Tải bản đầy đủ (.pdf) (67 trang)

Tiếp nhận tác phẩm Cánh đồng bất tận của Nguyễn Ngọc Tư

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.11 MB, 67 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA NGỮ VĂN

----

NGUYỄN NGỌC CHÂU

TIẾP NHẬN TÁC PHẨM
CÁNH ĐỒNG BẤT TẬN CỦA
NGUYỄN NGỌC TƯ

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Lí luận văn học

Người hướng dẫn khoa học:

TS. MAI THỊ HỒNG TUYẾT

HÀ NỘI - 2017


LỜI CẢM ƠN
Em xin bày tỏ lời cảm ơn chân thành, sâu sắc của mình tới cô giáo hướng
dẫn TS. Mai Thị Hồng Tuyết – giảng viên tổ Lí luận văn học, người đã tận tình
giúp đỡ hướng dẫn em hoàn thành khoá luận này.
Em xin chân thành cảm ơn thầy cô trong tổ Lí luận văn học cùng toàn thể các
thầy cô trong khoa Ngữ Văn – Trường ĐHSP Hà Nội 2 đã tạo điều kiện thuận lợi
cho em trong quá trình học tập, nghiên cứu.
Hà Nội, ngày 4 tháng 5 năm 2017
Sinh viên


Nguyễn Ngọc Châu


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan những nội dung đã trình bày trong khoá luận này là kết quả
nghiên cứu của bản thân tôi dưới sự hướng dẫn của TS. Mai Thị Hồng Tuyết.
Đề tài này không trùng với kết quả của tác giả khác. Tôi xin cam đoan rằng:
- Khoá luận là kết quả nghiên cứu, tìm tòi của riêng tôi.
- Mọi tư liệu trích dẫn trong khoá luận là hoàn toàn trung thực.
Nếu sai, tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm.
Hà Nội, ngày 4 tháng 5 năm 2017
Sinh viên

Nguyễn Ngọc Châu


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ................................................................................................................ 1
1. Lý do chọn đề tài ....................................................................................................... 1
2. Lịch sử vấn đề ........................................................................................................... 1
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu ............................................................................. 4
4. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu ............................................................ 4
5. Phương pháp nghiên cứu ........................................................................................... 4
6. Ý nghĩa của khóa luận ............................................................................................... 5
7. Bố cục khóa luận ....................................................................................................... 5

NỘI DUNG ............................................................................................................ 6
Chương 1. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ MỸ HỌC TIẾP NHẬN .......................... 6
1.1 Sự ra đời của mỹ học tiếp nhận ............................................................................... 6
1.2 Sự giới thiệu và vận dụng lí thuyết tiếp nhậ

n ở Việt Nam .............................................................................................................. 12
1.3 Một số thuật ngữ cơ bản khi nghiên cứu mỹ học tiếp nhận ..................................... 21

Chương 2. CÁC KHUYNH HƯỚNG TIẾP NHẬN TÁC PHẨM CÁNH
ĐỒNG BẤT TẬN CỦA NGUYỄN NGỌC TƯ ................................................... 24
2.1 Tiếp nhận Cánh đồng bất tận từ góc nhìn xã hội học dung tục .............................. 24
2.1.1. Khái quát về khuynh hướng xã hội học dung tục trong tiếp nhận văn học ....... 24
2.1.2 Vấn đề tiếp nhận Cánh đồng bất tận từ góc nhìn xã hội học dung tục ............. 24
2.2 Tiếp nhận Cánh đồng bất tận từ góc nhìn phân tâm học ........................................ 27
2.2.1 Khái quát về khuynh hướng tiếp nhận tác phẩm văn học từ lí thuyết phân tâm
học .......................................................................................................................... 27
2.2.2. Vấn đề tiếp nhận Cánh đồng bất tận từ lí thuyết phân tâm học ...................... 28
2.3 Tiếp nhận Cánh đồng bất tận từ lí thuyết nữ quyền ............................................... 32
2.3.1 Khái quát về phê bình nữ quyền ...................................................................... 32
2.3.2 Vấn đề tiếp nhận Cánh đồng bất tận từ lí thuyết nữ quyền.............................. 34
2.4 Tiếp nhận Cánh đồng bất tận từ góc nhìn văn hoá................................................. 39
2.4.1 Khái quát về khuynh hướng nghiên cứu văn học từ góc nhìn văn hóa .............. 39
2.4.2. Vấn đề tiếp nhận Cánh đồng bất tận từ góc nhìn văn hóa .............................. 40
2.5 Tiếp nhận Cánh đồng bất tận từ góc nhìn thi pháp học.......................................... 43


2.5.1 Khái quát về thi pháp học ................................................................................ 43
2.5.2 Vấn đề tiếp nhận Cánh đồng bất tận từ lí thuyết thi pháp học ......................... 45
2.6 Tiếp nhận Cánh đồng bất tận từ góc nhìn liên văn bản .......................................... 51
2.6.1. Khái quát về lí thuyết liên văn bản ................................................................. 51
2.6.2. Vấn đề tiếp nhận Cánh đồng bất tận từ lí thuyết liên văn bản ........................ 52

KẾT LUẬN .......................................................................................................... 59
TÀI LIỆU THAM KHẢO



MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
1.1 Mĩ học tiếp nhận ra đời ở Đức vào những năm 60 và hưng thịnh vào
những năm 70 của thế kỷ 20, lan tỏa ra nhiều nước trên thế giới và thu được những
thành tựu nghiên cứu quan trọng, tiêu biểu là ở Mĩ, chủ yếu chịu ảnh hưởng tư
tưởng của Iser đã hình thành nên khuynh hướng Phê bình theo phản ứng người đọc.
Với việc đề cao vấn đề tiếp nhận, vai trò tiếp nhận của độc giả của mĩ học tiếp nhận
đã góp phần giải quyết những bế tắc trong giới nghiên cứu văn học thời kì đó. Lí
thuyết về mĩ học tiếp nhận đã lan ra rất nhiều nước trên thế giới, trong đó có Việt
Nam. Sự giới thiệu và vận dụng mĩ học tiếp nhận ở Việt Nam đóng một vai trò quan
trọng trong việc nghiên cứu cũng như giải quyết những vấn đề văn học phức tạp và
gây nhiều tranh cãi.
1.2 Hơn ba mươi năm trở lại đây, văn học Việt Nam có nhiều biến chuyển đa
dạng và phức tạp. Khác với văn học của những thời kì trước, văn học thời kì này đã
thể hiện những cái nhìn mới về hiện thực đời sống, về con người. Đề tài thay đổi và
mở rộng, cảm hứng đời tư, thế sự được đề cao. Cái nhìn của tác giả cũng có sự thay
đổi, hiện thực được khai thác sâu hơn, chân thực hơn, đa chiều hơn. Bởi thế văn học
thời kì này có những màu sắc phong phú đồng thời cũng từng gây nhiều tranh
luận. Trong nền văn học Việt Nam thời kì đổi mới, khoảng mười năm đầu thế kỷ
XXI người yêu văn chương cũng như giới phê bình nghiên cứu không còn xa lạ với
Nguyễn Ngọc Tư. Tên tuổi của chị gắn với những tác phẩm có dấu ấn với bạn đọc
và giới phê bình. Cánh đồng bất tận là một tác phẩm thành công nhất của Nguyễn
Ngọc Tư và được coi là một trong những hiện tượng văn học phức tạp và chưa bao
giờ giới phê bình hết tranh cãi.
Cũng chính vì lí do trên, chúng tôi lựa chọn đề tài “Tiếp nhận tác phẩm Cánh
đồng bất tận của Nguyễn Ngọc Tư” để nghiên cứu với mục đích tìm hiểu thêm về các
hướng tiếp nhận truyện ngắn Cánh đồng bất tận của Nguyễn Ngọc Tư.
2. Lịch sử vấn đề
Nguyễn ngọc Tư là một nữ nhà văn trẻ của Hội nhà văn Việt Nam, chị được

biết đến nhiều nhất bởi tập truyện gây tranh cãi mang tên Cánh đồng bất tận.

1


Nguyễn Ngọc Tư sinh năm 1976, hiện tại chị đang sống và công tác ở Đầm Dơi, Cà
Mau. Là một nhà văn trẻ nhưng số lượng tác phẩm của chị khá phong phú với
khoảng 10 tác phẩm được xuất bản như: “Ngọn đèn không tắt” (2000), “Ông
ngoại” (2001), “Biển người mênh mông” (2003), “Giao thừa” (2003), “Nước chảy
mây trôi” (2004), “Cái nhìn khắc khoải Truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư” (2005),
“Cánh đồng bất tận” (2005)… Đến thời điểm sau này chị vẫn tiếp tục sáng tác như
tập truyện ngắn “Gió lẻ và 9 câu chuyện khác” (2008), “Yêu người ngóng núi”
(2009), “Khói trời lộng lẫy” (2010).
Nguyễn Ngọc Tư viết cả truyện ngắn và tạp văn. Tuy nhiên, truyện ngắn vẫn
được người đọc quan tâm hơn cả. Bởi nhiều lí do mà cho đến nay những bài luận
nghiên cứu về tác phẩm còn chưa nhiều.
Cho đến bây giờ, giới phê bình vẫn còn dè dặt khiêm tốn trong việc tiếp cận
đánh giá sáng tác của nhà văn Nguyễn Ngọc Tư. Do vậy chúng tôi cũng chỉ mới thu
thập được một số bài viết, ý kiến đánh giá của một số tác giả trên các tạp chí, các
bài đăng trên báo điện tử... Hầu hết đó là những bài viết nhằm khẳng định giá trị của
tác phẩm như: Ông Trần Hữu Dũng (Việt kiều Mĩ), một giáo sư yêu văn học nước
nhà và đặc biệt say mê văn chương của nhà văn trẻ Nguyễn Ngọc Tư đã lập trang
web Văn học và giáo dục trong đó có hẳn một tủ sách của Nguyễn Ngọc Tư. Trong
đó ông viết: “Nguyễn Ngọc Tư - Đặc sản miền Nam” là một bài viết vô cùng đặc
sắc. Ông cho rằng: “trong văn chương Nguyễn Ngọc Tư, chúng ta, ở khắp mọi
phương trời, tìm được quê hương nơi tâm tưởng, những tình tự ngủ quên trong lòng
mình, những kỉ niệm mà mình tưởng như không ai chia sẻ…”. Trên báo Văn nghệ số
39 ra ngày 24 tháng 9 năm 2005, tác giả Hoàng Thiên Nga có bài: “Đọc Nguyễn
Ngọc Tư qua Cánh đồng bất tận”. Tác giả đề cập đến: “Các nhân vật trong truyện
đầy tính thiện nhưng cái vòng luẩn quẩn của đói nghèo, dốt nát, lam lũ và điều kiện

sống ngột ngạt tù túng xô đẩy người này là nạn nhân của người kia”. Trong bài viết
“Cánh đồng bất tận và những vấn đề liên quan” của tác giả Hà Quảng đăng trên
trang EVăn của báo điện tử Vnexpress.Net, tác giả đã nhận xét : “Các nhân vật
trong Cánh đồng bất tận không phải nhân vật hiện lên trần trụi, hiện sinh. Con

2


người hành xử theo bản năng nhiều hơn là ý thức xã hội. Mà ai cũng có cái tốt cái
xấu chứ không hoàn toàn xấu. Ta gặp họ không ít lần trong cuộc đời và họ không
đáng làm ta xa lánh chứ không nói là đáng lên án”. Tạp chí Phật giáo số 11 ra ngày
28 tháng 12 năm 2005 có bài viết: “Nỗi đau trong Cánh đồng bất tận” của tác giả
Thảo Vy nói về màu sắc Phật giáo trong tác phẩm “nỗi hận”, “sự sợ hãi”, “sự hổ
thẹn”, “sự tối tăm”. Qua đó thấy được thông điệp mà tác giả gửi đầy chất nhân văn.
Bên cạnh đó là các bài báo và ý kiến bạn đọc xoay quanh vấn đề phủ định
giá trị tác phẩm và kiểm điểm nữ nhà văn được đăng trên báo Tuổi trẻ, Tiền phong,
các trang web… Trên báo Tuổi trẻ số ra ngày 21 tháng 4 năm 2006 có bài viết
“Nguyễn Ngọc Tư bị kiểm điểm nghiêm khắc vì điều gì?”. Bài báo đã trích dẫn báo
cáo số 35 ngày 27-3-2006 của Ban Tuyên giáo Tỉnh uỷ Cà Mau về những hạn chế
của truyện ngắn như: miêu tả cái xấu của xã hội nông thôn, câu từ hơi nặng nề, để
ám chỉ con người bần cùng túng quẫn; Cánh đồng bất tận thiếu tính tư tưởng, giáo
dục xã hội, giáo dục con người… Cùng với một số bài báo khác như: “Cánh đồng
bất tận không phản động nhưng…” đăng trên báo Tuổi trẻ, số ra ngày 8 tháng 4
năm 2006 của tác giả Trần Đức.
Ngoài ra, qua tìm hiểu chúng tôi thống kê và tiếp thu được một số khoá luận
sau:
- Đề tài “Cánh đồng bất tận từ văn học đến điện ảnh” của tác giả Lê Thanh
Minh, trường ĐHSP Hà Nội 2 (2011).
- Đề tài “Thế giới nghệ thuật trong tập truyện Cánh đồng bất tận của Nguyễn
Ngọc Tư” của tác giả Phạm Thị Vân, trường ĐHSP Hà Nội 2 (2007).

- Đề tài “Tiếp nhận tiểu thuyết Số đỏ của Vũ Trọng Phụng ở Việt Nam” của
tác giả Chu Thị Hằng, trường ĐHSP Hà Nội 2 (2015).
Tuy nhiên, ở mỗi đề tài nghiên cứu trên lại có những hướng tiếp cận rải rác
khác nhau. Trong quá trình khảo sát chúng tôi nhận thấy đề tài “Tiếp nhận tác
phẩm Cánh đồng bất tận của Nguyễn Ngọc Tư” dường như ít có đề tài nào đề cập
đến hoặc nếu có thì vẫn chưa nghiên cứu rộng rãi. Do đó trong công trình này
chúng tôi dựa trên các tư liệu sẵn có để giải quyết vấn đề.

3


3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1 Mục đích nghiên cứu
Cánh đồng bất tận là một tác phẩm đặc sắc song cũng hết sức phức tạp trong
tiếp nhận. Có nhiều ý kiến khen chê khác nhau. Điều đó là do người tiếp nhận đứng
trên lập trường khác nhau. Trình bày và phân tích hệ thống các quan điểm tiếp nhận
ấy, chúng tôi muốn có một cái nhìn tương đối toàn diện về sự tiếp nhận một trong
những tác phẩm đặc sắc của văn học Việt Nam đương đại.
3.2 Nhiệm vụ nghiên cứu
Nghiên cứu “Tiếp nhận tác phẩm Cánh đồng bất tận của Nguyễn Ngọc
Tư”, chúng tôi đi giải quyết những nhiệm vụ sau:
- Khái quát lại lí thuyết tiếp nhận trên thế giới và sự vận dụng ở Việt Nam.
- Tiếp cận tác phẩm Cánh đồng bất tận của Nguyễn Ngọc Tư từ các góc
nhìn: Xã hội học dung tục, phân tâm học, từ lí thuyết nữ quyền, văn hoá, thi pháp
học và liên văn bản.
4. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu
4.1 Đối tượng nghiên cứu
Chúng tôi tập trung tìm hiểu về các khuynh hướng tiếp nhận tác phẩm Cánh
đồng bất tận của Nguyễn Ngọc Tư qua các thời kì.
4.2 Phạm vi nghiên cứu

Do điều kiện tìm tư liệu và khuôn khổ của khóa luận mà chúng tôi chỉ tập
trung vào những hướng tiếp nhận chính đối với tác phẩm Cánh đồng bất tận của
nhà văn Nguyễn Ngọc Tư.
5. Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình thực hiện khóa luận chúng tôi thực hiện một số phương pháp
cụ thể sau:
- Phương pháp phân tính đối tượng theo quan điểm hệ thống.
- Phương pháp so sánh.
- Phương pháp phân tích tổng hợp.

4


6. Ý nghĩa của khóa luận
Khoá luận đưa ra một cái nhìn có tính chất hệ thống, toàn diện về các hướng
tiếp nhận tác phẩm Cánh đồng bất tận. Kết quả nghiên cứu của khóa luận có thể
dùng để làm tài liệu cho việc tìm hiểu tác phẩm của Nguyễn Ngọc Tư, những vấn
đề có liên quan đến tác giả và trên cơ sở đó ta có thể tìm hiểu những hiện tượng văn
học khác.
7. Bố cục khóa luận
Ngoài phần mở đầu và kết luận, tài liệu tham khảo, khóa luận gồm hai
chương:
Chương 1: Khái quát chung về mỹ học tiếp nhận
Chương 2: Các khuynh hướng tiếp nhận tác phẩm Cánh đồng bất tận của
Nguyễn Ngọc Tư

5


NỘI DUNG

Chương 1
KHÁI QUÁT CHUNG VỀ MỸ HỌC TIẾP NHẬN
1.1 Sự ra đời của mỹ học tiếp nhận
Quá trình hình thành và phát triển của chuyên ngành lí luận văn học đã và
đang nảy sinh nhiều lí thuyết của nhiều trường phái, nhiều khuynh hướng nghiên
cứu. Một trong những lí thuyết đã góp phần lấp khoảng trống của lí luận văn học và
lịch sử văn học là lí thuyết mỹ học tiếp nhận. Mỹ học tiếp nhận là “một khuynh
hướng trong nghiên cứu và phê bình văn học, xuất phát từ ý tưởng theo đó, tác
phẩm: “nảy sinh”, “được thực hiện” chỉ trong quá trình “gặp”, xúc tiếp của tác
phẩm văn học với độc giả, và đến lượt mình, nhờ “liên hệ ngược”, độc giả lại tác
động đến tác phẩm, do vậy, độc giả quyết định tính chất lịch sử cụ thể của việc tiếp
nhận và tồn tại của tác phẩm. Như thế đối tượng nghiên cứu chủ yếu của mỹ học
tiếp nhận là sự tiếp nhận, tức là sự cảm nhận tác phẩm văn học của độc giả hoặc
thính giả” [4; 81].
Tuy hệ thống lí thuyết mỹ học tiếp nhận mới được xác lập vào những năm 60
của thế kỷ XX, nhưng nó đã nhanh chóng được vận dụng vào nghiên cứu và giảng
dạy văn học một cách có hiệu quả. Mỹ học tiếp nhận được thừa nhận như là một lí
thuyết mới về tiếp nhận văn học, song nó có tiền đề ngay từ thời cổ đại Hy Lạp. Lần
đầu tiên trong lịch sử mỹ học của nhân loại, Platon – một triết gia Hy Lạp cổ đại đã
đưa ra các quan điểm mỹ học của mình, trong đó đề cập đến sự tác động của nghệ
thuật đối với công chúng độc giả. Cụ thể hơn, Platon còn phân loại các thị hiếu từ
thấp đến cao theo các tiêu chí: lứa tuổi, trình độ văn hoá, địa vị xã hội của công
chúng độc giả. Tuy vậy, điều đáng tiếc là Platon đã hạ thấp vai trò của văn học nghệ
thuật khi ông cho rằng: nghệ thuật là triết học nghèo nàn, còn triết học mới là nghệ
thuật xuất sắc. Điều này cũng phần nào nói lên sự hạn chế bởi tính chất nguyên hợp
của các khoa học thời ấy.

6



Aristote đồ đệ của Platon đã tiếp tục sự nghiệp của thầy mình bằng lí thuyết
về Catharsis. Aristote là người đầu tiên đưa thuật ngữ catharsis vào mĩ học khi ông
cho rằng mọi vở kịch với những tình tiết làm thức tỉnh tình thương và nỗi sợ hãi và
qua đó thực hiện sự thanh lọc đối với những cảm xúc ấy. Từ đó ta hiểu catharsis
như là hiệu quả thẩm mỹ của tác phẩm nghệ thuật nói chung và văn chương nói
riêng đối với người thưởng thức nghệ thuật hay tiếp nhận các tác phẩm bi kịch.
Ngoài ra, “Aristote cho rằng khi thưởng thức tác phẩm người đọc cảm thấy thú vị,
là vì vừa xem, họ vừa đoán định được tác phẩm đang nói đến người và việc nào đó
ở ngoài đời… Rải rác về sau vẫn thấy không ít những ý kiến càng nhấn mạnh vai
trò của người đọc” [3; 326]. Quan niệm của nhà thi học này mới chỉ là thuyết mô
phỏng, tái hiện hay nói cách khác, quan niệm chỉ dừng lại tập trung vào mối quan
hệ giữa tác phẩm và hiện thực mà thôi.
Mỹ học tiếp nhận ra đời dựa trên cơ sở hợp thành của ba khuynh hướng lí luận
tiếp cận tác phẩm và người đọc. Khuynh hướng lí luận thứ nhất là xem tác phẩm văn
chương như là sản phẩm nghệ thuật được sáng tác ra để tiếp nhận, thưởng thức tác
phẩm như là một văn bản, một thông báo nghệ thuật như một mã đặc thù, hướng tới
sự tiếp nhận của người đọc. Ở khuynh hướng lí luận này có tiên tuổi của Roman
Ingarden (1931), RJacobson (1959), Vugotski (1965), Z-Niro (1974), M.Policob
(1978), Saparob (1968), Mikhailova (1976)... Khuynh hướng lí luận thứ hai, nghiêng
hẳn về việc đọc tác phẩm, cắt nghĩa tác phẩm bằng các quy luật của giao tiếp và tiếp
nhận, đi vào tâm lí học tiếp nhận, giải thích học, sự đồng sáng tạo của người đọc. Một
số tên tuổi nổi lên ở khuynh hướng này như nhà nghiên cứu Potebnia (1894),
Gadamer (160), H.RJauss (1967), W.Iser (1976), Boreb (1981)... Khuynh hướng lí
luận thứ ba nghiên cứu các quy luật và các vấn đề lịch sử - xã hội của tiếp nhận như
cách đọc tâm phân học, cách đọc xã hội học, cách đọc “phê bình mới”. Các tên tuổi ở
khuynh hướng này như Plekhanob (1918), Eliot (1919), Risot (1924),...
Ngọn nguồn của mỹ học tiếp nhận có giải thích học, dựa vào “triết học sự
sống” của W.Dilthey và hiện tượng học của E.Husserl, có chủ nghĩa cấu trúc của
trường phái Prague, chủ nghĩa hình thức Nga những năm 10 – 20 của thế kỉ XX.


7


“Chủ nghĩa hình thức Nga, phê bình mới rồi chủ nghĩa cấu trúc… chỉ tập trung vào
mối quan hệ bên trong, nội tại của chính văn bản tác phẩm. Độc tôn văn bản tác
phẩm, Phê bình mới còn phủ nhận luôn sự tiếp nhận của người đọc, cho đó đều là
những “cảm thụ ngộ nhận”.
Mỹ học tiếp nhận ra đời, với các đại diện lớn, phải kể đến nhà nghiên cứu
người Ba Lan Roman Ingarden (1893-1970). Ông khẳng định hoạt động đọc là một
hoạt động chủ động chứ không thụ động, người đọc có tư thế tự trị và vì vậy, không
lệ thuộc ý đồ sáng tạo của tác giả. Mỗi người đọc là một chủ thể, có ý thức khác
nhau, có học vấn, kinh nghiệm sống, quan niệm nghệ thuật, số phận cuộc đời, giới
tính, lứa tuổi… khác nhau, chi phối kinh nghiệm thẩm mỹ mỗi người. Chính kinh
nghiệm thẩm mỹ khác nhau nên khi đọc văn bản thì sẽ có nhiều cách hiểu khác
nhạu. Điều này là một chân lý hiển nhiên. Thế nên, với mỹ học tiếp nhận, mọi tiếp
nhận văn học là ngang bằng nhau, khác nhau; vì thế, không nên so sánh hơn kém.
Chỉ có điều, nếu kinh nghiệm thẩm mỹ của anh phong phú, sâu dày, thì khi đọc văn
bản, anh sẽ có cho mình một tác phẩm sâu sắc, với đa tầng ý nghĩa, như trái cây
ngọt ngào, trĩu cành trong văn bản được người đọc tiếp lấy; trái lại, kinh nghiệm
thẩm mỹ nông cạn, thì chỉ có những thân cây tàn úạ. Ông coi trọng “vai trò tiếp
nhận của người đọc”. Trong công trình Về việc nhận thức tác phẩm văn học nghệ
thuật , ông là người đã tu chỉnh hai khái niệm cụ thể và tái lập làm thành hai mặt
của việc người nhận (Adressat) tiếp nhận tác phẩm. Ingarden chịu ảnh hưởng mạnh
mẽ hiện tượng học của Husserl, từ ý tưởng về tính chủ định (intentional) sau đó trở
thành ý tưởng cơ sở cho tất cả những ai tiếp tục chủ trương mỹ học tiếp nhận. Chính
ý tưởng này là luận chứng triết học cho bản chất giao tiếp của nghệ thuật, giải thích
tính chất tích cực, sáng tạo cúa sự tiếp nhận ở độc giả. Ý tưởng về vai trò sáng tạo
của cá nhân trong việc nhận thức thế giới đã được mỹ học tiếp nhận tiếp thu, đặt
vào trung tâm chú ý vấn đề sự tồn tại của tác phẩm như là kết quả giao tiếp giữa tác
phẩm và độc giả, như là việc tạo ra “hàm nghĩa của tác phẩm” bởi độc giả.

Đầu những năm 40 thế kỷ XX, một đại diện của chủ nghĩa cấu trúc trường
phái Prague là Felix Vodicka cho rằng không phải tất cả những sự cụ thể hóa có thể

8


xét từ góc độ những ý đồ của cá nhân độc giả, đều có thể trở thành mục tiêu nghiên
cứu, mà chỉ có những sự cụ thể hóa nào cho thấy có diễn ra sự “gặp gỡ” cấu trúc tác
phẩm và cấu trúc các chuẩn mực văn học do thời đại lịch sự cụ thể quy định, những
chuẩn mực mà người tiếp nhận là đại diện. Theo cách hiểu của nhà khoa học, người
tiếp nhận như thế, người đảm bảo cho chuẩn mực văn học hiện hành, là nhà phê
bình văn học (“người bảo trợ các chuẩn mực văn học”).
Một trong những phần cốt yếu của mỹ học tiếp nhận là các vấn đề của giải
thích học, nó giống như chiếc cầu nhỏ bắc từ cấu trúc tác phẩm sang người tiếp
nhận, người mà sẽ hiểu cấu trúc ấy. Nhà nghiên cứu H.J.Gadamer ở công trình Lịch
sử tác động nghệ thuật đã đưa ra chân lí khoa học xã hội nhân văn (trong đó có
khoa học về văn học) đem đối lập một cách dứt khoát với “tri thức phương pháp”
như là tổng số thông tin về sự kiện có được bởi các khoa học tự nhiên. Theo
Gadamer, hiểu văn bản có nghĩa là “áp dụng”, “đặt để” nó vào tình thế cùng với
người lí giải (người tiếp nhận), cũng giống như người luật sư “áp dụng” (cụ thể hóa)
bộ luật, nhà thần học áp dụng “Lời Thiêng”. Quan niệm của Gadamer mang tính
chất hai mặt. Một mặt, sự hiểu được ông xác định như sự tự biểu hiện của người lí
giải với sự hỗ trợ của những bằng cứ tư liệu của tư liệu quá khứ, hoàn toàn khác với
chủ nghĩa lãng mạn. Chống lại quan niệm về “sự thân thuộc bí ẩn giữa những tâm
hồn” tác giả và người lí giải tác giả, Gadamer yêu cầu cả hai cùng tham dự công
việc chung: cùng chìm ngập vào “hàm nghĩa chung” và trên cơ sở ấy sẽ nảy sinh sự
tự hiểu. Mặt khác đối với Gadamer “hàm nghĩa không trở thành đối tượng của một
sự phân tích thực sự khoa học, bởi vì các nhà nghiên cứu khoa học, lí thuyết và siêu
ngôn ngữ của khoa học.
Bước sang những năm 60 của thế kỉ XX, với thiên tiểu luận nổi tiếng “Lịch

sử văn học như là sự khiêu khích đối với khoa học văn học”, H.R.Jauss cùng với
những đồng nghiệp của mình như: W.Iser, Warning... ở trường Đại học Konstanz
của Cộng hoà liên bang Đức đã chính thức khai sinh một hướng mới trong nghiên
cứu văn học. Khuynh hướng mới đó là mỹ học tiếp nhận. Có thể nói công trình này
của H.R.Jauss là một tác phẩm lí luận hoàn chỉnh nhất về những nguyên tắc mỹ học

9


của quy luật tiếp nhận văn học của người đọc từ trước đến nay. Trong đó vai trò của
độc giả đối với sự phát triển của lịch sử văn chương được đề cập khá rõ nét. Bên
cạnh đó, “Họ phê phán thuyết văn bản trung tâm của Phê bình mới và chủ nghĩa cấu
trúc và khẳng định rằng ý nghĩa của tác phẩm đươc sản sinh trong sự tương tác giữa
văn bản với người đọc... Trên cơ sở đó, Mỹ học tiếp nhận đã chuyển giao vị trí
trung tâm từ văn bản sang người đọc và lịch sử văn học, do đó không phải là lịch sử
của tác giả với những tác phẩm, mà là lịch sử tiếp nhận của người đọc” [3; 329]. Mỹ
học tiếp nhận của trường phái này đặt mục tiêu cách tân và mở rộng sự phân tích của
nghiên cứu văn học bằng cách đưa vào lược đồ quá trình văn học sử một bậc độc lập
mới, đó là độc giả. Luận đề trung tâm là: giá trị thẩm mỹ, tác động thẩm mỹ và tác
động văn học sử của các tác phẩm đều dựa trên cơ sở sự khác biệt giữa tầm chờ đợi
(tầm đón nhận) của tác phẩm và độc giả, được thực hiện dưới dạng kinh nghiệm thẩm
mỹ và kinh nghiệm sống thực tế mà người đọc có được. Sau này, dưới ảnh hưởng các
cuộc thảo luận xung quanh tư tưởng của trường phái Konstanz, Juus đã biến điệu
quan niệm của mình, đặt lên hàng đầu quá trình giao tiếp giữa tác phẩm và người tiếp
nhận nó trong khuôn khổ kình nghiệm thẩm mĩ, ở đó có các chức năng tạo chuẩn
mực và khẳng định chuẩn mực có vai trò đặc biệt.
Kết hợp phân tích đồng đại và lịch đại về sự tiếp nhận, H. R. Jauss đã miêu
tả lịch sử tiếp nhận như là quá trình khai triển dần dần tiềm năng nghĩa ở tác phẩm
vốn được hiện thời hóa trong các giai đoạn lịch sử của sự tiếp nhận. Theo ông, chỉ
có nhờ vào trung giới của độc giả, tác phẩm mới hòa hợp với tầm kinh nghiệm biến

đổi của một truyền thống nào đó mà trong khuôn khổ của nó liên tục diễn ra sự phát
triển của tiếp nhận và thụ động, đơn giản đến hiểu một cách có phê phán, tích cực;
từ chỗ dựa vào các chuẩn mực thẩm mỹ được thừa nhận các chuẩn mực mới.
Tác phẩm văn học không thể coi như cái hoàn toàn mới, dựa vào những tín
hiệu lộ liễu, hoặc ẩn dấu chưa đựng bên trong, nó tạo cho công chúng một cách tiếp
nhận hoàn toàn xác định, nó kích thích độc giả nhớ lại những gì đã đọc, đưa độc giả
vào một trạng thái xúc cảm nhất định.

10


Theo H. R. Jauss, tương quan giữa tác phẩm và công chúng không phải chỉ là
một chiều mang tính chất quyết định luận. Có những tác phẩm vào lúc xuất hiện
không hướng vào một công chúng nào thật xác định, nhưng những tác phẩm ấy phá
hủy không thương tiếc tầm chờ đợi văn học quen thuộc, đối với điều kiện đó cần
phải có thời gian để sản sinh một công chúng, một môi trường độc giả có khả năng
coi tác phẩm ấy là “của mình”. Tầm chờ đợi văn học khác với tầm chờ đợi thực tiễn
sống ở chỗ, nó không chỉ bảo lưu kinh nghiệm trước kia, mà còn dự báo khả năng
chưa có, mở rộng không gian hạn hẹp của hành vi xã hội, làm nảy sinh những mong
muốn, nhu cầu mới.
W. Iser trong quá trình Cấu trúc vẫy gọi của văn bản đã đưa ra các phạm trù
bất định của tác phẩm văn học do R. Ingarden nêu ra, cho rằng kinh nghiệm thẩm
mỹ được hình thành chính là nhờ có những “vùng bất định” hoặc những “điểm
trống” trong văn bản. Ông đã dày công soạn thảo cả một danh mục những điều kiện
và những thủ pháp sản sinh những “điểm trống” của văn bản.
Tuy nhiều luận điểm và định nghĩa đã được luận chứng khá kỹ, song mỹ học
tiếp nhận với tư cách là hệ thống lí thuyết vẫn còn chưa hoàn chỉnh. G. Grimm đã
nhận xét, những khó khăn gắn với việc xây dựng một lí thuyết tiếp nhận thống nhất,
có gốc rễ ở tính phức tạp và đa thành phần của chính đối tượng nghiên cứu, đòi hỏi
sự tiếp cận phân tính liên ngành và đa ngành. Hiện tại các chuyên gia mới chỉ ghi

nhận một số lĩnh vực và khuynh hướng nghiên cứu của mỹ học tiếp nhận:
+ Mỹ học tiếp nhận nhận thức lí thuyết (giải thích học và hiện tượng học).
+ Mỹ học tiếp nhận mô tả tái tạo (chủ nghĩa cấu trúc, người kế tục chủ nghĩa
hình thức Nga).
+ Mỹ học tiếp nhận xã hội học thực nghiệm ( xã hội học về thị hiếu học).
+ Mỹ học tiếp nhận tâm lí (nghiên cứu tâm lí các thế hệ độc giả).
+ Mỹ học tiếp nhận lí thuyết giao tiếp (nghiên cứu kí hiệu học).
+ Mỹ học tiếp nhận thông tin xã hội học ( nghiên cứu vai trò xã hội của các
phương tiện thông tin đại chúng).

11


1.2 Sự giới thiệu và vận dụng lí thuyết tiếp nhận ở Việt Nam
Tiếp nhận văn học là một mảng lí luận văn học đang còn để ngỏ. Trong ba
khâu của một tiến trình văn học là nhà văn, tác phẩm và người đọc thì khâu cuối chỉ
thực sự được lý luận văn học quan tâm vài thập kỷ trở lại đây. Mĩ học tiếp nhận là lí
thuyết văn học từng gây ảnh hưởng lớn trên thế giới suốt từ những năm cuối thập kỉ
60 đến cuối thập kỉ 80 ở phương Tây và rầm rộ ở Trung Quốc từ những năm 80 của
thế kỉ 20 đến giữa thập niên đầu tiên của thế kỉ 21. Ở Việt Nam, mặc dù lí thuyết
này xuất hiện khá sớm (1985), nhưng cho đến nay, dấu ấn của nó vẫn chưa thật sự
rõ ràng, có rất nhiều tiềm năng chưa được khai thác, tận dụng. Tái hiện chỉnh thể
diện mạo của Mĩ học tiếp nhận ở Việt Nam và lí giải nguyên nhân dẫn đến diện
mạo đó là cơ sở quan trọng để luận bàn về vấn đề tiếp nhận lí thuyết ngoại lai.
Mĩ học tiếp nhận ra đời vào những năm 60 của thế kỉ 20 ở Đức gắn với nhân
vật tiêu biểu là Hans Robert Jauss và Wolfwang Iser. Các công trình lý luận của hai
ông và những người kế tục đường hướng này đã tạo lập một trường phái mới trong
nghiên cứu văn học: trường phái Konstanz (Đức). Sự đóng góp của hai ông và
những người kế tục làm cho từ ngữ Konstanz đã trở thành một thuật ngữ, một khái
niệm trong thế giới hàn lâm học viện nói chung, trở thành một trường phái khoa

học, lý luận văn học nổi tiếng. Ở Việt Nam khoảng hai thập niên gần đây, một số
nhà nghiên cứu đã bắt đầu ý thức được tầm quan trọng của việc nghiên cứu văn học
theo hướng lịch sử chức năng. Trong nhiều bài viết trên các tạp chí và một số
chuyên khảo xuất bản gần đây, lý thuyết tiếp nhận đã bước đầu được giới thiệu tới
công chúng Việt Nam.
Người đề cập đến khâu tiếp nhận như là một phương pháp nghiên cứu mới ở
Việt Nam là Nguyễn Văn Hạnh trong một bài viết có tên Ý kiến của Lê-nin về mối
quan hệ giữa văn học và đời sống. Ông viết “Giá trị của một tác phẩm thật ra không
phải chỉ đóng khung lại trong phạm vi sáng tác mà còn lan rộng ra đến phạm vi
thưởng thức”. Chính ở khâu thưởng thức tác phẩm mới có ý nghĩa xã hội thực tế
của nó. Quan điểm này tất yếu sẽ dẫn đến những tiêu chuẩn mới để đánh giá tác
phẩm, đến một phương pháp nghiên cứu mới” [8]. Ở một đoạn khác ông khẳng định

12


“trong khâu sáng tác giá trị là cố định và ở thế khả năng; ở trong khâu thưởng thức,
trong quan hệ với quần chúng giá trị mới là hiện thực và biến đổi” [8]. Ý kiến của
ông trong bài viết này đã châm ngòi cho một cuộc tranh luận trên Tạp chí Văn học
từ năm 1971 đến cuối năm 1972 với các ý kiến của Nam Mộc, Sơn Tùng, Phùng
Văn Tửu, Nghĩa Nguyên, Nguyễn Minh, Văn Khang, Vũ Tuấn Anh… Nếu chúng
ta lưu ý tới một điều là trong thời gian này, nghĩa là vào những năm 70, lý thuyết
tiếp nhận mới bắt đầu thịnh hành ở nhiều nước trên thế giới, thì chúng ta sẽ thấy sự
nhạy cảm của tác giả và ý nghĩa thời sự của vấn đề do tác giả đặt ra. Rất tiếc, tư
tưởng này ngay sau đó không có cơ hội để phát triển.
Tại miền Nam, trong giai đoạn 1954-1975, Nguyễn Văn Trung cũng đã đề
cập đến vấn đề người đọc trong cuốn Lược Thảo văn học tập 2, nhưng cũng rất tiếc,
ông chỉ mới đụng chạm đến chứ chưa giải quyết trực diện và triệt để, chính vì thế
mà những nghiên cứu của ông không được hưởng ứng rộng rãi.
Sau ngày đất nước thống nhất, giới nghiên cứu Việt Nam có điều kiện hơn

trước trong việc tiếp cận những công trình nghiên cứu về mỹ học tiếp nhận của giới
nghiên cứu nước ngoài, mà chủ yếu là các nước xã hội chủ nghĩa như Liên Xô,
Cộng hòa dân chủ Đức… Năm 1978, Tạp chí Văn học cho công bố bài của Manphơ-ret Nao-man Song đề của “Mỹ học tiếp nhận”, do Huỳnh Vân dịch. Bài viết có
thể được xem như là một phần tóm tắt sơ lược của công trình tập thể Xã hội văn học
đọc do tác giả làm chủ biên. Tác giả của báo cáo này đã phản bác lại quan điểm tư
sản của H.R. Jauss về vấn đề tiếp nhận, cũng như về chức năng thanh lọc của tác
phẩm đối với người đọc trong quá trình tiếp nhận. Cũng trong năm này, nhà xuất
bản Tác phẩm Mới thuộc Hội Nhà văn Việt Nam cho công bố bản dịch cuốn Cá
tính sáng tạo của nhà văn và sự phát triển của văn học của M.B. Khrapchenco.
Trong đó chương 5 bàn trực tiếp về tiếp nhận văn học có tên Thời gian và cuộc
sống của tác phẩm văn học. Tác giả công trình khẳng định: “… phương pháp
nghiên cứu văn học theo chức năng là một trong những khuynh hướng quan trọng
và có triển vọng của ngành nghiên cứu văn học mác xít” [12; 331].

13


Đến năm 1980, Hoàng Trinh công bố bài Văn học so sánh và vấn đề tiếp
nhận văn học, trong bài viết này, tác giả đã nhìn vấn đề tiếp nhận văn học từ góc
nhìn của văn học so sánh. Mặc dù những bài viết trên còn khá khiêm tốn, nhưng ít
nhiều đã đánh thức giới nghiên cứu ý thức đến một vấn đề lí thuyết không kém phần
quan trọng khi nghiên cứu văn học, đó chính là lí thuyết tiếp nhận.
Vương Anh Tuấn đã khẳng định Vị trí và vai trò tích cực của người đọc
trong đời sống văn học (1982), người viết nêu lên và phân tích một số hình thái, đặc
điểm chung của người đọc, làm tiền đề cho những nghiên cứu sâu và cụ thể hơn.
Năm 1990 tác giả trở lại vấn đề người đọc qua bài viết Xung quanh việc tiếp nhận
văn học hiện nay nhưng tập trung vào loại người đọc đặc biệt là nhà chuyên môn –
nhà phê bình trong việc đánh giá chính xác tác phẩm, tránh sự không hiểu nhau giữa
nhà văn, nhà phê bình và công chúng bạn đọc đông đảo.
Trên cơ sở mỏng manh đó, năm tháng 11 năm 1985 Mĩ học tiếp nhận của

trường phái Konstanz Đức lần đầu tiên được Nguyễn Văn Dân giới thiệu ở Việt
Nam trong bài Tiếp nhận “Mĩ học tiếp nhận” như thế nào?. Trong bài này, ông chỉ
giới thiệu một số tư tưởng của Jauss qua thuật ngữ “Tầm đón đợi”, “Khoảng cách
thẩm mĩ”. Đến năm 1986 chính tác giả lại trình bày sơ qua về khái niệm “tầm đón
nhận” của Jauss và xuất phát từ tâm lí tiếp nhận thử nghiệm đưa ra khái
niệm “ngưỡng tiếp nhận” trong bài viết Nghiên cứu sự tiếp nhận văn học trên quan
điểm liên ngành. Đáng tiếc là tiếp sau đó, Mĩ học tiếp nhận ở Việt Nam không được
chính thức nghiên cứu với tư cách là một khuynh hướng lí thuyết riêng, mà chủ yếu
được hòa vào trong hướng nghiên cứu chung – nghiên cứu vấn đề Tiếp nhận văn
học. Chẳng hạn, cùng năm 1986 Hoàng Trinh viết một bài khá dày dặn về Giao tiếp
văn học (Tạp chí Văn học số 4) nhưng không nhắc gì đến Mĩ học tiếp nhận. Sang
thập niên 90, Nguyễn Lai viết Tiếp nhận văn học một vấn đề thời sự (Báo Văn
nghệ số 27, ngày 7-7-1990), Nguyễn Thanh Hùng viết Trao đổi thêm về tiếp nhận
văn học (Báo Văn nghệ số 42, ngày 10-10-1990) đều nhấn mạnh đến tính chất chủ
quan năng động của người đọc. Cũng cần lưu ý rằng, bài viết của Nguyễn Lai
nghiên cứu vấn đề tiếp nhận từ góc độ đa ngành, mà chủ yếu là từ góc độ kí hiệu

14


học, còn bài viết của Nguyễn Thanh Hùng, mặc dù liệt kê tên của khá nhiều nhà
nghiên cứu tiếp nhận văn học trên thế giới, nhưng đối tượng nghiên cứu trung tâm
vẫn không phải là Mĩ học tiếp nhận. Để đối thoại với việc nhấn mạnh vai trò chủ
quan của người tiếp nhận trong hai bài viết trên, Trần Đình Sử viết một bài đăng
trên Văn nghệ số 50 năm 1990 thừa nhận “kẻ có quyền cắt nghĩa tác phẩm thuộc về
lịch sử, thuộc về các thế hệ người đọc hiện tại và mai sau”, nhưng bên cạnh “phần
mềm là sự cảm thụ, giải thích đời sống xã hội, phụ thuộc vào “lòng” người đọc thì
tác phẩm vẫn còn “phần cứng là văn bản, là sự khái quát đời sống có chiều sâu, một
hệ thống ý nghĩa đã được mã hóa”. Thực chất trong bài viết này, Trần Đình Sử
hướng tới điều chỉnh giữa chủ quan và khách quan trong tiếp nhận, phản đối

khuynh hướng cực đoan, đề cao quá mức chủ quan của người tiếp nhận.
Năm 1990, công trình Văn học và hiện thực của Viện Văn học có bài Quan hệ
văn học – hiện thực và vấn đề tác động, tiếp nhận và giao tiếp thẩm mỹ của Huỳnh
Vân, tác giả nhấn mạnh đến chức năng giao tiếp của văn học. Ông cho rằng: “… cần
thiết phải nghiên cứu trên cả hai mặt lý luận và lịch sử văn học vấn đề tác động và
tiếp nhận văn học và nghệ thuật” [20; 221]. Ông đề cập đến vấn đề cần quan niệm
mối quan hệ văn học – hiện thực ở cả hai chiều: phản ánh và tác động, tiếp nhận, tức
chiều từ hiện thực đến tác giả và tác phẩm và chiều từ tác giả, tác phẩm đến hiện
thực. Điều đó nhằm nhấn mạnh rằng khâu tác động và tiếp nhận là không thể không
được quan tâm trong nghiên cứu văn học. Nhưng hơn một thập kỷ sau đó, vẫn chưa
thấy ông cho công bố tiếp những suy nghĩ mới của ông về vấn đề này.
Cùng năm, tác giả tiếp tục cho công bố trên Tạp chí Văn học bài Nhà văn,
bạn đọc và hàng hóa sách hay văn học và sự dị trị. Ông cho rằng sách với tư cách
là một hình thức hàng hóa nhưng là một loại hàng hóa đặc biệt. Hai giá trị dị biệt
nhau cùng tồn tại trong một thực thể là hàng hóa sách. Ở bài viết này ông đề cập
đến khâu trung gian giữa sáng tác và tiếp nhận văn học, nơi mà những yếu tố kinh
tế – như một sự tất yếu khó tránh khỏi trong cơ chế kinh tế thị trường, kinh tế sản
xuất hàng hóa – tác động vào văn học như một yếu tố dị trị. Năm 2009, nhà nghiên
cứu này trở lại vấn đề mỹ học tiếp nhận qua bài Vấn đề Tầm đón nhận và xác định

15


tính nghệ thuật trong mỹ học tiếp nhận của Hans Robert Jauss, như tiêu đề bài viết
đã cho biết, bài viết lý giải khá sâu về một trong những khái niệm then chốt của mỹ
học tiếp nhận: tầm đón đợi. Cũng như phân tích quan niệm của Jauss về việc xác
định tính nghệ thuật của tác phẩm văn học, được coi như là một cơ sở để Jauss xác
định tính lịch sử của văn học. Huỳnh Vân cũng lưu ý đến một thực tế trong quá
trình vận dụng mỹ học tiếp nhận ở Việt Nam trong thời gian qua là “các tác giả đã
không đưa ra những định nghĩa rõ ràng về các khái niệm trên, cho nên kết quả

nghiên cứu không tránh khỏi chung chung, mơ hồ” [21; 969]. Một năm sau đó, tạp
chí Nghiên cứu Văn học cho công bố tiếp bài Hans Robert Jauss: lịch sử văn học là
lịch sử tiếp nhận, trong bài này, Huỳnh Vân tiếp tục trình bày và lý giải những luận
điểm tiếp theo của H.R. Jauss khi đề xuất những vấn đề, những phương thức cụ thể
hơn cho lịch sử văn học đổi mới của ông – lịch sử văn học của người đọc. Đây là
những kết quả nghiên cứu đáng tin cậy và có sức thuyết phục, vì tác giả của nó –
nhà nghiên cứu Huỳnh Vân là ngừơi nghiên cứu chuyên sâu, tiếp cận tư liệu tận
nguồn và cũng là những ý kiến, luận điểm mà chúng tôi sẽ còn tiếp tục trình bày,
vận dụng trong những bài viết khác.
Trước sự tương đối sôi động trong bàn luận về tiếp nhận văn học từ năm 1985
đến 1990, năm 1991 Viện thông tin khoa học xã hội cho xuất bản cuốn Văn học nghệ
thuật và sự tiếp nhận, nhưng trong đó chỉ có bài viết của Trần Đình Sử (Mấy vấn đề lí
luận tiếp nhận văn học) và của Nguyễn Văn Dân (Lý luận tiếp nhận văn học với sự
tiếp nhận văn học – nghệ thuật thế giới ở Việt Nam ta hiện nay), 10 bài còn lại đều là
dịch, lược dịch, lược thuật những bài viết của Schifirnet, Morar, Pascadi, Marian.
Năm 1995 Trương Đăng Dung công bố bài viết Từ văn bản đến tác phẩm văn học và
giá trị thẩm mĩ, tập trung nghiên cứu vấn đề “văn bản”, “tác phẩm” và sự tạo nghĩa
thông qua hành động đọc. Trong bài viết này, ông vận dụng quan điểm của nhiều nhà
nghiên cứu tiếp nhận văn học, trong đó có nhắc qua đến Jauss.
Cuối thập niên 90, đáng chú ý nhất là cuốn giáo trình Tiếp nhận văn
học (1997), viết cho trung tâm Đào tạo từ xa Đại học Huế của Phương Lựu, chuyên
luận Từ văn bản đến tác phẩm văn học (1998) của Trương Đăng Dung và bài Lý

16


thuyết tiếp nhận và phê bình văn học (số 124 tháng 06-1999). Trong cuốn giáo trình
của mình, Phương Lựu đã dành một chương để giới thiệu về Tiền đề sinh thành, về
tư tưởng của Hans Robert Jauss và Wolfgang Iser, đồng thời sơ bộ đánh giá những
điểm “khả thủ” và “cực đoan phiến diện” của Mĩ học tiếp nhận. Tuy vậy, nhìn

chung, phần viết về Mĩ học tiếp nhận trong giáo trình của Phương Lựu mới dừng lại
ở “giới thiệu sơ lược” về khuynh hướng nghiên cứu này. Cuốn chuyên luận Từ văn
bản đến tác phẩm văn học của Trương Đăng Dung thực chất không tập trung
nghiên cứu tiếp nhận văn học, trong 14 bài, chỉ có 2 bài nhắc đến tư tưởng của
khuynh hướng này trong những luận bàn chung về Văn bản – tác phẩm – bạn đọc,
trong đó bài Từ văn bản đế tác phẩm văn học và giá trị thẩm mĩ thực ra đã được
công bố vào năm 1995, còn bài Tác phẩm văn học như là quá trình (tác giả đề là
hoàn thành năm 1996) thực chất đã dùng tiêu đề một bài viết của M.Markov viết
năm 1970. Trong bài viết này, ông cũng nhắc đến quan niệm về hoạt động tiếp nhận
và vấn đề văn bản của hai đại diện lớn của Mĩ học tiếp nhận là Jauss và Iser. Tuy
nhiên, Trương Đăng Dung chỉ nêu lên tư tưởng của Mĩ học tiếp nhận như một căn
cứ để chứng minh cho luận điểm khác của mình, ngay lời đề từ của bài viết ông
cũng dùng câu nói của đại diện tiêu biểu cho Hiện tượng học – một trong những
tiền thân của Mĩ học tiếp nhận - Roman Ingarden, chứ không phải của Jauss hay
Iser. Còn Trần Đình Sử, mặc dù không nhắc gì đến Mĩ học tiếp nhận trong bài viết
công bố năm 1999 của mình nhưng cũng đã nhắc đến những vấn đề cơ bản của tiếp
nhận, như vấn đề đồng sáng tạo của người đọc, tuy vậy, ông vẫn theo đuổi quan
điểm cho rằng ý nghĩa của tác phẩm văn học vừa phụ thuộc vào tiếp nhận, vừa phụ
thuộc vào văn bản.
Có thể thấy, những năm 90 ở Việt Nam, vấn đề Tiếp nhận văn học đã trở
thành chủ đề được bàn luận khá sôi nổi, tuy nhiên, một đặc điểm rất dễ nhận thấy
là các nhà nghiên cứu chủ yếu dựa trên những tri thức tổng hợp về Tiếp nhận văn
học nói chung trên thế giới, cùng với sự nhạy bén khoa học của mình để bàn luận
vấn đề một cách chung nhất, chưa có những nghiên cứu sâu giúp người đọc thực

17


sự hình dung cụ thể về một lí thuyết tiếp nhận, ngoại trừ những bài mang tính giới
thiệu sơ lược.

Sang đầu thế kỉ 21, bóng dáng của Mĩ học tiếp nhận được xuất hiện trong hai
chuyên luận Đọc và tiếp nhận văn chương(2002) của Nguyễn Thanh Hùng và Tác
phẩm văn học như là quá trình (2004) của Trương Đăng Dung. Trong công trình
của mình, Nguyễn Thanh Hùng có một mục viết về Trường phái tiếp nhận
Konstanz và ý nghĩa của tên gọi nêu lên sơ lược về các khuynh hướng nghiên cứu
tiếp nhận nói chung, trong đó có Mĩ học tiếp nhận. Mặc dù đây là chuyên luận trên
cơ sở tiếp thu tổng hợp lí thuyết tiếp nhận nước ngoài kết hợp với thực tế văn bản
văn học trong nước đã trình bày khá sâu sắc về vấn đề “đọc và tiếp nhận văn
chương”, nhưng Mĩ học tiếp nhận không phải là đối tượng nghiên cứu trọng tâm mà
chỉ là một ví dụ, một phần rất nhỏ. Trương Đăng Dung trong chuyên luận lần này
đã nhắc nhiều hơn đến tư tưởng của trường phái Konstanz khi bàn đến vấn đề “Kinh
nghiệm thẩm mĩ và tầm đón đợi”, “Sự đọc và quá trình cắt nghĩa văn bản”, “Tính
lịch sử của quá trình tiếp nhận”. Nhưng có thể nhận thấy Trương Đăng Dung nhắc
nhiều hơn đến tư tưởng tiền thân của Mĩ học tiếp nhận là Giải thích học và Hiện
tượng học với những tên tuổi như Husserl, Heideger, Gadamer, Ingarden.
Đáng ghi nhận nhất là năm 2002, Trương Đăng Dung đã dịch tuyên ngôn của
Jauss Lịch sử văn học như là sự khiêu khích đối với khoa học văn học, và cho đến
nay, đây vẫn là văn bản duy nhất của Mĩ học tiếp nhận được dịch ra tiếng Việt và
công bố ở Việt Nam. Dưới ảnh hưởng của các công trình trên, trong thập niên đầu
tiên của thế kỉ mới cũng rải rác có các bài viết của Phạm Quang Trung đăng trên
website cá nhân (pqtrung.com) như Lý thuyết tiếp nhận trong đời sống văn chương
hiện nay (2009), Chung quanh khái niệm “tầm đón nhận” của H.Jauss (2010),
ngoài ra có một xu hướng tương đối nổi trội là Vận dụng một số vấn đề của lí thuyết
tiếp nhận vào việc giảng dạy và học môn văn trong nhà trường(2009). Tuy nhiên,
những bài viết kiểu này không có đóng góp gì mới mẻ về mặt nghiên cứu lí thuyết.
Cuối thập niên đầu tiên của thế kỉ mới, đáng chú ý hơn cả là cuộc tranh luận nhỏ
giữa Đỗ Lai Thúy và Trần Đình Sử quanh bài viết Khi người đọc xuất hiện của Đỗ

18



Lai Thúy. Để phản đối tiêu chí phân loại “độc giả cổ điển” và “độc giả hiện đại” của
Đỗ Lai Thúy, Trần Đình Sử đã vận dụng tri thức tổng hợp tri thức về tiếp nhận văn
học, trong đó có tư tưởng của Mĩ học tiếp nhận, để viết thành bài Những luận lí khó
tin, và sau khi Đỗ Lai Thúy thanh minh yếu ớt bằng bài Người đọc như là… thì
Trần Đình Sử liền công bố bài Cần có tiêu chí khoa học để phân biệt người đọc
hiện đại và người đọc cổ điển (2010).
Trong số những nhà nghiên cứu về lĩnh vực tiếp nhận văn học ở Việt Nam
hiện nay thì Trương Đăng Dung là người bền bỉ và chuyên sâu. Năm 1998 ông xuất
bản Từ văn bản đến tác phẩm văn học, năm 2004 ông cho công bố quyển Tác phẩm
văn học như là quá trình, cuốn này là sự triển khai những luận điểm đề xuất ở Từ
văn bản đến tác phẩm văn học. Theo tường giải học (hay có thể gọi là thông diễn
học), sự tiếp nhận có nghĩa là qúa trình thỏa thuận giữa văn chương và sự tái sáng
tạo bản sắc riêng của người đọc qua “Tác phẩm văn học như là quá trình” của
Trương Đăng Dung.
Qua những công trình nghiên cứu của Trương Đăng Dung, và đặc biệt là qua
cuốn sách “Tác phẩm văn học như là quá trình”, chúng ta có thể thấy trên cơ sở
những kết quả nghiên cứu về tác phẩm văn học như là quá trình, Trương Đăng
Dung đã từng bước khám phá bản chất của tác phẩm văn học, khẳng định sự đa
dạng của các khái niệm văn học và không đánh giá quá trình văn học như là quá
trình lịch sử duy nhất và thống nhất. Ông nhấn mạnh khoa học văn học ngày nay
không chỉ có nhu cầu nghiên cứu văn học như là các tác phẩm làm nên lịch sử văn
học mà còn nghiên cứu cái bản chất quyết định văn bản trở thành tác phẩm văn học,
đó là tính chất văn học ẩn chứa trong các mối liên kết văn bản. Từ chỗ lấy mỹ học
sáng tạo làm cơ sở, tư duy lý luận văn học hậu hiện đại đã từng bước khẳng định vai
trò quan trọng của mỹ học tiếp nhận. Tính chất khép kín của văn bản nghệ thuật
trong mỹ học trước đây nay được thay thế bằng tính chất mở và dấu ấn cá nhân. Đối
tượng của Mĩ học tiếp nhận không phải chỉ là tác phẩm hay tác giả mà là hoạt động
giao tiếp của người sáng tác và người tiếp nhận, là mối quan hệ của hoạt động liên
đới. Quá trình văn học là quá trình tác động tương hỗ với hai yếu tố: ảnh hưởng


19


thông qua văn bản và sự tiếp nhận thông qua người đọc. Văn bản là mối quan hệ
giao tiếp, sự đọc là quan hệ đối thoại. Tác phẩm văn học là bộ phận của quá trình
đặc biệt mà cái quyết định sự tồn tại và chất lượng của nó còn phụ thuộc ở nhiều
yếu tố ngoài nó. Sự tồn tại đích thực và những đặc trưng của tác phẩm chỉ có được
nhờ hai hoạt động ý thức có nội dung chủ ý từ tác giả và người đọc. Tác phẩm văn
học được hình thành từ quá trình mở về phía chủ thể tiếp nhận.
Qua lược thuật ở phần trên, có thể nhận thấy, trong gần 30 năm, thành tựu
nghiên cứu về Mĩ học tiếp nhận ở Việt Nam vẫn vô cùng khiêm tốn, trừ những bài
mang tính chất giới thiệu sơ lược trực tiếp, phần lớn giới nghiên cứu văn học Việt
Nam chủ yếu nhắc đến Mĩ học tiếp nhận trong tổng thể chung về vấn đề Tiếp nhận
văn học, các bài viết chủ yếu là góp nhặt mỗi nơi một chút, rất hiếm những bài viết
lấy Mĩ học tiếp nhận làm đối tượng trung tâm, có nhiều ý tưởng vay mượn nhưng
cội nguồn tư tưởng của nó cũng không được ghi rõ ràng. Và hệ quả tất yếu là việc
áp dụng lí thuyết này vào nghiên cứu thực tiễn văn học nước nhà cũng vô cùng
khiêm tốn. Ngoài ra, bổ sung, điều chỉnh về mặt lí thuyết sao cho thích hợp với thực
tiễn Việt nam cũng rất hạn chế.
Mĩ học tiếp nhận được giới thiệu vào Việt Nam sớm, nhưng trong suốt gần
30 năm qua, dấu ấn của nó trong nghiên cứu văn học Việt Nam chưa thực sự rõ
ràng. Nó len lỏi vào nghiên cứu văn học Việt nam qua cách tiếp cận tổng thể về vấn
đề tiếp nhận văn học, chứ chưa bao giờ thực sự được nghiên cứu như một đối tượng
trung tâm, chưa bao giờ được các nhà lí luận định hướng ứng dụng như một khuynh
hướng lí thuyết riêng biệt. Nếu có nói đến chút ảnh hưởng nào của Mĩ học tiếp
nhận, có lẽ chỉ nhắc đến thiên hướng ứng dụng nó vào vấn đề dạy văn, học văn mà
cơ bản là sự đọc. Nhưng thực tế cho thấy, trong lĩnh vực này, người ta cũng khó
thấy đâu là dấu ấn cụ thể của nó. Chính vì cách tiếp cận này đã khiến nghiên cứu
tiếp nhận văn học ở Việt Nam bề mặt có vẻ sôi động, nhưng thành tựu lại không rõ

ràng, chủ yếu là những lời bàn qua bàn lại. Có thể coi đây là một ví dụ tiêu biểu cho
một khía cạnh đáng lưu tâm trong việc tiếp nhận lí thuyết phương Tây ở Việt Nam.

20


×