Tải bản đầy đủ (.doc) (24 trang)

BÀI DỰ THI TÌM HIỂU VỀ TƯ TƯỞNG, ĐẠO ĐỨC, PHONG CÁCH HỒ CHÍ MINH; TÁM LỜI BÁC HỒ CĂN DẶN ĐẢNG BỘ VÀ NHÂN DÂN CÁC DÂN TỘC TỈNH HÀ GIANG

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (138.23 KB, 24 trang )

BÀI DỰ THI TÌM HIỂU VỀ TƯ TƯỞNG, ĐẠO ĐỨC, PHONG CÁCH HỒ
CHÍ MINH; TÁM LỜI BÁC HỒ CĂN DẶN ĐẢNG BỘ VÀ NHÂN DÂN
CÁC DÂN TỘC TỈNH HÀ GIANG

Câu 1. Đồng chí hãy cho biết vì sao phải học tập và làm theo tư tưởng đạo
đức, phong cách Hồ Chí Minh trong giai đoạn hiện nay?
Hiện nay đất nước ta đang đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa – hiện đại
hóa và đổi mới đất nước theo hướng tích cực, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế,
thì việc học tập rèn luyện tư tưởng đạo đức cách mạng, lối sống và làm theo tấm
gương đạo đức của Người là một việc làm hết sức quan trọng. Bởi vì tư tưởng đạo
đức của chủ tịch Hồ Chí Minh luôn là một nền tảng tinh thần xã hội, là động lực
vượt qua khó khăn thách thức để tiến lên.
Do đó học tập và làm theo tấm gương đạo đức của Người là một biện pháp
quan trọng hàng đầu để mỗi cán bộ Đảng viên và Tổ chức cơ sở Đảng khắc phục
sửa chữa tình trạng suy thoái có “tính chất nghiêm trọng” về đạo đức và lối sống,
suy thoái về tư tưởng chính trị, giữ vững niềm tin trong nhân dân về lãnh đạo
Đảng. Con người toàn diện là con người phẩm chất chính trị vững vàng, đạo đức
trong sáng, tri thức và năng lực nghề nghiệp chuyên sâu và thể chất lành mạnh. Đó
là con người đủ đức và tài để lập thân, lập nghiệp, để phục vụ Tổ quốc và nhân
dân. Tùy vào hoàn cảnh và diều kiện học tập công tác cá nhân để xác định và xây
dựng kế hoạch phấn đấu, rèn luyện. Học tập và rèn luyện tư tưởng Hồ Chí Minh là
nhiệm vụ của toàn Đảng, toàn dân.
Là một cán bộ, công chức hay viên chức, bản thân nhận thức được rằng việc
học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh và thực hành tiết kiệm,
chống tham ô, lãng phí, quan liêu là một trách nhiệm đối với bản thân để từng
bước hoàn thiện mình. Trong cuộc sống đời tư cũng như trong công việc, bản thân
1


luôn xác định rằng: “Việc gì có lợi dù nhỏ cũng làm, việc gì có hại dù nhỏ cũng
tránh” và tuyệt đối tránh lãng phí cả về tiền bạc và thời gian, luôn phát huy ý thức


bảo vệ của công, gần gũi, sâu sát với quần chúng nhân dân, lấy tiêu chuẩn người
cán bộ cách mạng để làm mục tiêu phấn đấu. Bởi vậy, mỗi người chúng ta phải tự
ý thức tu dưỡng, rèn luyện đạo đức trong suốt cuộc đời; coi tu dưỡng đạo đức là
một việc làm như rửa mặt hằng ngày.
Câu 2. Đồng chí hiểu tư tường Hồ Chí Minh là gì? Phân tích, làm rõ tư
tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Đảng?
Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm và tư tưởng của Hồ Chí
Minh trong sự nghiệp cách mạng của ông được Đảng Cộng sản Việt Nam tổng kết,
hệ thống hóa. Hệ thống tư tưởng này bao gồm những quan điểm về những vấn đề
cơ bản của cách mạng Việt Nam, từ cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân đến cách
mạng xã hội chủ nghĩa; vận dụng và phát triển Chủ nghĩa Mác-Lênin vào điều kiện
cụ thể của Việt Nam.
Các nội dung trong tư tưởng Hồ Chí Minh được hình thành và phát triển gắn
với các thời kì hoạt động của Hồ Chí Minh trong phong trào cách mạng Việt
Nam và quốc tế vào đầu và giữa thế kỷ 20. Giáo trình tư tưởng Hồ Chí Minh nhận
định Tư tưởng Hồ Chí Minh là sự kết tinh của văn hóa dân tộc Việt Nam, tư
tưởng cách mạng Pháp, tư tưởng tự do của Hoa Kỳ, lý tưởng cộng sản Mác-Lênin,
tư tưởng văn hóa phương Đông, văn hóa phương Tây và phẩm chất cá nhân của Hồ
Chí Minh.
Tư tưởng Hồ Chí Minh đã được xác định là một hệ tư tưởng chính thống của
Đảng Cộng sản Việt Nam bên cạnh chủ nghĩa Mác-Lênin, được chính thức đưa ra
từ Đại hội VII của Đảng. Đảng Cộng sản, Nhà nước Việt Nam cùng các quan điểm
chính thống ở Việt Nam hiện nay đều thống nhất đánh giá Tư tưởng Hồ Chí Minh
2


chính là cách vận dụng sáng tạo Chủ nghĩa Mác-Lênin trong điều kiện cụ thể
của Việt Nam và coi tư tưởng Hồ Chí Minh đã trở thành một tài sản tinh thần quý
báu của Đảng Cộng sản Việt Nam và của dân tộc Việt Nam. Đảng Cộng sản Việt
Nam xác định lấy “Chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh là kim chỉ nam

cho mọi hành động và thắng lợi của cách mạng Việt Nam.” Đảng Cộng sản Việt
Nam luôn tăng cường tuyên truyền thúc đẩy việc học tập và làm theo Tư tưởng Hồ
Chí Minh ở tất cả các tầng lớp trong xã hội.
Tư tưởng Hồ Chí Minh chỉ chính thức đưa vào Cương lĩnh của Đảng Cộng
sản Việt Nam năm 1991, sau khi công cuộc Đổi mới phát động, chấp thuận phân
hóa giai cấp, nhiều lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin không có tính khả thi trong cơ
chế thị trường phải gác lại như đạo đức xã hội chủ nghĩa, xây dựng con người xã
hội chủ nghĩa, làm theo năng lực hưởng theo lao động trên toàn xã hội.v.v. (chủ
nghĩa cộng sản đặt ra mục tiêu cuối cùng là xóa bỏ giai cấp, bóc lột, xóa bỏ giàu nghèo, làm theo năng lực hưởng theo nhu cầu, công hữu trên nền tảng dân chủ, xóa
bỏ giáo điều tôn giáo được xem là mị dân, xóa bỏ nhà nước đi đến dân chủ trực
tiếp và bình đẳng, xóa bỏ các đường biên giới quốc gia, đưa các dân tộc đến cùng
một lợi ích, xóa bỏ bất bình đẳng giữa các dân tộc trên phạm vi thế giới...). Các
giáo trình của Việt Nam thường khai thác tư tưởng Hồ Chí Minh theo chiều hướng
này...
* Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Đảng
Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: Xây dựng Đảng là quy luật tồn tại và
phát triển của Đảng.
Tính tất yếu khách quan của công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng
Xây dựng, chỉnh đốn Đảng luôn gắn với quá trình phát triển liên tục của sự nghiệp
cách mạng do Đảng lãnh đạo. Trước diễn biến của điều kiện khách quan, bản thân
Đảng phải tự chỉnh đốn, tự đổi mới để vươn lên làm tròn trọng trách trước giai cấp
3


và dân tộc. Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh chủ trương trước hết phải xây dựng,
chỉnh đốn Đảng.
Người chỉ rõ: Đảng sống trong xã hội, là một bộ phận hợp thành cơ cấu của
xã hội. Tổ chức đảng và mỗi cán bộ, đảng viên ở các cấp, giữ các chức vụ đều chịu
ảnh hưởng, tác động của môi trường, các quan hệ xã hội, cả cái tốt và cái xấu, cái
tích cực, tiến bộ và cái tiêu cực, lạc hậu. Do đó, tổ chức đảng và mỗi cán bộ, đảng

viên phải thường xuyên rèn luyện. Đảng phải thường xuyên chú ý đến việc chỉnh
đốn Đảng. Trên bình diện phát triển cá nhân, xây dựng, chỉnh đốn Đảng, theo tư
tưởng Hồ Chí Minh, trở thành nhu cầu tự hoàn thiện, nhu cầu tự làm trong sạch
nhân cách của mỗi cán bộ, đảng viên. Trong điều kiện Đảng đã trở thành Đảng cầm
quyền, việc xây dựng, chỉnh đốn Đảng càng phải tiến hành thường xuyên hơn.
Người chỉ rõ: Quyền lực có tính chất hai mặt. Một mặt, quyền lực có sức mạnh to
lớn để cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới nếu biết sử dụng đúng. Mặt khác,
quyền lực cũng có sức phá hoại ghê gớm nếu người nắm quyền lực bị thoái hóa,
biến chất, biến quyền lực của nhân dân thành đặc quyền của cá nhân...
Nội dung công tác xây dựng Đảng theo tư tưởng Hồ Chí Minh
a) Xây dựng Đảng về chính trị, tư tưởng
Phải dựa vào lý luận khoa học và cách mạng của chủ nghĩa Mác - Lênin để
xây dựng Đảng vững mạnh về tư tưởng, lý luận. Hồ Chí Minh lưu ý: Việc học tập,
nghiên cứu, tuyên truyền chủ nghĩa Mác - Lênin phải luôn phù hợp với từng đối
tượng. Việc vận dụng những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin phải
luôn luôn phù hợp với từng hoàn cảnh cụ thể của nước ta trong từng thời kỳ. Trong
quá trình hoạt động, Đảng ta phải chú ý học tập, kế thừa những kinh nghiệm tốt
của các đảng cộng sản khác, đồng thời phải tổng kết kinh nghiệm của mình để bổ
sung chủ nghĩa Mác - Lênin. Đảng ta phải tăng cường đấu tranh để bảo vệ sự trong
sáng của chủ nghĩa Mác - Lênin. Đồng thời, phải thường xuyên tổng kết thực tiễn,
bổ sung, phát triển lý luận giải quyết đúng đắn những vấn đề đặt ra trong quá trình
4


Đảng lãnh đạo. Các nghị quyết của Đảng được xây dựng và tổ chức thực hiện
thắng lợi, sẽ ngày càng làm sáng tỏ những vấn đề mới trong thực tiễn, bổ sung và
làm cho đường lối của Đảng ngày càng hoàn thiện.
Nội dung xây dựng Đảng về chính trị bao gồm: xây dựng đường lối chính
trị, bảo vệ chính trị, xây dựng và thực hiện nghị quyết, xây dựng và phát triển hệ tư
tưởng chính trị, củng cố lập trường chính trị, nâng cao bản lĩnh chính trị... Trong

các nội dung trên, theo Hồ Chí Minh, đường lối chính trị là một vấn đề cốt tử trong
sự tồn tại và phát triển của Đảng. Người cảnh báo nguy cơ sai lầm về đường lối
chính trị gây hậu quả nghiêm trọng đối với vận mệnh của Tổ quốc, sinh mệnh
chính trị của hàng triệu đảng viên và nhân dân lao động. Đảng cần phải giáo dục
đường lối, chính sách của Đảng, thông tin thời sự cho cán bộ, đảng viên để họ luôn
luôn kiên định lập trường, giữ vững bản lĩnh chính trị trong mọi hoàn cảnh.
b) Xây dựng Đảng về tổ chức Về hệ thống tổ chức của Đảng
Hồ Chí Minh khẳng định sức mạnh của Đảng bắt nguồn từ tổ chức. Hệ
thống tổ chức của Đảng từ Trung ương đến cơ sở phải thật chặt chẽ, có tính kỷ luật
cao. Sức mạnh các tổ chức liên quan chặt chẽ với nhau; mỗi cấp độ tổ chức có
chức năng, nhiệm vụ riêng.
Trong hệ thống tổ chức đảng, Hồ Chí Minh rất coi trọng vai trò của chi bộ.
Chi bộ là tổ chức hạt nhân, quyết định chất lượng lãnh đạo của Đảng; là môi
trường tu dưỡng, rèn luyện và cũng là nơi giám sát đảng viên. Chi bộ có vai trò
quan trọng trong việc gắn kết giữa Đảng với quần chúng nhân dân.
Về công tác cán bộ, Người luôn quan tâm xây dựng, rèn luyện đội ngũ cán
bộ, đảng viên có đức, có tài. Hồ Chí Minh nhận thức rất rõ vị trí, vai trò của người
cán bộ trong sự nghiệp cách mạng. Theo Người: “Cán bộ là những người đem
chính sách của Đảng, của Chính phủ giải thích cho dân chúng hiểu rõ và thi hành.
Đồng thời đem tình hình của dân chúng báo cáo cho Đảng, cho Chính phủ hiểu rõ,
để đặt ra chính sách đúng. Vì vậy, cán bộ là cái gốc của mọi công việc. Vì vậy,
5


huấn luyện cán bộ là công việc gốc của Đảng”. “Cất nhắc cán bộ, không nên làm
như “giã gạo”. Nghĩa là trước khi cất nhắc không xem xét kỹ. Khi cất nhắc rồi
không giúp đỡ họ. Khi họ sai lầm thì đẩy xuống, chờ lúc họ làm khá, lại cất nhắc
lên”.
Theo Người, “Đảng phải nuôi dạy cán bộ, như người làm vườn vun trồng
những cây cối quý báu. Phải trọng nhân tài, trọng cán bộ, trọng mỗi một người có

ích cho công việc chung của chúng ta”. Tuy nhiên, Người cũng yêu cầu: “Khi cất
nhắc một cán bộ, cần phải xét rõ người đó có gần gụi quần chúng, có được quần
chúng tin cậy và mến phục không. Lại phải xem người ấy xứng với việc gì. Nếu
người có tài mà dùng không đúng tài của họ, cũng không được việc. Nếu cất nhắc
không cẩn thận, chỉ nói mà không biết làm, vào những địa vị lãnh đạo. Như thế rất
có hại”. Đặc biệt, Hồ Chí Minh phê bình mạnh mẽ việc cất nhắc, bổ nhiệm cán bộ
theo hướng cục bộ, địa phương, “một người làm quan cả họ được nhờ”. Người
viết: “Có những đồng chí còn giữ thói “một người làm quan cả họ được nhờ”, đem
bà con, bạn hữu đặt vào chức này việc kia, làm được hay không, mặc kệ. Hỏng
việc, đoàn thể chịu, cốt cho bà con, bạn hữu có địa vị là được. “Tư túng - Kéo bè,
kéo cánh, bà con bạn hữu mình, không tài năng gì cũng kéo vào chức này chức nọ.
Người có tài có đức, nhưng không vừa lòng mình thì đẩy ra ngoài. Quên rằng việc
là việc công, chứ không phải việc riêng gì dòng họ của ai”. Vì vậy, Người căn dặn:
“Cất nhắc cán bộ, phải vì công tác, tài năng, vì cổ động cho đồng chí khác thêm
hăng hái. Như thế, công việc nhất định chạy. Nếu vì lòng yêu ghét, vì thân thích, vì
nể nang, nhất định không ai phục, mà gây nên mối lôi thôi trong Đảng. Như thế là
có tội với Đảng, có tội với đồng bào...”.
c) Xây dựng Đảng về đạo đức
Đảng là đạo đức, là văn minh, nhờ đó Đảng mới trong sạch, vững mạnh.
Trong 12 điều xây dựng Đảng chân chính cách mạng, Người nhấn mạnh, Đảng là
một tổ chức cách mạng chứ không phải tổ chức để “làm quan phát tài” Không như
6


vậy, Đảng sẽ rơi vào thoái hóa, biến dạng, tha hóa, xa dân, tự đánh mất sức mạnh
tự bảo vệ. Sức mạnh ấy từ dân mà ra, do dân gây dựng, phát triển.
Người cho rằng: Xây dựng Đảng về đạo đức là cơ hội để mỗi cán bộ, Đảng
viên tự rèn luyện, giáo dục và tu dưỡng tốt hơn, hoàn thành các nhiệm vụ mà Đảng
và nhân dân giao phó, đặc biệt là giữ gìn phẩm chất đạo đức cách mạng. Cán bộ,
đảng viên không phải là thần thánh. Họ là con người, ai cũng có hai mặt tốt - xấu,

thiện - ác thường xuyên đấu tranh vối nhau. Trong điều kiện môi trường tốt, nếu
cán bộ, đảng viên nỗ lực tu dưỡng, phấn đấu, rèn luyện thì mặt tốt, mặt thiện sẽ nổi
lên, đẩy lùi mặt ác, mặt xấu và ngược lại. Hồ Chí Minh đưa ra tiêu chí của một
người cán bộ tốt, đó là người cán bộ đó phải vừa có đức, vừa có tài. Trong đó, đạo
đức là gốc, Người viết: “Cũng như sông thì có nguồn mới có nước, không có
nguồn thì sông cạn. Cây phải có gốc, không có gốc thì cây héo. Người cách mạng
phải có đạo đức, không có đạo đức thì dù tài giỏi mấy cũng không lãnh đạo được
nhân dân” .
Về các nguyên tắc tổ chức sinh hoạt đảng
a) Nguyên tắc tập trung dân chủ
Tập trung dân chủ là nguyên tắc tổ chức cơ bản trong xây dựng Đảng.
Nguyên tắc này thể hiện sự thông nhất hữu cơ, biện chứng giữa “tập trung” và
“dân chủ”. Mặt này là điều kiện của mặt kia và ngược lại, về mối quan hệ giữa “tập
trung” và “dân chủ” được Hồ Chí Minh khẳng định: tập trung trên nền tảng dân
chủ và dân chủ dưới sự chỉ đạo tập trung, là cơ sở của tập trung. Nếu không có sự
gắn bó và thống nhất với nhau thì sẽ dẫn tới độc đoán chuyên quyền và tự do vô tổ
chức, vô kỷ luật. Tuy nhiên, “tập trung” và “dân chủ” có nội dung cụ thể.
“Tập trung” là thiểu số" phục tùng đa số, cấp dưới phục tùng cấp trên, đảng viên
chấp hành vô điều kiện nghị quyết của Đảng. Từ đó làm cho Đảng ta “tuy nhiều
người, nhưng khi tiến đánh chỉ như một người”.
7


Còn dân chủ theo Hồ Chí Minh, là của quý báu nhất của nhân dân là thành
quả của cách mạng dưới sự lãnh đạo của Đảng. Dân chủ được thể hiện tư tưởng
phải được tự do. Tự do là thế nào? Đối với mọi vấn đề mọi người được quyền tự
do bày tỏ ý kiến của mình, góp phần tìm ra chân lý. Đó là một quyền lợi mà cũng
là một nghĩa vụ của mọi người. Khi mọi người đã phát biểu ý kiến, đã tìm thấy
chân lý, lúc đó quyền tự do tư tưởng hóa ra quyền tự do phục tùng chân lý. Hồ Chí
Minh nhấn mạnh đến việc thực hiện và phát huy dân chủ nội bộ, vì nếu không có

dân chủ nội bộ thì sẽ làm cho “nội bộ của Đảng âm u”. Hơn nữa dân chủ trong
Đảng mới có thể nói dân chủ trong xã hội, mới định hướng cho việc xây dựng một
chế độ dân chủ thật sự.
Nguyên tắc tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách
Tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách là nguyên tắc lãnh đạo hay chế độ lãnh
đạo của Đảng. Nguyên tắc này cũng có hai mặt gắn bó mật thiết với nhau, gần với
nguyên tắc tập trung dân chủ vì tập thể lãnh đạo là dân chủ, cá nhân phụ trách là
tập trung. Tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách là dân chủ tập trung. Người viết: “Vì
sao cần phải có tập thể lãnh đạo? Vì một người dù khôn ngoan tài giỏi mấy, dù
nhiều kinh nghiệm đến đâu, cũng chỉ trông thấy, chỉ xem xét được một hoặc nhiều
mặt của một vấn đề, không thể trông thấy và xem xét tất cả mọi mặt của một vấn
đề. Vì vậy, cần phải có nhiều người. Nhiều người thì nhiều kinh nghiệm. Người thì
thấy rõ mặt này, người thì trông thấy rõ mặt khác của vấn đề đó. Góp kinh nghiệm
và sự xem xét của nhiều người, thì vấn đề đó được thấy rõ khắp mọi mặt. Mà có
thấy rõ khắp mọi mặt, thì vấn đề ấy mới được giải quyết chu đáo, khỏi sai lầm”.
Cá nhân phụ trách là trên cơ sở bàn bạc kỹ lưỡng của tập thể, kế hoạch định
rõ ràng rồi thì giao cho một người hoặc một nhóm người phụ trách theo kế hoạch
đó mà thi hành, để xác định rõ trách nhiệm và phát huy vai trò của mỗi cá nhân.
Người viết: "Việc gì đã được đông người bàn bạc kỹ lưỡng rồi, kế hoạch định rõ
ràng rồi, thì cần phải giao cho một người hoặc một nhóm ít người phụ trách theo kế
8


hoạch đó mà thi hành. Như thế mới có chuyên trách, công việc mới chạy. Nếu
không có cá nhân phụ trách, thì sẽ sinh ra cái tệ người này ủy cho người kia, người
kia ủy cho người nọ, kết quả là không ai thi hành. Như thế thì việc gì cũng không
xong”. Trong khi thực hiện nguyên tắc phải chống lại căn bệnh độc đoán chuyên
quyền, hay ngược lại, dựa dẫm vào tập thể, không dám quyết đoán, không dám
chịu trách nhiệm. Hồ Chí Minh nêu rõ: “Lãnh đạo không tập thể, thì sẽ đi đến cái
tệ bao biện, độc đoán, chủ quan. Kết quả là hỏng việc. Phụ trách không do cá nhân,

thì sẽ đi đến cái tệ bừa bãi, lộn xộn, vô chính phủ. Kết quả cũng là hỏng việc. Tập
thể lãnh đạo và cá nhân phụ trách cần phải luôn luôn đi đôi với nhau”.
Nguyên tắc tự phê bình và phê bình
Tự phê bình và phê bình là nguyên tắc sinh hoạt của Đảng, là quy luật phát
triển của Đảng. Ý nghĩa của nguyên tắc này ở chỗ Đảng cũng từ trong xã hội mà ra
nên có những căn bệnh trong xã hội lây ngấm vào Đảng. Cá nhân đảng viên, cán
bộ cũng là con người, cũng có cái tốt, xấu, thiện, ác trong lòng. Con người ta
không phải là thánh thần, ai cũng có khuyết điểm cả. Vì vậy, tự phê bình và phê
bình giống như việc rửa mặt hằng ngày, làm cho phần tốt trong mỗi con người nảy
nở như hoa mùa xuân, phần xấu mất dần đi. Cán bộ, đảng viên có khuyết điểm
giống như người có bệnh. Vì vậy phải uống thuốc. Tự phê bình là thuốc đắng
nhưng giã tật. Ngược lại nếu không tự phê bình thì như người có bệnh mà không
uống thuốc, để bệnh ngày càng nặng thêm. Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Một Đảng mà
giấu giếm khuyết điểm của mình là một Đảng hỏng. Một Đảng có gan thừa nhận
khuyết điểm của mình, vạch rõ những cái đó, vì đâu mà có khuyết điểm đó, xét rõ
hoàn cảnh sinh ra khuyết điểm đó, rồi tìm kiếm mọi cách để sửa chữa khuyết điểm
đó. Như thế là một Đảng tiến bộ, mạnh dạn, chắc chắn, chân chính”.
Tự phê bình và phê bình nhằm làm cho Đảng vững mạnh, cán bộ, đảng viên
tiến bộ, để chữa các bệnh trong Đảng. Đó cũng là một trong những cách tốt nhất để
thực hành dân chủ rộng rãi trong Đảng, giữ vững và củng cố uy tín của Đảng.
9


Tuy nhiên, một điều rất quan trọng là cách thức tự phê bình và phê bình. Hồ
Chí Minh thường dặn phải thường xuyên, nghiêm chỉnh tự phê bình và phê bình
trên cơ sở tình đồng chí thương yêu lẫn nhau. Trong phê bình và tự phê bình phải
thật thà, thẳng thắn, không nể nang, không giấu giếm, không thêm bớt khuyết
điểm. Phê bình và tự phê bình là vấn đề khoa học và là nghệ thuật. Vấn đề không
phải chỉ luôn luôn dùng mà còn phải khéo dùng cách phê bình và tự phê bình. Cán
bộ chủ chốt, lãnh đạo càng phải gương mẫu tự phê bình và phê bình. Phải tuyệt đối

chống các biểu hiện không đúng trong phê bình và tự phê bình như: thiếu trung
thực, che giấu khuyết điểm của bản thân, sợ phê bình, không dám phê bình, nể
nang, né tránh, “dĩ nhòa vi quý”, hoặc ngược lại, lợi dụng phê bình để nói xấu, bôi
nhọ, vùi dập, đả kích người khác.
Nguyên tắc kỷ luật nghiêm minh, tự giác
Sức mạnh của một tổ chức đảng và của mỗi đảng viên bắt nguồn từ ý thức tổ
chức kỷ luật nghiêm minh, tự giác. Tính nghiêm minh của kỷ luật Đảng đòi hỏi tất
cả mọi tổ chức đảng, tất cả mọi đảng viên đều phải bình đẳng trước Điều lệ Đảng,
trước pháp luật của Nhà nước, trước mọi quyết định của Đảng.
Đồng thời, Đảng ta là một tổ chức gồm những người tự nguyện phấn đấu
cho lý tưởng cộng sản chủ nghĩa, cho nên tự giác là một yêu cầu bắt buộc đối với
mọi tổ chức đảng và đảng viên. Tính nghiêm minh, tự giác đòi hỏi ở đảng viên
phải gương mẫu trong cuộc sống, công tác. Uy tín của Đảng bắt nguồn từ sự gương
mẫu của mỗi đảng viên trong việc tự giác tuân thủ kỷ luật của Đảng, của Nhà
nước, của đoàn thể nhân dân.
Nguyên tắc đoàn kết thống nhất trong Đảng
Đoàn kết thống nhất phải dựa trên cơ sở lý luận của Đảng là chủ nghĩa Mác
- Lênin; cương lĩnh, Điều lệ Đảng; đường lối, quan điểm của Đảng; nghị quyết của
tổ chức đảng các cấp.
10


Muốn đoàn kết thống nhất phải thực hành dân chủ rộng rãi ở trong Đảng,
thường xuyên và nghiêm chỉnh tự phê bình và phê bình, thường xuyên tu dưỡng
đạo đức cách mạng, chống chủ nghĩa cá nhân và các biểu hiện tiêu cực khác, phải
“sống với nhau có tình, có nghĩa”. “Các đồng chí từ Trung ương đến các chi bộ cần
phải giữ gìn sự đoàn kết nhất trí của Đảng như giữ gìn con ngươi của mắt mình”.
Có đoàn kết tốt thì mới tạo ra cơ sở vững chắc để thống nhất ý chí và hành động,
làm cho “Đảng ta tuy nhiều người, nhưng khi tiến đánh thì chỉ như một người”.
Câu 3. Đồng chí hãy cho biết “Phong cách nêu gương”, “Phong cách

quần chúng, gân dân, tin dân, trọng dân, gắn bó với nhân dân” ở Chủ tịch Hồ
Chí Minh?
Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, nêu gương thì trước hết phải làm gương trong
mọi công việc từ nhỏ đến lớn, thể hiện thường xuyên, về mọi mặt; phải cần, kiệm,
liêm, chính, chí công vô tư. Cần nêu gương và thực hiện nói đi đôi với làm trên cả
ba mối quan hệ: đối với mình, đối với người, đối với việc...
Nói đến phong cách Hồ Chí Minh là nói đến những đặc trưng giá trị mang
đậm dấu ấn Hồ Chí Minh, được thể hiện xuyên suốt mọi hành động trong cả cuộc
đời cách mạng, phấn đấu hy sinh vì Tổ quốc, vì nhân dân của Người.

* Phong cách nêu gương
Theo Hồ Chí Minh, nêu gương thì trước hết phải làm gương trong mọi công
việc từ nhỏ đến lớn, thể hiện thường xuyên, về mọi mặt, phải cần, kiệm, liêm,
chính, chí công, vô tư, nói phải đi đôi với làm.
Thứ nhất, cần nêu gương trên ba mối quan hệ đối với mình, đối với người,
đối với công việc. Đối với mình phải không tự cao tự đại, tự mãn, kiêu ngạo mà
luôn học tập cầu tiến bộ, luôn tự kiểm điểm để phát triển điều hay, sửa đổi điều dở
11


của bản thân, phải tự phê bình mình như rửa mặt hàng ngày; đối với người, luôn
giữ thái độ chân thành, khiêm tốn, đoàn kết, thật thà, không dối trá, lừa lọc, khoan
dung, độ lượng; đối với việc, dù trong hoàn cảnh nào phải giữ nguyên tắc "dĩ công
vi thượng" (để việc công lên trên, lên trước việc tư). Sinh thời, khi nước nhà vừa
giành được độc lập năm 1945, đứng trước nạn đói đang đến gần, Hồ Chí Minh kêu
gọi toàn dân diệt "giặc đói" bằng một hành động cụ thể, mười ngày nhịn ăn một
bữa để lấy số gạo đó cứu những người bị đói và chính Người đã làm gương thực
hiện trước. Hồ Chí Minh đã tiếp thu truyền thống "thương người như thể thương
thân" của dân tộc, nâng lên thành triết lý hành động cách mạng vì dân, vì nước
trong mỗi con người.

Thứ hai, muốn nêu gương được thì nói phải đi đối với làm và trong suốt
cuộc đời hoạt động cách mạng đầy gian khổ, hy sinh, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn
là một tấm gương đạo đức mẫu mực cho mọi người học tập và noi theo. Ở Người
đã đạt tới sự thống nhất chặt chẽ giữa nói và làm, giữa giáo dục đạo đức và nêu
gương đạo đức, đạt tới sự nhất quán giữa công việc và đời tư, giữa đạo đức vĩ nhân
và đạo đức đời thường. Khi địa vị càng cao, uy tín càng lớn, Hồ Chí Minh càng ra
sức tự hoàn thiện, trở thành tấm gương đạo đức trọn vẹn. Hồ Chí Minh cho rằng:
"Nói chung thì các dân tộc phương Đông đều giàu tình cảm, và đối với họ một tấm
gương sống còn có giá trị hơn một trăm bài diễn văn tuyên truyền". Người đòi hỏi
mỗi cán bộ, đảng viên phải làm kiểu mẫu trong công tác và lối sống, trong mọi lúc,
mọi nơi, nói phải đi đôi với làm để quần chúng noi theo. Hồ Chí Minh từng dạy:
"Nói miệng, ai cũng nói được. Ta cần phải thực hành. Kháng chiến, kiến quốc, ta
phải cần kiệm. Nhưng tự mình phải cần và kiệm trước đã. Trước hết, mình phải
làm gương, gắng làm gương trong anh em, và khi đi công tác, gắng làm gương cho
dân. Làm gương cả về ba mặt: tinh thần, vật chất và văn hoá. Không có gì là khó.
Khó như cách mạng mà ta đã làm được và đã thành công. Muốn làm được, ta phải:
12


quyết tâm, trí tâm và đồng tâm. Ta nhớ ba chữ ấy, thực hành làm gương nêu ba chữ
ấy lên, tất là các đồng chí phải thành công". Hồ Chí Minh cho rằng, con người nói
chung, đặc biệt là người phương Đông, coi trọng thực tiễn hơn lý thuyết. Chính vì
thế, Người nhắc nhở đảng viên: "Trước mặt quần chúng, không phải ta cứ viết lên
trán chữ "cộng sản" mà ta được họ yêu mến. Quần chúng chỉ quý mến những
người có tư cách, đạo đức. Muốn hướng dẫn nhân dân, mình phải làm mực thước
cho người bắt chước". Tự mình phải chính trước, mới giúp người khác chính. Mình
không chính, mà muốn người khác chính là vô lý.
Thứ ba, để giáo dục bằng nêu gương đạt kết quả cao, Người chủ trương:
"Lấy gương người tốt, việc tốt để hằng ngày giáo dục lẫn nhau là một trong những
cách tốt nhất để xây dựng Đảng, xây dựng các tổ chức cách mạng, xây dựng con

người mới, cuộc sống mới". Trong gia đình, cha mạ có thể là tấm gương cho các
con, anh chị là tấm gương đối với các em; trong nhà trường, thầy giáo, cô giáo là
tấm gương cho học trò; trong cơ quan, tổ chức thì cán bộ lãnh đạo là tấm gương
cho cấp dưới, người này có thể nêu gương cho người khác. Trong cuộc sống hàng
ngày, người cán bộ, đảng viên chẳng những phải có trách nhiệm tự tu dưỡng tốt để
trở thành con người có đời tư trong sáng, mà còn phải là tấm gương giúp nhân dân
nhìn vào đó làm những điều đúng, điều thiện, chống lại thói hư, tật xấu. Hồ Chí
Minh thấy được một triết lý sâu xa rằng, cơm chúng ta ăn, áo chúng ta mặc đều do
mồ hôi, nước mắt của dân mà ra, nên chúng ta phải đền bù xứng đáng cho dân. Cán
bộ, đảng viên phải xông xáo, nhiệt tình, sâu sát nhân dân, gương mẫu và dám chịu
trách nhiệm trước dân cả về lời nói và việc làm; phải luôn quyết tâm, bền bỉ, chịu
đựng gian khổ, quan tâm và tìm mọi cách giải quyết kịp thời, hiệu quả những nhu
cầu mà nhân dân đặt ra, kể cả chấp nhận sự hy sinh để bảo vệ dân, phấn đấu vì sự
ấm no, hạnh phúc của nhân dân. Tư tưởng đạo đức ấy đã tạo nên một phong cách
nêu gương, tự giác gương mẫu của Hồ Chí Minh, người lãnh tụ kính yêu của cách
13


mạng Việt Nam, người suốt đời phấn đấu, hy sinh vì đất nước, vì dân tộc, đời tư
trong sáng, cuộc sống riêng giản dị, người mà cả cuộc đời là một tấm gương lớn
cho các thế hệ con cháu mãi mãi noi theo.
* “Phong cách quần chúng, gân dân, tin dân, trọng dân, gắn bó với nhân
dân” ở Chủ tịch Hồ Chí Minh?
Nói về phong cách Hồ Chí Minh, thì phong cách quần chúng là một trong
những nội dung đặc sắc nhất. Phong cách này xuất phát từ quan niệm: Nước ta là
nước dân chủ, dân là chủ và làm chủ, cán bộ, đảng viên là “công bộc” của dân.
Người đã viết: “Người xưa nói: quan làm công bộc của dân, ta cũng có thể nói:
Chính phủ là công bộc của dân vậy. Các công việc Chính phủ làm phải nhằm vào
một mục đích duy nhất là mưu tự do, hạnh phúc cho mọi người. Cho nên, Chính
phủ nhân dân bao giờ cũng đặt quyền lợi của nhân dân lên trên hết thảy”.

Cả cuộc đời hoạt động cách mạng của Chủ tịch Hồ Chí Minh là một tấm
gương mẫu mực về gần dân, học dân, kính trọng phục vụ nhân dân, Người
nói: “Chúng ta phải yêu dân, kính dân thì dân mới yêu ta, kính ta”. Chủ tịch Hồ
Chí Minh luôn luôn căn dặn cán bộ, đảng viên rằng: quần chúng nhân dân là
người làm ra lịch sử, làm nên thành công của cách mạng, là người chủ đất nước;
do đó, mỗi đảng viên, cán bộ ở bất cứ cương vị nào, làm công việc gì đều
phải “vừa là người lãnh đạo, vừa là người đầy tớ thật trung thành của nhân
dân”, Người cho rằng: “Cán bộ muốn cho xứng đáng, phải làm được việc.
Muốn làm được việc, thì phải được dân tin, dân phục, dân yêu”. Do vậy, trong
mọi hoạt động của người cán bộ, đảng viên phải luôn dựa vào sức mạnh của
dân, xuất phát từ lợi ích của nhân dân, đi đúng đường lối quần chúng.
Chủ tịch Hồ Chí Minh yêu cầu mọi cán bộ, đảng viên phải yêu mến, tin
tưởng vào khả năng và sức mạnh của nhân dân, đi đúng đường lối quần chúng,
đồng thời, bản thân Người nêu cao tấm gương về lòng yêu mến và tin tưởng rất
14


mực vào khả năng và sức mạnh của nhân dân. Bác nói: “Nước lấy dân làm
gốc”, “gốc có vững, cây mới bền; xây lầu thắng lợi trên nền nhân dân”. Bác
thường xuyên căn dặn các tổ chức Đảng, cán bộ, đảng viên phải coi trọng mối
liên hệ chặt chẽ với quần chúng, phải thể hiện tinh thần phụ trách trước nhân
dân.
Bác khuyên cán bộ đảng viên “phải từ nơi quần chúng ra, trở lại nơi
quần chúng”. Người phê phán tệ xa rời quần chúng, lên mặt “quan cách
mạng” cửa quyền, mệnh lệnh, ức hiếp nhân dân với kiểu “thích làm việc bằng
giấy tờ thật nhiều. Ngồi một nơi chỉ tay năm ngón, không chịu xuống địa
phương kiểm tra công tác”, việc gì cũng từ “trên dội xuống”, dùng mệnh lệnh,
chỉ thị để lãnh đạo, dẫn đến “Những chỉ thị, nghị quyết cấp trên gửi xuống các
địa phương có thực hiện được hay không, các đồng chí cũng không biết
đến”. Người còn chỉ rõ “Cái lối làm việc như vậy rất có hại. Nó làm cho chúng

ta không đi sát phong trào, không hiểu rõ được tình hình bên dưới cho nên phần
nhiều chủ trương của chúng ta không thi hành được đến nơi, đến chốn” .
Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, sự gần gũi, sâu sát quần chúng của người
cán bộ cách mạng là hết sức cần thiết, nhờ đó mà cán bộ, đảng viên mới không
mắc bệnh chủ quan, không quan liêu, đại khái, ham chuộng hình thức. Người
nhiều lần nhấn mạnh: sâu sát quần chúng là biểu hiện quan trọng nhất của
phương pháp làm việc xã hội chủ nghĩa, nó đối lập với lề lối làm việc quan liêu,
hống hách, cửa quyền của bọn quan lại cai trị dưới thời của chế độ cũ. Khi có
dịp về thăm địa phương, nhà máy, công trường, Người thường không báo trước
là mình đi. Người thường xuống ngay hiện trường sản xuất, làm việc của người
lao động, thăm nơi ăn, chốn ở, nhà kho nhà bếp, khu vệ sinh, giếng nước sau đó
mới có buổi làm việc với lãnh đạo địa phương, đơn vị.

15


Người nhắc nhở cán bộ, đảng viên khi thấy cách tổ chức và cách làm nào
không phù hợp với quần chúng thì phải có gan kịp thời đề nghị lên cấp trên để
bỏ đi hoặc sửa lại. Bác nói: “Bao nhiêu cách tổ chức và cách làm việc đều vì lợi
ích của quần chúng. Vì vậy, cách tổ chức và cách làm việc nào không phù hợp
với quần chúng, thì ta phải có gan đề nghị lên cấp trên để bỏ đi hoặc sửa
lại...”. Cách nào hợp với quần chúng, quần chúng cần, thì dù chưa có sẵn, ta
phải đề nghị lên cấp trên mà đặt ra. Người từng căn dặn đội ngũ cán bộ phải
luôn sâu sát quần chúng, xuất phát từ quần chúng để rèn luyện, điều chỉnh tác
phong, phương pháp làm việc; phải luôn luôn chống thói làm việc tuỳ tiện, chủ
quan, coi thường quần chúng. Những căn bệnh này phá hoại mối quan hệ giữa
cán bộ với quần chúng, làm cho quần chúng mất lòng tin, chán ghét cán bộ.
Người nhắc nhở đội ngũ cán bộ, đảng viên rằng: hiểu sâu sắc đường lối,
chủ trương, chính sách của Đảng và nhà nước là điều quan trọng, nhưng quan
trọng hơn là phải tìm mọi cách giải thích cho mỗi người dân hiểu được rõ ràng

những chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước
chính là đem lại “lợi ích cho họ và nhiệm vụ của họ, họ phải hăng hái làm cho
kỳ được”. Để làm được như vậy, mỗi cán bộ, đảng viên phải luôn sâu sát quần
chúng để học cách nói, cách viết, cách làm sao cho phù hợp với quần chúng và
quan trọng hơn đó là biết giải quyết những vấn đề thiết thực có liên quan cụ thể
tới đời sống của quần chúng, đó mới là một người cán bộ thực sự sâu sát quần
chúng, thực sự hiểu dân, yêu dân, kính trọng dân.
Chủ tịch Hồ Chí Minh yêu cầu các cán bộ, đảng viên phải biết dựa vào
quần chúng để xây dựng kế hoạch cho sát, cho đúng, từ đó huy động được tiềm
năng, sức mạnh của quần chúng thực hiện thắng lợi kế hoạch. Người từng nói:
Dân ta rất thông minh, biết giải quyết mọi công việc một cách nhanh chóng mà
nhiều cán bộ nghĩ mãi không ra “Nếu lãnh đạo khéo thì việc gì khó khăn mấy và
16


to lớn mấy, nhân dân cũng làm được”. Để làm được điều đó, đội ngũ cán bộ
phải thành tâm học hỏi quần chúng, kiên trì trong việc giáo dục, giác ngộ, lãnh
đạo quần chúng “Muốn cho dân chúng thành thật bày tỏ ý kiến, cán bộ phải
thành tâm, phải chịu khó, phải khéo khơi cho họ nói. Do ý kiến và đề nghị lẻ tẻ
của dân chúng, ta phải khéo gom góp lại, sắp đặt lại cho có ngăn nắp, thứ tự
rồi cùng dân chúng ra sức thi hành. Như vậy, vừa nâng cao trình độ dân chúng,
mà cũng vừa nâng cao kinh nghiệm của mình. Bất cứ việc gì đều phải bàn bạc
với dân, hỏi ý kiến và kinh nghiệm của dân, cùng với dân đặt kế hoạch cho thiết
thực với hoàn cảnh cụ thể của địa phương, rồi động viên và tổ chức toàn dân thi
hành”.
Đối với người lãnh đạo, phong cách quần chúng không chỉ trong quan hệ
với dân, mà còn thể hiện trong quan hệ của cấp trên với cấp dưới, của cán bộ
lãnh đạo với cán bộ, đảng viên bình thường. Hiểu dân là để hiểu cấp dưới được
chính xác hơn, hiểu cấp dưới là để hiểu dân được đầy đủ hơn. Càng hiểu dân và
càng hiểu cấp dưới, người lãnh đạo càng hiểu chính mình và huy động được tối

đa tiềm năng, sức mạnh của quần chúng, của cấp dưới, rút ra được những điều
bổ ích để bổ sung cho chủ trương, chính sách đã được đề ra, Người căn dặn
người cán bộ lãnh đạo phải“ khéo tập trung ý kiến của quần chúng, hoá nó
thành cái đường lối để lãnh đạo quần chúng”.
Câu 4: Đồng chí hãy cho biết các nguyên tắc xây dựng đạo đức cách mạng
theo tư tưởng Hồ Chí Minh?
Một là, nói đi đôi với làm, phải nêu gương về đạo đức.
Đối với mỗi người, lời nói phải đi đôi với việc làm.
Nói đi đôi với làm, trước hết là sự nêu gương tốt Sự tiêu gương của thế hệ đi trước
với thế hệ đi sau, lãnh đạo với nhân viên... Đảng viên phải nêu gương trước quần

17


chúng. Người nói: ‘Trước mặt quần chúng, không phải ta cứ viết lên trán chữ
“cộng sản” mà ta được họ yêu mến.
Quần chúng chỉ quý mến những người có tư cách, đạo đức. Muốn hướng dẫn nhân
dân, mình phải làm mực thước cho người ta bắt chước”.
Hai là, xây đi đôi với chống.
Cùng với việc xây dựng đạo đức mới, bồi dưỡng những phẩm chất tốt đẹp, nhất
thiết phải chống những biểu hiện đạo đức sai trái, xấu xa, không phù hợp với
những yêu cầu của đạo đức mới. Xây đi đôi với chống, muốn xây phải chống,
chống nhằm mục đích xây.
Xây dựng đạo đức mới trước hết phải đẩy mạnh việc giáo dục, từ trong gia
đình đến nhà trường, tập thể và toàn xã hội. Những phẩm chất chung nhất phải
được cụ thể hóa sát hợp với từng tầng lớp, đối tượng. Trong các bài viết của mình,
Hồ Chí Minh đã nêu rất cụ thể các phẩm chất đạo đức cơ bản đổi với từng giai cấp,
tầng lớp, lứa tuổi và nhóm xã hội.
Trong giáo dục, vấn đề quan trọng là phải khơi dậy ý thức đạo đức lành
mạnh trong mỗi người, để mỗi người nhận thức được và tự giác thực hiện. Trong

đấu tranh chống lại cái tiêu cực, lạc hậu phải phát hiện sớm phải chú ý phòng ngừa,
ngăn chặn.
Để xây và chống cần phát huy vai trò của dư luận xã hội, tạo ra phong trào
quần chúng rộng rãi biểu dương cái tốt, phê phán cái xấu. Người đã phát động cuộc
thi đua “3 xây. 3 chống”, viết sách “người tốt, việc tốt” để tuyên truyền, giáo dục
về đạo đức lối sống.
Ba là, phải tu dưỡng đạo đức suốt đời.
Theo Hồ Chí Minh, đạo đức cách mạng phải qua đấu tranh, rèn luyện bền bỉ mới
thành. Người viết: “Đạo đức cách mạng không phải trên trời sa xuống. Nó do đấu
tranh, rèn luyện bền bỉ hằng ngày mà phát triển và củng cố. Cũng như ngọc càng
18


mài càng sáng, vàng càng luyện càng trong” [1]. Người dạy: “Một dân tộc, một đảng
và mỗi con người, ngày hôm qua là vĩ đại, có sức hấp dẫn lớn, không nhất định
hôm nay và ngày mai vẫn được mọi người yêu mến và ca ngợi, nếu lòng dạ không
trong sáng nữa, nếu sa vào chủ nghĩa cá nhân”[2].
Trong rèn luyện đạo đức, Hồ Chí Minh coi tự rèn luyện có vai trò rất quan
trọng. Người khẳng định, đã là người thì ai cũng có chỗ hay, chỗ dở, chỗ xấu, chỗ
tốt, ai cùng có thiện, có ác ở trong mình. Vấn đề là dám nhìn thẳng vào con người
mình, không tự lừa dối, huyễn hoặc, thấy rõ cái hay, cái tốt, cái thiện để phát huy
và thấy rõ cái dở, cái xấu. cái ác để khắc phục. Tu dưỡng đạo đức phải được thực
hiện trong mọi hoạt động thực tiễn, trong mọi mối quan hệ của mình, trong như
trong sinh hoạt cộng đồng. Không thể là chiến sĩ thi đua ở nơi công tác khi về nhà
lại mắng vợ chửi đời, đánh con. Những người như thế không phải là người có đạo
đức cách mạng.
Câu 5: Đồng chí hãy cho biết nội dung 8 lời Bác Hồ căn dặn Đảng bộ và
nhân dân các dân tộc tỉnh Hà Giang năm 1961? Cụ thể hóa lời dạy của Bác
đồng chí cần thực hiện những nội dung gì? Cách làm như thế nào? Liên hệ 1
nội dung thực hiện tốt ở chi bộ, cơ quan, đơn vị đồng chí về cách thức thực

hiện hiệu quả thực tế?
* 8 lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh khi Người lên thăm tỉnh Hà Giang
(ngày 27/3/1961):
Trước hết, tất cả các dân tộc đều phải đoàn kết chặt chẽ, thương yêu giúp đỡ
nhau như anh em một nhà.
Hai là, đồng bào phải ra sức tăng gia sản xuất và thực hành tiết kiệm để làm
cho mọi người áo ấm, cơm no.
Ba là, muốn sản xuất tốt phải có đủ nước, nhiều phân bón và cải tiến nông
cụ.
19


Bốn là, cần phải phát triển chăn nuôi trâu, bò, lợn... là nguồn lợi lớn lại là
nguồn phân bón ruộng nương.
Năm là, phải chú ý hơn nữa bảo vệ rừng và trồng cây gây rừng. Trồng cây
ăn quả và cây làm thuốc.
Sáu là, đồng bào phải chú ý vệ sinh. Để giữ gìn sức khỏe thì phải ăn sạch,
uống sạch, mặc sạch, ở sạch, có sức khỏe thì lao động sản xuất mới tốt.
Bảy là, đồng bào phải cố gắng xóa nạn mù chữ, phải biết đọc, biết viết thì
làm ăn mới tiến bộ.
Tám là, đời sống của đồng bào rẻo cao còn nhiều khó khăn, còn phải ra sức
giúp đỡ đồng bào rẻo cao nhiều hơn nữa. Đối với cán bộ, đảng viên và đoàn viên
phải củng cố tốt các các chi bộ và chi đoàn, phát triển Đảng và đoàn. Cán bộ, đảng
viên và đoàn viên phải đoàn kết chặt chẽ, phải hết lòng, hết sức phục vụ nhân dân,
đặt lợi ích của nhân dân trên lợi ích riêng của mình, phải gương mẫu trong đoàn
kết dân tộc, trong học tập và trong lao động sản xuất, phải chống tham ô, lãng phí,
quan liêu, mệnh lệnh.
Tám lời Bác Hồ căn dặn Đảng bộ và nhân dân các dân tộc Hà Giang: "Kim
chỉ nam" cho mọi hành động Khép lại năm 2015, trong thời khắc thiêng liêng đất
trời sang Xuân, Đảng bộ, chính quyền, nhân dân các dân tộc Hà Giang tự hào dâng

lên Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại thành quả một năm học tập, làm theo 8 lời căn
dặn của Người khi lên thăm Hà Giang (tháng 3/1961). Bởi thành quả ấy đã góp
phần tạo nên hình ảnh Hà Giang – thành trì vững mạnh của Tổ quốc nơi miền biên
ải.
*Cụ thể hóa lời dạy của Bác đồng chí cần thực hiện những nội dung gì?
Cách làm như thế nào?
Để cụ thể hóa 8 lời dạy của Bác trong tình hình mới, cần phải thực hiện tốt
cả 8 lời dạy mà Người đã căn dặn, lấy đó làm "Kim chỉ nam" cho mọi hành động
của tôi.
20


Bản thân tôi luôn luôn kiên định và trung thành với lý tưởng cách mạng,
luôn thực hiện đúng nguyên tắc tổ chức, sinh hoạt Đảng, nói và làm theo Cương
lĩnh, Điều lệ Đảng, thực hiện theo Nghị quyết của Đảng, trung thực thẳng thắn
trong đấu tranh phê và tự phê, nói và làm một cách thống nhất. Luôn có thái độ đấu
tranh bảo vệ nền tảng tư tưởng, đường lối, quan điểm của Đảng, giữ gìn thống nhất
ý chí hành động và sự đoàn kết trong Đảng. Không làm những việc ảnh hướng tới
uy tín của Đảng, uy tín của người cán bộ, đảng viên..
Về ý thức rèn luyện, tu dưỡng đạo đức thường xuyên: Tôi luôn cập nhật
thông tin trên mọi thông tin đại chúng để chắt lọc, tìm kiếm những tấm gương đạo
đức tốt để học hỏi.
Thẳng thắn, trung thực bảo vệ công lý, bảo vệ đường lối, quan điểm của
Đảng, bảo vệ người tốt; Chân thành, khiêm tốn, không chạy theo chủ nghĩa thành
tích, không bao che, giấu khuyết điểm ....
Luôn có ý thức giữ gìn đoàn kết cơ quan đơn vị.
Về ý thức tổ chức, kỷ luật, thực hiện tự phê bình và phê bình theo tấm
gương đạo đức Hồ Chí Minh:
Bản thân tôi tự luôn đặt mình trong tổ chức, trong tập thể, phải tôn trọng
nguyên tắc, pháp luật, không kéo bè kéo cánh để làm rối loạn gây mất đoàn kết nội

bộ.
Luôn có ý thức coi trọng tự phê bình và phê bình. Luôn phê phán những
biểu hiện xuất phát từ những động cơ cá nhân. Luôn động viên những người thân
trong gia đình giữ gìn đạo đức, lối sống, xây dựng gia đình văn hoá.
Luôn giữ gìn đạo đức, lối sống của một người đảng viên, thực hiện lối sống
lành mạnh của một người viên chức nhà nước. Luôn đặt lợi ích của Đảng, của nhân
dân, của đất nước, của đơn vị lên trên hết. Luôn sẵn sàng hi sinh lợi ích cá nhân vì
lợi ích chung của tập thể. Không có tư tưởng cục bộ, bè phải, hẹp hòi, đố kị và các
biểu hiện cơ hội, thực dụng, vun vén vì lợi ích cá nhân, lợi ích nhóm.
21


Luôn đoàn kết trong cơ quan, trong gia đình cũng như trong các đoàn thể,
đoàn kết chặt chẽ, thương yêu giúp đỡ nhau như anh em một nhà; tăng gia sản
xuất, thực hành tiết kiệm. Đồng thời, cải tiến nông cụ sản xuất; phát triển chăn nuôi
gia súc; bảo vệ, trồng cây gây rừng. Đặt lợi ích của nhân dân trên lợi ích riêng của
mình...
* Liên hệ 1 nội dung thực hiện tốt ở chi bộ, cơ quan, đơn vị đồng chí về
cách thức thực hiện hiệu quả thực tế?
Nội dung mà cơ quan, chi bộ luôn luôn quan tâm thực hiện tốt và luôn được
phát huy nhân rộng đó nội dung thứ tám là ra sức giúp đỡ đồng bào rẻo cao nhiều
hơn nữa. Hàng tháng hàng quý đều có các cuộc vận động hướng về đồng bào vùng
cao, vùng bị thiệt hại do thiên tai mưa lũ, vùng đặc biệt khó khăn bằng các hành
động cụ thể như là đóng góp một ngày lương, và vận động các đơn vị cùng thực
hiện để phong trào lớn mạnh có tính hiệu quả cao. Và hưởng ứng phong chào “Thứ
7 vì nông thôn mới” chung sức xây dựng nông thôn, làm đường bê tông tới những
nơi đường giao thông đi lại còn khó khăn, vùng sâu vùng xa...
Còn đối với cán bộ, đảng viên và đoàn viên phải củng cố tốt các các chi bộ
và chi đoàn, phát triển Đảng và đoàn. Cán bộ, đảng viên và đoàn viên phải đoàn
kết chặt chẽ, phải hết lòng, hết sức phục vụ nhân dân, đặt lợi ích của nhân dân trên

lợi ích riêng của mình, phải gương mẫu trong đoàn kết dân tộc, trong học tập và
trong lao động sản xuất, phải chống tham ô, lãng phí, quan liêu, mệnh lệnh.
Câu 6: Giải pháp nào là cách làm cụ thể tạo sức mạnh tổng hợp bảo đảm
cho hoạt động đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách
Hồ Chí Minh đi vào thực tế.
Trong tình hình hiện nay, việc tổ chức học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức,
phong cách Hồ Chí Minh cần kết hợp chặt chẽ các hình thức, phương pháp sau:

22


Đẩy mạnh hoạt động tuyên truyền, giáo dục về tư tưởng, đạo đức, phong cách
Hồ Chí Minh cho cán bộ, đảng viên, quần chúng; Tăng cường phương pháp nêu
gương của lãnh đạo, thủ trưởng cơ quan, đơn vị, các cấp chính quyền địa phương;
Lồng ghép có hiệu quả việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ
Chí Minh với các phong trào thi đua và các cuộc vận động khác trong xây dựng cơ
quan, đơn vị, các cấp chính quyền địa phương; Lựa chọn xây dựng đơn vị điểm; Tổ
chức tốt việc sơ kết, tổng kết rút kinh nghiệm, biểu dương khen thưởng kịp thời.
Đẩy mạnh xây dựng và nhân rộng điển hình tiên tiến trong học tập và làm theo
tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh Xây dựng và nhân rộng điển hình tiên
tiến là một giải pháp quan trọng để thực hiện có hiệu quả Chỉ thị số 05 - CT/TW.
Thực hiện tốt điều đó sẽ tạo động lực thúc đẩy toàn cơ quan, đơn vị, các cấp chính
quyền địa phương, cán bộ, đảng viên, quần chúng thi đua rèn luyện theo tư tưởng,
đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh trên mọi lĩnh vực. Để thực hiện việc nhân rộng
điển hình tiên tiến có hiệu quả, cần thực hiện một số nội dung sau:
Thứ nhất, làm tốt công tác tuyên truyền, giáo dục, nâng cao nhận thức về sự cần
thiết phải xây dựng và nhân rộng điển hình tiên tiến trong học tập và làm theo tư
tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh cho các đối tượng ở cơ quan, đơn vị, các
cấp chính quyền từ Trung ương đến địa phương.
Thứ hai, tập trung xây dựng, hoàn thiện các tiêu chí điển hình tiên tiến, làm cơ

sở để các tập thể, cá nhân phấn đấu, bình xét, khen thưởng. Việc làm này phải được
tiến hành công khai, dân chủ; các tập thể, cá nhân được biểu dương, khen thưởng
phải là những tấm gương thực sự tiêu biểu.
Thứ ba, tạo môi trường thuận lợi để các điển hình tiên tiến phấn đấu, rèn luyện
và nâng cao vai trò trong thực tiễn.
Thứ tư, đẩy mạnh công tác tuyên truyền, nhân rộng điển hình tiên tiến, gương
“người tốt, việc tốt” để mọi tập thể, cá nhân học tập, phấn đấu và noi theo.
23


Thứ năm, phát huy sức mạnh tổng hợp để xây dựng và nhân rộng điển hình tiên
tiến trong học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh.

24



×