Tải bản đầy đủ (.doc) (25 trang)

Bài thảo luận đường lối cách mạng của ĐCSVN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (132.96 KB, 25 trang )

Họ và tên: Đinh Thiện Hiếu
Lớp: TCNH2A2

Bài thảo luận
Đường Lối Cách Mạng Đảng Cộng Sản Việt Nam
Câu 1: Quan hệ quốc tế, quan hệ song phương, quan hệ đa phương là gì?
Đa phương hóa, đa dạng hóa là như thế nào?
Quan hệ đối tác là gì?
Tìm hiểu ASEAN và quá trình Việt Nam gia nhập ASEAN?
Tìm hiểu WTO và quá trình gia nhập WTO?
Tìm hiểu về APEC ?
Câu 2: An sinh xã hội là gì?
Chủ trương giải quyết các vấn đề xã hội ở Việt Nam? Kết quả và hạn chế?
Câu 3: Đường lối, kết quả, quan hệ quốc tế của Việt Nam từ năm 1986 đến
nay?

Bài làm
Câu 1:
Quan hệ quốc tế là:
Nững định nghĩa hiện có về khái niệm quan hệ quốc tế
1. Theo từ điển tiếng Việt do Hoàng Phê chủ biên, NXB Đà Nẵng – Trung tâm Từ điển
học, Hà Nội, 2005: Quan hệ quốc tế (QHQT) là quan hệ giữa các nước trên thế giới với
nhau.
2. Từ điển Tiếng Hán hiện đại do Li Kaxin và Cheng Yanling biên tập, NXB Shangwu,
Bắc Kinh, 2006: QHQT là quan hệ giữa các nước trên thế giới với nhau.
3. Từ điển Bách khoa:
• Encarta: QHQT là quan hệ về mặt chính trị và những quan hệ khác giữa hai hay nhiều
quốc gia. [Dẫn nguồn: ... tions.html]
• Ecyclopedia: QHQT là quan hệ giữa các nước và các đơn vị chính trị, kinh tế trong hệ
thống quốc tế. [Dẫn nguồn: freedictionary. ... l+relation]
• Britannica: QHQT là quan hệ giữa các nước với nhau và với các tổ chức quốc tế và các


thực thể dưới quốc gia (các tổ chức thuộc chính phủ, các Đảng chính trị) trên các lĩnh vực
của đời sống quốc tế. [Dẫn nguồn: />

Quan hệ song phương :
Quan hệ song phương là quan hệ giữa hai quốc gia trên các lĩnh vực chính trị, kinh tế,
văn hóa…để cùng nhau hợp tác phát triển
Quan hệ đa phương
Quan hệ đa phương là quan hệ đan xen giữa nhiều quốc gia, nhằm mục đích giải quyết
những vấn đề chung như chiến tranh, hoà bình, hợp tác và đấu tranh để cùng tồn tại và
phát triển. Ngày nay, NGĐP có nhiệm vụ điều chỉnh mối quan hệ giữa nhiều chủ thể:
quốc gia, tổ chức liên chính phủ quốc tế, tổ chức phi chính phủ, trong việc giải quyết
những vấn đề liên quan đến hoà bình và an ninh quốc tế, phát triển và bảo vệ môi trường,
chống bệnh tật, đói nghèo và tội phạm, vv.
Đa phương hóa
Đa phương hóa là quan hệ có tính chất của nhiều quốc gia, có sự thỏa thuận hoặc tham
gia của nhiều bên
Đa dạng hóa là quan hệ giữa các quốc gia với nhau trên nhiều lĩnh vực khác nhau và dưới
nhiều hình thức khác nhau
Quan hệ đối tác: là quan hệ song phương, 2 bên bình đẳng như nhau, cùng hợp tác phát
triển để đôi bên cùng có lợi
Tìm hiểu về ASEAN
ASEAN hiện có 11 nước (Brunei, Campuchia, Đông Timo, Indonesia, Lào, Malaysia,
Myanmar, Philippines, Thái Lan, Việt Nam, Singapore). Diện tích toàn khối là 4.492.443
km2, chiếm 14,1% lãnh thổ châu Á và chiếm 3,3% diện tích toàn thế giới.
Quốc gia rộng nhất là Indonesia, tiếp đến là Myanmar, Thái Lan, Malaysia, Việt Nam,
Philippines, Lào, Campuchia, Đông Timo, Brunei, Singapore. Dân số giữa năm 2004 là
548,2 triệu người, chiếm dân số 14,1% châu Á và gần 8,6% toàn thế giới; đông nhất là
Indonesia, tiếp đến là Philippines, Việt Nam, Thái Lan, Myanmar, Campuchia, Lào,
Singapore, Đông Timo, Brunei.
Mật độ dân số đạt 122 người/ km2, tương đương với châu Á và gấp 2,6 lần thế giới. Tỷ lệ

dân số thành thị đạt 38,4%, xấp xỉ tỷ lệ của châu Á và thấp hơn tỷ lệ 48% của toàn thế
giới; cao nhất là Singapore, tiếp đến là Brunei, Malaysia, Philippines, Indonesia, Thái
Lan, Myanmar, Việt Nam, Lào, Campuchia, Đông Timo.
Tỷ lệ sinh đạt 2,2%, tỷ lệ chết 0,7%, tỷ lệ tăng tự nhiên 1,5%, cao hơn tỷ lệ 1,3% của
châu Á và tỷ lệ 1,2% của toàn thế giới; thấp nhất là Singapore, tiếp đến là Thái Lan,
Đông Timo, Myanmar, Việt Nam, Indonesia, Brunei, Philippines, Malaysia, Campuchia,
Lào.


Tuổi thọ bình quân đạt 68, cao hơn mức 67 của châu Á và thấp hơn mức 69 của toàn thế
giới; cao nhất là Singapore, tiếp đến là Brunei, Malaysia, Thái Lan, Việt Nam,
Philippines, Indonesia, Myanmar, Campuchia, Lào, Đông Timo.
GDP tính bằng USD theo tỷ giá thực tế của ASEAN năm 2003 đạt khoảng 687 tỷ USD,
chiếm 1,9% toàn thế giới; bình quân đầu người đạt khoảng 1.253,2USD, thấp xa so với
mức 5.684,2 USD của toàn thế giới.
Nếu tính bằng USD theo tỷ giá sức mua tương đương, thì GDP bình quân đầu người năm
2001 cuả các nước trong khu vực như sau: Singapore 22.680 USD, (năm 2002 là 24.040),
tiếp đến là Brunei 19.210, Malaysia 8.750 (năm 2002 đạt 9.120), Thái Lan 6.400,
Philippines 3.840, Indonesia 2.940, Việt Nam khoảng 2.100, Campuchia 1.860, Lào
1.620 (năm 2002 đạt 1.720), Myanmar 1.027.
Khu vực ASEAN cũng là khu vực có tốc độ tăng GDP cao của thế giới. Tổng dự trữ quốc
tế của một số nước đạt khá và đang tăng lên. Khu vực ASEAN cũng là khu vực có kim
ngạch xuất khẩu, tỷ lệ xuất khẩu so với GDP, xuất khẩu bình quân đầu người khá.
Quá trình gia nhập ASEAN của Việt Nam
Việt Nam gia nhập Hiệp hội các nước ASEAN từ tháng 7/1995 và bắt đầu thực hiện
Chương trình ưu đãi thuế quan có hiệu lực chung (CEPT) từ 1/1/1996, chương trình
này kết thúc vào 1/1/2006. Do trình độ phát triển kinh tế của Việt Nam còn thấp so
với một số nước trong khu vực, năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp, của nhiều
ngành sản xuất và dịch vụ còn yếu… và thuế nhập khẩu vẫn còn là một trong những
nguồn thu cho ngân sách, nên chương trình cắt giảm thuế quan của Việt Nam được

xây dựng dựa trên những nguyên tắc chính sau:
1. Không gây ảnh hưởng lớn đến nguồn thu ngân sách.
2. Bảo hộ hợp lý cho nền sản xuất trong nước.
3. Tạo điều kiện khuyến khích việc chuyển giao kỹ thuật, đổi mới công nghệ cho nền
sản xuất trong nước.
4. Hợp tác với các nước ASEAN trên cơ sở các quy định của Hiệp định CEPT để
tranh thủ ưu đãi, mở rộng thị trường cho xuất khẩu và thu hút đầu tư nước ngoài.
Có thể kể ra đây một số công việc mà Việt Nam đã thực hiện, đó là:
(a) Xây dựng chương trình cắt giảm thuế quan
Dựa theo 4 nguyên tắc nêu trên, tại thời điểm gia nhập, Việt Nam đã đệ trình 4 danh
mục hàng hoá theo quy định của Hiệp định CEPT như sau:
a) Danh mục loại trừ hoàn toàn: bao gồm 139 dòng thuế không tham gia AFTA,
đây là những mặt hàng có ảnh hưởng đến: an ninh quốc gia, sức khỏe con người, giá trị


đạo đức, lịch sử, nghệ thuật, khảo cổ… theo như quy định của Hội đồng AFTA. Ngoài ra
Việt Nam còn đưa vào danh mục loại trừ hoàn toàn một số mặt hàng mà hiện Việt Nam
đang phải nhập từ các nước ASEAN song lại không có khả năng xuất khẩu, hoặc một số
mặt hàng hiện đang có thuế suất cao trong biểu thuế nhập khẩu như: ô tô dưới 16 chỗ
ngồi, ô tô tay lái nghịch, chất phế thải, các loại xăng dầu (trừ dầu thô Việt Nam đang xuất
khẩu), đồ dùng đã qua sử dụng…
b) Danh mục loại trừ tạm thời: Danh mục này bao gồm 755 dòng thuế, được xây
dựng theo quy định của CEPT và quy hoạch phát triển đến năm 2010 của các ngành kinh
tế trong nước, nhằm bảo hộ một số ngành đang có tiềm năng phát triển, đồng thời không
gây ảnh hưởng lớn đến nguồn thu ngân sách. Danh mục này chủ yếu gồm các mặt hàng
có thuế suất trên 20% và một số mặt hàng có thuế suất thấp hơn 20% song được bảo hộ
bằng các biện pháp phi thuế quan như: các loại xe máy, ô tô (trừ loại ô tô dưới 16 chỗ
ngồi đã nằm trong danh mục loại trừ hoàn toàn), các loại sắt thép, sản phẩm cơ khí thông
dụng, các loại mỹ phẩm và đồ dùng không thiết yếu…
Theo quy định của Hội đồng AFTA thì những mặt hàng nào đưa vào chương trình cắt

giảm thuế và được hưởng thuế suất ưu đãi từ các nước thành viên khác thì đồng thời
phải loại bỏ hàng rào phi thuế quan trong vòng 5 năm sau đó. Do vậy, nếu mặt hàng
nào được đưa vào danh mục loại trừ tạm thời thì sẽ có thêm thời gian để bảo hộ thông
qua việc kéo dài thời hạn thực hiện các biện pháp phi thuế quan.
Cũng theo quy định của CEPT thì các mặt hàng thuộc danh mục TEL này cần phải
được chuyển sang danh mục cắt giảm thuế (IL) trong vòng 5 năm, sao cho đến thời
hạn năm 2006 chúng cũng phải đạt mức thuế quan ưu đãi chung từ 0-5%.
c) Danh mục cắt giảm thuế: Danh mục này chủ yếu bao gồm các mặt hàng hiện
đang có thuế suất dưới 20%, tức là các mặt hàng thuộc diện có thể áp dụng ưu đãi ngay
theo Hiệp định CEPT. Ngoài ra trong danh mục này còn bao gồm một số mặt hàng hiện
có thuế suất cao nhưng Việt Nam đang có thế mạnh xuất khẩu, do vậy việc đưa các mặt
hàng này vào danh mục giảm thuế sẽ không gây ảnh hưởng nhiều đến nguồn thu ngân
sách, ngược lại nó sẽ kích thích đẩy mạnh xuất khẩu thông qua việc được hưởng thuế ưu
đãi theo CEPT, khi hàng Việt Nam xuất qua các nước thành viên.
d) Danh mục nông sản nhạy cảm: bao gồm 51 dòng thuế, là các mặt hàng nông
sản chưa chế biến có yêu cầu bảo hộ cao như: các loại thịt, trứng, gia cầm, động vật sống,
thóc, gạo lức, đường mía… các mặt hàng này hiện đang được áp dụng các biện pháp phi
thuế quan như quản lý theo hạn ngạch, quản lý của Bộ chuyên ngành….
Để làm căn cứ điều chỉnh cơ cấu trong nước và định hướng cho các doanh nghiệp xây
dựng kế hoạch kinh doanh phù hợp, năm 1997, Chính phủ Việt Nam phê duyệt Lịch
trình cắt giảm thuế quan tổng thể thực hiện AFTA/CEPT 1996-2006. Tiếp đó, theo
công văn số 5408/VPCP-TCQT ngày 11/12/2000, Chính phủ thông qua Lịch trình cắt
giảm thuế quan tổng thể giai đoạn 2001-2006. Dựa trên các Lộ trình này, hàng năm
Chính phủ đưa ra Danh mục hàng hóa và thuế suất của VN thực hiện CEPT (gọi tắt là
Danh mục CEPT hoặc Nghị định CEPT).


(b) Thực hiện giảm thuế
Dựa theo sự phân loại danh mục hàng hoá như trên, tiến trình cắt giảm thuế của Việt
Nam đã được tiến hành như sau: Trong hai năm đầu 1996, 1997 Việt Nam chưa thực

hiện việc cắt giảm thuế mà chỉ đưa 875 danh mục các mặt hàng đã có thuế nhập khẩu
từ 0-5% vào danh sách giảm thuế, đáp ứng một cách tự nhiên yêu cầu giảm thuế
nhanh của Hiệp định CEPT, còn chương trình giảm thuế bình thường chỉ được bắt đầu
thực hiện kể từ 1/1/1998. Các bước đi thận trọng này giúp cho Việt Nam có thêm thời
gian cải tiến hệ thống thuế nội địa nhằm đảm bảo nguồn thu ngân sách và góp phần
bảo hộ các nền kinh tế còn non trẻ của chúng ta.
Như vậy, từ năm 1998 Việt Nam mới thực hiện những bước cắt giảm thuế đầu tiên
theo Nghị định 15/1998/NĐ-CP ngày 12/3/1998. Theo Nghị định này trong năm 1998
chúng ta đã đưa thêm 1.161 mặt hàng vào danh mục giảm thuế. Sang năm 1999 theo
Nghị định 14/1999/NĐ-CP ngày 23/3/1999 Việt Nam đã nâng danh mục các mặt hàng
giảm thuế lên đến 3.590 mặt hàng. Và trong năm 2000, Chính phủ đã ban hành Nghị
định 09/2000/NĐ-CP ngày 21/03/2000 về danh mục các mặt hàng giảm thuế theo
chương trình CEPT.
Theo nghị định này, trong năm 2000, Nhà nước Việt Nam đưa thêm 640 dòng thuế từ
danh mục các mặt hàng loại trừ tạm thời sang danh mục giảm thuế, như vậy sẽ có
4.230/6.200 dòng thuế trong biểu thuế nhập khẩu được đưa vào danh mục cắt giảm
thuế. Trong tổng 4.230 dòng thuế thực hiện theo chương trình CEPT của năm 2000
này, có khoảng 2.960 dòng thuế có mức thuế suất từ 0-5% (trong đó có khoảng 1.690
dòng thuế có thuế suất 0%), còn lại 1.270 dòng thuế có mức thuế suất 5-50%. Như
vậy, đa số các mặt hàng trong danh mục giảm thuế năm 2000 là các mặt hàng có thuế
suất dưới 20%, chỉ có một số ít là có thuế suất trên 20%. Những mặt hàng có thuế suất
dưới 20% là những mặt hàng hoặc không có nhiều trong quan hệ ngoại thương của
Việt Nam hoặc là các mặt hàng mà Việt Nam đang có thế mạnh xuất khẩu. Các mặt
hàng cần bảo hộ như sắt thép, phân bón, giấy, kính xây dựng, ô tô, xe gắn máy,
đường… vẫn còn được để trong danh mục TEL, GEL.
Đến năm 2002, Việt Nam đã chuyển 5.550 dòng thuế vào IL (ban hành theo Nghị định
số 21/2002/NĐ-CP ngày 28/2/2002 và Nghị định số 53/2002/NĐ-CP ngày 13/5/2002)
(gọi tắt là Danh mục CEPT 2002), chiếm 85% trên tổng số 6.523 dòng thuế của biểu
thuế nhập khẩu (Danh mục Thuế quan Hài hòa Chung ASEAN – (AHTN) là 8.770
dòng). Toàn bộ các mặt hàng này đã ở thuế suất dưới 20% và có lộ trình cắt giảm

trong thời kỳ 2002-2006; trong số đó, 65% đã ở mức thuế 0-5%. với mức thuế suất từ
0 đến 20%, trong đó có khoảng 2/3 có mức thuế suất từ 0 đến 5%. Nhóm này đến năm
2006 sẽ giảm mức thuế xuống 0 - 5%. Nhóm thứ hai, là danh mục loại trừ tạm thời
gồm 755 dòng thuế (theo AHTN là 1.415 dòng thuế) sẽ chuyển sang danh mục cắt
giảm IL từ 01/7/2003, các dòng thuế có mức thuế cao sẽ đưa xuống 20% và giảm dần
xuống 0 - 5% vào năm 2006. Danh mục này bao gồm các nhóm hàng dầu thực vật,
bánh kẹo, rau quả chế biến, clinker, xi măng, thiết bị vệ sinh, giấy báo, giấy in, giấy
vệ sinh, hóa chất, mỹ phẩm, kính xây dựng, điện tử, điện lạnh, quần áo, giày dép,...
Nhóm thứ ba, là danh mục nhạy cảm gồm hàng nông sản chưa chế biến, chủ yếu cần
bảo hộ cao, như thịt, trứng gia cầm, động vật sống, thóc gạo lức, đường mía.... Nhóm


này có 53 dòng thuế (theo AHTN là 89 dòng thuế) bắt đầu giảm thuế từ 01/01/2004 và
kết thúc vào 01/01/2013 với mức thuế cuối cùng là 0 - 5%. Riêng mặt hàng đường sẽ
kết thúc vào 01/01/2010. Nhóm thứ tư, là danh mục loại trừ hoàn toàn (GEL) gồm các
sản phẩm không cam kết trong AFTA vì lý do an ninh quốc gia, đạo đức xã hội, bảo
vệ cuộc sống con người và động thực vật, bảo vệ các tác phẩm có giá trị nghệ thuật,
lịch sử, khảo cổ học. Việt Nam cũng đưa vào một số mặt hàng cần bảo hộ cao hơn
như ô-tô, xe máy nguyên chiếc có dung tích dưới 250cc. Nhóm này có 158 dòng thuế
(AHTN là 415 dòng). Như vậy, lộ trình cắt giảm theo danh mục phải cắt giảm ngay IL
và danh mục loại trừ tạm thời, lộ trình của Việt Nam chậm hơn sáu nước thành viên
cũ là ba năm. Hai nhóm nhạy cảm và loại trừ hoàn toàn thời gian dài hơn, đến năm
2010 hoặc 2015.
Theo những khuyến nghị của ASEAN về đẩy nhanh việc thực hiện AFTA, Bộ Tài
chính đã xây dựng Lịch trình đẩy nhanh CEPT giai đoạn 2003-2006 (CV 7955
TC/QHQT ngày 19/7/2002). Tại Hội nghị Hội đồng AFTA (16/9/2002 tại Brunei) cho
phép các nước khó khăn được áp dụng cơ chế linh hoạt trong việc thực hiện đẩy
nhanh AFTA/CEPT (đã được HNCC ASEAN 8 tháng 11/2002 thông qua). Do vậy,
lịch trình cắt giảm thuế CEPT/AFTA giai đoạn 2003-2006 sẽ là 76% đạt thuế suất 05% vào 2003, 87% đạt thuế suất 0-5% vào 2005 và 100% đạt thuế suất 0-5% vào
2006 trong đó 56% đạt 0%. Việt Nam cũng nhất trí nguyên tắc giảm toàn bộ thuế quan

xuống 0% vào năm 2015 với một số linh hoạt đến 2018.
Ngoài ra, từ tháng 7/2003, Việt Nam cam kết áp dụng Danh mục Thuế quan Hài hòa
Chung ASEAN (AHTN), do đó Danh mục CEPT 2003 sẽ được chuyển đổi theo biểu
thuế nhập khẩu mới. Việc chuyển sang Danh mục Thuế quan Hài hòa Chung ASEAN
sẽ giúp các doanh nghiệp dễ tra cứu các mã số và tên hàng hóa khi thực hiện các hoạt
động xuất nhập khẩu với các nước ASEAN.
(c) Áp dụng các biện pháp phi thuế quan
Bên cạnh việc cắt giảm hàng rào thuế quan Việt Nam cũng đã chuẩn bị tiến tới việc
cắt giảm hàng rào phi thuế quan theo quy định của CEPT, vì việc mở cửa thị trường sẽ
không có ý nghĩa nếu như hàng rào thuế quan được cắt giảm song hệ thống phi thuế
quan vẫn được duy trì. Cụ thể một mặt hàng dù được cam kết giảm thuế từ 100%
xuống 0% vẫn không thể kinh doanh được nếu như nó bị áp đặt cấm nhập khẩu.
Hiện Việt Nam đang áp dụng các biện pháp phi thuế như: hạn ngạch, giấy phép, phụ
thu... đến bảo hộ thị trường nội địa. Các biện pháp này không đạt hiệu quả cao như
một số các biện pháp khác mà các nước thường sử dụng như: sử dụng các quy định về
tiêu chuẩn vệ sinh, bao bì, về mức độ gây ô nhiễn môi trường cho phép… Do vậy,
việc dỡ bỏ hàng rào phi thuế quan là rất phức tạp và chỉ có thể thực hiện thông qua
việc hài hoà hoá hoặc áp dụng các tiêu chuẩn quốc tế chung hay công nhận các tiêu
chuẩn của nhau. Hiện Việt Nam đang cùng các nước thành viên ASEAN khác tiến
hành hài hòa hóa các biện pháp phi thuế quan nhất là các biện pháp mang tính kỹ
thuật và quản lý chất lượng.
(d) Cải tiến hệ thống hải quan


Để thực hiện tốt yêu cầu của CEPT đẩy mạnh quá trình tự do hoá thương mại giữa các
nước thành viên thuộc ASEAN, việc cải tiến hệ thống hải quan có ý nghĩa quan trọng.
Chế độ hải quan của Việt Nam có nhiều điểm còn cách biệt so với các nước thành
viên ASEAN, vì vậy từ năm 1996 đến nay Hải quan Việt Nam đã và đang phối hợp
với các nước thuộc ASEAN để giải quyết những vấn đề có liên quan tới Hải quan
như:

1. Thống nhất danh mục biểu thuế quan của các nước ASEAN.
2. Thống nhất phương pháp xác định trị giá để tính thuế.
3. Thống nhất về thủ tục hải quan giữa các nước thành viên ASEAN.
4. Triển khai Hệ thống luồng xanh để nhanh chóng hoàn thành các thủ tục hải
quan cho các sản phẩm của chương trình CEPT.
5. Lập tờ khai hải quan chung.
Tóm lại, từ khi gia nhập ASEAN, Việt Nam đã thực hiện được những bước đi quan
trọng vừa đảm bảo tính thận trọng, tránh được sự xáo trộn lớn trong hoạt động và điều
hành nền kinh tế, vừa nhanh chóng kịp thời thực hiện lịch trình tham gia AFTA theo
Hiệp định CEPT nhằm đảm bảo tham gia hội nhập một cách có hiệu quả

Tìm hiểu về WTO
WTO – Hiệp hội thương mại thế giới là sân chơi chung cho thị trường toàn cầu. Là Tổ
chức thương mại lớn nhất hành tinh điều chỉnh những hoạt động buôn bán đa phương
mang tính chất tương đối tự do, công bằng và tuân thủ những luật lệ rõ ràng.
Là Tổ chức Quốc tế duy nhất quản lý luật lệ giữa các quốc gia trong thương mại quốc tế,
đó là những hiệp định đã và đang tiếp tục được đàm phán và ký kết giữa các quốc gia
hoặc lãnh thổ quan thuế thành viên.
WTO hiện chiếm 97% giao dịch thương mại thế giới.
HỆ THỐNG
Được thành lập ngày 01 tháng 01 năm 1995 theo vòng đàm phán Urguay ( 1896- 1994).
Trụ sở chính: Geneva, Thụy Sĩ
Thành viên: 149 quốc gia ( 11/2005_
Quỹ ngân sách: 175 triệu Franc Thụy Sĩ vào năm 2006


Hội đồng thư ký: 635 thành viên
Người đứng đầu: Pascal Lamy (Director-General)
Hội phí của mỗi thành viên được tính theo mức % thương mại của nước đó trong tổng
kim ngạch thương mại thế giới.

CHỨC NĂNG CƠ BẢN
Chức năng cơ bản:
-Quản lý, điều hành các hiệp định thương mai WTO
-Diễn đàn cho các cuộc đàm phán thương mại
-Giải quyết các tranh chấp thương mại
-Giám sát các chính sách thương mại của các quốc gia thành viên.
-Trở giúp về mặt kỷ thuật và đào tạo cho các nước đang phát triển
-Hợp tác với các tổ chức quốc tế khác.
LỊCH SỬ HÌNH THÀNH
- WTO kế tục và mở rộng phạm vi của tổ chức tiền thân của nó là Hiệp định chung về
thuế quan và Thương mại ( GATT)
- GATT ra đời sau đại thế chiến thứ 2, trong trào lưu hình thành hàng loạt các hoạt động
hợp tác kinh tế quốc tế, điển hình là Ngân hàng thế giới (World Bank) và Quỹ tiền tệ
quốc tế (IMF)..
- Từ đó đến nay, GATT đã trãi qua 8 vòng đàm phán chủ yếu. Tuy nhiên, do thương mại
không ngừng phát triển, các vấn đề trong các cuộc đàm phán ngày càng mở rộng. Với tư
cách là một sự thỏa thuận. GATT có những hạn chế về quyền hạn.
- Để chấm dứt tình trạng nan giải đó, các bên tham gia GATT quyết tâm thành lập WTO
với đầy đủ tư cách là một tổ chức Quốc tế toàn cầu, đặt nền móng cho một hệ thống
thương mại đa phương bền vững trong tương lai.
- Ngày 15 tháng 04 năm 1994 tại Marốc, các nước thành viên đã ký hiệp định thành lập
tổ chức thương mại thế giới. Theo đó, WTO chính thức được thành lập độc lập với hệ


thống Liên hiệp quốc và đi vào hoạt động từ 01 tháng 01 năm 1995.
1) Các cơ quan lãnh đạo chính trị và có quyền ra quyết định bao gồm :
- Hội nghị Bộ trưởng ( Ministerial Conference) là cơ quan quyền lực cao nhất, nhóm họp
ít nhất hai năm một lần. Là đại diện cấp Bộ trưởng thương mại của các quốc gia thành
viên. Có thẩm quyền quyết định mọi vấn đề, mọi quyết định phải thông qua 3/4 số phiếu
của các thành viên.

2) Cơ quan thường trực:
-Đại Hội đồng, có chức năng giải quyết và điều phối mọi hoạt động của WTO.
Đồng thời đóng vai trò là "Cơ quan giải quyết tranh chấp" ( Dispute Settlement Body) và
"Cơ quan rà soát chính sách" (Trade Policy Review Body)
-Là các quan chức tương đương cấp thứ trưởng của các quốc gia thành viên. Nhóm họp
khi có yêu cầu (trung bình 9 lần/năm)
-Dưới Đại hội đồng là các Hội đồng trực thuộc và các Ủy ban tương ứng như:
Hội đồng Thương mại hàng hóa ( Council for Trade in Goods )
Hội đồng Thương mại dịch vụ. ( Trade in Sevices)
Hồi đồng về quyền sở hữu trí tuệ (Council for Trade-Related Aspects of Intellectual
Property Rights)
và các Ủy ban trược thuộc tương ứng...(hình trên)
Các hội đồng trên chịu trách nhiệm việc thực thi Hiệp định WTO về từng lĩnh vực thương
mại tương ứng. Tham gia các Hội đồng là đại diện của các thành viên.
Các cơ quan thừa hành và giám sát việc thực hiện các hiệp định thương mại đa phương,
bao gồm Hội đồng GATT, Hội đồng GATS và Hội đồng TRIPS;
3) Cuối cùng là các cơ quan thực hiện chức năng hành chính:
- Ban Thư ký WTO gồm 1 Tổng giám đốc và 4 phó tổng giám đốc. Được lập bởi Hội
nghị bộ trưởng.
-Tổng Giám đốc là đại diện hợp pháp của WTO, chức danh và nhiệm kỳ của TGĐ được
quyết định bở Hội nghị Bộ trưởng.
Phần lớn các quyết định của WTO đều được thông qua trên cơ sở đồng thuận. Trong một
số trường hợp, khi không đạt được sự đồng thuận, các thành viên có thể tiến hành bỏ
phiếu.


Khác với các tổ chức khác, mỗi thành viên chỉ có quyền bỏ 1 phiếu và các phiếu có giá trị
ngang nhau
NGUYÊN TẮC HOẠT ĐỘNG
Toàn bộ hoạt động của WTO dựa trên một loạt các văn bản pháp lý đề cập tới rất nhiều

lĩnh vực thương mại.
Tuy nhiên các văn bản pháp lý này chỉ dựa trên một số nguyến tắc sau:
- Không phân biệt đối xử
- Thương mại ngày càng tự do thông qua đàm phán
-Xây dựng môi trường kinh doanh dễ dự đoán
- Tạo ra môi trường cạnh tranh ngày càng bình đẳng
- Dành cho các thành viên đang phát triển một số ưu đãi

Quá trình hội nhập vào nền kinh tế thế giới của Việt Nam (WTO)
Các mốc đánh dấu chặng đường gia nhập WTO của Việt Nam
- 4-1-1995: Đơn xin gia nhập WTO của Việt Nam được Đại hội đồng tiếp nhận.
- 31-1-1995: Ban xem xét công tác gia nhập (WP) của Việt Nam được thành lập với chủ
tịch là ông Eirik Glenne, đại sứ Na Uy tại WTO.
- 24-8-1995: Việt Nam nộp bị vong lục về chế độ ngoại thương VN và gửi tới Ban thư ký
WTO để luân chuyển đến các thành viên của ban công tác.
Năm 1998-1999: Các phiên hỏi và trả lời với ban xem xét công tác xét duyệt.
Đầu năm 2002: Việt Nam gửi bản chào ban đầu về thuế quan và dịch vụ tới WTO và bắt
đầu tiến hành đàm phán song phương với một số thành viên trên cơ sở bản chào ban đầu
về thuế quan và dịch vụ.
- 9-10-2004: Việt Nam và EU đạt thỏa thuận về việc Việt Nam gia nhập WTO.
- 9-6-2005: Việt Nam và Nhật Bản đạt được thỏa thuận cơ bản về vấn đề mở đường cho
Việt Nam sớm gia nhập WTO.
- 12-6-2005: Việt Nam cử một phái đoàn đàm phán hùng hậu sang Washington trước
thềm chuyến thăm Mỹ chính thức của Thủ tướng Phan Văn Khải với quyết tâm đi đến kết
thúc đàm phán song phương.
- 18-7-2005: Việt Nam và Trung Quốc đạt thỏa thuận về việc mở cửa thị trường để Việt
Nam gia nhập WTO.
-31-5-2006: Ký thỏa thuận kết thúc đàm phán song phương với Mỹ - nước cuối cùng
trong 28 đối tác có yêu cầu đàm phán song phương.
- 26-10-2006: Việt Nam hoàn tất đàm phán đa phương tốt đẹp với các nước. Cuộc đàm

phán trước đó diễn ra căng thẳng và tưởng chừng không thể kết thúc được cho đến phút


chót.
- Ngày 07 tháng 11/2006, nước ta đã chính thức được kết nạp vào tổ chức này.

Thủ tục gia nhập WTO bao gồm các bước (hoặc các giai đoạn):
- Nộp đơn xin gia nhập;
- Ðàm phán gia nhập;
- Kết nạp.
a. Nộp đơn xin gia nhập:
Nộp đơn là bước đầu tiên và bắt buộc đối với một nước xin gia nhập WTO.
Ðồng thời với việc tham gia Hiệp hội các nước Đông Nam Á (ASEAN) vào tháng 71995; là thành viên đồng sáng lập Diễn đàn hợp tác Á - Âu (ASEM) vào tháng 3-1996;
tham gia Diễn đàn hợp tác kinh tế Châu Á - Thái Bình Dương (APEC) vào tháng 111998; Việt Nam đã sớm nhận thức tầm quan trọng của việc tham gia vào Tổ chức thương
mại thế giới (WTO).
1-1-1995, Việt Nam đã nộp đơn xin gia nhập WTO. WTO tiếp nhận đơn xin gia nhập của
WTO của Việt Nam và Việt Nam trở thành quan sát viên của tổ chức này.
31-1-1995, Nhóm công tác (của WTO) về việc Việt Nam gia nhập WTO được thành lập.
b. Ðàm phán gia nhập:
Ðể gia nhập WTO, tất cả các thành viên xin gia nhập đều phải tiến hành các cuộc đàm
phán. Nói cách khác, để gia nhập WTO, các nước xin gia nhập phải cam kết đưa ra những
nghĩa vụ (cam kết mở cửa thị trường, cam kết tuân thủ các hiệp định của WTO) mà mình
sẽ chấp thuận khi trở thành thành viên của WTO để đổi lấy những quyền (những ưu đãi
do các nước thành viên của WTO dành cho, được hưởng lợi từ hệ thống thương mại đa
biên với các luật chơi của WTO, được sử dụng các quy tắc giải quyết tranh chấp của
WTO...) mà WTO đem lại. Ðể gia nhập WTO, Việt Nam cũng phải thực hiện các cuộc
đàm phán xin gia nhập.
Giai đoạn đàm phán bao gồm các bước sau:
- Minh bạch hoá chính sách:



Minh bạch hoá chính sách là việc chính phủ nước xin gia nhập phải thông báo, mô tả
(phác hoạ) bức tranh chung về các cơ chế, chính sách thương mại, kinh tế của nước mình
có liên quan đến các hiệp định của WTO. Việc minh bạch hoá chính sách được thực hiện
thông qua việc Việt Nam gửi bản Bị vong lục về cơ chế ngoại thương của Việt Nam (trình
bày về hệ thống chính sách thương mại - kinh tế của Việt Nam) tới Nhóm công tác về
việc Việt Nam gia nhập WTO (sau đây gọi là Nhóm công tác) để Nhóm công tác xem xét.
Tất cả các thành viên đều có thể tham gia Nhóm công tác này. Nhóm công tác là tổ chức
chịu trách nhiệm thụ lý đơn xin gia nhập.
Trong quá trình Nhóm công tác xem xét, tất cả các nước thành viên WTO đều có thể yêu
cầu trả lời những câu hỏi mà họ quan tâm.
Việt Nam đã trả lời khoảng 2.600 nhóm câu hỏi do các thành viên WTO đưa ra và đã
thông báo hàng chục ngàn trang văn bản cho các thành viên WTO về hệ thống chính
sách, pháp luật có liên quan đến các lĩnh vực thuế, đầu tư, nông nghiệp, thương mại hàng
hoá, thương mại dịch vụ, sở hữu trí tuệ...
Theo quy định của WTO, khi việc xem xét của Nhóm công tác đã có những bước tiến
đáng kể, nước xin gia nhập có thể bắt đầu các cuộc đàm phán.
- Ðàm phán mở cửa thị trường:
Việc đàm phán được thể hiện ở 2 phương diện: đàm phán đa phương và đàm phán song
phương.
Ðàm phán đa phương: về mặt hình thức chính là các cuộc họp giữa Việt Nam với Nhóm
công tác. Các cuộc họp này được tiến hành ở Geneva, trụ sở của WTO. Về mặt thực chất,
đây là các cuộc họp nhằm tổng kết hoá các cam kết của Việt Nam. Tính đến 12-2005,
Việt Nam đã tiến hành 10 phiên đàm phán đa phương.
Ðàm phán song phương: là đàm phán giữa Việt Nam (nước xin gia nhập) với từng thành
viên khác nhau của WTO bởi vì mỗi nước thành viên có những lợi ích thương mại và yêu
cầu, toan tính khác nhau. Như đã nói ở trên, về mặt bản chất, khi gia nhập WTO, Việt
Nam có quyền tiếp cận thị trường của tất cả các thành viên WTO, được hưởng quyền
ngang với các thành viên khác của WTO, trong đó bao gồm cả việc được hưởng những
kết quả đàm phán giữa các thành viên khác với nhau, theo nguyên tắc tối huệ quốc của

WTO.
Mặc khác, Việt Nam cũng phải đưa ra mức thuế suất thấp và loại bỏ các hàng rào phi thuế
để các thành viên khác tiếp cận được thị trường Việt Nam. Ðồng thời, Việt Nam phải cam
kết tuân thủ các quy định trong các hiệp định của WTO liên quan đến việc mở cửa thị
trường cho các đối tác thương mại.
Do vậy, nói một cách khác, các cuộc đàm phán song phương nhằm xác định các lợi ích
mà các thành viên của WTO có thể thu được từ việc gia nhập của một thành viên mới.
Khi các cuộc đàm phán song phương này kết thúc và Việt Nam trở thành thành viên


WTO, các cam kết qua các cuộc đàm phán sẽ trở thành cam kết áp dụng cho tất cả các
thành viên WTO. Có khoảng 30 đối tác có yêu cầu đàm phán song phương với Việt Nam.
Tính đến 30-10-2005, Việt Nam đã kết thúc đàm phán với 21 đối tác.
Khi bước vào giai đoạn đàm phán, nước xin gia nhập cũng bắt đầu đưa ra Bản chào. Bản
chào là danh mục những cam kết về thuế quan, về thương mại dịch vụ, đầu tư, sở hữu trí
tuệ...đáp ứng yêu cầu của các nước thành viên Nhóm công tác. Bản chào là cơ sở để tiến
hành các cuộc đàm phán mở cửa thị trường. Sau một quá trình đàm phán, các cam kết,
các nghĩa vụ trong Bản chào này sẽ được sửa đổi. Cuối cùng, các cam kết, nghĩa vụ đưa
ra trong Bản chào này sẽ trở thành những cam kết chính thức khi kết thúc đàm phán.
Ðến nay, sau các phiên họp với Nhóm công tác từ 1998 đến 2001, Việt Nam đã hoàn
thành giai đoạn minh bạch hoá chính sách. Bản chào đầu tiên đã được Việt Nam gửi tới
Ban thư ký của WTO vào tháng 12-2001. Tính đến 12-2005, Việt Nam đã đưa ra Bản
chào thứ tư.
c. Kết nạp:
Theo thông lệ, khi Nhóm công tác đã kết thúc việc xem xét chế độ ngoại thương của
nước xin gia nhập, đồng thời các cuộc đàm phán đa phương, song phương về mở cửa thị
trường đã kết thúc, Nhóm công tác sẽ dự thảo một Báo cáo gia nhập của nước xin gia
nhập, bao gồm một Nghị định thư gia nhập và các danh mục ghi các cam kết của nước
xin gia nhập (là tổng hợp kết quả của các thoả thuận trong các phiên đàm phán đa phương
và các cam kết trong các phiên đàm phán song phương).

Các văn bản này sẽ được trình lên Ðại hội đồng hoặc Hội nghị bộ trưởng. Tại cuộc họp
của Hội nghị bộ trưởng, nếu 2/ 3 số thành viên của WTO chấp thuận, quyết định về việc
gia nhập sẽ được thông qua. Sau đó, Nghị định thư gia nhập của Việt Nam sẽ được được
Tổng giám đốc WTO và chín phủ Việt Nam ký và Việt Nam trở thành thành viên của
WTO. 30 ngày sau khi chủ tịch nước (hoặc quốc hội) phê chuẩn nghị định thư, Việt Nam
sẽ chính thức trở thành thành viên WTO.
Ðể gia nhập được WTO, Việt Nam cần kết thúc việc đàm phán song phương, đàm phán
đa phương, hoàn thành Báo cáo gia nhập, để bắt đầu bắt tay vào dự thảo Nghị định thư
gia nhập.

Tìm hiểu về APEC
1. Tổng quan về APEC
APEC (Asia – Pacific Economic Cooperation) là Diễn đàn hợp tác Kinh tế vùng Châu Á
– Thái Bình Dương. APEC được thành lập theo sáng kiến của Australia tại Hội nghị Bộ
trưởng Kinh tế Thương mại và Ngoại giao 12 nước khu vực Châu Á và Thái Bình Dương


tổ chức tại Canberra – Australia tháng 11/1989. Hiện nay, APEC có 21 thành viên (gọi là
nền kinh tế thành viên), bao gồm Ôx-trây-lia, Bru-nây Đa-ru-sa-lam, Ca-na-da, Chi-lê,
Trung Quốc, Hồng Kông, In-đô-nê-xia, Nhật Bản, Hàn Quốc, Malaysia, Mê-hi-cô, Niu
Di-lân, Pa-pua Niu Ghi-nê, Pê-ru, Phi-lip-pin, Singapo, Đài Loan, Thái Lan, Mỹ và Việt
Nam. APEC là một diễn đàn đặc biệt, hoạt động trên nguyên tắc đối thoại mở, không có
cam kết ràng buộc, sự tuân thủ đạt được thông qua thảo luận và hỗ trợ lẫn nhau dưới hình
thức hợp tác kinh tế và kỹ thuật. Các thành viên tuy khác nhau về thể chế chính trị, vị trí
địa lý, mức độ phát triển kinh tế, nhưng đều tham gia vì một mục tiêu chung là tiến tới
một khu vực thị trường mở cửa, tự do hóa và thương mại hoá.APEC đã phát triển thành
một trong những tổ chức khu vực quna trọng nhất trên thế giới. Với 21 nền kinh tế thành
viên, trải rộng trên bốn châu lục, chiếm 46% diện tích; với hơn 2,6 tỉ dân, chiếm hơn 1/3
dân số thế giới; chiếm 57% GDP thế giới (20,7 nghìn tỉ USD) và khoảng 45,8% thương
mại toàn cầu (7 nghìn tỉ USD). APEC là khu vực kinh tế năng động nhất trên thế giới, tạo

ra gần 70% tăng trưởng kinh tế toàn cầu trong 10 năm đầu tiên thành lập. Trong số 14
nền kinh tế lớn nhất thế giới với GDP lớn hơn 500 tỷ USD, thì có 7 nền kinh tế là thành
viên của APEC, trong đó có 2 nền kinh tế lớn nhất thế giới là Mỹ và Nhật Bản.
2. Mục tiêu hoạt động của APEC:
- Năm 1898, các thành viên sáng lập APEC xây dựng 3 mục tiêu:
+ Thúc đẩy tăng trưởng kinh tế bền vững
+ Phát triển và củng cố hệ thống thương mại đa phương
+ Tăng cường sự phụ thuộc lẫn nhau và thịnh vượng của các nền kinh tế thành viên
- Trong tuyên bố Seoul 1991, các thành viên APEC đã đưa ra các mục tiêu cụ thể:
+ Duy trì sự tăng trưởng và phát triển vì lợi ích chung của nhân dân các nước trong khu
vực, góp phần vào sự tăng trưởng và phát triển chung của kinh tế thế giới.
+ Phát huy những thành tựu tích cực mà nền kinh tế của các nước trong khu vực và thế
giới tạo ra, không ngừng hỗ trợ nhau vì lợi ích cả khu vực và cả thế giới, thông qua việc
khuyến khích các hoạt động giao lưu hàng hoá, dịch vụ, vốn và công nghệ.
+ Hình thành và tăng cường một hệ thống thương mại đa biên rộng mở, vì lợi ích của
Châu Á – Thái Bình Dương và các nền kinh tế khác.
+ Giảm bớt những hàng rào cản trở thương mại hàng hoá và dịch vụ giữa các thành viên,
áp dụng các nguyên tắc của GATT/WTO mà không làm tổn hại đến nền kinh tế của các
nước khác.
+ Kêu gọi các thành phần kinh tế tư nhân hãy tham gia tích cực hơn nữa vào công cuộc
phát triển kinh tế chung APEC.
- Tại hội nghị 1994 tổ chức ở Bogor (Indonesia), các nhà lãnh đạo APEC đã cam kết
thực hiện “Mục tiêu Bogor” về thương mại mở và tự do trong khu vực. Trong đó xác
định hai mốc thời gian cụ thể cho tự do hoá thương mại và mở cửa là năm 2010 đối với
các nền kinh tế phát triển và năm 2020 đối với các nền kinh tế đang phát triển.- APEC
còn hướng tới việc xây dựng một môi trường an toàn và hiệu quả cho luân chuyển hàng
hóa, dịch vụ và con người giữa các thành viên thông qua việc thống nhất các chính sách
và thúc đẩy hợp tác kinh tế và kỹ thuật. Sự hợp tác này giúp đảm bảo mọi công dân của



APEC có thể tiếp cận với việc đào tạo và công nghệ để hưởng thụ các lợi ích từ thương
mại và đầu tư mở.
3. Phạm vi hoạt động của APEC:
Các hoạt động của APEC dựa trên 3 trụ cột chính là:
- Tự do hoá thương mại và đầu tư: tập trung vào việc mở cửa thị trường, cắt giảm và tiến
đến xoá bỏ hoàn toàn các rào cản thuế và phi thuế đối với thương mại và đầu tư
- Thuận lợi hoá kinh doanh: tập trung vào giảm chi phí giao dịch, cải thiện việc tiếp cận
với thông tin thương mại, phát huy lợi ích của CNTT và truyền thông.Hợp tác kinh tế và
kỹ thuật: tập trung đào tạo và các hoạt động hợp tác nhằm xây dựng năng lực cho các nền
kinh tế thành viên ở cấp độ thể chế và cá nhân.
4. Cơ cấu tổ chức:
- Hội nghị cấp cao APEC: Gồm các nhà lãnh đạo cao nhất của các thành viên được tổ
chức một năm một lần và luân phiên nhau, nhằm đưa ra quyết định về phương hướng,
chiến lược, nội dung hoạt động chủ yếu của APEC.
- Hội nghị bộ trưởng APEC: Gồm các Bộ trưởng Ngoại giao và Kinh tế của các nền kinh
tế thành viên, họp mỗi năm một lần (thường diễn ra trước hội nghị cấp cao). Hội nghị Bộ
trưởng Ngoại giao và Kinh tế do chủ tịch APEC năm đó chủ trì. Cương vị chủ tịch được
luân phiên hằng năm giữa các thành viên.
- Hội nghị các quan chức cao cấp: Gồm các Thứ trưởng, Vụ trưởng. Hàng năm thường có
3 cuộc họp chính thức và hai cuộc họp không chính thức. Các cuộc họp này nhằm thảo
luận khả năng hợp tác trong APEC và chuẩn bị nội dung cho hội nghị Bộ trưởng và hội
nghị Cấp cao; xem xét, điều phối ngân sách và các chương trình công tác của các diễn
đàn khác nhau trong APEC.
- Ban Thư ký APEC: Ban Thư ký APEC được thành lập tháng 2/1993, có trụ sở tại
Singapore. Ban Thư ký có chức năng hỗ trợ và phối hợp các hoạt động của APEC như
cung cấp hậu cần, kỹ thuật và điều hành các vấn đề tài chính. Đứng đầu Ban Thư ký là
một giám đốc điều hành do các thành viên giữ cương vị Chủ tịch APEC cử ra đảm nhiệm
với thời hạn một năm. Nhân viên Ban Thư ký sẽ do các thành viên APEC cử sang làm
việc và tuyển chọn tại địa phương.
5. Cơ chế hoạt động:

APEC hoạt động như một diễn đàn hợp tác thương mại và kinh tế đa phương. Các nền
kinh tế thành viên thực hiện các hành động riêng lẻ và tập thể nhằm mở cửa thị trường và
thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Các hành động này được thảo luận tại Hội nghị các quan
chức cao cấp (SOM), Hội nghị Bộ trưởng và cuối cùng là Hội nghị các nhà lãnh đạo của
21 thành viên. Các nhà lãnh đạo APEC là người đưa ra định hướng chính sách của APEC.
Các Bộ trưởng và Hội đồng tư vấn doanh nghiệp đệ trình lên các nhà lãnh đạo các vấn đề
mang tính chiến lược. Các hoạt động và dự án của APEC ở cấp chuyên viên do các quan


chức cao cấp APEC định hướng và được thực hiện thông qua Uỷ ban Thương mại và đầu
tư, Uỷ ban Kinh tế, Uỷ ban quản lý và Ngân sách và Ban chỉ đạo SOM về Hợp tác kinh tế
và kỹ thuật. Các tiểu ban, nhóm chuyên gia, nhóm công tác và nhóm đặc trách có trách
nhiệm triển khai những hoạt động do 4 uỷ ban này đề ra.

Câu 2:
Khái niệm :
An sinh xã hội là một hệ thống các chính sách và chương trình do Nhà nước, các đối tác
xã hội thực hiện nhằm bảo đảm mức tối thiểu về thu nhập, sức khỏe và các phúc lợi xã
hội, nâng cao năng lực của cá nhân, hộ gia đình và cộng đồng trong quản lý và kiểm soát
các rủi ro do mất việc làm, tuổi già, ốm đau, rủi ro thiên tai, chuyển đổi cơ cấu, khủng
hoảng kinh tế, dẫn đến giảm hoặc bị mất thu nhập và giảm khả năng tiếp cận đến các dịch
vụ xã hội cơ bản”.
Chủ trương giải quyết các vấn đề xã hội ở Việt Nam
Các vấn đề xã hội nói chung bao gồm nhiều lĩnh vực như sau: việc làm, thu nhập, bình
đẵng xã hội, khuyến khích làm giàu, xóa đói giảm nghèo, chăm sóc sức khỏe, cung ứng
dịch vụ công, an sinh xã hội, cứu trợ xã hội, chính sách dân số và kế hoạch gia đình vv…
1. Thời kỳ trước đổi mới
A, giai đoạn 1945-1954
Trong giai đoạn này chính sách xã hội cấp bách lúc này là làm cho dân được ăn
no,làm cho dân có áo mặc, cho dân có chỗ ở, làm cho dân được học hành. Tiếp theo

đó là làm cho người nghèo thì đủ ăn, người đủ ăn thì khá giàu, người giàu thì giàu
thêm. Đảng còn có chính sách gia tăng sản xuất, chủ trương tiết kiệm, đồng cam cộng
khổ, khuyến khích mọi người phát triển kinh tế theo cơ chế thị trường
B, giai đoạn 1955-1975
Chế độ phân phối về thực chất là theo chủ nghĩa bình quân. Nhà nước và tập thể đáp
ứng các nhu cầu xã hội thiết yếu bằng chế độ bao cấp tràn lan dựa vào viện trợ
C. giai đoạn 1975-1985
Các vấn đề xã hội được giải quyết theo cơ chế kế hoạch hóa tập trung quan lieu, bao
cấp trong hoàn cảnh đất nước lâm vào khủng hoảng kinh tế- xã hội nghiêm trọng,
nguồn viện trợ giảm dần, bị bao vây, cô lập và cấm vận
Kết quả và hạn chế:
Kết quả: tuy thời bao cấp có nhiều nhược điểm và hạn chế nhưng đã bảo đảm được
sự ổn định của xã hội, đồng thời còn đạt được nhiều thành tựu phát triển đáng tự hào
trên một số lĩnh vực như văn hóa, giáo dục, y tế, lối sống, đạo đức, kỷ cương và an
ninh xã hội, hoàn thành nghĩa vụ của hậu phương lớn đối với tiền tuyến lớn
Hạn chế: trong xã hội hình thành tâm lý thụ động, ỷ lại vào Nhà nước và tập thể
trong cách giải quyết các vấn đề xã hội, chế độ phân phối trên thực tế là bình quân,
không khuyến khích những đơn vị, cá nhân làm tốt, làm giỏi…Đã hình thành xã hội
đóng, ổn định nhưng kém năng động, chậm phát triển về nhiều mặt. Nguyên nhân cơ


bản của các hạn chế là chúng ta đặt chưa đúng tầm chính sách xã hội trong quan hệ
với chính sách thuộc các lĩnh vực khác, đồng thời lại áp dụng và duy trì quá lâu cơ
chế quản lý kinh tế kế hoạch hóa tập trung quan liêu, bao cấp
2. Trong thời kỳ đổi mới
Một là, khuyến khích mọi người dân làm giàu theo pháp luật, thực hiện có hiệu quả mục
tiêu xóa đói, giảm nghèo.
Tạo cơ hội, điều kiện cho mọi người tiếp cận bình đẳng các nguồn phát triển
Tạo động lực làm giàu trong đông đảo dân cư bằng tài năng, sang tạo của bản thân, trong
khuôn khổ pháp luật và đạo đức cho phép.

Xây dựng, và thực hiện có hiệu quả cao chương trình xóa đói giảm nghèo, đề phòng tái
đói, tái nghèo, nâng cao dần chuẩn bị đói nghèo khi mức sống chung tăng lên.
Hai là, bảo đảm cung ứng dịch vụ công cần thiết yếu, bình đẳng cho mọi người dân, t ạo
việc làm và thu nhập, chăm sóc sức khỏe cộng đồng
Xây dựng hệ thống an sinh xã hội đa dạng, phát triển mạnh hệ thống bảo hiểm
Đa dạng hóa các loại hình cứu trợ xã hội, tạo nhiều việc làm ở trong nước và đẩy mạnh
xuất khẩu lao động
Thực hiện chính sách ưu đãi xã hội ưu đãi
Đổi mới chính sách tiền lương, phân phối thu nhập xã hội công bằng hợp lý
Ba là, phát triển hệ thống y tế công bằng và hiệu quả
Hoàn thiện mạng lưới cơ sở, quan tâm chăm sóc y tế tốt hơn đối với các đối tượng chính
sách, phát triển các dịch vụ y tế công nghệ cao, các dịch vụ y tế ngoài công lập
Bốn là, xây dựng chiến lược quốc gia về nâng cao sức khỏe và cải thiện giống nòi
Quan tâm chăm sóc sức khỏe sinh sản, giảm nhanh tỷ lệ trẻ em suy dinh dưỡng
Đẩy mạnh công tác bảo vệ giốn nòi, kiên trì phòng chống HIV/AIDS và các tệ nạn xã hội
Năm là, thực hiện tốt các chính sách dân số và kế hoạch hóa gia đình
Giảm tốc độ tăng dân số, bảo đảm quy mô và cơ cấu dân số hợp lý
Xây dựng gia đình no ấm, bình đẳng, tiến bộ hạnh phúc, đảm bảo bình đẳng giới, chống
nạn bạo hành trong quan hệ gia đình
Sáu là, chú trọng các chính sách ưu đãi xã hội
Bảy là, đổi mới cơ chế quản lý và Phương thức cung ứng dịch vụ công cộng
Kết quả và hạn chế:
Kêt quả:
Từ tâm lý thụ động, ỷ lại vào nhà nước và tập thể đã chuyển sang tính năng động, chủ
động và tính tích cực xã hội của tất cả các tầng lớp dân cư
Từ chỗ đề cao quá mức lợi ích của tập thể một cách chung chung, đã chuyển sang phân
phối theo kết quả lao động và hiệu quả kinh tế, đồng thời phân phối theo mức đóng góp
các nguồn lực khác vào sản xuất, kinh doanh thông qua phúc lợi xã hội. Nhờ vậy công
bằng xã hội được thể hiện rõ rệt hơn
Từ chỗ không đặt đúng tầm quan trọng của chính sách xã hội trong mối quan hệ tương

tác với chính sách kinh tế đã đi đến thống nhất chính sách kinh tế với chính sách xã hội
Từ chỗ Nhà nước bao cấp toàn bộ đã chuyển dần sang trọng tâm kinh tế thiết lập cơ chế,
chính sách để các thành phần kinh tế và người lao động đều tham gia tạo việc làm


Từ chỗ không chấp nhận có sự phân hóa giàu-nghèo đã đi đến khuyến khích mọi người
làm giàu hợp pháp đi đôi với tích cực xóa đói giảm nghèo, coi việc có một bộ phận dân
cư giàu trước là cần thiết cho sự phát triển
Từ chỗ nhanh chóng xây dựng một cơ cấu xã hội “thuần nhất” chỉ còn có giai cấp công
nhân, giai cấp nông dân tập thể và tầng lớp trí thức đã đi đến quan niệm cần thiết xây
dựng một cộng đồng xã hội đa dạng.
Hạn chế:
Giáo dục và đào tạo còn có những hạn chế, yếu kém dài, gây bức xúc trong xã hội nhưng
chưa được tăng cường trong lãnh đạo, chỉ đạo giải quyết. Trong sự nghiệp giáo dục toàn
diện, dạy làm người, dạy nghề là yếu kém nhất
Áp lực gia tăng dân số vẫn còn lớn. Chất lượng dân số còn thấp đang là cản trở lớn đối
với mục tiêu phát triển kinh tế -xã hội và hội nhập kinh tế quốc tế. Vấn đề việc làm rất
bức xúc và nan giải
Sự phân hóa giàu nghèo và bất công xã hội tiếp tục gia tăng đáng lo ngại
Mức hưởng thụ văn hóa của nhân dân còn thấp, chênh lệch lớn giữa các vùng, các tầng
lớp dân cư.
Một số vấn đề xã hội bức xúc cũ và phát sinh mới chậm được giải quyết
Tệ nạn xã hội gia tăng và diễn biến rất phức tạp, gây thiệt hại lớn về kinh tế và an sinh xã
hội
Môi trường sinh thái bị ô nhiễm tiếp tục tăng thêm, tài nguyên bị khai thác bừa bãi và tàn
phá
Hệ thống giáo dục, y tế lạc hậu, xuống cấp, có nhiều bất cập, an sinh xã hội chưa được
đảm bảo
Nguyên nhân chủ yếu của những hạn chế nêu trên là:
Tăng trưởng kinh tế vẫn tách rời mục tiêu và chính sách xã hội, chạy theo số lượng, ảnh

hưởng tiêu cực đến sự phát triển bền vững xã hội
Quản lý xã hội còn nhiều bất cập, không theo kịp sự phát triển kinh tế-xã hội

Câu 3:
ĐƯỜNG LỐI ĐỐI NGOẠI HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ CỦA ĐẢNG THỜI KÌ
ĐỔI MỚI (1986 ĐẾN NAY)
1. Quá trình hình thành và phát triển đường lối đối ngoại
Thời kỳ đổi mới của Đảng ta được đánh dấu bởi các mốc lớn như sau:
- Nghị quyết số 13 của Bộ Chính trị (khóa VI) tháng 5-1988 là mốc khởi đầu của
quá trình đổi mới tư duy, nhận thức và đường lối đối ngoại của Đảng ta. Nghị quyết nhận
định rằng, tình trạng kinh tế yếu kém, tình thế bị bao vây về kinh tế và cô lập về chính trị
sẽ thành nguy cơ lớn đối với an ninh và độc lập dân tộc. Từ đó, đề ra nhiệm vụ ra sức
tranh thủ các nước anh em, bè bạn và dư luận rộng rãi trên thế giới, phân hóa hàng ngũ
đối phương, làm thất bại âm mưu cô lập ta về kinh tế và chính trị; chủ động chuyển cuộc
đấu tranh từ trạng thái đối đầu sang đấu tranh và hợp tác trong cùng tồn tại hòa bình; ra
sức lợi dụng sự phát triển mạnh mẽ của khoa học - kỹ thuật và xu thế quốc tế hóa cao của
kinh tế thế giới, đồng thời tranh thủ vị trí tối ưu trong phân công lao động quốc tế.


- Hội nghị Trung ương 6 (tháng 3-1989), Hội nghị Trung ương 7 (tháng 8-1989)
và Hội nghị Trung ương 8 (tháng 3-1990) của khóa VI với "các nguyên tắc cơ bản cần
được quán triệt trong quá trình đổi mới" và các nghị quyết "Một số vấn đề cấp bách về
công tác tư tưởng trước tình hình trong nước và quốc tế hiện nay", "Tình hình các nước
xã hội chủ nghĩa, sự phá hoại của chủ nghĩa đế quốc và nhiệm vụ cấp bách của Đảng ta"
đã tập trung đánh giá tình hình thế giới liên quan đến những biến động xảy ra ở Liên Xô
và các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu, đề ra các quyết sách đối phó với những tác động
phức tạp từ diễn biến của tình hình thế giới đối với nước ta và công cuộc đổi mới ở Việt
Nam.
- Hội nghị Trung ương 3, khóa VII (tháng 6-1992) đã ra Nghị quyết chuyên đề về
công tác đối ngoại. Nghị quyết xác định rõ nhiệm vụ công tác đối ngoại, tư tưởng chỉ đạo

chính sách đối ngoại, các phương châm xử lý các vấn đề quan hệ quốc tế; đề ra chủ
trương mở rộng, đa phương hóa, đa dạng hóa các mối quan hệ đối ngoại của Việt Nam,
cả về chính trị, kinh tế, văn hóa..., trên cơ sở giữ vững độc lập tự chủ và các nguyên tắc
tôn trọng độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ, không can thiệp vào công việc nội bộ
của nhau, hợp tác bình đẳng và cùng có lợi, bảo vệ và phát triển kinh tế, giữ gìn và phát
huy những truyền thống tốt đẹp và bản sắc văn hóa dân tộc... Nghị quyết Trung ương 3,
khóa VII là văn kiện đánh dấu sự hình thành đường lối đối ngoại của Đảng ta cho thời kỳ
đổi mới toàn diện đất nước.
- Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khóa VII (tháng 1-1994) và Đại hội
VIII (tháng 6-1996) của Đảng ta đã chính thức khẳng định đường lối đối ngoại độc lập tự
chủ, rộng mở, đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ với tinh thần "Việt Nam muốn là bạn
của tất cả các nước trong cộng đồng thế giới, phấn đấu vì hòa bình, độc lập và phát triển".
- Đại hội IX của Đảng (tháng 4-2001) khẳng định Đảng và Nhà nước ta tiếp tục
thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại đó với một tinh thần mạnh mẽ hơn và một tâm
thế chủ động hơn bằng tuyên bố "Việt Nam sẵn sàng là bạn, là đối tác tin cậy của các
nước trong cộng đồng quốc tế, phấn đấu vì hòa bình, độc lập và phát triển".
- Hội nghị Trung ương 8, khóa IX (tháng 7-2003) đã ra Nghị quyết về Chiến lược
bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, trong đó đề cập nhiều nội dung hết sức quan trọng về
đối ngoại, đặc biệt là ba vấn đề: về các mâu thuẫn của thế giới hiện nay; về lợi ích của
Việt Nam; về đối tượng, đối tác. Cần nhấn mạnh vấn đề cốt lõi trong mọi hoạt động đối
ngoại là phải tìm cách thực hiện tối đa lợi ích của đất nước. Do đó, việc nhận thức thật rõ
lợi ích của đất nước ta, dân tộc ta là điều vô cùng quan trọng. Hội nghị Trung ương 8,
khóa IX đã khẳng định một lần nữa: "độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội là mục tiêu cơ
bản của cách mạng và cũng là lợi ích căn bản của quốc gia", "kiên định mục tiêu độc lập
dân tộc gắn với chủ nghĩa xã hội, lấy việc giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để phát
triển kinh tế - xã hội, thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa theo định hướng xã hội chủ
nghĩa là lợi ích cao nhất của Tổ quốc". Hội nghị cũng đã nhấn mạnh cách nhìn biện
chứng về đối tượng, đối tác: "trong mỗi đối tượng vẫn có thể có mặt cần tranh thủ, hợp
tác; trong một số đối tác, có thể có mặt khác biệt, mâu thuẫn với lợi ích của ta", làm cơ sở
mở rộng và phát triển các mối quan hệ vừa hợp tác vừa đấu tranh với các chủ thể quan hệ

quốc tế.
- Đại hội X của Đảng (tháng 4-2006) đã khẳng định: "Thực hiện nhất quán đường
lối đối ngoại độc lập tự chủ, hòa bình, hợp tác và phát triển; chính sách đối ngoại rộng
mở, đa phương hóa, đa dạng hóa các quan hệ quốc tế. Chủ động và tích cực hội nhập
kinh tế quốc tế, đồng thời mở rộng hợp tác quốc tế trên các lĩnh vực khác. Việt Nam là


bạn, đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế, tham gia tích cực vào tiến
trình hợp tác quốc tế và khu vực".
2. Đường lối của đảng cộng sản Việt Nam về vấn đề đối ngoại:
Từ năm 1991 đến nay, hoạt động đối ngoại của Đảng và Nhà nước Việt Nam diễn
ra cùng một lúc trên 4 mặt :
- Một là, tạo dựng và củng cố môi trường hòa bình, ổn định cho công cuộc xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc. Việc củng cố và thúc đẩy các mối quan hệ song phương, nhất là
quan hệ với các nước láng giềng và các nước trong khu vực có ý nghĩa cực kỳ quan trọng
đối với việc thực hiện nhiệm vụ quan trọng này. Nhận thức rõ điều đó, hoạt động đối
ngoại đã tập trung giải quyết vấn đề Campuchia và bình thường hóa quan hệ với Trung
Quốc. Đồng thời triển khai mạnh mẽ các hoạt động ngoại giao song phương cấp cao với
các nước ASEAN, chủ động tham gia các hoạt động của Hiệp hội và năm 1995, Việt Nam
chính thức tham gia ASEAN. Việc Việt Nam gia nhập ASEAN là một quyết định đúng
đắn và kịp thời. Cùng với việc giải quyết hòa bình vấn đề Campuchia, bình thường hóa
quan hệ với Trung Quốc, nối lại quan hệ với các tổ chức tài chính quốc tế, ký Hiệp định
khung với với Liên minh châu Âu, bình thường hóa quan hệ ngoại giao với Mỹ, củng cố
và mở rộng quan hệ với các nước bạn bè truyền thống, các nước độc lập dân tộc và các
nước đang phát triển ở châu á, Trung Đông, châu Phi, Mỹ La-tinh và các nước công
nghiệp phát triển trên thế giới. Việt Nam gia nhập ASEAN góp phần phá thế bị bao vây,
cô lập, tạo ra môi trường hòa bình, ổn định và thuận lợi hơn cho sự nghiệp xây dựng đất
nước, đưa Việt Nam hội nhập về kinh tế với khu vực và quốc tế. Mặt khác, để góp phần
bảo đảm an ninh và ổn định cho đất nước, hoạt động đối ngoại của Việt Nam đã góp phần
chủ động và tích cực giải quyết những vấn đề tồn tại với các nước láng giềng và các nước

ở khu vực như đàm phán và ký Hiệp định biên giới với Lào, thỏa thuận về khai thác
chung với Ma-lai-xi-a trên vùng chồng lấn, phân định vùng chồng lấn với Thái Lan, đàm
phán và ký Hiệp định về biên giới trên bộ với Trung Quốc và đang đàm phán để có thể ký
Hiệp định về phân định vịnh Bắc Bộ với Trung Quốc trong năm 2000, tiếp tục đàm phán
với In-đô-nê-xi-a về phân định thềm lục địa, tiếp tục đàm phán với Campuchia để giải
quyết những vấn đề còn tồn đọng về biên giới lãnh thổ. Hoạt động đối ngoại cũng đã góp
phần kiên quyết đấu tranh chống âm mưu và hành động lợi dụng chiêu bài "nhân quyền",
"dân chủ" và "tự do tín ngưỡng" để can thiệp vào công việc nội bộ Việt Nam. Toàn bộ các
hoạt động trên đã góp phần quan trọng và thiết thực vào việc tạo dựng môi trường khu
vực tương đối ổn định và thuận lợi cho đất nước trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc.
- Hai là, ra sức tranh thủ những điều kiện quốc tế thuận lợi góp phần vào công
cuộc phát triển đất nước, mở rộng hợp tác kinh tế. Đây là một nhiệm vụ trọng tâm của
ngoại giao Việt Nam thời kỳ đổi mới. Nhờ những thành tựu quan trọng của công cuộc đổi
mới và chính sách đối ngoại rộng mở, đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ quốc tế, Việt
Nam đã làm thất bại chính sách bao vây cấm vận của Mỹ và đồng minh, mở rộng và đa
dạng hóa thị trường, thúc đẩy quan hệ kinh tế thương mại song phương với hơn 130 nước
và lãnh thổ, đón nhận nguồn đầu tư trên 36 tỷ USD của hơn 60 nước và lãnh thổ, tranh
thủ hơn 13 tỷ USD từ nguồn viện trợ ưu đãi chính thức của các chính phủ và các tổ chức
quốc tế và hàng tỷ USD viện trợ không hoàn lại của nhiều chính phủ và các tổ chức quốc
tế thuộc hệ thống Liên hợp quốc và các tổ chức phi chính phủ. Việc tạo dựng môi trường
quốc tế hòa bình, tăng cường hợp tác, mở rộng thị trường, tranh thủ vốn, công nghệ phục
vụ cho sự nghiệp xây dựng đất nước cũng là sự đóng góp trực tiếp và thiết thực cho yêu


cầu bảo đảm an ninh. Dưới tác động của cuộc cách mạng khoa học - công nghệ, lực
lượng sản xuất phát triển nhanh và quốc tế hóa cao độ, đẩy nhanh xu thế toàn cầu hóa.
Trong bối cảnh đó, các nước đều tìm cách giành cho mình một vị thế xứng đáng trong
phân công lao động quốc tế, tranh thủ vốn, công nghệ, kỹ năng quản lý để phát triển, đấu
tranh để bảo vệ lợi ích của mình. Nhận rõ xu thế đó, Việt Nam đã đề ra chủ trương hội

nhập và kiên trì thực hiện chủ trương đó. Đại hội lần thứ VIII của Đảng Cộng sản Việt
Nam đã quyết định "đẩy nhanh quá trình hội nhập kinh tế khu vực và thế giới". Từ đầu
những năm 90 Việt Nam đã khai thông quan hệ với các tổ chức tài chính quốc tế, tiếp đó
năm 1995 chính thức gia nhập ASEAN và tham gia AFTA. Năm 1996 Việt Nam tham gia
Diễn đàn hợp tác á - Âu (ASEM) với tư cách là thành viên sáng lập và năm 1998 trở
thành thành viên chính thức của Diễn đàn Hợp tác Kinh tế châu á - Thái Bình Dương
(APEC). Việt Nam cũng đã đàm phán và ký Hiệp định Thương mại với Mỹ và đang đàm
phán về việc gia nhập WTO, mức hội nhập cao nhất, rộng nhất, có ý nghĩa quan trọng đối
với việc thiết lập môi trường buôn bán và quan hệ hợp tác kinh tế với toàn bộ thế giới.
- Ba là, nâng cao vị thế nước nhà trên trường quốc tế. Thực hiện đường lối đối
ngoại độc lập tự chủ, đa dạng hóa, đa phương hóa, đến nay Việt Nam đã có quan hệ ngoại
giao với 167 nước thuộc tất cả các châu lục và lần đầu tiên trong lịch sử có quan hệ bình
thường với tất cả các nước lớn, các ủy viên thường trực của Hội đồng bảo an Liên hợp
quốc. Trong điều kiện quốc tế ngày nay khi quá trình hội nhập ngày càng được xúc tiến
nhanh, ngoại giao đa phương ngày càng giữ một vị trí quan trọng, góp phần nâng cao vị
thế quốc tế của đất nước trên thế giới. Việt Nam đã hoạt động tích cực với vai trò ngày
càng tăng tại Liên hợp quốc (ủy viên ECOSOC, ủy viên Hội đồng chấp hành UNDP,
UNFPA và UPU...), phát huy vai trò thành viên tích cực của phong trào Không liên kết,
Cộng đồng các nước có sử dụng tiếng Pháp, ASEAN; Việt Nam tổ chức thành công Hội
nghị cấp cao Cộng đồng các nước có sử dụng tiếng Pháp năm 1997 và đặc biệt là Hội
nghị cấp cao ASEAN lần thứ 6 năm 1998 đã góp phần quan trọng nâng cao uy tín và vị
thế của đất nước. Có thể nói ngoại giao đa phương là một điểm sáng trong hoạt động
ngoại giao thời đổi mới. Những kết quả đạt được trong mối quan hệ đan xen này đã củng
cố và nâng cao vị thế quốc tế của đất nước, tạo ra thế cơ động linh hoạt trong quan hệ
quốc tế, có lợi cho việc bảo vệ độc lập tự chủ và an ninh cũng như công cuộc xây dưng
đất nước.
- Bốn là, chủ động tích cực góp phần vào cuộc đấu tranh của nhân dân thế giới vì
hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội. Các hoạt động đối ngoại phong phú,
đa dạng cả theo đường Đảng lẫn Nhà nước và các hoạt động quốc tế nhân dân đã góp
phần duy trì và củng cố quan hệ đoàn kết hữu nghị với các đảng phái chính trị, trước hết

là các Đảng cộng sản và công nhân, các tổ chức tiến bộ đấu tranh cho hòa bình, độc lập
dân tộc, dân chủ, từ đó tranh thủ sự hỗ trợ về chính trị có lợi cho công cuộc xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc. Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá IX tại Đại
hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng đã nêu: Thực hiện nhất quán đường lối đối
ngoại độc lập tự chủ, hoà bình, hợp tác và phát triển; chính sách đối ngoại rộng mở, đa
phương hoá, đa dạng hoá các quan hệ quốc tế. Chủ động và tích cực hội nhập kinh tế
quốc tế, đồng thời mở rộng hợp tác quốc tế trên các lĩnh vực khác. Việt Nam là bạn, đối
tác tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế, tham gia tích cực vào tiến trình hợp tác
quốc tế và khu vực. Nhiệm vụ của công tác đối ngoại là giữ vững môi trường hòa bình,
tạo các điều kiện quốc tế thuận lợi cho công cuộc đổi mới, đẩy mạnh phát triển kinh tế xã hội, công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, đồng thời


góp phần tích cực vào cuộc đấu tranh chung của nhân dân thế giới vì hòa bình, độc lập
dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội. Đưa các quan hệ quốc tế đã được thiết lập vào chiều
sâu, ổn định, bền vững. Phát triển quan hệ với tất cả các nước, các vùng lãnh thổ trên thế
giới và các tổ chức quốc tế theo các nguyên tắc: tôn trọng độc lập, chủ quyền và toàn vẹn
lãnh thổ, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau; không dùng vũ lực hoặc đe dọa
dùng vũ lực; giải quyết các bất đồng và tranh chấp thông qua thương lượng hòa bình; tôn
trọng lẫn nhau, bình đẳng và cùng có lợi. Củng cố và tăng cường quan hệ với các đảng
cộng sản, công nhân, đảng cánh tả, các phong trào độc lập dân tộc, cách mạng và tiến bộ
trên thế giới. Tiếp tục mở rộng quan hệ với các đảng cầm quyền. Phát triển công tác đối
ngoại nhân dân theo phương châm "chủ động, linh hoạt, sáng tạo và hiệu quả". Tích cực
tham gia các diễn đàn và hoạt động của nhân dân thế giới. Tăng cường vận động viện trợ
và nâng cao hiệu quả hợp tác với các tổ chức phi chính phủ nước ngoài để phát triển kinh
tế - xã hội. Chủ động tham gia cuộc đấu tranh chung vì quyền con người. Sẵn sàng đối
thoại với các nước, các tổ chức quốc tế và khu vực có liên quan về vấn đề nhân quyền.
Kiên quyết làm thất bại các âm mưu, hành động xuyên tạc và lợi dụng các vấn đề "dân
chủ", "nhân quyền", "dân tộc", "tôn giáo" hòng can thiệp vào công việc nội bộ, xâm
phạm độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, an ninh và ổn định chính trị của Việt Nam.
Đẩy mạnh hoạt động kinh tế đối ngoại, hội nhập sâu hơn và đầy đủ hơn với các thể chế

kinh tế toàn cầu, khu vực và song phương, lấy phục vụ lợi ích đất nước làm mục tiêu cao
nhất. Chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế theo lộ trình, phù hợp với chiến lược
phát triển đất nước từ nay đến năm 2010 và tầm nhìn đến năm 2020. Chuẩn bị tốt các
điều kiện để ký kết các hiệp định thương mại tự do song phương và đa phương. Thúc đẩy
quan hệ hợp tác toàn diện và có hiệu quả với các nước ASEAN, các nước châu Á - Thái
Bình Dương... Củng cố và phát triển quan hệ hợp tác song phương tin cậy với các đối tác
chiến lược; khai thác có hiệu quả các cơ hội và giảm tối đa những thách thức, rủi ro khi
nước ta là thành viên Tổ chức Thương mại thế giới (WTO). Tiếp tục đổi mới thể chế kinh
tế, rà soát lại các văn bản pháp quy, sửa đổi, bổ sung, hoàn chỉnh hệ thống pháp luật bảo
đảm tính đồng bộ, nhất quán, ổn định và minh bạch. Cải thiện môi trường đầu tư; thu hút
các nguồn vốn FDI, ODA, đầu tư gián tiếp, tín dụng thương mại và các nguồn vốn khác.
Xác định đúng mục tiêu sử dụng và đẩy nhanh việc giải ngân nguồn vốn ODA, cải tiến
phương thức quản lý, nâng cao hiệu quả sử dụng và có kế hoạch trả nợ đúng hạn; duy trì
tỉ lệ vay nợ nước ngoài hợp lý, an toàn. Phát huy vai trò chủ thể và tính năng động của
doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế trong hội nhập kinh tế quốc tế. Xúc tiến mạnh
thương mại và đầu tư, phát triển thị trường mới, sản phẩm mới và thương hiệu mới.
Khuyến khích các doanh nghiệp Việt Nam hợp tác liên doanh với doanh nghiệp nước
ngoài và mạnh dạn đầu tư ra nước ngoài. Đẩy mạnh công tác văn hoá - thông tin đối
ngoại, góp phần tăng cường sự hợp tác, tình hữu nghị giữa nhân dân ta với nhân dân các
nước. Chăm lo đào tạo, bồi dưỡng, rèn luyện đội ngũ cán bộ làm công tác đối ngoại vững
vàng về chính trị, có trình độ ngoại ngữ và năng lực nghiệp vụ cao, có đạo đức và phẩm
chất tốt. Tăng cường công tác nghiên cứu, dự báo, tham mưu về đối ngoại với sự tham
gia và phát huy trí tuệ của các cơ quan nghiên cứu và các nhà khoa học. Bảo đảm sự lãnh
đạo thống nhất của Đảng, sự quản lý tập trung của Nhà nước đối với các hoạt động đối
ngoại. Phối hợp chặt chẽ hoạt động đối ngoại của Đảng, ngoại giao Nhà nước và đối
ngoại nhân dân; chính trị đối ngoại và kinh tế đối ngoại; đối ngoại, quốc phòng và an
ninh; thông tin đối ngoại và thông tin trong nước.


3. Kết quả và ý nghĩa

Các hoạt động đối ngoại đã góp phần giữ vững môi trường hòa bình, tạo các điều
kiện quốc tế thuận lợi cho công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, phát triển
kinh tế - xã hội, tăng cường ổn định chính trị - xã hội, củng cố an ninh, quốc phòng, đưa
đất nước vượt qua những thách thức và đi vào giai đoạn phát triển mới; vị thế của nước ta
trên trường quốc tế không ngừng nâng cao. Từ chỗ bị bao vây, cấm vận về kinh tế, cô lập
về chính trị, đến nay nước ta đã phát triển quan hệ đa phương, đa dạng với các chủ thể
quan hệ quốc tế. Việt Nam hiện có quan hệ ngoại giao với 169 nước, quan hệ kinh tế,
thương mại và đầu tư với 165 nước và vùng lãnh thổ trên thế giới. Đảng ta có quan hệ ở
các mức độ khác nhau với trên 200 chính đảng ở các nước trên khắp các châu lục. Các
đoàn thể và tổ chức nhân dân ta có quan hệ với hàng trăm tổ chức nhân dân, tổ chức phi
chính phủ quốc gia và quốc tế. Trong hơn 20 năm qua, thông qua đàm phán hòa bình, ta
đã giải quyết được một số vấn đề do lịch sử để lại về biên giới, lãnh thổ, vùng chồng lấn
trên biển với các nước liên quan, phấn đấu xây dựng đường biên giới trên đất liền và trên
biển thành đường biên giới hòa bình, hữu nghị, ổn định, hợp tác cùng phát triển. Nước ta
đã ký kết Hiệp ước phân định biên giới trên đất liền, Hiệp định phân định Vịnh Bắc Bộ
và Hiệp định về hợp tác nghề cá ở Vịnh Bắc Bộ với Trung Quốc; đã ký Hiệp ước bổ sung
Hiệp ước hoạch định biên giới năm 1985 với Cam-pu-chia; đã ký kết các hiệp định về
phân định thềm lục địa, phân định vùng chồng lấn trên biển với Ma-lai-xi-a, Thái Lan và
In-đô-nê-xi-a. Việt Nam cùng các nước ASEAN và Trung Quốc đã ký kết Tuyên bố về
cách ứng xử của các bên ở biển Đông (DOC), thúc đẩy việc giải quyết hòa bình các tranh
chấp chủ quyền biển đảo ở biển Đông. Việt Nam đã tăng cường quan hệ đoàn kết, hữu
nghị và hợp tác với các đảng cộng sản và công nhân, các đảng cánh tả, các phong trào
cách mạng và tiến bộ trên thế giới; góp phần tích cực vào sự hồi phục của phong trào
cộng sản và công nhân quốc tế, vào việc củng cố phong trào Không liên kết, vào cuộc
đấu tranh chung của nhân dân thế giới vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ, phát triển
bền vững, công bằng và tiến bộ xã hội. Đường lối chính trị của Đảng ta và những thành
tựu đổi mới của Việt Nam được bạn bè quốc tế đánh giá cao. Nhiều đảng cộng sản và
công nhân trên thế giới cho rằng, đổi mới của Việt Nam là sự phát triển sáng tạo và đóng
góp về lý luận và thực tiễn xây dựng chủ nghĩa xã hội. Đồng thời, các hoạt động đối
ngoại của Đảng, của các đoàn thể và tổ chức nhân dân ta đã góp phần làm cho dư luận thế

giới hiểu đúng về Việt Nam, đồng tình và ủng hộ công cuộc đổi mới, tăng cường hậu
thuẫn chính trị quốc tế cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc của nhân dân ta. Nền
kinh tế Việt Nam ngày càng hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế thế giới đang toàn cầu hóa.
Chúng ta tích cực tham gia hình thành các khu vực mậu dịch tự do của ASEAN (AFTA),
giữa ASEAN và Trung Quốc (CAFTA), xây dựng quan hệ đối tác kinh tế toàn diện
ASEAN - Nhật Bản... Ta đã kết thúc đàm phán song phương với 28 nước và đã gia nhập
Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) trong năm 2006. Hàng hóa sản xuất tại Việt Nam đã
có mặt trên 200 thị trường quốc gia, khu vực và quốc tế. Trong vòng hai thập kỷ qua, từ
một nước nhập khẩu lương thực, Việt Nam đã trở thành một trong những nước xuất khẩu
gạo hàng đầu thế giới. Trong giai đoạn từ năm 1993 - 2004, Việt Nam đã nhận được cam
kết tài trợ hơn 20 tỉ USD từ cộng đồng quốc tế, trong đó 85% là vốn vay ưu đãi, còn lại là
viện trợ không hoàn lại. Riêng năm 2005, cam kết tài trợ vốn ODA cho Việt Nam là 3,4 tỉ
USD. Với sự ổn định về chính trị - xã hội, truyền thống văn hóa, sự phát triển kinh tế


năng động và chính sách đối ngoại rộng mở, môi trường đầu tư thông thoáng, Việt Nam
ngày càng trở thành một điểm đến an toàn và hấp dẫn cho hợp tác và đầu tư quốc tế. Tính
đến hết tháng 7-2005, đã có hơn 5.500 dự án đầu tư nước ngoài từ 64 nước và vùng lãnh
thổ đang hoạt động tại Việt Nam với tổng vốn đầu tư đăng ký trên 48,7 tỉ USD, trong đó
số vốn thực hiện đạt gần 29 tỉ USD. Các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đã trở
thành một bộ phận quan trọng trong nền kinh tế Việt Nam, đóng góp gần 15% GDP và
4,9% tổng thu ngân sách nhà nước, chiếm trên 30% tổng kim ngạch xuất khẩu, tạo ra
hàng vạn công ăn việc làm. Việt Nam đã được các nước ủng hộ đăng cai tổ chức và đã tổ
chức thành công Hội nghị Thượng đỉnh Cộng đồng các nước có sử dụng tiếng Pháp năm
1997, Hội nghị cấp cao ASEAN năm 1998, Hội thảo quốc tế về hợp tác và phát triển Việt
Nam và châu Phi năm 2003, Hội nghị cấp cao ASEM-5 năm 2004. Hội nghị cấp cao
ASEAN lần thứ 15 tại Thái Lan kết thúc ngày 25/10/2009 với việc công bố Việt Nam sẽ
đảm nhiệm cương vị chủ tịch ASEAN trong năm 2010.Qua các hội nghị cấp cao này, Việt
Nam đã để lại dấu ấn của mình trong đời sống chính trị quốc tế đương đại. Việt Nam phối
hợp chặt chẽ với các nền kinh tế thành viên APEC và tích cực tổ chức thành công Hội

nghị Thượng đỉnh APEC tại Hà Nội vào tháng 11-2006. Các mặt công tác thông tin đối
ngoại, công tác đối với cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài... cũng đạt được nhiều
kết quả quan trọng. Đội ngũ cán bộ làm công tác đối ngoại đã có bước trưởng thành nhất
định, triển khai thực hiện có kết quả đường lối và các chủ trương, chính sách đối ngoại
của Đảng. - Thực tiễn hoạt động đối ngoại của ta trong hai mươi mấy năm đổi mới đã
khẳng định đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, hòa bình, hợp tác và phát triển của Đảng
ta là đúng đắn. Chúng ta kiên trì thực hiện nhất quán đường lối đó.Theo tinh thần của
Nghị quyết Đại hội X của Đảng, công tác đối ngoại trong thời gian tới bám sát những
định hướng lớn như sau:
- Tiếp tục mở rộng và phát triển các mối quan hệ đối ngoại của ta đi vào chiều
sâu, ngày càng ổn định và bền vững. Đặc biệt coi trọng và phát triển quan hệ hữu nghị,
hợp tác toàn diện với các nước láng giềng có chung biên giới, các nước Đông - Nam Á và
Hiệp hội các quốc gia Đông - Nam Á (ASEAN). Thúc đẩy quan hệ hợp tác ổn định lâu
dài với các nước lớn, các trung tâm kinh tế, chính trị của thế giới. Mở rộng và tăng cường
quan hệ hợp tác hữu nghị với các nước bạn bè truyền thống, các nước độc lập dân tộc,
các nước đang phát triển ở châu Á, châu Phi, Trung Đông và Mỹ La-tinh, các nước trong
phong trào Không liên kết... Tích cực hoạt động tại các tổ chức quốc tế và khu vực.
Không ngừng phát triển quan hệ với các đảng cộng sản và các đảng cầm quyền ở các
nước xã hội chủ nghĩa và các nước láng giềng có chung biên giới. Mở rộng quan hệ với
các đảng cầm quyền, đảng tham chính ở các nước trong khu vực và các nước có quan hệ
đối tác quan trọng với nước ta. Tăng cường quan hệ với các chính đảng khác có quan hệ
với Đảng ta và hữu nghị với Việt Nam. Phát triển quan hệ với các đoàn thể, các tổ chức
nhân dân ở các nước láng giềng có chung biên giới, các nước xã hội chủ nghĩa, các nước
trong khu vực và các nước lớn. Tích cực hoạt động tại các tổ chức quốc tế và khu vực
quan trọng mà các đoàn thể và tổ chức nhân dân ta là thành viên. Chủ động tham gia tích
cực các phong trào, diễn đàn quốc tế của nhân dân thế giới chống chiến tranh và chạy đua
vũ trang... Mở rộng quan hệ với các tổ chức nhân dân các nước, các tổ chức phi chính
phủ quốc gia và quốc tế...
- Tiếp tục thúc đẩy giải quyết bằng thương lượng hòa bình những vấn đề còn tồn
tại về biên giới, lãnh thổ, biển đảo với các nước liên quan; phấn đấu xây dựng đường biên



giới trên đất liền và trên biển với các nước láng giềng thành đường biên giới hòa bình, ổn
định, hợp tác cùng phát triển.
2.4.2 Hạn chế và nguyên nhân:
Bên cạnh những thành công đã đạt được thì quá trình thực hiện đường lối mở
rộng quan hệ đối ngoại, hội nhập kinh tế quốc tế cũng bộc lộ những hạn chế:
Trong quan hệ với các nước, nhất là các nước lớn, chúng ta còn lúng túng bị động.
Chưa xây dựng quan hệ lợi ích đan xen, tùy thuộc lẫn nhau với các nước. Một số chủ
trương, cơ chế, chính sách chậm được đổi mới so với yêu cầu mở rộng quan hệ đối ngoại,
hội nhập kinh tế quốc tế; hệ thống luật pháp chưa hoàn chỉnh; không đồng bộ gây khó
khăn cho việc thực hiện các cam kết của các tổ chức kinh tế quốc tế. Chưa hình thành
được một kế hoạch tổng thể và dài hạn về hội nhập kinh tế quốc tế và một lộ trình hợp lý
cho việc thực hiện các cam kết. Doanh nghiệp nước ta hầu hết quy mô nhỏ, yếu kém cả
về quản lý và công nghệ; trong lĩnh vực sản xuất công nghiệp, trình độ trang thiết bị lạc
hậu; kết cấu hạ tầng và các nghành dịch vụ cơ bản phục vụ sản xuất kinh doanh đều kém
phát triển và có chi phí cao hơn các nước khác trong khu vực. Đội ngũ cán bộ lĩnh vực
đối ngoại nhìn chung chưa đáp ứng được cả nhu cầu cả về số lượng; cán bộ doanh nghiệp
ít hiểu biết về luật pháp quốc tế, về kỹ thật kinh doanh; công tác tổ chức chỉ đạo chưa sát
và chưa kịp thời.


×