ngữ (như các kiểu kết hợp từ thành câu,
v.v) để tạo ra các phát ngôn có ý nghĩa trong ngôn ngữ. Chẳng hạn, khi ta
nói: “Hôm qua, tôi đi học” thì ta sử dụng các từ: “Hôm qua”, “tôi”, “đi”,
“học” và các quy tắc đặt câu của tiếng Việt như: Chủ ngữ đặt ngay trước vị
ngữ, trạng ngữ chỉ thời gian đặt ngay trước nòng cốt câu.
Hành vi mượn lời là hành vi sử dụng (có thể coi là “mượn”) phương
tiện ngôn ngữ để gây ra một hiệu quả ngoài ngôn ngữ đối với người nghe,
người nhận, có khi ở chính người nói.
Ví dụ, nghe thông báo trên đài phát thanh:“Ngày mai, 25 tháng 7 ở
Hà Nội sẽ có mưa lớn, gió mạnh, sức gió cấp 4, cấp 5 tức 40 đến 50 km

một giờ”.
Một số người sẽ rất lo lắng, tỏ ra bực mình nếu họ là những người ở
xa cơ quan công tác, một số người khác trái lại sẽ thờ ơ, một số khác nữa
có thể lại vui mừng vì trời sẽ đỡ nóng bức v.v… Nghe phát ngôn sai khiến:
“Đóng cửa lại!”, SP2 có thể đứng dậy đi ra cửa và đẩy cánh cửa cho kín

7


lại, anh ta cũng có thể bực tức, càu nhàu, tỏ vẻ khó chịu. Hành động vật lí
đóng cửa, sự bực tức đều thuộc hành vi mượn lời. Chức năng hành động
của giao tiếp được thực hiện nhờ các hiệu quả mượn lời của phát ngôn. Có
những hiệu quả mượn lời là đích của một hành vi ở lời (như đóng cửa là
hiệu quả mượn lời của hành vi điều khiển) nhưng có những hiệu quả không
thuộc đích của hành vi ở lời điều khiển) nhưng có những hiệu quả không
thuộc đích của hành vi ở lời (như vùng vằng, gắt gỏng, khó chịu khi nghe
lệnh). Những hiệu quả mượn lời, rất phân tán, không thể tính toán được. [1;
tr.88-89]
Hành vi ở lời là hành vi người phát ngôn thực hiện ngay trong phát
ngôn của mình và tạo ra những hiệu quả thuộc ngôn ngữ (phản ứng ngôn
ngữ tưng ứng với chúng ở người nhận). Trong đó, hành vi ở lời là một
trong những phát hiện quan trọng của ngôn ngữ học nghiên cứu theo chức
năng giao tiếp.
Chẳng hạn khi chúng ta hỏi ai về một vấn đề nào đó thì người được
hỏi có nhiệm vụ trả lời chúng ta, có thể trả lời là không biết nhưng nếu
không trả lời thì sẽ bị xem là thiếu lịch sự.
1.1.2. Phân loại hành vi ngôn ngữ
Austin đã phân loại các hành vi ngôn ngữ thành 5 nhóm phạm trù
lớn. [1; tr.120-121]
Phán xử (verdities, verditifs): Đây là những hành vi đưa ra những lời

phán xét (verdicts) về một sự kiện hoặc một giá trị dựa trên những chứng
cớ hiển nhiên hoặc dựa vào lí lẽ vững chắc như: Xử trắng án, xem là, tính
toán, miêu tả, phân tích, đánh giá, phân loại, cho là, nêu đặc điểm v.v…
Hành xử (exercities, exercitifs): Đây là những hành vi đưa ra những
quyết định thuận lợi hay chống lại một chuỗi hành động nào đó: ra lệnh,
chỉ huy, biện hộ cho, khẩn cầu, đặt hàng, giới thiệu, van xin, khuyến cáo và

8


các hành vi ngôn ngữ như bổ nhiệm, đặt tên, tuyên bố khai mạc, bế mạc,
cảnh cáo, tuyên ngôn.
Cam kết (commissies, commissifs): Những hành vi này ràng buộc
người nói vào một chuỗi những hành động nhất định: Hứa hẹn, bày tỏ lòng
mong muốn, giao ước, bảo đảm, thề nguyền, thông qua các quy ước, tham
gia một phe nhóm.
Trình bày (expositives, expositifs): Những hành vi này được dùng để
trình bày các quan niệm, dẫn dắt lập luận, giải thích cách dùng các từ như
khẳng định, phủ định, chối, trả lời, phản bác, nhượng bộ, dẫn thí dụ,
chuyển dạng lời, báo cáo các ý kiến v.v…
Ứng xử (behabitives, comportementaux): Đây là những hành vi phản
ứng với cách xử sự của người khác, đối với các sự kiện có liên quan, chúng
cũng là cách biểu hiện thái độ đối với hành vi hay số phận của người khác:
xin lỗi, cám ơn, khen ngợi, chào mừng, phê phán, chia buồn, ban phước,
nguyền rủa, nâng cốc, chống lại, thách thức, nghi ngờ v.v…
Chính Austin sau này cũng nhận thấy sự phân loại của mình chưa
hoàn thiện. Searle là người tiếp thu và khắc phục những hạn chế trong lí
thuyết phân laoij hành vi ngôn ngữ của Austin. Searle đã đưa ra quan niệm
phân loại của mình dựa trên 12 tiêu chí.[1; tr.123-124]
Đích ở lời (the point of the illocutin): Ví dụ một thỉnh cầu hướng tới

việc đưa SP2 đến việc thực hiện cái gì đó; một miêu tả phải hướng tới sự
cung cấp một sự biểu diễn (representation) sự vật như nó vốn có; một hứa
hẹn nhằm ràng buộc người nói SP1 vào việc thực hiện cái gì đó.
Hướng khớp ghép lời với hiện thực (direction of lit): Ví dụ trần thuật
(statement) có hướng khớp ghép lời – hiện thực vì giá trị đúng sai mà nó
nêu ra xác định trên cơ sở lời (phát ngôn) miêu tả có phù hợp hay không
với sự vật được nói tới; thỉnh cầu có hướng khớp ghép hiện thực – lời bởi

9


vì thế giới hiện thực phải thay đổi để thực hiện điều mà người nói SP1
thỉnh cầu.
Trạng thái tâm lí được thể hiện (expressed psychological states): Ví
dụ một lời (phát ngôn) trần thuật tỏ ra là SP1 tin vào (p); hứa hẹn thể hiện ý
định của SP1 thực hiện cái gì đó; thỉnh cầu thể hiện mong muốn của SP1
rằng SP2 thực hiện cái gì đó.
Sức mạnh mà đích được trình bày ra (the strength with which the
illocutionary point is presented).
Ví dụ:“Tôi nhấn mạnh rằng…”, mạnh hơn là: “Tôi xin gợi ý
rằng…”.
Tính quan yếu (relevance) của mối quan hệ liên cá nhân giữa SP1 và
SP2. Một số hành vi như sai bảo nhậy cảm với mối quan hệ liên cá nhân
giữa SP1 và SP2, còn hành vi như trần thuật thì không.
Định hướng (orientation)
Ví dụ: “Khoe” và “than vãn” hướng về SP1, “chúc mừng”, “an ủi”
hướng vào SP2.
Câu hỏi và trả lời là hai thành phần của một cặp kế cận (adjacenry
pair) còn sai bảo (commands) thì không.
Nội dung mệnh đề (propositional content)

Ví dụ: SP2 thực hiện A (tức làm một hành động nào đó) là đặc trưng
của nội dung mệnh đề của sai bảo, còn SP1 thực hiện A là của hứa hẹn.
Hứa hẹn chỉ có thể thực hiện bằng lời, tức thực hiện như một hành vi
ở lời trong khi đó phân loại có thể được thực hiện bằng phương thức khác
không phải bằng lời.
Đặt tên thánh và rút phép thông công đòi hỏi phải có thể chế xã hội
mới có hiệu lực nhưng trần thuật thì không đòi hỏi như vậy.

10


Không phải tất cả các động từ gọi tên hành vi ở lời đều là động từ
ngữ vi.
Ví dụ: “Khoe” và “doạ” không phải động từ ngữ vi.
Phong cách thực hiện (style of performing) hành vi ở lời, thí dụ công
bố và thổ lộ khác nhau ở phong cách thực hiện.
Trong đó Searle sử dụng 4 tiêu chí cơ bản nhất (tiêu chí đích ở lời;
tiêu chí hướng khớp ghép; tiêu chí trạng thái tâm lí và tiêu chí nội dung
mệnh đề) để phân lập được năm loại hành động ở lời. Đó là các hành vi:
Tái hiện: Hành vi này trước đó được Searle gọi tên là xác tín. Đích ở
lời là miêu tả lại một sự tình đang được nói đến. Hướng khớp ghép là lời –
hiện thực, trạng thái tâm lí là niềm tin vào điều mình xác tín, nội dung
mệnh đề là một mệnh đề. Câu mệnh đề này có thể đánh giá theo tiêu chuẩn
đúng - sai lôgic.
Điều khiển: Đích ở lời là đặt người nghe vào trách nhiệm thực hiện
một hành động tương lai; hướng khớp ghép là hiện thực - lời, trạng thái
tâm lí là sự mong muốn của người nói; nội dung mệnh đề là hành động
tương lai của người nghe. Hành động điều khiển gồm các động từ: ra lệnh,
yêu cầu, hỏi, cho phép, dặn dò, mời mọc...
Cam kết(hứa hẹn, tặng, biếu): Đích ở lời là trách nhiệm phải thực

hiện hành động tương lai mà SP1 bị ràng buộc; hướng khớp – ghép hiện
thực – lời; trạng thái tâm lí là ý định của SP1 và nội dung mệnh đề là hành
động tương lai của SP1.
Biểu cảm: Đích ở lời là bày tỏ trạng thái tâm lí phù hợp với hành
động ở lời (vui thích / khó chịu, mong muốn / rẫy bỏ...). Trạng thái tâm lí
thay đổi tùy theo từng loại hành vi; nội dung mệnh đề là một hành động
hay một tính chất nào đó của SP1 hay của SP2.

11


Tuyên bố (tuyên bố, buộc tội): Đích ở lời là nhằm làm cho có tác
dụng nội dung của hành vi hướng khớp ghép vừa là lời – hiện thực, vừa là
hiện thực – lời; nội dung mệnh đề là một mệnh đề. [1; tr.126]
1.1.3. Hành vi ở lời trực tiếp và hành vi ở lời gián tiếp
1.1.3.1. Khái niệm “hành vi ở lời”
“Hành vi ở lời là những hành vi người nói thực hiện ngay khi nói
năng. Hiệu quả của chúng là những hiệu quả thuộc ngôn ngữ, có nghĩa
chúng gây ra một phản ứng ngôn ngữ tương ứng với chúng ở người nhận”.
[1; tr.89]
Ví dụ về hành vi ở lời: hỏi, yêu cầu, ra lệnh, mời, hứa hẹn, khuyên
bảo... Khi chúng ta hỏi ai về một cái gì đó thì người được hỏi có nhiệm vụ
phải trả lời chúng ta, cho dù trả lời không biết. Không trả lời, không đáp lại
câu hỏi, người nghe bị xem là không lịch sự.
1.1.3.2. Điều kiện sử dụng hành vi ở lời
Bất cứ một hành vi nào khi thực hiện cũng phải có những điều kiện
nhất định. Các hành vi ở lời là loại hành vi xã hội cho nên các điều kiện để
nó có thể thực hiện được lại càng chặt chẽ, đa dạng hơn. “Điều kiện sử
dụng các hành vi ở lời là những điều kiện mà một hành vi ở lời phải đáp
ứng để nó có thể diễn ra thích hợp với ngữ cảnh của sự phát ngôn ra nó”.

[1; tr.111]
Austin là người đầu tiên đề cập tới các điều kiện sử dụng các hành vi
ở lời. Ông xem các điều kiện sử dụng hành vi ở lời là những điều kiện
“may mắn” (felicity conditions) nếu chúng được bảo đảm thì hành vi mới
“thành công”, đạt hiệu quả. Nếu chúng không được đảm bảo thì hành vi sẽ
thất bại. Những điều kiện may mắn của Austin như sau:
A-(i): Phải có thủ tục có tính chất quy ước và thủ tục này phải có
hiệu quả cũng có tính quy ước.

12


(ii): Hoàn cảnh và con người phải thích hợp với những điều quy định
trong thủ tục.
B- Thủ tục phải được thực hiện (i) một cách đúng đắn và (ii) đầy đủ.
C- Thông thường thì (i) những người thực hiện hành vi ở lời phải có
ý nghĩ, tình cảm và ý định đúng như đã được đề ra trong thủ tục và (ii) khi
hành động diễn ra thì ý nghĩ, tình cảm, ý định đúng như nó đã có. [1;
tr.112]
Sau này, trên cơ sở những điều kiện may mắn của Austin, Searle đã
điều chỉnh, bổ sung và gọi chúng là điều kiện sử dụng hay điều kiện thỏa
mãn các hành vi ở lời. Các điều kiện đó như sau:
Điều kiện nội dung mệnh đề chỉ ra bản chất, nội dung của hành vi.
Nội dung mệnh đề có thể là một mệnh đề đơn giản (đối với các hành vi
khảo nghiệm xác tín, miêu tả), hay một hàm mệnh đề (đối với các câu hỏi
khép kín, tức những câu hỏi chỉ có hai khả năng trả lời “có” hay “không”;
“phải”, “không phải” v.v... Gọi là hàm mệnh đề vì phát ngôn ngữ vi tương
ứng với hành vi hỏi đưa ra hai khả năng (tương tự như hai biến, hai nghiệm
trong một hàm toán học), người trả lời chọn lấy một mà trả lời. Nội dung
mệnh đề có thể là một hành động của người nói (như hứa hẹn) hay một

hành động của người nghe (lệnh, yêu cầu).
Đối với hành vi chê, nội dung mệnh đề của biểu thức ngữ vi chê là
những đặc điểm của người / vật / việc đã xảy ra hoặc đang tồn tại trước khi
thực hiện hành vi chê.
Điều kiện chuẩn bị bao gồm những hiểu biết của người phát ngôn về
năng lực, lợi ích, ý định của người nghe và về các quan hệ giữa người nói
và người nghe.
Ví dụ: Khi ra lệnh, người nói phải tin rằng người nhận lệnh có khả
năng thực hiện hành động quy định trong lệnh, đồng thời biết rằng giữa

13


người nói và người nhận có vị thế xã hội có lợi ích cho người nói. Sự hứa
hẹn đòi hỏi người hứa hẹn có ý muốn thực hiện lời hứa và người nghe cũng
thực sự mong muốn lời hứa được thực hiện. Khảo nghiệm, xác tín, không
những đòi hỏi người nói một cái gì đó đúng mà còn đòi hỏi anh ta phải có
những bằng chứng.
Ở hành vi chê, điều kiện chuẩn bị là: SP1 nhận thấy một vấn đề nào
đó (theo quan điểm của SP1) của một người nào đó là không đúng, không
tốt, không phù hợp hoặc chưa thỏa đáng. SP1 cảm thấy không hài lòng và
muốn nói cho SP2 biết về vấn đề đó. Nếu SP1 không nói ra, có thể SP2
cũng không nhận ra điều đó.
Điều kiện chân thành chỉ ra các trạng thái tâm lí tương ứng của
người phát ngôn. Chẳng hạn: Cam kết đòi hỏi phải có ý định và khả năng
thực hiện, chê đòi hỏi phải có sự không hài lòng về điều gì đó đã xảy ra...
Đối với hành vi chê, điều kiện chân thành chỉ ra trạng thái tâm lí của
người đưa ra hành vi chê. SP1 mong muốn qua lời nói của mình, SP2 cũng
nhận ra và đồng tình với hành vi đáng giá của mình về vấn đề mà SP1 cho
là xấu, là không đúng, không tốt, không phù hợp hoặc chưa thỏa đáng.

Nếu SP1 không có mong muốn trên thì SP1 đã vi phạm vào điều
kiện chân thành và đó không còn hành vi chê chân chính nữa. Chẳng hạn
những trường hợp giả vờ chê để thử dò tìm quan điểm, ý kiến của SP2...
Cuối cùng là điều kiện căn bản, đây là điều kiện liên quan đến trách
nhiệm mà người nói hoặc người nghe bị ràng buộc khi hành vi ở lời được
đó được phát ra. Trách nhiệm có thể rơi vào hành động sẽ được thực hiện
(lệnh, hứa hẹn) hoặc đối với tính chân thực của nội dung (một lời xác tín
buộc người nói phải chịu trách nhiệm về tính đúng đắn của điều nói ra).

14


Khi thực hiện một hành vi chê, người nói (SP1) phải chịu trách
nhiệm về tính xác thực của nội dung mệnh đề chê, phải chịu trách nhiệm về
quan điểm của mình khi bày tỏ những ý kiến đánh giá đó.
Theo Searle, mỗi hành vi ở lời đòi hỏi phải thỏa mãn những điều
kiện (còn gọi là những quy tắc) trên để cho việc thực hiện hành vi đạt hiệu
quả đúng với đích của nó. Mỗi điều kiện là một điều kiện cần, còn toàn bộ
hệ điều kiện là điều kiện đủ. Trong 4 điều kiện trên, mỗi điều kiện lại được
biểu hiện khác nhau tùy theo từng phạm trù, từng loại và từng hành vi ở lời
cụ thể.
1.1.3.3. Hành vi ở lời trực tiếp và hành vi ở lời gián tiếp
Trong giao tiếp ngôn ngữ, người giao tiếp có hai lựa chọn: Một là,
sử dụng hành vi ngôn ngữ theo lối trực tiếp (đúng với đích mà hành vi đó
hướng tới); hai là, sử dụng hành vi ngôn ngữ theo lối gián tiếp (không đúng
với đích mà hành vi đó hướng tới).
a. Hành vi ở lời trực tiếp
George Yule quan niệm: “Chừng nào có mối liên hệ trực tiếp giữa
một cấu trúc và một chức năng, thì ta có một hành động nói trực tiếp”.[10;
tr.110]

Tác giả Nguyễn Thiện Giáp nhận định: “Hành động ngôn từ trực
tiếp là hành động ngôn từ được thực hiện ở những phát ngôn có quan hệ
trực tiếp giữa một cấu trúc và một chức năng”. [5; tr.390]
Theo tác giả Đỗ Hữu Châu, “những hành vi được thực hiện đúng với
đích ở lời, đúng với những điều kiện sử dụng của chúng được gọi là những
hành vi ngôn ngữ (hành vi ở lời) trực tiếp hay chân thực”. Nhưng trong
thực tế giao tiếp, không phải bao giờ các hành vi ngôn ngữ cũng được dùng
đúng với đích ở lời và đúng với các điều kiện sử dụng của chúng. Khi đó,
xuất hiện những hành vi ngôn ngữ gián tiếp.

15


b. Hành vi ở lời gián tiếp
Những hành vi được thực hiện đúng với đích ở lời, đúng với những
điều kiện sử dụng của chúng được gọi là những hành vi ngôn ngữ (hành vi
ở lời) trực tiếp hay chân thực. Nhưng trong thực tế giao tiếp, không phải
bao giờ các hành vi ngôn ngữ cũng được dùng đúng với đích ở lời và đúng
với các điều kiện sử dụng của chúng. Khi đó, xuất hiện những hành vi
ngôn ngữ gián tiếp.
Hành vi ở lời gián tiếp đã được Austin đề cập đến, về sau được
Searle và nhiều nhà ngôn ngữ trên thế giới đặc biệt quan tâm nghiên cứu.
Thuật ngữ hành vi ở lời gián tiếp là do Searle đặt ra. Theo Searle, “một
hành vi ở lời được thực hiện gián tiếp thông qua một hành vi ở lời khác sẽ
được gọi là một hành vi gián tiếp”.[5; tr.60]
Hành vi ngôn ngữ gián tiếp được Searle nêu ra năm 1969 và được
phát triển trong công trình nói về các hành vi ngôn ngữ gián tiếp năm 1975.
Định nghĩa hành vi ngôn ngữ gián tiếp được Đỗ Hữu Châu nêu cụ thể hơn
trong như sau: “Một hành vi được sử dụng gián tiếp là một hành vi trong
đó người thực hiện một hành vi ở lời này nhưng lại nhằm làm cho người

nghe dựa vào những hiểu biết ngôn ngữ và ngoài ngôn ngữ chung cho cả
hai người, suy ra hiệu lực ở lời của một hành vi khác”. [1; tr.146]
Ví dụ: Hành vi chê được thực hiện gián tiếp qua hành vi hỏi: “Sao
anh lấy đắt thế?”
[Ngựa người và người ngựa; tr.162]
Hành vi gián tiếp lệ thuộc rất nhiều vào ngữ cảnh, vào quan hệ ngữ
nghĩa giữa các thành phần của nội dung mệnh đề trong biểu thức ngữ vi
trực tiếp với ngữ cảnh, vào ý nghĩa của biểu thức ngữ vi gián tiếp. Ngoài
ra, trong thực tế nó còn bị quy định bởi lí thuyết lập luận, các phương châm
hội thoại, phép lịch sự, các quy tắc liên kết hội thoại... Vì vậy, để nhận biết

16


hành vi ngôn ngữ gián tiếp, nhất thiết phải vận dụng đến những yếu tố trên,
hơn nữa những yếu tố phi lời như: Thái độ, cử chỉ, ngữ điệu, cường độ và
âm lượng của lời nói cũng là những dấu hiệu giúp nhận biết hành vi ngôn
ngữ gián tiếp.
Sử dụng các hành vi ngôn ngữ theo lối gián tiếp là biện pháp rất có
hiệu lực để truyền báo các ý nghĩa hàm ẩn. Trong thực tế sử dụng, vì nhiều
lí do, người nói có thể sử dụng hành vi ngôn ngữ này nhưng lại nhằm đạt
đến hiệu lực ở lời của một hành vi khác. Có rất nhiều kiểu hành vi được
dùng theo lối gián tiếp khác nhau tùy theo hoàn cảnh giao tiếp mà đến nay
chưa thể tổng kết thành quy tắc sử dụng. Đối với hành vi chê, do tính chất
đe dọa thể diện của nó đối với người bị chê là rất lớn cho nên việc sử dụng
hành vi ngôn ngữ gián tiếp để giảm thiểu ít nhiều sự đe dọa thể diện là khá
phổ biến. Bởi vậy, nghiên cứu hành vi chê không chỉ xem xét cách dùng
trực tiếp mà cần quan tâm cả đến cách thể hiện gián tiếp của nó trong hội
thoại.
Theo George Yule: “Chừng nào có một mối liên hệ gián tiếp giữa

một cấu trúc và một chức năng, thì ta có một hành động nói gián tiếp”.
[10; tr.110]
Tác giả Nguyễn Đức Dân cho rằng: “Một hành vi ngôn ngữ được
gọi là gián tiếp khi dạng thức ngôn ngữ của hành vi tại lời không phản ánh
trực tiếp mục đích của điều muốn nói”.[3; tr.229]
Hành vi gián tiếp lệ thuộc rất nhiều vào ngữ cảnh, vào quan hệ ngữ
nghĩa giữa các thành phần của nội dung mệnh đề trong biểu thức ngữ vi
trực tiếp với ngữ cảnh, vào ý nghĩa của biểu thức ngữ vi gián tiếp. Ngoài
ra, trong thực tế nó còn bị quy định bởi lí thuyết lập luận, các phương châm
hội thoại, phép lịch sự, các quy tắc liên kết hội thoại... Vì vậy, để nhận biết
hành vi ngôn ngữ gián tiếp, nhất thiết phải vận dụng đến những yếu tố trên,

17


hơn nữa những yếu tố phi lời như: thái độ, cử chỉ, ngữ điệu, cường độ và
âm lượng của lời nói cũng là những dấu hiệu giúp nhận biết hành vi ngôn
ngữ gián tiếp.
Xung quanh vấn đề về hành vi ở lời gián tiếp có rất nhiều quan điểm
khác nhau. Tuy nhiên, trong công trình này, chúng tôi thống nhất theo quan
điểm của tác giả Đỗ Hữu Châu, đó là: “Hành vi ở lời gián tiếp là hành vi
ngôn ngữ sử dụng bề mặt của hành viở lời này nhưng lại nhằm hiệu quả
của một hành vi ở lời khác”. [1; tr.145]
1.2. Hành vi ngôn ngữ chê
1.2.1. Khái niệm hành vi ngôn ngữ chê
Trong Từ điển tiếng Việt (Hoàng Phê chủ biên), chê là “tỏ ý không
thích, không vừa ý vì cho là kém, là xấu”.
Ví dụ: Chê chiếc áo may không đẹp. [6; tr.143]
Hành vi ngôn ngữ chê là hành vi ngôn ngữ có kết cấu lõi là biểu thức
ngữ vi chê. Khác với những hành vi ngôn ngữ khác, hành vi chê thường

không được sử dụng động từ ngữ vi chê. Bởi, chê có ý nghĩa đánh giá tiêu
cực (đánh giá xấu).
Theo cách phân loại các động từ hành vi tại lời của Austin thì hành
vi chê thuộc nhóm “Ứng xử”: N1 + V + N2 + P. Trong đó: N1 là người
phát ngôn; N2 là người tiếp nhận; V là động từ ở thời quá khứ; P là nội
dung mệnh đề.
Ví dụ những trường hợp như: cảm ơn, chúc mừng, phê bình là thuộc
nhóm “Ứng xử”.
Theo Searle thì hành vi chê là hành vi đánh giá trong phạm trù biểu
cảm, diễn đạt thái độ của người nói đối với một số hoàn cảnh, tình thế cụ
thể được nêu ra trong nội dung mệnh đề P.

18


×