Tải bản đầy đủ (.docx) (39 trang)

TIỂU LUẬN GIÁO DỤC HỌC 2

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (179.97 KB, 39 trang )

THỰC TRẠNG SỬ DỤNG CÁC PHƯƠNG PHÁP GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC
CHO HỌC SINH LỚP 3, TRƯỜNG TIỂU HỌC VĨ DẠ, THÀNH PHỐ HUẾ
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Giáo dục đạo đức là một bộ phận quan trọng của quá trình sư phạm, đặc biệt là
ở Tiểu học. Nó nhằm hình thành những cơ sở ban đầu về mặt đạo đức cho học sinh
giúp các em có cách ứng xử đúng đắn qua các mối quan hệ hằng ngày. Nhân cách
của học sinh được thể hiện trước hết qua bộ mặt đạo đức. Điều này thể hiện qua thái
độ cư xử đối với ông bà, cha mẹ, mọi người xung quanh với thầy cô và bạn bè trong
lớp, qua thái độ học tập và rèn luyện hằng ngày. Đó là cơ sở quan trọng hình thành
những nguyên tắc, chuẩn mực hành vi đạo đức cho học sinh Tiểu học.
Thực hiện cuộc vận động làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh: “Mỗi
thầy giáo, cô giáo là một tấm gương đạo đức, tự học và sáng tạo”. Bác kêu gọi “Vì
tương lai của con em chúng ta, dân tộc ta, mọi người, mọi ngành phải quyết tâm
chăm sóc giáo dục cho các cháu cho tốt”. Những lời dạy đó của Bác được toàn Đảng,
toàn dân hưởng ứng làm theo bằng những việc làm cụ thể, thiết thực để công cuộc
giáo dục ngày càng trở nên tốt hơn, từng bước dựng xây đất nước ngày càng giàu đẹp
hơn để các cháu không những có năng lực mà còn có cả đạo đức làm người. “Người
có tài mà không có đức là người vô dụng, có đức mà không có tài thì làm việc gì
cũng khó”.
Học sinh tiểu học là lứa tuổi học sinh vô tư, hồn nhiên, thật thà và có thói quen
hay bắt chước. Do đó học sinh được tác động bởi những việc tốt nhưng cũng dễ dàng
bị chi phối bởi những ảnh hưởng tiêu cực. Sự hướng dẫn, dìu dắt của thầy cô trong
quá trình hình thành và phát triển nhân cách cho các thế hệ măng non sẽ tác động rất
lớn trong quá trình nhận thức của các em. Câu hỏi luôn đặt ra là làm sao để các em
tiếp thu một cách dễ hiểu và có thể thực hiện một cách thoải mái và tự nguyện. Từ đó,
giáo viên áp dụng các phương pháp để hướng dẫn, giảng dạy cho các em nhằm giúp
cho các em thuận lợi trong quá trình hình thành và phát triển nhân cách, phát huy tối


đa giá trị đạo đức con người. Vì vậy, em chọn đề tài bài tiểu luận: “Thực trạng sử


dụng phương pháp giáo dục đạo đức cho học sinh lớp 3 trường Tiểu học Vỹ Dạ,
thành phố Huế” nhằm đề xuất một số biện pháp giúp việc giáo dục đạo đức cho học
sinh tiểu học có hiệu quả hơn.
2. Mục tiêu nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu lý luận về việc sử dụng các phương pháp giáo dục đạo
đức, đề tài tìm hiểu thực trạng sử dụng các phương pháp giáo dục đạo đức cho học
sinh lớp 3 trường tiểu học Vỹ Dạ, thành phố Huế, từ đó đề xuất một số biện pháp
nhằm nâng cao chất lượng giáo dục đạo đức cho học sinh tiểu học.
3. Khách thể nghiên cứu và đối tượng nghiên cứu
- Khách thể nghiên cứu: Phương pháp giáo dục đạo đức cho học sinh Tiểu học.
- Đối tượng nghiên cứu: Thực trạng sử dụng các phương pháp giáo dục đạo
đức cho học sinh lớp 3 trường tiểu học Vỹ Dạ, thành phố Huế.
4. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Nghiên cứu cơ sở lý luận về thực trạng sử dụng các phương pháp giáo dục
đạo đức cho học sinh tiểu học.
- Khảo sát, phân tích thực trạng về việc sử dụng các phương pháp giáo dục đạo
đức cho học sinh lớp 3 trường tiểu học Vỹ Dạ, thành phố Huế.
- Đề xuất các biện pháp nhằm nâng cao chất lượng giáo dục đạo đức.
5. Phạm vi nghiên cứu
Đề tài khảo sát 7 giáo viên, dạy khối lớp 3 của trường tiểu học Vỹ Dạ, thành
phố Huế.
6. Giả thuyết khoa học
- Nếu giáo viên có nhận thức tốt về việc giáo dục đạo đức cho học sinh thì việc
giáo dục đạo đức cho các em sẽ được quan tâm và có chất lượng hơn.
- Nếu giáo viên biết sử dụng tốt các phương pháp giáo dục đạo đức và kết hợp
các phương pháp giáo dục đạo đức lại với nhau thì hiệu quả của việc giáo dục đạo
đức sẽ cao hơn.


- Nếu mức độ hứng thú của học sinh cao khi được giáo dục bằng các phương

pháp giáo dục đạo đức thì việc giáo dục đạo đức cho các em sẽ trở nên dễ dàng hơn
và hiệu quả hơn.
- Nếu giáo viên nhận thức được những thuận lợi và khó khăn trong việc giáo
dục đạo đức cho học sinh thì giáo viên phải có những phương pháp đề xuất để việc
giáo dục đạo đức cho học sinh được thuận lợi hơn.
7. Các phương pháp nghiên cứu
7.1 Phương pháp nghiên cứu lý luận
Nghiên cứu tài liệu, đọc và phân tích khái quát tài liệu để xây dựng cơ sở lý
luận của đề tài.
7.2 Phương pháp nghiên cứu thực trạng
7.2.1 Phương pháp quan sát
Theo dõi quá trình học tập trên lớp của học sinh lớp 3/1, đặc biệt là theo dõi
tiết học giáo dục đạo đức và tiết sinh hoạt lớp nhằm đánh giá thực trạng sử dụng các
phương pháp giáo dục đạo đức của giáo viên, thái độ của học sinh; tìm hiểu nguyên
nhân và đề xuất các biện pháp nhằm nâng cao chất lượng giáo dục đạo đức cho học
học khối lớp 3.
7.2.2 Phương pháp điều tra bằng bảng hỏi
Khảo sát 7 giáo viên khối lớp 3 nhằm:
- Thu thập một số thông tin về nhận thức tầm quan trọng của việc giáo dục đạo
đức cho học sinh
- Khảo sát thực trạng giáo viên sử dụng các phương pháp giáo dục đạo đức
cho học sinh khối lớp 3
- Thu thập một số thông tin về mức độ hứng thú của học sinh trong quá trình
được giáo dục đạo đức
- Thu thập một số thông tin về thuận lợi và khó khăn của giáo viên trong quá
trình giáo dục đạo đức cho học sinh để từ đó đề xuất một số biện pháp để giáo dục
đạo đức có hiệu quả hơn
7.2.3 Phương pháp phỏng vấn



Phỏng vấn 7 giáo viên khối lớp 3 nhằm thu thập thêm thông tin về việc sử
dụng các phương pháp trong quá trình giáo dục đạo đức cũng như thái độ của học
sinh trong quá trình được giáo dục.
7.3 Phương pháp thống kê toán học để xử lý số liệu nghiên cứu
Sử dụng phương pháp thống kê toán học nhằm phân tích thực trạng vấn đề nghiên
cứu


NỘI DUNG
Chương 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CÁC PHƯƠNG PHÁP GIÁO DỤC ĐẠO
ĐỨC
1.1 Một số khái niệm liên quan đến đề tài nghiên cứu
1.1.1 Đạo đức
Đạo đức là một hiện tượng xã hội, xuất hiện ngay từ giai đoạn đầu tiên khi xã
hội loài người mới hình thành. Đạo đức ra đời, phát triển cùng quá trình biến đổi kinh
tế - xã hội và sự tiến bộ về văn hóa vật chất, tinh thần của con người. Hiện nay có
nhiều quan niệm khác nhau về đạo đức.
Theo quan điểm triết học Mác-Lênin, đạo đức là một hình thái ý thức xã hội,
có quan hệ với các hình thái ý thức xã hội khác, nảy sinh từ tồn tại xã hội, phát triển
cùng sự biến đổi của tồn tại xã hội, của các điều kiện sinh hoạt vật chất, hoàn cảnh
lịch sử - xã hội khác nhau. Nhưng đạo đức khác với các hình thái xã hội khác ở chỗ
nó điều chỉnh hoạt động của con người trong các mối quan hệ xã hội, giúp con người
tự hoàn thiện nhân cách của mình.
Hay theo quan niệm của Duberstin và Linchevski: “Đạo đức là hình thái của
sự nhận thức xã hội, là tất cả những nguyên tắc, những quy định, tiêu chuẩn mà mọi
người tuân theo trong hành vi của mình” [1, tr.12].
Tóm lại: Đạo đức là hệ thống các quy tắc chuẩn mực mà mỗi thành viên trong
xã hội phải tự nhận thức và điều chỉnh hành vi của mình phù hợp với lợi ích chung
của cộng đồng và phù hợp với sự tiến bộ của xã hội.
1.1.2 Phương pháp

Phương pháp là hệ thống những hành động tự giác liên tiếp của con người
nhằm đạt tới kết quả ứng với mục tiêu đã đề ra.
Phương pháp là những hành động có mục đích có tác dụng giúp trình bày có lý
lẽ, vững vàng một chân lý đã được xác định và giúp vạch ra con đường dẫn tới một
chân lý mới.
Như vậy, phương pháp là cách thức, con đường nhằm đạt được mục đích đề ra.
1.1.3 Phương pháp giáo dục


Phương pháp giáo dục là một thành tố quan trọng trong cấu trúc của quá trình
giáo dục, có quan hệ mật thiết với các thành tố khác của quá trình này, đặc biệt với
mục đích, nội dung, người giáo dục, người được giáo dục và các điều kiện để thực
hiện quá trình này.
Vấn đề về phương pháp giáo dục được nhiều nhà giáo dục quan tâm, nghiên
cứu:
Theo tác giả Hà Thế Ngữ và Đặng Vũ Hoạt: Phương pháp giáo dục là phương
thức hoạt động gắn bó với nhau của nhà giáo dục và người được giáo dục nhằm giải
quyết những nhiệm vụ hình thành nhân cách xã hội chủ nghĩa. Đó là những phương
thức tác động của nhà sư phạm và của tập thể trẻ em đến học sinh, đến việc tổ chức
một cách hợp lý về mặt sư phạm hoạt động và giao lưu của học sinh và những
phương tự tổ chức hoạt động và giao lưu của học sinh nhằm hình thành ý thức, bồi
dưỡng tình cảm, hình thành kỹ xảo và thói quen hành vi của nhân cách xã hội chủ
nghĩa.
Tác giả Phạm Viết Vượng lại cho rằng: phương pháp giáo dục là hệ thống
những tác động của nhà giáo dục đến các đối tượng giáo dục thông qua tổ chức cuộc
sống, hoạt động và giao lưu xã hội nhằm giúp họ hình thành ý thức, thái độ, hành vi
phù hợp với các chuẩn mực xã hội.
Tác giả Hà Thị Đức cũng đã khẳng định: Phương pháp giáo dục là cách thức tổ
chức, điều khiển và tự tổ chức, tự điều khiển bằng các loại hình hoạt động phong phú
và đa dạng của giáo viên và học sinh nhằm thực hiện các nhiệm vụ giáo dục phù hợp

với mục đích và mục tiêu giáo dục [7, tr.107].
Nói tóm lại: Phương pháp giáo dục là một tổ hợp các cách thức hoạt động của
nhà giáo dục và người được giáo dục, được thực hiện trong sự thống nhất với nhau,
nhằm thực hiện các nhiệm vụ giáo dục, hoàn thành mục đích giáo dục đã đề ra.
1.1.4 Phương pháp giáo dục đạo đức
Phương pháp giáo dục đạo đức là những cách thức, con đường nhằm hướng tới
con người thông qua một hệ thống biện pháp nhằm truyền thụ những tri thức và kinh
nghiệm, rèn luyện kỹ năng và lối sống, bồi dưỡng tư tưởng và đạo đức cần thiết cho


đối tượng, giúp hình thành và phát triển năng lực, phẩm chất, nhân cách phù hợp với
các mục đích, mục tiêu đã đặt ra.
1.2 Vai trò và chức năng của giáo dục đạo đức
1.2.1 Vai trò của giáo dục đạo đức
Giáo dục đạo đức giúp cho mỗi cá nhân nâng cao trình độ nhận thức về các giá
trị đạo đức, lối sống, từ đó điều chỉnh hành vi của mình sao cho phù hợp với những
chuẩn mực, đạo đức lối sống của xã hội.
Giáo dục đạo đức góp phần gìn giữ, phát huy những giá trị đạo đức mà các thế
hệ trước đã tạo dựng, đồng thời góp phần tích cực trong việc giáo dục hình thành
những giá trị đạo đức, lối sống mới, khắc phục những quan điểm lạc hậu, sự lệch
chuẩn các giá trị đạo đức truyền thống, những thói hư tật xấu hay những hiện tượng
phi đạo đức.
Giáo dục đạo đức có vai trò rất lớn trong việc hình thành ý thức, tình cảm cũng
như các hành vi đạo đức của con người. Đặc biệt trong bối cảnh ngày nay, trước
nhiều biến động phức tạp của đạo đức xã hội, trước những biểu hiện về suy thoái đạo
đức thì công tác giáo dục đạo đức càng trở nên quan trọng và cần được quan tâm.
1.2.2 Chức năng của giáo dục đạo đức
1.2.2.1 Chức năng điều chỉnh hành vi
Sự điều chỉnh hành vi thông qua hai cơ chế. Trước hết thông qua dư luận xã
hội khen ngợi, khuyến khích cái tốt, phê phán, lên án cái xấu. Trường hợp này, tính

đúng đắn của dư luận xã hội có ý nghĩa quan trọng. Thứ hai, bản thân chủ thể có khả
năng tự giác điều chỉnh hành vi đạo đức thông qua chuẩn mực đạo đức xã hội. Cơ chế
thứ hai này phụ thuộc vào trình độ giác ngộ và mức độ tự ý thức của chủ thể. Chủ thể
thực hiện hành vi đạo đức phải luôn luôn so sánh hành vi đạo đức của bản thân với
chuẩn mực đạo đức của xã hội và điều chỉnh cho phù hợp.
1.2.2.2 Chức năng giáo dục
Giáo dục đạo đức là tuyên truyền những tư tưởng đạo đức, những chuẩn mực
đạo đức xã hội, là quá trình chuyển hóa các chuẩn mực thành hành vi của cá nhân phù


hợp với lợi ích của xã hội. Con người tự ý thức, tự đánh giá và tự điều chỉnh hành vi
của mình theo chuẩn mực xã hội.
1.2.2.3 Chức năng nhận thức
Các chuẩn mực, tư tưởng đạo đức có được chuyển hóa vào các quan hệ đạo
đức trong cuộc sống xã hội hay không phụ thuộc rất nhiều vào khả năng tiếp nhận và
chuyển hóa trong nhận thức của chủ thể. Hoạt động nhận thức thể hiện ở hai cấp độ:
cấp độ nhận thức tình cảm kinh nghiệm và cấp độ nhận thức nguyên tắc, lý luận đạo
đức [6, tr.7].
Ba chức năng của đạo đức có quan hệ chặt chẽ với nhau, sự vận hành của chức
năng này là tiền đề, điều kiện của sự vận hành chức năng khác. Từ đó, con người mới
có khả năng lựa chọn, đánh giá đúng đắn các hiện tượng đạo đức xã hội cũng như tự
đánh giá những suy nghĩ, những hành vi của bản thân để điều chỉnh hành vi theo
đúng chuẩn mực đạo đức xã hội.
1.3 Nguyên tắc khi giáo dục đạo đức cho học sinh
Giáo dục đạo đức cho học sinh là nhiệm vụ vô cùng quan trọng trong nhà
trường. Muốn giáo dục đạo đức cho học sinh có chất lượng và hiệu quả thì người giáo
viên không thể bỏ qua những nguyên tắc quan trọng sau:
Người giáo viên là tấm gương mẫu mực cho các em học sinh: Trong công tác
giáo dục đạo đức, người giáo viên cần có nhân cách mẫu mực và đảm bảo sự thống
nhất giữa các ảnh hưởng giáo dục đối vơi học sinh. Lời dạy của các thầy cô có hay

đến đâu cũng không thể thay thế được những ảnh hưởng trực tiếp của nhân cách
người thầy đối với học sinh.
Giáo dục bằng cách thuyết phục và phát huy tính tự giác: Phải giáo dục đạo
đức cho học sinh bằng cách thuyết phục và phát huy tính tự giác chứ không phải bằng
cưỡng ép, mệnh lệnh, dọa nạt, biến học sinh thành thụ động sợ sệt và rụt rè. Nguyên
tắc này cũng đòi hỏi người giáo viên phải kiên trì, nhẫn nại và có tình yêu thương học
sinh sâu sắc.
Phát huy ưu điểm và khắc phục khuyết điểm: Đặc điểm của học sinh tiểu học
là được khen. Nếu giáo dục đạo đức cho học sinh, luôn nêu những cái xấu, chưa tốt


của các em thì các em sẽ cảm thấy chán nản, thiếu tự tin. Vì vậy, người giáo viên phải
trân trọng những mặt tốt của các em và có niềm tin các em sẽ khắc phục được những
khuyết điểm của mình.
Tôn trọng nhân cách học sinh: Trong quá trình giáo dục người giáo viên phải
tôn trọng nhân cách học sinh, không được làm các em tổn thương cả về thể xác và
tinh thần. Do đó, người giáo viên phải yêu thương học sinh và cũng phải nghiêm khắc
với các em.
Quan tâm đến đặc điểm lứa tuổi và hoàn cảnh cá nhân học sinh: Cần quan tâm
đến đặc điểm và hoàn cảnh của từng em. Đối với mỗi em thì sẽ có những cách giáo
dục khác nhau. Người giáo viên phải sâu sát, nắm chắc từng em, hiểu rõ cá tính để có
phương pháp giáo dục phù hợp.
1.4 Các phương pháp giáo dục đạo đức cho học sinh
Phương pháp giáo dục đạo đức cho học sinh Tiểu học là cách thức, con đường
hoạt động thống nhất giữa giáo viên và học sinh dưới tác động chủ yếu của giáo viên,
với vai trò tích cực, tự giác của học sinh nhằm giải quyết các nhiệm vụ, và đạt được
những mục tiêu trong bài học.
Trong thực tiễn giáo dục đạo đức cho học sinh Tiểu học, để đạt được mục tiêu
của bài học thì giáo viên có thể áp dụng nhiều phương pháp giáo dục khác nhau để
tạo hứng thú của học sinh đối với môn học, giáo dục thái độ và tình cảm của các em.

Qua đó giúp các em hình thành những hành vi, thói quen đạo đức.
Có nhiều quan niệm khác nhau về phân loại các phương pháp giáo dục, điều
này phụ thuộc vào việc lựa chọn cơ sở phân loại. Dưới đây là cách phân loại được
thừa nhận rộng rãi hơn cả. Theo cách phân loại này, các phương pháp giáo dục được
chia làm bốn nhóm là:
- Nhóm phương pháp hình thành ý thức cá nhân. Bao gồm các phương pháp:
Đàm thoại, kể chuyện, giảng giải, nêu gương
- Nhóm các phương pháp tổ chức hoạt động và hình thành kỹ năng, hành vi
ứng xử. Bao gồm các phương pháp: Yêu cầu sư phạm, luyện tập, thảo luận, rèn luyện.


- Nhóm phương pháp kích thích hoạt động và điều chỉnh hành vi. Bao gồm các
phương pháp: Khuyến khích, trách phạt
- Nhóm các phương pháp kiểm tra đánh giá kết quả giáo dục. Bao gồm các
phương pháp: Kiểm tra đánh giá qua lời nói; kiểm tra đánh giá qua bài viết trắc
nghiệm, tự luận; kiểm tra và đánh giá qua bài viết trắc nghiệm khách quan; kiểm tra
và đánh giá qua hành động, việc làm của học sinh; Kiểm tra và đánh giá thông qua
các lực lượng giáo dục [5, tr.117]
Có rất nhiều phương pháp để giáo dục đạo đức cho học sinh, tuy nhiên chỉ có
một vài phương pháp giáo dục đạo đức phổ biến, bao gồm các phương pháp:
1.4.1 Phương pháp kể chuyện
1.4.1.1 Khái niệm
Kể chuyện là phương pháp dùng lời kể để thuật lại truyện kể đạo đức nhằm
giúp học sinh nắm được nội dung và từ đó rút ra bài học đạo đức cần thiết.
Đặc điểm của phương pháp này là: Trong truyện kể, một hay một số nhân vật cần giải
quyết một tình huống đạo đức gặp phải. Cách ứng xử của nhân vật sẽ dẫn đến những
kết quả hay hậu quả nhất định theo luật nhân quả. Nếu đây là kết quả tích cực (xảy ra
những điều tốt đẹp, có lợi) thì học sinh cần rút ra bài học là: cần noi theo hành vi,
việc làm tương tự. Nếu đó là hậu quả tiêu cực (dẫn đến những diều ác, điều xấu, điều
có hại) thì học sinh cần tránh những hành vi, việc làm đó.

1.4.1.2 Các bước tiến hành
a. Bước chuẩn bị
Trong quá trình chuẩn bị, giáo viên cần:
- Lựa chọn câu chuyện kể phù hợp với khả năng tiếp thu của học sinh, gây
được hứng thú với các em, có tác dụng giáo dục thiết thực, dễ rút ra được bài học để
giáo dục đạo đức cho các em.
- Xác định được tư tưởng chủ đạo, khả năng giáo dục, các tình tiết cơ bản, các
tình huống đạo đức, các đặc điểm nhân vật của truyện kể nhằm nắm vững truyện kể.
b. Bước kể chuyện


- Giáo viên khái quát về truyện kể: Giáo viên có thể nêu đánh giá chung về câu
chuyện sắp kể nhằm giúp học sinh định hướng tốt hơn về nội dung câu chuyện, nhờ
đó mà việc lĩnh hội của học sinh cũng đạt kết quả cao hơn.
- Giáo viên thuật lại truyện kể: Giáo viên kể chuyện bằng ngôn ngữ trực tiếp
hay gián tiếp và kết hợp nhịp nhàng với việc trình bày trực quan. Trong quá trình kể,
giáo viên có thể dừng lại ở một số thời điểm để đặt câu hỏi cho học sinh đoán diễn
biến của câu chuyện rồi tiếp tục kể tiếp. Sau đó có thể cho học sinh kể lại câu chuyện.
c. Bước phân tích truyện kể
Để giúp các em nắm vững biểu tượng về chuẩn mực hành vi đạo đức và rút ra
kết luận thích hợp, giáo viên nêu ra một số câu hỏi liên quan đến nội dung câu
chuyện.
1.4.1.3 Những yêu cầu sư phạm
- Giáo viên cần nắm vững chuyện kể với tư tưởng chủ đạo, các tình tiết cơ bản,
các tình huống đao đức, các đặc điểm nhân vật, tránh tình trạng nắm đến đâu hay đến
đó.
- Cần dùng ngôn ngữ trong sáng, dễ hiểu, giàu hình ảnh và gợi cảm của chính
mình, đảm bảo cho việc kể chuyện được tự nhiên, sinh động. Tránh kể chuyện một
cách khô khan, nhàm chán.
- Khi kể chuyện cần tạo lại được những tình huống đạo đức, tái tạo đầy đủ

những chi tiết cơ bản, đặt học sinh vào những tình huống đó và kích thích các em tích
cực theo dõi, suy nghĩ. Tránh kể lan man, dàn đều.
- Khả năng nhập vai, hòa thực sự tâm hồn của mình vào truyện kể để kể
chuyện được tự nhiên, hấp dẫn với giọng nói, dáng điệu, vẻ mặt phù hợp.
- Nên kết hợp kể chuyện với sử dụng các phương tiện trực quan thích hợp,
tránh kể suông [6, tr.125]
1.4.2 Phương pháp giảng giải và khuyên răn
1.4.2.1 Khái niệm
Phương pháp giảng giải, khuyên răn là phương pháp nhà giáo dục dùng lời nói
để thông báo, phân tích, giải thích, chứng minh tính đúng đắn của các chuẩn mực đã


được xã hội quy định, giúp người được giáo dục nắm vững ý nghĩa, nội dung và cách
thực hiện các nguyên tắc và chuẩn mực về văn hóa, đạo đức và lối sống, hình thành ở
người được giáo dục niềm tin và mong muốn thực hiện chúng [1, tr.57].
1.4.2.2 Các bước tiến hành
a. Bước chuẩn bị
Trong quá trình chuẩn bị, giáo viên cần:
- Xác định nội dung giảng giải: Căn cứ vào chủ đề đạo đức, đặc điểm tâm sinh
lý, khả năng nhận thức của học sinh, … giáo viên cần xác định được những nội dung
giảng giải và khuyên răn phù hợp.
- Giáo viên cần lựa chọn ví dụ, dẫn chứng minh họa, phương tiện trực quan
cho những điều giảng giải. Tốt nhất là lấy dẫn chứng trong thực tế cuộc sống mà các
em biết rõ.
b. Bước giảng giải
- Trước hết giáo viên cần nêu lên một số hiện tượng có thực trong thực tế để
trên cơ sở đó cần dẫn dắt vào vấn đề cần giảng giải và khuyên răn. Bằng cách đó,
giáo viên giúp các em thấy được tính thời sự và tạo nên hứng thú và chăm chú của
các em trong quá trình giáo dục.
- Trong quá trình giảng giải, giáo viên có thể kết hợp với đàm thoại, trình bày

trực quan, nêu gương… nhưng cần chú ý đến tư duy của học sinh đang còn hạn chế
nên cần phải giảng giải vừa sức với học sinh và khuyên răn nhẹ nhàng đối với các
em.
1.4.2.3 Những yêu cầu sư phạm
- Cần đảm bảo lời giảng giải được trong sáng, giàu hình ảnh, ngắn gọn, có tính
logic, có tính thuyết phục
- Khi khuyên răn các em cần nhẹ nhàng, từ tốn, nói ngắn ngọn và thuyết phục
- Tránh lạm dụng phương pháp giảng giải, chỉ nên sử dụng trong những trường
hợp chuẩn mực hành vi trừu tượng, khả năng của học sinh lại hạn chế, khó vận dụng
những hiệu quả bằng những phương pháp khác.
1.4.3 Phương pháp vấn đáp


1.4.3.1 Khái niệm
Phương pháp vấn đáp hay còn gọi là đàm thoại là phương pháp tổ chức trò
chuyện chủ yếu là giữa giáo viên và học sinh, về các vấn đề đạo đức, dựa trên một hệ
thống câu hỏi đã được chuẩn bị.
1.4.3.2 Các bước tiến hành
a. Bước chuẩn bị
Trong khi chuẩn bị, giáo viên cần:
- Xây dựng hệ thống câu hỏi: Căn cứ vào tính chất của chuẩn mực hành vi đạo
đức, nội dung của chuyện kể, khả năng kinh nghiệm sống của học sinh… để xây
dựng hệ thống câu hỏi phù hợp.
- Dự kiến đáp án trả lời các câu hỏi đã xây dựng và khả năng trả lời của học
sinh.
- Dự kiến phương án gợi ý cho những câu hỏi khó.
b. Bước vấn đáp
Trong vấn đáp, giáo viên chỉ nên hỏi, không nói nhiều, không trả lời thay cho
học sinh. Đối với những câu hỏi khó giáo viên có thể gợi ý cho các em, nếu học sinh
trả lời không đầy đủ thì yêu cầu các em khác bổ sung.

c. Bước tổng kết
Sau khi học sinh trả lời xong hệ thông câu hỏi, giáo viên hoặc học sinh tổng
kết ngắn gọn về nội dung cơ bản của kết luận vấn đáp
1.4.3.3 Những yêu cầu sư phạm
- Các câu hỏi cần được chuẩn bị trước thành một hệ thống trên cơ sở tính đến
yêu cầu của việc giáo dục đạo đức, nội dung chuyện kể, trình độ nhận thức và kinh
nghiệm sống của học sinh.
- Hệ thống câu hỏi gồm những câu hỏi có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, tạo
nên một thể thống nhất nhằm dẫn dắt cho học sinh đến những chuẩn mực cần thực
hiện.
- Câu hỏi phải rõ ràng, chính xác, dễ hiểu, tránh những câu hỏi chung chung,
khó hiểu.


- Câu hỏi phát huy được tính tích cực, đọc lập, tư duy của học sinh
- Giáo viên không trả lời thay cho học sinh [1,tr.54].
1.4.4 Phương pháp nêu gương
1.4.4.1 Khái niệm
Nêu gương là phương pháp giáo dục, trong đó nhà giáo dục dùng những tấm
gương sáng của cá nhân, tập thể trong cuộc sống thực tiễn, trong sách vở, báo chí,
trong các phương tiện thông tin đại chúng hoặc bằng chính hành động của bản thân
để kích thích tính tích cực hoạt động, tu dưỡng rèn luyện của người được giáo dục,
động viên khuyến khích họ phấn đấu làm theo những tấm gương đó [2].
1.4.4.2 Các bước tiến hành
a. Bước chuẩn bị
- Lựa chọn tấm gương: Căn cứ vào nhiệm vụ, nội dung giáo dục, đặc điểm tâm
sinh lý, đặc điểm đời sống, khả năng, kinh nghiệm của học sinh… mà giáo viên lựa
chọn tấm gương phù hợp để nêu gương.
- Giáo viên có thể chuẩn bị các bức tranh ảnh liên quan đến tấm gương để
minh họa.

b. Bước nêu gương
Bằng biện pháp kể chuyện, đàm thoại, giải thích, trình bày trực quan… giáo
viên giúp học sinh ý thức được tấm gương đó là tốt và vì sao lại tốt. Trên cơ sở đó các
em sẽ rút ra được kết luận phù hợp, nên bắt chước hay tránh tấm gương vừa nêu.
Điều đặc biệt của phương pháp này là phải gây được cho các em ấn tượng, cảm xúc
làm cho các em ghi nhớ tấm gương lâu hơn là luôn nhắc nhở các em.
1.4.4.3 Những yêu cầu sư phạm
- Giáo viên cần kích thích, khuyến khích, động viên học sinh học tập theo tấm
gương đã được học.
- Bản thân giáo viên cũng là một tấm gương để học sinh học hỏi và noi theo.
1.4.5 Phương pháp trách phạt
1.4.5.1 Khái niệm


Trách phạt là phương pháp là phương pháp biểu thị sự không đồng tình, sự
phản đối, phê phán những hành vi sai trái của người được giáo dục so với các chuẩn
mực xã hội đã được đề ra. Trách phạt còn là phương pháp gây cho người có lỗi cảm
giác hối hận, khiến họ từ bỏ hành vi, thói quen không phù hợp với yêu cầu chung
hoặc có hại cho bản thân, cho xã hội, giúp người được giáo dục biết kết hợp đúng đắn
giữa hành vi của mình với yêu cầu chung của tập thể, xã hội.
1.4.5.2 Các hình thức trách phạt
- Trách phạt được thực hiện dưới nhiều hình thức khác nhau như: nhắc nhở,
phê bình, cảnh cáo, đuổi học…
- Các hình thức này phản ánh các mức độ khác nhau của trách phạt. Vì vậy, khi
vận dụng vào các trường hợp cụ thể cần phải căn cứ vào:
+ Từng loại hành vi sai lệch: Mức dộ nghiêm trọng, vô tình hay cố ý, lần đầu
hay tái hiện…
+ Phạm vi và mức độ tác hại do hành vi sai lệch gây ra là nhiều hay ít, rộng
hay hẹp…
1.4.5.3 Những yêu cầu sư phạm

- Giáo viên trách phạt phải chính xác, khách quan, công bằng, được tập thể học
sinh ủng hộ
- Tôn trọng nhân cách của học sinh, không được gây cho trẻ những tổn thương
về tinh thần và thể xác.
- Giáo viên nên biết cách trách phạt đúng mực và đúng giới hạn cho phép của
điều lệ nhà trường [5, tr.149].
1.4.6 Phương pháp khen thưởng
1.4.6.1 Khái niệm
Khen thưởng là một phương pháp giáo viên đánh giá tích cực đối với hoạt
động và hành vi ứng xử của cá nhân học sinh hay của nhóm tập thể học sinh. Khen
thưởng là cách tạo dư luận xã hội tích cực, đồng tình, khích lệ, ủng hộ hành vi đúng
đắn. Qua đó, học sinh cảm thấy hài lòng, phấn khởi, có thêm nghị lực, tự tin vào sức
lực của mình và có mong muốn tiếp tục hành vi đó [1, tr.64].


1.4.6.2 Tác dụng của khen thưởng
- Khẳng định những hành vi đã có là đúng đắn, phù hợp với các chuẩn mực xã
hội đã quy định
- Giúp cho cá nhân và tập thể có thể tự khẳng định những hành vi tốt của
mình, củng cố và phát triển niềm tin về các chuẩn mực xã hội có liên quan đến những
hành vi đã thực hiện
- Kích thích được việc tiếp tục duy trì và phát triển những hành vi tích cực
đồng thời tránh được những hành vi tiêu cực, không phù hợp.
1.4.6.3 Những yêu cầu sư phạm
- Cần khen thưởng cho học sinh phải công minh, đúng lúc, kịp thời, tránh hiện
tượng thiên vị hay chỉ dành liên tục cho một số em nào đó.
- Cần tạo cho học sinh biết quý trọng bản thân sự việc được khen chứ không
chỉ coi trọng giá trị của lời khen và vật được thưởng.
- Cần chú ý khen những học sinh nhút nhát và thiếu tự tin
- Không nên quá lạm dụng việc khen thưởng cho học sinh

1.4.7 Phương pháp thi đua
1.4.7.1 Khái niệm
Thi đua là phương thức kích thích khuynh hướng tự khẳng định ở mỗi học
sinh, thúc đẩy các em đua tài, gắng sức, hăng hái vươn lên hàng đầu, luôn cuốn người
khác cùng tiến lên để giành được những thành tích cá nhân và tập thể cao nhất.
1.4.7.2 Tác dụng của phương pháp
Trong thi đua, người được giáo dục với tư cách là người tham gia cuộc thi nên
sẽ có những điều kiện tinh thần rất thuận lợi do không khí thi đua tạo nên để phát huy
tính tích cực, tự giác, chủ động và sáng tạo của mình trong các hoạt động. Vì vậy, có
thể hình thành và phát triển một cách nhanh chóng và vững chắc những phẩm chất và
năng lực cần thiết. Ngoài ra, phương pháp này còn có tác dụng kích thích sự nỗ lực
vươn lên của cá nhân và tập thể, đề cao tinh thần trách nhiệm và hình thành mối quan
hệ tương trợ và giúp đỡ lẫn nhau giữa những người được giáo dục.
1.4.7.3 Những yêu cầu sư phạm


- Giáo viên cần tổ chức thi đua với những mục tiêu cụ thể, rõ ràng và thiết
thực.
- Động viên học sinh tham gia với động cơ đúng đắn, sáng tạo nhiều hình thức
mới mẻ, hấp dẫn.
- Giáo viên phải công tâm, khách quan công khai những kết quả đạt được
trong thi đua, tiến hành tổng kết, khen thưởng công bằng đối với các em học sinh đã
có nhiều nỗ lực trong thi đua.
1.4.8 Phương pháp giao việc
1.4.8.1 Khái niệm
Phương pháp giao việc là phương pháp lôi cuốn học sinh vào các hoạt động đa
dạng với những công việc cụ thể, với những nghĩa vụ xã hội nhất định. Qua đó, học
sinh sẽ có điều kiện để thể hiện những kinh nghiệm vốn có của mình hình thành được
những hành vi phù hợp với công việc được giao, thu nhận kiến thức phù hợp
1.4.8.2 Các bước chuẩn bị

- Lựa chọn bài dạy phù hợp với phương pháp giao việc
- Xây dựng kế hoạch: Căn cứ vào mục tiêu của bài, điều kiện, phương tiện dạy
học cũng như đặc điểm trình độ nhận thức của học sinh trong lớp và kinh nghiệm của
bản thân mà giáo viên sẽ lập ra những hệ thống câu hỏi và phân chia ra công việc cho
từng nhóm hay làm việc cá nhân.
- Trong quá trình học sinh thực hiện nhiệm vụ được giao, giáo viên cần hỗ trợ
gợi ý giúp các em tìm kiếm thông tin và kiểm tra tiến độ thực hiện của các em.
1.4.8.3 Những yêu cầu sư phạm
- Giáo viên cần xây dựng kế hoạch dạy học cụ thể, chi tiết trong việc phân
công nhiệm vụ cho từng cá nhân học sinh hay từng nhóm học sinh.
- Giáo viên hướng dẫn và theo dõi các em trong quá trình làm nhiệm vụ được
giao.
- Giáo viên cần chú ý đặc điểm của từng học sinh như: tính cách, điều kiện
sống, nơi ở… để tránh giao nhiệm vụ không phù hợp, quá sức đối với học sinh.
1.5 Đặc điểm tâm lý học sinh tiểu học




Đặc điểm về thể chất
So với lứa tuổi mẫu giáo, lứa tuổi học sinh tiểu học đang diễn ra sự kiện hoàn

toàn đáng kể về mặt cơ thể. Cơ thể của các em đang trong thời kỳ phát triển : não bộ,
hệ xương, hoạt động của hệ tim mạch, hệ thần kinh. Đây là tiền đề vật chất quan
trọng, tạo điều kiện cho trẻ chuyển sang hoạt động khác về chất so với hoạt động vui
chơi ở lứa tuổi mẫu giáo.


Sự phát triển về nhân cách
Nét tính cách của các em đang dần được hình thành, đặc biệt trong môi trường


nhà trường đang còn nhiều mới lạ, các em có thể nhút nhát, rụt rè cũng có thể sôi nổi,
mạnh dạn…Sau 5 năm học, “ tính cách học đường” mới dần ổn định và bền vững
Nhìn chung việc hình thành nhân cách của học sinh tiểu học mang những đặc
điểm như: Nhân cách của các em lúc này mang tính chỉnh thể và hồn nhiên, trong quá
trình phát triển các em luôn bộc lộ những nhận thức, tư tưởng, tình cảm, ý nghĩ của
mình một cách vô tư, hồn nhiên, thật thà và ngay thẳng. Các em luôn bắt chước với
những người xunh quanh, đặc biệt là thầy cô của mình. Nhân cách của các em lúc này
còn mang tính tiềm ẩn, những năng lực, tố chất của các em còn chưa bộc lộ rõ rệt,
nếu có được tác động thích ứng chúng sẽ bộc lộ và phát triển. Đặc biệt, nhân cách của
các em con mang tính đang hình thành, việc hình thành nhân cách không thể diễn ra
một sớm một chiều, với học sinh tiểu học còn đang trong quá trình phát triển toàn
diện về mọi mặt vì thế mà nhân cách của các em sẽ được hoàn thiện dần cùng với tiến
trình phát triển của mình [3].


Đặc điểm về hoạt động nhận thức
Hoạt động nhận thức của học sinh tiểu học có những biến đổi quan trọng cả về

tri giác, chú ý, trí nhớ, tư duy và tưởng tượng. Hoạt động nhận thức có tính chất mở
rộng theo năng lực và sở trường, các em có thể phối hợp các thao tác tư duy như phân
tích, tổng hợp, so sánh… Nhưng các thao tác trí tuệ đang còn ở mức phát triển trong
quá trình lĩnh hội tri thức.
Tóm lại, một số đặc điểm tâm lý nổi bật của học tiểu học sinh như hình thành
được nhận thức, tư duy và ý thức phát triển… đã tạo điều kiện cho học sinh có khả


năng học hỏi, tìm tòi, biết chuyển những nhận thức thành hành vi và thói quen, rất
thuận lợi cho giáo viên dạy học và giáo dục đạo đức cho các em.
Tiểu kết chương 1

Trong phần cơ sở lý luận của đề tài đã tập trung làm sáng tỏ các vấn đề cơ bản
sau:
1. Các khái niệm: Đạo đức, phương pháp, phương pháp giáo dục, phương pháp
giáo dục đạo đức.
2. Những vấn đề cơ bản về phương pháp giáo dục đạo đức: Vai trò và chức
năng của giáo dục đạo đức, các nguyên tắc khi giáo dục đạo đức cho học sinh, bốn
nhóm phương pháp giáo dục đạo đức với các phương pháp giáo dục phổ biến như:
phương pháp vấn đáp, nêu gương, kể chuyện, giảng giải và khuyên răn, trách phạt,
khen thưởng, thi đua, giao việc.
Chương 2. THỰC TRẠNG SỬ DỤNG CÁC PHƯƠNG PHÁP GIÁO DỤC ĐẠO
ĐỨC CHO HỌC SINH LỚP 3, TRƯỜNG TIỂU HỌC VĨ DẠ
2.1 Giới thiệu về trường Tiểu học Vỹ Dạ
Trường tiểu học Vỹ Dạ thuộc phường Vỹ Dạ nằm về phía Đông Nam Thành
phố Huế. Trường được tách ra từ trường cấp 1, cấp 2 Vỹ Dạ vào năm 1995 theo quyết
định số 283/TCCB ngày 31/05/1995 của Sở GD&ĐT Thừa Thiên Huế. Trường lúc
đầu nằm ở địa chỉ 225 Nguyễn Sinh Cung, Huế đến năm 2008 được sự quan tâm của
Ủy ban nhân dân thành phố Huế và của chính quyền địa phương đã xây dựng 1 ngôi
trường khang trang, rộng rãi ở địa chỉ 57A Lâm Hoằng để phục vụ công tác dạy và
học. Vì vậy từ năm 2008 đến nay chất lượng giáo dục của trường ngày một đi lên rõ
rệt, số lượng học sinh giỏi, học sinh hoàn thành chương trình ngày càng tăng và hạn
chế được số lượng học sinh yếu ở các lớp. Năm 2009 - 2010 trường được công nhận
là trường đạt chuẩn Quốc gia mức độ I và xây dựng được "Trường học thân thiện học
sinh tích cực" đạt loại tốt. Trong thời gian đến trường phấn đấu duy trì và nâng cao
chất lượng giáo dục một bền vững, đồng thời quyết tâm xây dựng trường đạt chuẩn
Quốc gia mức độ II của thành phố.
Chi bộ bao gồm 10 thành viên (1 hiệu trưởng và 1 phó hiệu trưởng), trong đó


Hiệu trưởng là thầy Nguyễn Hồ An có nhiệm vụ điều hành chung, phụ trách chuyên
môn, kí các văn bản, chứng chỉ theo thẩm quyền. Phó hiệu trưởng 1 là Cô Ngô Thị

Thanh Nhàn có nhiệm vụ phụ trách chuyên môn khối 1, 2, 3 và công tác bán trú công
đoàn. Phó hiệu trưởng 2 là Thầy Nguyễn Thế Sinh có nhiệm vụ phụ trách chuyên
môn khối 4,5 và công tác hoạt động ngoài giờ lên lớp. Phụ trách Đoàn thanh niên là
thầy Thạch Huy Thắng, có nhiệm vụ phụ trách công tác Đoàn, Đội theo quy định.
Các tổ chuyên môn (gồm 7 tổ chuyên môn) có nhiệm vụ tổ chức chuyên môn,
xây dựng chương trình đào tạo,kiểm tra giáo án các giáo viên.
Tổ khối 1 (5 thành viên): do cô Hồ Thị Hiếu Hạnh làm tổ trưởng.
Tổ khối 2 (6 thành viên): do cô Đinh Thị Thu làm tổ trưởng.
Tổ khối 3 (7 thành viên): do thầy Trần Văn Tiêm làm tổ trưởng.
Tổ khối 4 (5 thành viên): do thầy Lê Quốc Cường làm tổ trưởng.
Tổ khối 5 (5 thành viên): do cô Lê Thị Hoài Nhơn làm tổ trưởng.
Tổ Anh văn-Tin học(7 thành viên): do cô Lê Thị Mai Thảo làm tổ trưởng.
Tổ văn thể mỹ(7 thành viên): do thầy Trần Đăng Khoa làm tổ trưởng.
Trường có tổng số cán bộ, giáo viên là 51, trong đó Đảng viên 12, trình độ đào
tạo đại học là 31 giáo viên, cao đẳng là 17, trung cấp 1, nhân viên là 5. Tổng số học
sinh toàn trường là 1057 học sinh, trong đó có 513 học sinh nữ.
Khối học sinh lớp 3 có 230 học sinh, trong đó học sinh nữ có 120 học sinh.
Các em học sinh ngoan ngoãn và tích cực tham gia các hoạt đông mà trường và lớp
phát động. Các em học tập chăm chỉ và nghiêm túc trong mỗi tiết học. Đặc biệt, các
em rất thích thú khi được tham gia các buổi học ngoại khóa. Các em biết quan tâm,
chia sẻ và giúp đỡ lẫn nhau trong học tập cũng như trong vui chơi. Bên cạnh đó, còn
có một số em còn ham chơi và chưa chú tâm vào việc học tập. Nhưng nhìn chung, các
em đều rất chăm ngoan và nghe lời thầy cô giáo.
2.2 Thực trạng sử dụng các phương pháp giáo dục đạo đức cho học sinh lớp 3,
trường tiểu học Vỹ Dạ, thành phố Huế.
Để thấy được vai trò của việc giáo dục đạo đức và mức độ sử dụng các phương
pháp sử dụng đạo đức và hiệu quả của các phương pháp này như thế nào thì tác giả đã


tiến hành trưng cầu ý kiến của 7 giáo viên dạy lớp 3 trường Tiểu học Vỹ Dạ, thành

phố Huế.
2.2.1 Nhận thức của giáo viên về tầm quan trọng của việc giáo dục đạo đức cho học
sinh
Khi hỏi các thầy cô dạy khối lớp 3 câu hỏi: “Thầy cô có suy nghĩ như thế nào
về việc giáo dục đạo đức cho học sinh tiểu học?” thì các thầy cô đưa ra nhiều cách
nghĩ khác nhau: “Giáo dục đạo đức cho học sinh tiểu học là việc làm rất quan trọng
và cần thiết”; “Giáo dục đạo đức cho học sinh là một công việc rất khó. Muốn đạt
được kết quả tốt phải có sự phối hợp chặt chẽ giữa gia đình và xã hội” hay là: “Rất
quan trọng vì việc giáo dục ảnh hưởng đến việc hình thành nhân cách học sinh”. Các
câu trả lời của thầy cô mặc dù có hình thức trả lời khác nhau nhưng nhìn chung các
thầy cô đã đánh giá giáo dục đạo đức cho học sinh là việc làm vô cùng quan trọng và
cần thiết, cần phải có phương pháp và sự phối hợp của gia đình, nhà trường và xã hội.
Thầy cô đã nhận thức được tầm quan trọng của việc giáo dục đạo đức và khi
được hỏi: “Việc giáo dục đạo đức của học sinh có tầm quan trọng như thế nào?” thì
các thầy cô đã đồng nhất quan điểm là “Rất quan trọng”. Điều rất quan trọng này
được thầy cố lý giải như sau: “ Các em còn nhỏ nên rất khó để có thể học được
những điều tốt nhưng rất dễ bị tiêm nhiễm bởi những thói xấu”; “Ảnh hưởng đến
việc hình thành và phát triển nhân cách của học sinh”. Các thầy cô đã có một nhận
thức đúng đắn về tầm quan trọng của việc giáo dục đạo đức cho học sinh.
Mục đích của việc giáo dục đạo đức được thầy cô đánh vào phiếu khảo sát: Có
3 giáo viên chọn phương án “Giúp các em phát triển toàn diện, hoàn thiện về nhân
cách”. Có 4 giáo viên lựa chọn phương án: “Giúp các em phát triển toàn diện, hoàn
thiện về nhân cách và giúp các em thấy được quyền lợi, trách nhiệm và nghĩa vụ của
bản thân”. Không có giáo viên nào cho rằng mục đích của giáo dục đạo đức cho học
sinh là “Giúp các em tuân thủ theo yêu cầu, mệnh lệnh của người lớn”. Với phần
nhận thức về mục đích giáo dục cho học sinh các thầy cô đã đưa ra được lợi ích mà
học được được giáo dục là hình thành nhân cách, hoàn thiện các phẩm chất đạo đức,


biết phân biệt tốt, xấu, đúng, sai chứ không phải để người lớn hay một ai yêu cầu, ra

lệnh và làm theo.
Qua câu trả lời của thầy cô, cho thấy thầy cô đã có nhận thức sâu sắc về việc
giáo dục đạo đức cho học sinh. Điều này chứng tỏ thầy cô đã chú trọng quan tâm giáo
dục đạo đức cho học sinh để giúp các em hình thành và phát triển nhân cách một cách
toàn diện. Nhận thức đúng đắn của thầy cô đáp ứng được yêu cầu mà giả thuyết của
đề tài đặt ra. Việc nâng cao chất lượng giáo dục đạo đức sẽ trở nên dễ dàng hơn và
hiệu quả hơn.
2.2.2 Các phương pháp giáo dục đạo đức cho học sinh lớp 3 được sử dụng ở nhà
trường
Để có thể giáo dục đạo đức tốt cho học sinh tiểu học thì thầy cô đã sử dụng
nhiều phương pháp giáo dục khác nhau, có thể liệt kê các phương pháp như: Phương
pháp vấn đáp, phương pháp trách phạt, phương pháp khen thưởng, phương pháp thi
đua, phương pháp giảng giải và khuyên răn, phương pháp nêu gương, phương pháp
kể chuyện, phương pháp giao việc.
Khi được hỏi: “Thầy cô thường sử dụng phương pháp nào thường xuyên
nhất?” thì mỗi thầy cô có một phương án riêng. Có đáp án là: “phương pháp giảng
giải và khuyên răn, vì giúp học sinh có thêm nhận thức về hành vi và việc làm của
mình”; Cũng với phương pháp này nhưng có cách lý giảng là: “Phù hợp với tâm lý
của các em, các em cần nhẹ nhàng và tình cảm, luôn quan tâm và giảng giải cho các
em những việc làm chưa đúng”. Có thầy cô chọn phương pháp kể chuyện vì: “Thông
qua những câu chuyện kể để tác động vào tâm lý học sinh, hình thành trong các em
những tình cảm tích cực để các em dễ nhận ra những điều đúng sai”. Cùng chọn là
phương pháp vấn đáp và thầy cô cho rằng: “trao đổi với học sinh nhiều lần giúp các
em phát hiện và thấy được những điều đúng sai và từ đó các em biết tự điều chỉnh
hành vi của mình”. Có thầy cô lựa chọn phương pháp khen thưởng vì theo thầy cô
“các em khi được khen thưởng có tâm lý vui mừng, hồ hởi và muốn được khen nhiều
hơn vì vậy các em càng phát huy những việc làm tích cực và hạn chế những việc làm
tiêu cực”. Hay một lựa chọn phương pháp giảng dạy khác là thi đua vì: “Giúp các



em biết phấn đấu và thi đua một cách lành mạnh với các bạn trong lớp để ngày càng
hoàn thiện hơn”.
Có nhiều phương pháp giáo dục đạo đức cho học sinh, trong có có tám phương
pháp được sử dụng phổ biến ở nhà trường. Mỗi thầy cô đã đưa ra phương pháp cụ thể
mà bản thân thầy cô hay sử dụng nhất. Mỗi phương pháp có những ưu và nhược điểm
riêng. Tuy nhiên, các thầy cô đã biết phát huy ưu điểm của mỗi phương pháp và chọn
phương pháp phù hợp với đặc điểm tâm sinh lý của học sinh. Lựa chọn và đưa ra
được phương pháp sử dụng thường xuyên mà giáo viên có thể áp dụng cho đa số học
sinh, điều này giúp cho việc giáo dục đạo đức hiệu quả hơn.
Khi được hỏi phương pháp mà thầy cô ít sử dụng nhất thì cả 7 thầy cô đều
chọn phương pháp trách phạt, vì theo thầy cô: “Phương pháp này làm tổn thương
tinh thần của học sinh; thiếu tình cảm và tế nhị; làm các em cảm thấy mặc cảm, tự ti
và xấu hổ với bạn bè; làm cho học sinh sợ sệt và khó tiếp thu những lời trách phạt”
Các phương pháp mà thầy cô sử dụng trong quá trình giáo dục đạo đức cho
học sinh rất đa dạng và phong phú. Tuy nhiên, trong quá trình giáo dục, thầy cô cũng
có sự cân nhắc lựa chọn các phương pháp và phối hợp các phương pháp đó với nhau
để phù hợp với tâm lý cũng như nhận thức của học sinh. Lựa chọn phương pháp giáo
dục phù hợp với tâm lý của học sinh, điều này giúp quá trình giáo dục được dễ dàng
và dễ nhận được sự tương tác giữa các em hơn. Giáo dục đạo đức thông qua việc tôn
trọng nhân cách, danh dự và không làm các em cảm thấy mặc cảm với bạn bè sẽ làm
quá trình giáo dục có hiệu quả và quá trình tác động vào các em cũng tích cực hơn.
2.2.3 Mức độ sử dụng các phương pháp giáo dục đạo đức cho học sinh
Bảng 2.1: Mức độ sử dụng các phương pháp giáo dục đạo đức cho học sinh
Các mức độ (GV)
Các phương pháp giáo dục
đạo đức
Phương pháp vấn đáp
Phương pháp trách phạt
Phương pháp khen thưởng


Luôn
luôn
2
0
1

Rất
thường
xuyên
5
0
4

Thỉnh
thoảng

Ít khi

Không
bao giờ

0
3
2

0
4
0

0

0
0


Phương pháp thi đua
PP giảng giải và khuyên răn
Phương pháp nêu gương
Phương pháp kể chuyện
Phương pháp giao việc

1
2
0
1
0

3
5
5
4
5

3
0
2
2
2

0
0

0
0
0

0
0
0
0
0

Kết quả bảng khảo sát trên cho thấy các phương pháp giáo dục đạo đức chủ
yếu được sử dụng ở trường học với phương pháp vấn đáp và giảng giải khuyên răn có
2 giáo viên chọn ở mức độ luôn luôn và 5 giáo viên chọn ở mức độ rất thường
xuyên. Phương pháp khen thưởng, thi đua và kể chuyện cũng có nhiều giáo viên sử
dụng. Phương pháp trách phạt là phương pháp có ít giáo viên lựa chọn nhất, có 3 giáo
viên chọn thỉnh thoảng và 4 giáo viên chọn ít khi.
Tất cả các phương pháp trên đều được sử dụng ở các mức độ khác nhau,
không có phương pháp nào có mức độ sử dụng là không bao giờ. Mức độ rất thường
xuyên và thỉnh thoảng cũng được sử dụng với nhiều giáo viên lựa chọn.
Qua bảng khảo sát về mức độ sử dụng các phương pháp giáo dục đạo đức cho
học sinh cho thấy các thầy cô đã lựa chọn và sử dụng các phương pháp giáo khác
nhau. Thầy cô đã có sự phối hợp các phương pháp giáo dục đạo đức với nhau để giáo
dục đạo đức cho học sinh có chất lượng và hiệu quả hơn.
2.2.4 Mức độ hứng thú của học sinh khi được học bằng các phương pháp giáo dục
đạo đức
Bảng 2.2: Mức độ hứng thú của học sinh khi được học bằng các phương pháp giáo
dục đạo đức
Các mức độ
Rất hứng thú


Đánh giá mức độ hứng thú của học sinh (GV)
5

Hứng thú

2

Bình thường

0

Không hứng thú

0


Dựa vào bảng số liệu 2.2 cho thấy các phương pháp mà thầy cô sử dụng trong
qua trình giáo dục đạo đức cho học sinh mang lại hứng thú và rất hứng thú cho học
sinh. Có 5 giáo viên đánh giá các em học sinh hứng thú khi các thầy cô sử dụng các
phương pháp mà thầy cô đã lựa chọn vào giảng dạy. Có 2 giáo viên đánh giá ở mức
độ hứng thú và không có giáo viên nào đánh giá các em học sinh hứng thú ở mức độ
bình thường và không hứng thú.
Phương pháp mà thầy cô áp dụng trong quá trình giáo dục đạo đức cho học
sinh đã tạo được hứng thú, giúp đạt hiệu quả cao trong quá trình giáo dục. Từ thực
trạng đã được khảo sát này phù hợp với giả thuyết đưa ra của đề tài: “Nếu mức độ
hứng thú của học sinh cao khi được giáo dục bằng các phương pháp giáo dục thì
việc giáo dục đạo đức cho các em sẽ trở nên dễ dàng hơn và hiệu quả hơn”.
2.2.5 Đánh giá về mức độ hiệu quả khi sử dụng các phương pháp giáo dục đạo đức
Bảng 2.3: Bảng đánh giá về mức độ hiệu quả khi sử dụng các phương pháp giáo dục
đạo đức

Các phương pháp giáo dục đạo
đức

Các mức độ (GV)
Ít hiệu
Hiệu quả
quả
5
0
0
6
7
0
4
2

Phương pháp vấn đáp
Phương pháp trách phạt
Phương pháp khen thưởng
Phương pháp thi đua

Rất hiệu
quả
2
0
0
1

Không hiệu
quả

0
1
0
0

PP giảng giải và khuyên răn

0

6

1

0

Phương pháp nêu gương
Phương pháp kể chuyện

1
2

5
3

1
2

0
0


Phương pháp giao việc

0

5

2

0

Phương pháp trách phạt là phương pháp giáo dục mà thầy cô giáo khối lớp 3
cho rằng không mang lại hiệu quả nhất. Có 1 giáo viên chọn ở mức độ không hiệu
quả và 6 giáo viên chọn ở mức độ ít hiệu quả. Mức độ hiệu quả của phương pháp này
là thầy cô đánh giá không cao.


×