Tải bản đầy đủ (.doc) (20 trang)

Tìm hiểu về học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh; Tám lời Bác Hồ căn dặn Đảng bộ và nhân dân tỉnh Hà Giang

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (144.67 KB, 20 trang )

BÀI DỰ THI
Tìm hiểu về học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh;
Tám lời Bác Hồ căn dặn Đảng bộ và nhân dân tỉnh Hà Giang

Câu 1: Đồng chí hãy cho biết vì sao phải học tập và làm theo tư tưởng,
đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh trong giai đoạn hiện nay?
Tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh là một bộ phận quan trọng
không thể tách rời của đạo đức dân tộc, tiêu biểu cho những giá trị đạo đức tốt đẹp
của dân tộc và của Đảng ta. Đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh là niềm tin, sự cổ
vũ, sự định hướng, là chuẩn mực mà mỗi cán bộ, đảng viên phải không ngừng học
tập, rèn luyện, phấn đấu noi theo suốt đời. Trong giai đoạn hiện nay tình trạng suy
thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự
chuyển hóa” trong một bộ phận cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức; sự tồn tại
và những diễn biến phức tạp của tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí” chưa được
ngăn chặn, đẩy lùi. Trong những căn bệnh của “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, sự
suy thoái về tư tưởng, chính trị, đạo đức, lối sống là căn bệnh nguy hiểm hàng đầu,
là căn nguyên gây ra nhiều căn bệnh khác. Do vậy, việc đẩy mạnh việc học tập và
làm theo tư tưởng, tấm gương đạo đức, phong cách của Bác đối với cán bộ, đảng
viên trong giai đoạn hiện nay là vô cùng cần thiết. Nói phong cách Hồ Chí Minh là
nói đến những đặc trưng giá trị, mang đậm dấu ấn Hồ Chí Minh, gắn liền với nhân
cách siêu việt, trí tuệ lỗi lạc, đạo đức trong sáng của Người với tư cách là một vĩ
nhân, một nhà văn hóa kiệt xuất. Đó là một phong cách vừa dân tộc vừa hiện đại,
vừa khoa học, vừa cách mạng, vừa cao cả vừa thiết thực. Phong cách Hồ Chí Minh
được thể hiện trong mọi lĩnh vực sống và hoạt động của Người, tạo thành một
chỉnh thể nhất quán, có giá trị khoa học, đạo đức thẩm mỹ không trộn lẫn. Việc cán
bộ, đảng viên rèn luyện theo phong cách quần chúng, dân chủ, nêu gương, nêu cao
trách nhiệm gương mẫu của cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ lãnh đạo chủ chốt
các cấp trong tình hình hiện nay là rất cần thiết, bởi lẽ:
Phong cách Hồ Chí Minh là tài sản vô cùng to lớn của Đảng, của dân tộc ta,
mãi mãi là nguồn sáng bất tận soi rọi vào mỗi tâm hồn con người Việt Nam, hướng
cho mọi người đến với chân- thiện- mỹ của cuộc sống. Học tập và làm theo phong


cách của Người có ý nghĩa vô cùng quan trọng đối với sự nghiệp cách mạng ở
nước ta hiện nay, giúp cán bộ, đảng viên phải luôn tu dưỡng, rèn luyện để trở thành
những người có phẩm chất chính trị, đạo đức lối sống giản dị, trong sáng, luôn gắn
bó mật thiết với nhân dân. Người là tấm gương giúp cán bộ, đảng viên và nhân dân


nhìn vào đó làm những điều đúng, điều thiện, chống lại thói hư, tật xấu, không
ngừng củng cố lòng tin của nhân dân với cán bộ, đảng viên cũng như củng cố mối
quan hệ giữa Đảng với nhân dân. Những thành tựu to lớn trong công cuộc đổi mới
đất nước thời gian qua luôn gắn liền với vai trò của đội ngũ cán bộ, đảng viên;
trong đó phải nhắc tới những cố gắng của họ trong việc rèn luyện phong cách làm
việc theo gương Bác Hồ. Phần đông đội ngũ cán bộ, đảng viên đã thực hiện nói đi
đôi với làm, cấp trên nêu gương cho cấp. Trong các bài giảng huấn luyện cho cán
bộ ngay từ năm 1925, Nguyễn Ái Quốc đã chỉ rõ “Đảng muốn vững thì phải có chủ
nghĩa làm cốt, trong Đảng ai cũng phải theo chủ nghĩa ấy”. Cho nên, giải pháp
hàng đầu là tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng, ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái
về tư tưởng chính trị, đạo đức lối sống trong Đảng, những biểu hiện “tự diễn biến”,
“tự chuyển hóa” trong nội bộ; chính là làm cho Đảng ta trong sạch, vững mạnh.
Trên con đường phát triển đi lên của đất nước từ ngày có Đảng càng khẳng định, tư
tưởng Hồ Chí Minh mãi là ngọn đuốc soi đường trong sự nghiệp đấu tranh vì độc
lập tự do, vì chủ nghĩa xã hội, dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
Bộ Chính trị khóa X đã ban hành Chỉ thị số 06, ngày 7-11-2006 về tổ chức Cuộc
vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”; Bộ Chính trị
khóa XI ban hành Chỉ thị 03, ngày 14-5-2011 về tiếp tục đẩy mạnh học tập và làm
theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh. Việc triển khai thực hiện các chỉ thị nêu
trên đã đạt những kết quả bước đầu quan trọng; các cấp ủy, tổ chức đảng, cơ quan,
đơn vị đã ban hành đồng bộ hệ thống văn bản cụ thể hóa Chỉ thị 03 của Bộ Chính
trị cho thấy sự vào cuộc đồng bộ, kịp thời, nghiêm túc của cả hệ thống chính trị
một cách hiệu quả. Việc học tập, nghiên cứu các chuyên đề đã nâng cao nhận thức
cho cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân về những nội dung cơ bản và giá

trị to lớn của tư tưởng, tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh. Việc xây dựng, bổ sung,
hoàn thiện các chuẩn mực đạo đức mở rộng thêm nội dung, gắn với tư tưởng, đạo
đức, phong cách Hồ Chí Minh; bám sát hơn những điều kiện thực tế, đặc điểm,
nhiệm vụ của địa phương cơ quan, đơn vị, phù hợp với từng đối tượng, vị trí công
tác, tạo chuyển biến bước đầu về tu dưỡng, rèn luyện, nâng cao đạo đức cách mạng
của cán bộ, đảng viên và nhân dân. Quá trình thực hiện Chỉ thị số 03 góp phần
quan trọng vào kết quả thực hiện Nghị quyết Trung ương 4, khóa XI "Một số vấn
đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay" và việc thực hiện nhiệm vụ chính trị ở
các đơn vị, địa phương; nhiều vấn đề nổi cộm, bức xúc, tồn đọng, yếu kém kéo dài
ở cơ sở được giải quyết. Song, vẫn còn không ít cán bộ, đảng viên, có cả cán bộ
chủ chốt ở các cấp, các ngành nhận thức chưa đầy đủ, sâu sắc về ý nghĩa, tầm quan
trọng, mục đích, yêu cầu của Chỉ thị 03 đối với công tác xây dựng Đảng. Ở nhiều


nơi, việc thực hiện Chỉ thị chưa trở thành việc làm thường xuyên, tự giác; kết quả
thực hiện còn hạn chế.
Ngày 15-5-2016, Bộ Chính trị đã ban hành Chỉ thị số 05-CT/TW về đẩy
mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh. Một lần
nữa, Bộ Chính trị tiếp tục khẳng định đây là chủ trương lớn của Đảng ta, vừa mang
tính cấp bách, vừa có ý nghĩa lâu dài. Theo đó, Bộ Chính trị yêu cầu các cấp ủy, tổ
chức đảng, chính quyền, tổ chức chính trị - xã hội các cấp tiếp tục đẩy mạnh việc
học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh. Coi đây là nội
dung quan trọng trong công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng; góp phần xây dựng
Đảng trong sạch, vững mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ chức và đạo đức; xây dựng
đội ngũ cán bộ, nhất là cán bộ cấp chiến lược đủ năng lực phẩm chất, ngang tầm
nhiệm vụ. Các cấp ủy, tổ chức đảng, cơ quan đơn vị đưa việc học tập và làm theo
tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh vào chương trình, kế hoạch hành động
thực hiện Nghị quyết Đại hội XII của Đảng, nghị quyết của các cấp ủy,… gắn với
các cuộc vận động, các phong trào thi đua yêu nước, với thực hiện nhiệm vụ chính
trị và giải quyết các vấn đề bức xúc, nổi cộm của từng địa phương, đơn vị. Tư

tưởng Hồ Chí Minh là hệ thống các quan điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn
đề cơ bản của cách mạng Việt Nam. Đạo đức Hồ Chí Minh là tuyệt đối trung
thành, kiên định lý tưởng cách mạng, đặt lợi ích của Đảng, đất nước, dân tộc lên
trên tất cả, là cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư. Chủ tịch Hồ Chí Minh từng
chỉ rõ: “Đạo đức cách mạng không phải trên trời sa xuống, nó do đấu tranh, rèn
luyện bền bỉ hằng ngày mà phát triển và củng cố. Cũng như ngọc càng mài càng
sáng, vàng càng luyện càng trong". Cái ác, cái xấu là kẻ thù của đạo đức, nhưng nó
thường ẩn giấu bên trong con người, thậm chí đội lốt ngay trong cái vỏ đạo đức.
Hơn nữa, nó là ""giặc nội xâm"", là kẻ thù bên trong nên vừa nguy hiểm, vừa khó
phát hiện. Phương thuốc đặc hiệu nhất để phòng và chống kẻ thù vô hình này là
phải thường xuyên tu dưỡng đạo đức. Bởi vậy, mỗi người chúng ta phải tự ý thức
tu dưỡng, rèn luyện đạo đức trong suốt cuộc đời; coi tu dưỡng đạo đức là một việc
làm như rửa mặt hằng ngày.
Đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh
là công việc thường xuyên của các tổ chức Đảng, các cấp chính quyền, các tổ chức
chính trị-xã hội, địa phương, đơn vị, của mỗi cá nhân người cán bộ, đảng viên và
quần chúng nhân dân gắn với chống suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức lối
sống và những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ; quán triệt
sâu sắc và thực hiện tốt Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 (khóa XII) về: “Tăng


cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng”; đẩy mạnh tự phê bình và phê bình, nâng cao
chất lượng sinh hoạt, học tập của các tổ chức đảng ở cơ sở, tăng cường tính chiến
đấu của tổ chức đảng và đảng viên. Giữ vững kỷ luật, kỷ cương trong Đảng và
trong xã hội, nhất là kỷ luật phát ngôn; đồng thời: “Kiên quyết phòng, chống tham
nhũng, lãng phí với yêu cầu chủ động phòng ngừa, không để xảy ra tham nhũng,
lãng phí; xử lý nghiêm các hành vi tham nhũng, lãng phí, can thiệp, ngăn cản việc
chống tham nhũng, lãng phí”. Trong quá trình tự phê bình và phê bình cần tập
trung làm rõ trách nhiệm của từng cá nhân trong thực hiện các nguyên tắc của
Đảng, nhất là nguyên tắc tập trung dân chủ... xây dựng lề lối làm việc, phong cách

lãnh đạo, tăng cường công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng. Học tập và làm
theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh có vai trò hết sức quan trọng đối
với mỗi tổ chức, cá nhân; làm cho Đảng ta thật sự trong sạch, vững mạnh, nâng
cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của Đảng, góp phần bảo vệ Đảng, bảo vệ Nhà
nước, bảo vệ chế độ là nhiệm vụ then chốt, có ý nghĩa sống còn trong tình hình
hiện nay.
Câu 2: Đồng chí hiểu tư tưởng Hồ Chí Minh là gì? Phân tích, làm rõ tư
tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Đảng?
Khái niệm: Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện và
sâu sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, là kết quả của sự vận
dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta,
kế thừa và phát triển các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa
văn hoá nhân loại. Đó là tư tưởng về giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải
phóng con người; về độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, kết hợp sức
mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại; về sức mạnh của nhân dân, của khối đại đoàn
kết dân tộc; về quyền làm chủ của nhân dân, xây dựng Nhà nước thật sự của dân,
do dân, vì dân; về quốc phòng toàn dân, xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân; về
phát triển kinh tế và văn hoá, không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần
của nhân dân; về đạo đức cách mạng, cần, kiệm, liêm, chính, chí công, vô tư; về
chăm lo bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau; về xây dựng Đảng trong sạch,
vững mạnh, cán bộ, đảng viên vừa là người lãnh đạo, vừa là người đầy tớ thật
trung thành của nhân dân…Tư tưởng Hồ Chí Minh thể hiện bốn nội dung chủ yếu:
Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về
những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, từ cách mạng dân tộc dân chủ đến
cách mạng xã hội chủ nghĩa.


Là kết quả của sự vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin vào
điều kiện cụ thể của Việt Nam.
Là sự kế thừa và phát huy giá trị truyền thống của dân tộc Việt Nam và tinh

hoa văn hoá nhân loại.
Là ngọn cờ thắng lợi của cách mạng Việt Nam trong hơn 70 năm qua, tiếp
tục soi sáng con đường cách mạng Việt Nam trong thời gian tới.
Xây dựng, chỉnh đốn Đảng luôn gắn với quá trình phát triển liên tục của sự
nghiệp cách mạng do Đảng lãnh đạo. Trước diễn biến của điều kiện khách quan,
bản thân Đảng phải tự chỉnh đốn, tự đổi mới để vươn lên làm tròn trọng trách trước
giai cấp và dân tộc. Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh chủ trương trước hết phải xây
dựng, chỉnh đốn Đảng. Người chỉ rõ: Đảng sống trong xã hội, là một bộ phận hợp
thành cơ cấu của xã hội. Tổ chức đảng và mỗi cán bộ, đảng viên ở các cấp, giữ các
chức vụ đều chịu ảnh hưởng, tác động của môi trường, các quan hệ xã hội, cả cái
tốt và cái xấu, cái tích cực, tiến bộ và cái tiêu cực, lạc hậu. Do đó, tổ chức đảng và
mỗi cán bộ, đảng viên phải thường xuyên rèn luyện. Đảng phải thường xuyên chú
ý đến việc chỉnh đốn Đảng. Trên bình diện phát triển cá nhân, xây dựng, chỉnh đốn
Đảng, theo tư tưởng Hồ Chí Minh, trở thành nhu cầu tự hoàn thiện, nhu cầu tự làm
trong sạch nhân cách của mỗi cán bộ, đảng viên. Trong điều kiện Đảng đã trở
thành Đảng cầm quyền, việc xây dựng, chỉnh đốn Đảng càng phải tiến hành
thường xuyên hơn. Người chỉ rõ: Quyền lực có tính chất hai mặt. Một mặt, quyền
lực có sức mạnh to lớn để cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới nếu biết sử dụng
đúng. Mặt khác, quyền lực cũng có sức phá hoại ghê gớm nếu người nắm quyền
lực bị thoái hóa, biến chất, biến quyền lực của nhân dân thành đặc quyền của cá
nhân...
Công tác xây dựng Đảng theo tư tưởng Hồ Chí Minh gồm 03 nội dung
chính: Xây dựng Đảng về chính trị, tư tưởng; Xây dựng Đảng về tổ chức; Xây
dựng Đảng về đạo đức, cụ thể:
Thứ nhất, Xây dựng Đảng về chính trị, tư tưởng phải dựa vào lý luận khoa
học và cách mạng của chủ nghĩa Mác - Lênin để xây dựng Đảng vững mạnh về tư
tưởng, lý luận. Hồ Chí Minh lưu ý: Việc học tập, nghiên cứu, tuyên truyền chủ
nghĩa Mác - Lênin phải luôn phù hợp với từng đối tượng. Việc vận dụng những
nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin phải luôn luôn phù hợp với từng hoàn
cảnh cụ thể của nước ta trong từng thời kỳ. Trong quá trình hoạt động, Đảng ta

phải chú ý học tập, kế thừa những kinh nghiệm tốt của các đảng cộng sản khác,


đồng thời phải tổng kết kinh nghiệm của mình để bổ sung chủ nghĩa Mác - Lênin.
Đảng ta phải tăng cường đấu tranh để bảo vệ sự trong sáng của chủ nghĩa Mác Lênin. Đồng thời, phải thường xuyên tổng kết thực tiễn, bổ sung, phát triển lý luận
giải quyết đúng đắn những vấn đề đặt ra trong quá trình Đảng lãnh đạo. Các nghị
quyết của Đảng được xây dựng và tổ chức thực hiện thắng lợi, sẽ ngày càng làm
sáng tỏ những vấn đề mới trong thực tiễn, bổ sung và làm cho đường lối của Đảng
ngày càng hoàn thiện.
Nội dung xây dựng Đảng về chính trị bao gồm: xây dựng đường lối chính
trị, bảo vệ chính trị, xây dựng và thực hiện nghị quyết, xây dựng và phát triển hệ tư
tưởng chính trị, củng cố lập trường chính trị, nâng cao bản lĩnh chính trị... Trong
các nội dung trên, theo Hồ Chí Minh, đường lối chính trị là một vấn đề cốt tử trong
sự tồn tại và phát triển của Đảng. Người cảnh báo nguy cơ sai lầm về đường lối
chính trị gây hậu quả nghiêm trọng đối với vận mệnh của Tổ quốc, sinh mệnh
chính trị của hàng triệu đảng viên và nhân dân lao động. Đảng cần phải giáo dục
đường lối, chính sách của Đảng, thông tin thời sự cho cán bộ, đảng viên để họ luôn
luôn kiên định lập trường, giữ vững bản lĩnh chính trị trong mọi hoàn cảnh.
Thứ hai, Xây dựng Đảng về tổ chức: Hồ Chí Minh khẳng định sức mạnh của
Đảng bắt nguồn từ tổ chức. Hệ thống tổ chức của Đảng từ Trung ương đến cơ sở
phải thật chặt chẽ, có tính kỷ luật cao. Sức mạnh các tổ chức liên quan chặt chẽ với
nhau; mỗi cấp độ tổ chức có chức năng, nhiệm vụ riêng. Trong hệ thống tổ chức
đảng, Hồ Chí Minh rất coi trọng vai trò của chi bộ. Chi bộ là tổ chức hạt nhân,
quyết định chất lượng lãnh đạo của Đảng; là môi trường tu dưỡng, rèn luyện và
cũng là nơi giám sát đảng viên. Chi bộ có vai trò quan trọng trong việc gắn kết
giữa Đảng với quần chúng nhân dân. Người luôn quan tâm xây dựng, rèn luyện đội
ngũ cán bộ, đảng viên có đức, có tài. Hồ Chí Minh nhận thức rất rõ vị trí, vai trò
của người cán bộ trong sự nghiệp cách mạng. Theo Người: “Cán bộ là những
người đem chính sách của Đảng, của Chính phủ giải thích cho dân chúng hiểu rõ
và thi hành. Đồng thời đem tình hình của dân chúng báo cáo cho Đảng, cho Chính

phủ hiểu rõ, để đặt ra chính sách đúng. Vì vậy, cán bộ là cái gốc của mọi công việc,
huấn luyện cán bộ là công việc gốc của Đảng.
Thứ ba, Xây dựng Đảng về đạo đức: Đảng là đạo đức, là văn minh, nhờ đó
Đảng mới trong sạch, vững mạnh. Trong 12 điều xây dựng Đảng chân chính cách
mạng, Người nhấn mạnh, Đảng là một tổ chức cách mạng chứ không phải tổ chức
để ‘làm quan phát tài” không như vậy, Đảng sẽ rơi vào thoái hóa, biến dạng, tha
hóa, xa dân, tự đánh mất sức mạnh tự bảo vệ. Sức mạnh ấy từ dân mà ra, do dân


gây dựng, phát triển. Xây dựng Đảng về đạo đức là cơ hội để mỗi cán bộ, đảng
viên tự rèn luyện, giáo dục và tu dưỡng tốt hơn, hoàn thành các nhiệm vụ mà Đảng
và nhân dân giao phó, đặc biệt là giữ gìn phẩm chất đạo đức cách mạng. Trong
điều kiện môi trường tốt, nếu cán bộ, đảng viên nỗ lực tu dưỡng, phấn đấu, rèn
luyện thì mặt tốt, mặt thiện sẽ nổi lên, đẩy lùi mặt ác, mặt xấu và ngược lại. Một
người cán bộ tốt, đó là người cán bộ đó phải vừa có đức, vừa có tài. Trong đó, đạo
đức là gốc.
Về các nguyên tắc tổ chức sinh hoạt đảng gồm 05 nguyên tắc: tập trung dân
chủ; tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách; tự phê bình và phê bình; kỷ luật nghiêm
minh, tự giác; đoàn kết thống nhất trong Đảng.
Nguyên tắc tập trung dân chủ là nguyên tắc tổ chức cơ bản trong xây dựng
Đảng. Nguyên tắc này thể hiện sự thông nhất hữu cơ, biện chứng giữa “tập trung”
và “dân chủ”. Mặt này là điều kiện của mặt kia và ngược lại, về mối quan hệ giữa
“tập trung” và “dân chủ” được Hồ Chí Minh khẳng định: tập trung trên nền tảng
dân chủ và dân chủ dưới sự chỉ đạo tập trung, là cơ sở của tập trung. Nếu không có
sự gắn bó và thống nhất với nhau thì sẽ dẫn tới độc đoán chuyên quyền và tự do vô
tổ chức, vô kỷ luật. Tuy nhiên, “tập trung” và “dân chủ” có nội dung cụ thể. “Tập
trung” là thiểu số" phục tùng đa số, cấp dưới phục tùng cấp trên, đảng viên chấp
hành vô điều kiện nghị quyết của Đảng. Từ đó làm cho Đảng ta “tuy nhiều người,
nhưng khi tiến đánh chỉ như một người”. Còn dân chủ là của quý báu nhất của
nhân dân là thành quả của cách mạng dưới sự lãnh đạo của Đảng. Dân chủ được

thể hiện tư tưởng phải được tự do; Đối với mọi vấn đề mọi người được quyền tự do
bày tỏ ý kiến của mình, góp phần tìm ra chân lý. Đó là một quyền lợi mà cũng là
một nghĩa vụ của mọi người. Khi mọi người đã phát biểu ý kiến, đã tìm thấy chân
lý, lúc đó quyền tự do tư tưởng hóa ra quyền tự do phục tùng chân lý.
Nguyên tắc tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách là nguyên tắc lãnh đạo hay
chế độ lãnh đạo của Đảng. Nguyên tắc này cũng có hai mặt gắn bó mật thiết với
nhau, gần với nguyên tắc tập trung dân chủ vì tập thể lãnh đạo là dân chủ, cá nhân
phụ trách là tập trung. Tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách là dân chủ tập trung.
Người viết: “Vì sao cần phải có tập thể lãnh đạo? Vì một người dù khôn ngoan tài
giỏi mấy, dù nhiều kinh nghiệm đến đâu, cũng chỉ trông thấy, chỉ xem xét được
một hoặc nhiều mặt của một vấn đề, không thể trông thấy và xem xét tất cả mọi
mặt của một vấn đề. Vì vậy, cần phải có nhiều người. Nhiều người thì nhiều kinh
nghiệm. Người thì thấy rõ mặt này, người thì trông thấy rõ mặt khác của vấn đề đó.
Góp kinh nghiệm và sự xem xét của nhiều người, thì vấn đề đó được thấy rõ khắp


mọi mặt. Mà có thấy rõ khắp mọi mặt, thì vấn đề ấy mới được giải quyết chu đáo,
khỏi sai lầm”. Cá nhân phụ trách là trên cơ sở bàn bạc kỹ lưỡng của tập thể, kế
hoạch định rõ ràng rồi thì giao cho một người hoặc một nhóm người phụ trách theo
kế hoạch đó mà thi hành, để xác định rõ trách nhiệm và phát huy vai trò của mỗi cá
nhân. Người viết "Việc gì đã được đông người bàn bạc kỹ lưỡng rồi, kế hoạch định
rõ ràng rồi, thì cần phải giao cho một người hoặc một nhóm ít người phụ trách theo
kế hoạch đó mà thi hành. Như thế mới có chuyên trách, công việc mới chạy. Nếu
không có cá nhân phụ trách, thì sẽ sinh ra cái tệ người này ủy cho người kia, người
kia ủy cho người nọ, kết quả là không ai thi hành. Như thế thì việc gì cũng không
xong”. Trong khi thực hiện nguyên tắc phải chống lại căn bệnh độc đoán chuyên
quyền, hay ngược lại, dựa dẫm vào tập thể, không dám quyết đoán, không dám
chịu trách nhiệm. Hồ Chí Minh nêu rõ: “Lãnh đạo không tập thể, thì sẽ đi đến cái
tệ bao biện, độc đoán, chủ quan. Kết quả là hỏng việc. Phụ trách không do cá nhân,
thì sẽ đi đến cái tệ bừa bãi, lộn xộn, vô chính phủ. Kết quả cũng là hỏng việc. Tập

thể lãnh đạo và cá nhân phụ trách cần phải luôn luôn đi đôi với nhau”.
Nguyên tắc tự phê bình và phê bình là nguyên tắc sinh hoạt của Đảng, là quy
luật phát triển của Đảng. Ý nghĩa của nguyên tắc này ở chỗ Đảng cũng từ trong xã
hội mà ra nên có những căn bệnh trong xã hội lây ngấm vào Đảng. Cá nhân đảng
viên, cán bộ cũng là con người, cũng có cái tốt, xấu, thiện, ác trong lòng. Tự phê
bình và phê bình nhằm làm cho Đảng vững mạnh, cán bộ, đảng viên tiến bộ, để
chữa các bệnh trong Đảng. Đó cũng là một trong những cách tốt nhất để thực hành
dân chủ rộng rãi trong Đảng, giữ vững và củng cố uy tín của Đảng.
Tuy nhiên, một điều rất quan trọng là phải thường xuyên, nghiêm chỉnh tự
phê bình và phê bình trên cơ sở tình đồng chí thương yêu lẫn nhau. Trong phê bình
và tự phê bình phải thật thà, thẳng thắn, không nể nang, không giấu giếm, không
thêm bớt khuyết điểm. Phê bình và tự phê bình là vấn đề khoa học và là nghệ thuật.
Vấn đề không phải chỉ luôn luôn dùng mà còn phải khéo dùng cách phê bình và tự
phê bình. Cán bộ chủ chốt, lãnh đạo càng phải gương mẫu tự phê bình và phê bình.
Phải tuyệt đối chống các biểu hiện không đúng trong phê bình và tự phê bình như:
thiếu trung thực, che giấu khuyết điểm của bản thân, sợ phê bình, không dám phê
bình, nể nang, né tránh, “dĩ hòa vi quý”, hoặc ngược lại, lợi dụng phê bình để nói
xấu, bôi nhọ, vùi dập, đả kích người khác.
Nguyên tắc kỷ luật nghiêm minh, tự giác: Sức mạnh của một tổ chức đảng
và của mỗi đảng viên bắt nguồn từ ý thức tổ chức kỷ luật nghiêm minh, tự giác.
Tính nghiêm minh của kỷ luật Đảng đòi hỏi tất cả mọi tổ chức đảng, tất cả mọi


đảng viên đều phải bình đẳng trước Điều lệ Đảng, trước pháp luật của Nhà nước,
trước mọi quyết định của Đảng. Đồng thời, Đảng ta là một tổ chức gồm những
người tự nguyện phấn đấu cho lý tưởng cộng sản chủ nghĩa, cho nên tự giác là một
yêu cầu bắt buộc đối với mọi tổ chức đảng và đảng viên. Tính nghiêm minh, tự
giác đòi hỏi ở đảng viên phải gương mẫu trong cuộc sống, công tác. Uy tín của
Đảng bắt nguồn từ sự gương mẫu của mỗi đảng viên trong việc tự giác tuân thủ kỷ
luật của Đảng, của Nhà nước, của đoàn thể nhân dân.

Nguyên tắc đoàn kết thống nhất trong Đảng: Đoàn kết thống nhất phải dựa
trên cơ sở lý luận của Đảng là chủ nghĩa Mác - Lênin; cương lĩnh, Điều lệ Đảng;
đường lối, quan điểm của Đảng; nghị quyết của tổ chức đảng các cấp. Muốn đoàn
kết thống nhất phải thực hành dân chủ rộng rãi ở trong Đảng, thường xuyên và
nghiêm chỉnh tự phê bình và phê bình, thường xuyên tu dưỡng đạo đức cách mạng,
chống chủ nghĩa cá nhân và các biểu hiện tiêu cực khác, phải “sống với nhau có
tình, có nghĩa”. “Các đồng chí từ Trung ương đến các chi bộ cần phải giữ gìn sự
đoàn kết nhất trí của Đảng như giữ gìn con ngươi của mắt mình”. Có đoàn kết tốt
thì mới tạo ra cơ sở vững chắc để thống nhất ý chí và hành động, làm cho “Đảng ta
tuy nhiều người, nhưng khi tiến đánh thì chỉ như một người”.
Hồ Chí Minh là người sáng lập, đồng thời là người giáo dục và rèn luyện
Đảng Cộng sản Việt Nam trong gần 40 năm. Người đã thực sự dành nhiều tâm
huyết cho Đảng, xác lập nên một hệ thống các quan điểm, tư tưởng về ĐCSVN
trên cơ sở vận dụng sáng tạo và phát triển tư tưởng của chủ nghĩa Mác-Lênin về
Đảng Cộng sản vào hoàn cảnh cụ thể của đất nước. Có thể kể đến những sáng tạo
của Bác về ĐCSVN là quan điểm về quy luật hình thành đảng; về sự thống nhất
biện chứng giữa bản chất giai cấp công nhân với tính dân tộc và tính nhân dân của
Đảng; quan niệm về Đảng cầm quyền và các yếu tố đảm bảo vai trò cầm quyền của
Đảng. Trong bối cảnh, điều kiện mới, đứng trước những cơ hội cũng như những
thách thức không nhỏ, Đảng ta vẫn kiên trì chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh. Đảng đã xác định nhiệm vụ phát triển kinh tế là trọng tâm, xây dựng Đảng
là then chốt, đồng thời xây dựng nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc
dân tộc, tạo nền tảng tinh thần cho sự phát triển xã hội. Quán triệt tư tưởng Hồ Chí
Minh, ĐCSVN đẩy mạnh công tác xây dựng Đảng về mọi mặt, nhằm làm cho
Đảng thực sự trong sạch, vững mạnh; phát huy những thành quả đã đạt được, khắc
phục, ngăn chặn, tiến tới đẩy lùi những hạn chế, yếu kém; để lấy lại niềm tin trong
nhân dân, xứng đáng với vai trò người lãnh đạo duy nhất của cách mạng Việt Nam.


Câu 3: Đồng chí hay cho biết “Phong cách nêu gương”, “Phong cách

quần chúng, gần dân, tin dân, trọng dân, gắn bó với nhân dân” ở Chủ tịch Hồ
Chí Minh?
Trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn yêu
cầu phải nêu gương, trước hết về đạo đức cho tất cả cán bộ, đảng viên. Bởi “Một
trăm bài diễn thuyết hay không bằng một tấm gương sống” và “Quần chúng chỉ
quý mến những người có tư cách, đạo đức. Muốn hướng dẫn nhân dân, mình phải
làm mực thước cho người ta bắt chước”.
Người xác định, nội dung nêu gương của cán bộ, đảng viên phải được thể
hiện trên cả ba mối quan hệ: Đối với mình, đối với người và đối với việc. Đối với
mình là không được tự cao tự đại, tự mãn. Bởi tự cao tự đại, tự mãn là căn bệnh rất
nguy hiểm. Nếu cán bộ, đảng viên mắc phải căn bệnh này thì dễ mù quáng, thiển
cận, luôn đề cao cá nhân mình, coi thường quần chúng, nhất định sẽ thoái bộ, dừng
lại. Người nhấn mạnh: “Tự mãn, tự túc là co mình lại, không cho mình tiến bộ
thêm”2. Đối với người phải yêu thương, khoan dung, độ lượng; phải luôn có thái
độ chân thành, khiêm tốn, đoàn kết. Người nhắc nhở cán bộ, đảng viên phải thực
hiên tốt điều “Nhân”: “Thật thà yêu thương, hết lòng giúp đỡ đồng chí, đồng bào.
Vì thế mà kiên quyết chống lại những người, những việc có hại đến Đảng, đến
nhân dân”3. Đối với việc phải tận tâm, tận lực, có trách nhiệm, gương mẫu phấn
đấu hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ được giao. Đặc biệt, cán bộ, đảng viên phải luôn
giữ vững nguyên tắc “Dĩ công vi thượng”, nghĩa là để việc công lên trên, lên trước
việc tư. Người luôn giáo dục, nhắc nhở cán bộ, đảng viên phải “chí công vô tư”,
nghĩa là phải biết hy sinh lợi ích cá nhân cho lợi ích của Tổ quốc, nhân dân và của
Đảng. Theo Hồ Chí Minh, muốn tiến hành tốt các nội dung nêu gương, thì cán bộ,
đảng viên phải luôn thực hiện “nói đi đôi với làm” và phải biết lấy người tốt, việc
tốt để tuyên truyền cho sự nêu gương. Đây là vấn đề cực kì quan trọng, là nguyên
tắc trước hết của sự nêu gương. Bởi vì, chỉ có nhất quán giữa nói và làm thì người
cán bộ, đảng viên mới giành được lòng tin của quần chúng. Nếu người cán bộ,
đảng viên nói nhiều làm ít, nói mà không làm, hoặc “nói một đằng làm một nẻo”,
thì nhất định sẽ mất uy tín trước đơn vị, trước cộng đồng, và vai trò của sự nêu
gương sẽ không thể phát huy được. Sự thống nhất giữa lời nói và việc làm còn là

một yêu cầu khách quan của phẩm chất người cán bộ, đảng viên, nhất là trong tình
hình hiện nay. Khi giáo dục cán bộ làm công tác dân vận, Người đã nhấn mạnh:
“Tuyên truyền phải miệng nói tay làm, phải tùy hoàn cảnh mà tổ chức giúp đỡ
nhân dân thật sự, không phải chỉ dân vận bằng diễn thuyết”.


Để vận dụng đúng đắn, sáng tạo và hiệu quả phong cách nêu gương của Bác,
cần tập trung thực hiện tốt một số vấn đề sau:
Một là, tăng cường tuyên truyền, giáo dục, nâng cao nhận thức về vai trò,
nội dung của phong cách nêu gương. Cả lý luận và thực tiễn đều khẳng định rằng,
phong cách nêu gương của cán bộ, đảng viên có vai trò hết sức quan trọng đối với
các phong trào cách mạng của quần chúng. Thực tế kết quả những phong trào thi
đua rộng khắp hiện nay như: xây dựng nông thôn mới, toàn dân đoàn kết xây dựng
đời sống văn hóa, học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh... cho
thấy: Ở đâu cán bộ, đảng viên gương mẫu thực hiện và sáng tạo trong lãnh đạo,
vận động quần chúng thực hiện, thì ở đó phong trào phát triển mạnh mẽ, đạt hiệu
quả cao. Ở đâu cán bộ, đảng viên thiếu gương mẫu, ở đó phong trào yếu kém, hiệu
quả thi đua thấp. Nội dung phong cách nên gương trong 3 mối quan hệ với mình,
với người, với công việc phải được nhận thức sâu sắc, thể hiện rõ tinh thần “đảng
viên đi trước, làng nước theo sau”, “làm mực thước cho người ta bắt chước” trong
mỗi hành động việc làm của cán bộ, đảng viên.
Hình thức, phương pháp tuyên truyền, giáo dục hết sức linh hoạt, sáng tạo,
thông qua nghiên cứu, học tập các chuyên đề, lồng ghép trong nội dung sinh hoạt
chi bộ, cấp ủy; hoặc qua các phương tiện thông tin đại chúng một cách thường
xuyên, liên tục với nhiều chuyên mục phong phú như “Đảng trong cuộc sống hôm
nay”,“Ý Đảng lòng dân”,“Đưa Nghị quyết của Đảng vào cuộc sống”... Các tổ chức
Đảng cần tổ chức cho tất cả đảng viên nghiên cứu, học tập, quán triệt sâu sắc
chuyên đề: “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh về phong cách
quần chúng, dân chủ, nêu gương; nêu cao trách nhiệm gương mẫu của cán bộ, đảng
viên”. Thông qua đó mỗi cán bộ, đảng viên nhận thức sâu sắc lời dạy của Chủ tịch

Hồ Chí Minh về phong cách nêu gương.
Hai là, luôn nắm vững và thực hiện tốt nguyên tắc, phương pháp về phong
cách nêu gương. Để có thể nêu gương trước quần chúng, cán bộ, đảng viên phải
luôn thực hiện tốt lời nói đi đôi với việc làm và phải biết tuyên truyền rộng rãi
gương người tốt, việc tốt trong nhân dân. Nói đi đôi với làm là yêu cầu bắt buộc, là
nguyên tắc cao nhất của phong cách nêu gương, là thước đo, tấm gương phản chiếu
tư cách của người cán bộ, đảng viên. Thường xuyên nêu gương của cấp trên đối
với cấp dưới, của thế hệ trước đối với thế hệ sau. Cụ thể, trong gia đình thì ông bà,
cha mẹ làm gương cho con cháu; ở trường học các thầy, cô giáo làm gương cho
học sinh; ở cơ quan, đơn vị thì cán bộ lãnh đạo làm gương cho cấp dưới, người này
làm gương cho người kia… Trong cuộc sống hàng ngày, mỗi cán bộ, đảng viên


chẳng những phải nỗ lực tu dưỡng, rèn luyện để không ngừng tiến bộ, trưởng
thành, mà còn phải là tấm gương tốt giúp cho nhân dân nhìn vào để làm những
điều đúng, điều thiện, chống lại những cái ác, cái sai. Đó chính là học và làm theo
phong cách nêu gương của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Ba là, nỗ lực phấn đấu, nâng cao hiệu quả rèn luyện về sự nêu gương. Để có
thể nêu gương trước quần chúng, củng cố niềm tin của nhân dân đối với Đảng, đội
ngũ cán bộ, đảng viên phải ra sức rèn luyện, kiên quyết đấu tranh khắc phục những
tồn tại, yếu kém mà Nghị quyết Trung ương 4 đã chỉ ra. Trên cơ sở thực hiện đầy
đủ các chuẩn mực đạo đức theo tư tưởng Hồ Chí Minh, đội ngũ cán bộ, đảng viên
phải ngày càng nâng cao đức tính “cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư”; dũng
cảm đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân, chống lợi ích nhóm, chống lối sống cơ
hội, thực dụng, lối sống vì tiền tài, danh vọng, vô cảm trước những khó khăn, vất
vả của quần chúng nhân dân. Chỉ có nâng cao hiệu quả rèn luyện các phẩm chất ấy
thì cán bộ, đảng viên mới làm gương cho quần chúng, giữ vững được niềm tin của
nhân dân với Đảng. Mặt khác, cán bộ, đảng viên phải tận tâm, tận lực, gương mẫu,
phấn đấu hoàn thành mọi nhiệm vụ được giao. Trong mọi hoàn cảnh cán bộ, đảng
viên phải là những chiếc đầu tàu, tạo nên động lực mạnh mẽ, kéo cả đoàn tàu quần

chúng tiến lên, như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dạy.
Giáo dục đạo đức là sự nghiệp của toàn Đảng, toàn dân, của tất cả mọi
người. Trong xã hội ta, ai cũng là chủ thể, đồng thời là đối tượng của giáo dục đạo
đức. Do đó, ai cũng có thể và cần phải luôn nêu gương sáng về đạo đức. Theo đó,
trong gia đình, ông bà cha mẹ là tấm gương cho các con cháu, anh chị là tấm
gương đối với các em; trong nhà trường các thầy, cô giáo là tấm gương cho học
trò; trong cơ quan và các tổ chức đoàn thể thì cán bộ lãnh đạo là tấm gương cho
cấp dưới, người này có thể nêu gương cho người khác. Để phát huy vai trò của
phương pháp nêu gương về đạo đức trong giáo dục đạo đức cách mạng, Chủ tịch
Hồ Chí Minh đã phát động phong trào “Người tốt, việc tốt” nhằm giúp cho mỗi
người tự nhận thấy mình có thể noi theo gương người tốt và làm được việc tốt để
trở thành người có ích cho cộng đồng và qua đó, tạo ra một phong trào thi đua sôi
nổi, rộng khắp trong toàn xã hội. Người chỉ ra rằng, mỗi người tốt là một bông hoa
đẹp, cả dân tộc ta sẽ là một vườn hoa đẹp.
Phong cách nêu gương trong tư tưởng và tấm gương đạo đức của Chủ tịch
Hồ Chí Minh được thể hiện xuyên suốt trong cả cuộc đời hoạt động cách mạng,
phấn đấu hy sinh vì Tổ quốc, vì nhân dân của Người. Một đặc điểm nữa trong
phong cách nêu gương về đạo đức của Chủ tịch Hồ Chí Minh còn được thể hiện ở


chỗ, Người không chỉ tiếp thu, kế thừa, bổ sung, phát triển và hoàn thiện lý luận về
phương pháp, mà Người đã thực hành phong cách nêu gương một cách nhuần
nhuyễn, hết sức mẫu mực và tự nhiên. Người kiên trì nêu gương về đạo đức còn
nhiều hơn những điều Người nói và viết ra. Chính bản thân Người là một tấm
gương về phong cách nêu gương về đạo đức, một hình ảnh mẫu mực về “người
lãnh đạo và người đầy tớ thật trung thành của nhân dân”. Tấm gương đạo đức của
Người chẳng những có sức lôi cuốn, cảm hóa mãnh liệt đối với toàn thể dân tộc
Việt Nam mà còn có ảnh hưởng sâu rộng trên toàn thế giới. Trong suốt cuộc đời
hoạt động cách mạng của mình, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nêu tấm gương sáng
ngời về phong cách nêu gương, nói đi đôi với làm. Bác kêu gọi toàn dân tiết kiệm,

bản thân Người nghiêm túc thực hiện, từ việc ăn, mặc đến sinh hoạt, làm việc hằng
ngày Bác đều gương mẫu. Khi nước nhà vừa giành được độc lập năm 1945, đứng
trước nạn đói đang hoành hành, Người kêu gọi toàn dân diệt “giặc đói” bằng hành
động cụ thể, mười ngày nhịn ăn một bữa để lấy số gạo tiết kiệm đó cứu những
người bị đói và chính Người đã làm gương, nghiêm túc thực hiện một cách triệt để
mặc dù phải làm việc nhiều, sức khỏe giảm sút vì vừa trải qua một trận ốm nặng.
Bộ đội, cán bộ ăn cơm độn ngô, khoai sắn, Bác cũng yêu cầu nấu cơm độn 50%
đúng như mọi người. Đồ dùng sinh hoạt cá nhân của Bác cũng rất giản dị và rất tiết
kiệm. Bác Hồ thường căn dặn mọi người phải thực hành tiết kiệm, tiết kiệm sức
lao động, tiết kiệm thời giờ, tiền bạc; phải tiết kiệm từ cái to đến cái nhỏ, không xa
xỉ, hoang phí, không bừa bãi, phô trương hình thức. Bác đã sống cả cuộc đời thanh
bạch từ ăn, ở đến phương tiện sử dụng phục vụ công việc hằng ngày. Là Chủ tịch
nước nhưng Bác cũng chỉ có vài bộ quần áo đơn sơ, giản dị, anh em phục vụ muốn
đề nghị may mới cho Bác, nhưng Bác không cho và nói: Bác có hai bộ là đủ dùng
rồi. Hiện nay đồng bào ta còn thiếu quần áo mặc. Bác có như vậy là đủ và tốt lắm
rồi.
Phong cách sinh hoạt Hồ Chí Minh có nhiều nét đã trở thành huyền thoại
không những đối với nhân dân Việt Nam mà còn đối với cả thế giới. Đó là sự giản
dị, thanh đạm, thanh cao trong sinh hoạt hằng ngày; là cách sống chừng mực, điều
độ, ngăn nắp, yêu lao động, rất quý trọng thời gian, chẳng có ham muốn danh lợi
riêng cho mình; đó là tình thương yêu con người hòa quyện với tình yêu thiên
nhiên tạo nên tinh thần lạc quan của người chiến sĩ cách mạng. Người không phải
cố ý sống khác đời để mọi người ca ngợi mà lối sống của Người là xuất phát từ
một triết lý nhân sinh là lấy khiêm tốn, giản dị làm nền; lấy chừng mực đức độ làm
chuẩn mực; lấy trong sạch thanh cao làm nguồn vui; lấy gắn bó con người, thiên
nhiên làm niềm say mê vô tận; lấy hạnh phúc của nhân dân làm mục tiêu phấn đấu


và là hạnh phúc của mình. Tư tưởng và tấm gương đạo đức, phong cách nêu gương
của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã làm cho Người trở thành một con người toàn vẹn với

một cuộc sống mẫu mực tự nhiên trong suốt cả cuộc đời.
Về phong cách quần chúng, gần dân, tin dân, trọng dân, gắn bó với nhân
dân: Trong cuộc đời hoạt động của mình, Hồ Chí Minh luôn gần gũi với Nhân dân,
qua đó thấu hiểu tâm tư, nguyện vọng của nhân dân. Tư tưởng trọng dân và tin dân
nhất quán từ trong suy nghĩ và hành động thường nhật hằng ngày của Hồ Chí
Minh. Chính vì trọng dân, tin dân và thương dân, nên Người lấy dân làm đối tượng
phục vụ. Hồ Chí Minh luôn tin dân, tin tưởng vào khả năng và sức mạnh của nhân
dân. Phong cách quần chúng của Hồ Chí Minh bắt nguồn từ tư tưởng của Người:
“Nước lấy dân làm gốc”. Người nhấn mạnh: “Học hỏi quần chúng nhưng không
theo đuôi quần chúng”, “không phải dân chúng nói gì, ta cũng cứ nhắm mắt theo” .
Trong cách làm việc với quần chúng cần phải nắm vững tình hình chất lượng quần
chúng, phân loại các mức hạng khác nhau để có biện pháp làm việc cho hiệu quả,
mặt khác phải nắm rõ đặc điểm nổi bật trong tư tưởng của dân chúng là “họ hay so
sánh” và họ so sánh đúng vì tai mắt họ nhiều, việc gì họ cũng nghe, cũng thấy. Vì
thế, “người cán bộ cũng phải dùng cách so sánh của dân chúng mà tự mình so
sánh”. Hồ Chí Minh nhiều lần nhắc nhở cán bộ phải phê phán và đấu tranh khắc
phục cách làm việc quan liêu, mệnh lệnh. Người yêu cầu các đồng chí phụ trách ở
các bộ, ban, ngành và Trung ương phải thường xuyên đi kiểm tra và giải quyết
công việc tại chỗ, phải chống bệnh giấy tờ, hội họp nhiều, đi kiểm tra giúp đỡ ít.
Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn là tấm gương sáng về sự gắn bó mật thiết với
dân, tin dân, gần dân, trọng dân và có trách nhiệm với dân. Ðây chính là một bài
học, hơn thế đã trở thành một giá trị đạo đức, thành phong cách, lối sống cho các
thế hệ cán bộ, đảng viên học tập và noi theo. Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, đối với
một đảng cầm quyền thì việc chăm lo đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, đảng viên là rất
quan trọng và cấp thiết. Có nhiều nội dung cần thiết phải đào tạo, bồi dưỡng cho
cán bộ, đảng viên, song có lẽ bao trùm lên tất cả, yêu cầu đầu tiên với mỗi cán bộ,
đảng viên, là phụng sự nhân dân, là công bộc của nhân dân. Muốn phụng sự được
nhân dân, là công bộc của nhân dân thì người cán bộ, đảng viên không chỉ biết gần
gũi với nhân dân, biết trọng dân, biết nghe dân nói, mà còn phải biết nói cho dân
nghe, làm cho dân tin.

Câu 4: Đồng chí hay cho biết các nguyên tắc xây dựng đạo đức cách
mạng theo tư tưởng Hồ Chí Minh?


Đã tiếp thu, rèn luyện và tu dưỡng đạo đức cách mạng không phải ai cũng thực hiện
được. Theo Bác Hồ, thì chỉ có những người có cái tâm trong sáng mới đủ bản lĩnh và năng lực
lãnh hội được những chuẩn mực của đạo đức cách mạng. Và, khi đạo đức cách mạng đã vững rồi
thì “giàu sang không quyến rũ, nghèo khó không chuyển lay, uy vũ không khuất phục”. Đây
cũng là phẩm chất của người đảng viên cộng sản. Đức tính trên cũng được coi là khí phách của
đấng trượng phu của thời phong kiến. Nhưng với người cán bộ cách mạng, đạo đức cách mạng
dù bất luận hoàn cảnh nào đều phải giữ mình; trước sự giàu sang không thể làm cho mình thèm
muốn, sự nghèo khó cũng không thể làm cho mình lay chuyển, nao núng; uy quyền, võ lực, hay
dù phải đứng trước cái chết cũng không thể làm cho mình khuất phục, đầu hàng.
Chúng ta biết rằng, học trên sách vở thì rất dễ, nhưng việc lãnh hội, rèn luyện và thực
hành là cực kỳ khó. Cho nên, muốn có được đạo đức cách mạng, mỗi cán bộ, đảng viên cần thực
hiện tốt các nguyên tắc sau:
Nguyên tắc 1: Nói đi đôi với làm, nêu gương tốt, làm việc tốt.
Nói đi đôi với làm, nêu gương tốt làm việc tốt. Đây không chỉ là nguyên tắc rèn luyện mà
còn là sự phân biệt giữa đạo đức cách mạng và phi đạo đức cách mạng. Chúng ta biết, nói mà
không làm là đặc tính của giai cấp bóc lột, cho nên, lời nói phải đi đôi với việc làm và phải thực
hiện việc làm gương - đó là đạo đức của người cách mạng. Bác từng nói: "Một tấm gương sống
còn có giá trị hơn 100 bài diễn văn tuyên truyền", "trước mắt quần chúng, không phải cứ viết lên
trán hai chữ cộng sản mà ta được họ yêu quý. Quần chúng chỉ quý mến những người có tư cách
đạo đức". Muốn hướng dẫn nhân dân, mình phải làm mực thước cho người ta bắt chước. Hô hào
dân tiết kiệm, mình phải tiết kiệm trước đã..” Cho nên, đảng viên phải làm gương mọi mặt cho
quần chúng noi theo. Thực hiện đúng lời dạy của Bác “Đảng viên đi trước, làng nước theo sau”.
Việc làm gương phải thực hiện ở mọi nơi, mọi việc, phải quán triệt trong toàn Đảng và toàn hệ
thống chính trị, từ cán bộ cấp Trung ương đến tận cơ sở. Bác Hồ kính yêu là tấm gương nói

đi đôi với làm. Cho nên, ở Người có sức thuyết phục lớn, có một sức hút mãnh liệt

làm cho cả dân tộc, các giai tầng xã hội, các thế hệ người Việt Nam đều tin tưởng,
kính phục, yêu quý và đi theo lời kêu gọi của Người. Các vị lãnh tụ cộng sản và
nhân dân yêu chuộng hoà bình trên thế giới cũng kính yêu Người.
Nguyên tắc thứ hai: Xây đi đôi với chống.
Nghĩa là đồng thời với việc giáo dục, xây dựng, rèn luyện đạo đức cách mạng phải đi đôi
với đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân, chống những hành vi phi đạo đức. Việc xây dựng đạo

đức cách mạng không phải dễ dàng, bởi ai lại không thích quyền lực, ai thấy vàng,
tiền bạc, nhà cao cửa rộng lại không ham, cho nên đấu tranh để thắng những ham
muốn của bản thân mình là một cuộc đấu tranh gay go và phức tạp. Nhưng nếu
chúng ta kiên quyết thì sẽ thành công. Hơn nữa, trong Đảng, trong mỗi con người
vì những lý do khác nhau, nên không phải mọi người đều tốt. Bác Hồ chỉ rõ những
kẻ địch cần chống trước hết là chống thói quen và truyền thống lạc hậu; và đặc bịêt
là chống chủ nghĩa cá nhân đang ẩn chứa trong mỗi con người, khi có điều kiện tác


động nó sẽ phát triển. Cho nên, Bác yêu cầu mỗi cán bộ, đảng viên "trước hết phải
đánh thắng lòng tà là kẻ thù trong mình". Và phải phê phán đấu tranh loại bỏ hàng
trăm thứ bệnh do chủ nghĩa cá nhân gây ra vì nó là vật cản nguy hiểm cho việc xây
dựng đạo đức cách mạng. Cho nên, chúng ta chống là nhằm để xây dựng, đi liền
với xây và lấy xây làm chính, lấy gương tốt để giáo dục và xây dựng đạo đức cách
mạng cho mỗi người và đạo đức trong Đảng.
Nguyên tắc thứ ba: Tu dưỡng bền bỉ suốt đời.
Bác đã chỉ rõ: "Đạo đức cách mạng không phải trên trời sa xuống. Nó do quá trình đấu
tranh rèn luyện bền bỉ hàng ngày mà phát triển và củng cố. Cũng như ngọc càng mài càng sáng,
vàng càng luyện càng trong". Việc tu dưỡng đạo đức cách mạng phải trên tinh thần tự

giác, tự nguyện, dựa vào lương tâm của mỗi người và sự đóng góp xây dựng của
tập thể của quần chúng. Người khẳng định, đã là người thì ai cũng có chỗ hay, chỗ
dở, chỗ xấu, chỗ tốt, ai cũng có thiện, có ác ở trong mình. Nhưng tốt, xấu, hiền, dữ,

thiện, ác đều lệ thuộc vào sự giáo dục và rèn luyện mà nên. Cho nên, vấn đề là
chúng ta phải biết và dám dũng cảm nhìn thẳng vào sự thật bản thân con người
mình và dựa vào tập thể để thấy cái tốt, cái hay để phát huy, cái xấu, cái ác để khắc
phục. Đã là con người thì khó tránh khỏi vấp phải khuyết điểm, sai lầm. Vấn đề là
phải dũng cảm nhìn nhận sai lầm, khuyết điểm để sửa chữa, khắc phục. Và, việc tu
dưỡng đạo đức cách mạng phải gắn liền với thực tiễn hoạt động cách mạng, phải
bền bỉ, ở mọi lúc, mọi nơi, mọi hoàn cảnh. Bác đã viết “tư tưởng cộng sản với tư
tưởng cá nhân ví như lúa với cỏ dại. Lúa phải chăm bón rất khó nhọc thì mới tốt
được. Còn cỏ dại không cần chăm sóc cũng mọc lên lu bù. Tư tưởng cộng sản phải
rèn luyện mới có được. Còn tư tưởng cá nhân thì cũng như cỏ dại, sinh sôi, nảy nở
rất dễ. Vì vậy gột rửa chủ nghĩa cá nhân ví như rửa mặt thì phải rửa hàng ngày".
Cho nên, xây dựng, rèn luyện tu dưỡng đạo đức cách mạng và chống chủ nghĩa cá
nhân là phải được tiến hành đồng thời, thường xuyên, bền bỉ, suốt đời trong quá
trình hoạt động cách mạng.
Trên đây là 3 nguyên tắc cơ bản rèn luyện đạo đức của cá nhân để trở thành
người có đạo đức cách mạng. Mỗi cán bộ, đảng viên nếu thực tâm làm theo lời Bác
thì sẽ hoàn toàn thực hiện được. Vì những điều Bác dạy, không phải chỉ có vĩ nhân
hay lãnh tụ mới thực hiện được, mà mọi người đều thực hiện được vì đó là những
điều rất bình dị trong cuộc sống của mỗi người.
Câu 5: Đồng chí hãy cho biết nội dung 8 lời Bác Hồ căn dặn Đảng bộ và
nhân dân các dân tộc tỉnh Hà Giang năm 1961? Cụ thể hóa lời dạy của Bác,
đồng chí cần thực hiện những nội dung gì? Cách làm như thế nào? Liên hệ 1
nội dung thực hiện tốt ở chi bộ, cơ quan, đơn vị đồng chí về cách thức thực
hiện, hiệu quả thực tế?


Nội dung Tám lời Bác Hồ căn dặn Đảng bộ và nhân dân các dân tộc Hà
Giang 8 vấn đề là:
Trước hết, tất cả các dân tộc đều phải đoàn kết chặt chẽ, thương yêu giúp đỡ
nhau như anh em một nhà.

Hai là, đồng bào phải ra sức tăng gia sản xuất và thực hành tiết kiệm để làm
cho mọi người áo ấm, cơm no.
Ba là, muốn sản xuất tốt phải có đủ nước, nhiều phân bón và cải tiến nông
cụ.
Bốn là, cần phải phát triển chăn nuôi trâu, bò, lợn... là nguồn lợi lớn lại là
nguồn phân bón ruộng nương.
Năm là, phải chú ý hơn nữa bảo vệ rừng và trồng cây gây rừng. Trồng cây
ăn quả và cây làm thuốc.
Sáu là, đồng bào phải chú ý vệ sinh. Để giữ gìn sức khỏe thì phải ăn sạch,
uống sạch, mặc sạch, ở sạch, có sức khỏe thì lao động sản xuất mới tốt.
Bảy là, đồng bào phải cố gắng xóa nạn mù chữ, phải biết đọc, biết viết thì
làm ăn mới tiến bộ.
Tám là, đời sống của đồng bào rẻo cao còn nhiều khó khăn, còn phải ra sức
giúp đỡ đồng bào rẻo cao nhiều hơn nữa. Đối với cán bộ, đảng viên và đoàn viên
phải củng cố tốt các các chi bộ và chi đoàn, phát triển Đảng và đoàn. Cán bộ, đảng
viên và đoàn viên phải đoàn kết chặt chẽ, phải hết lòng, hết sức phục vụ nhân dân,
đặt lợi ích của nhân dân trên lợi ích riêng của mình, phải gương mẫu trong đoàn
kết dân tộc, trong học tập và trong lao động sản xuất, phải chống tham ô, lãng phí,
quan liêu, mệnh lệnh.
Để thực hiện được Tám lời căn dặn của Bác trước hết tôi luôn có ý thức tự
tự giác, tích cực. nghiêm túc trong việc học tập và làm theo Tám lời căn dặn của
Bác; xây dựng nội dung, chương trình hành động cá nhân thật sự ngắn gọn, dễ nhớ,
dễ thực hiện, dễ kiểm tra, đánh giá, sát đúng với thực tế công việc hàng ngày; cụ
thể hóa từng nội dung lời dạy của Bác trong việc tham mưu thực hiện nhiệm vụ
chuyên môn. Tăng cường xây dựng tình cảm, tinh thần đoàn kết trong Chi bộ, cơ
quan, nhận thức rõ chỉ có đoàn kết mới tạo nên sức mạnh tổng thể của cả tập thể,
đấu tranh đầy lùi những biểu hiệu chia bè, phái trong nội bộ. Tham mưu triển khai
thực hiện nhiệm vụ kịp thời, đồng thơi tích cực tham gia các hoạt động đoàn thể,
hoạt động tình nguyện giúp đỡ những cá nhân, gia đình có hoàn cảnh khó khăn.



Trong những năm qua, thấm nhuần 8 lời dạy của Bác Hồ chi bộ Văn phòng
HĐND – UBND huyện đã chủ động, tích cực làm theo những lời Bác dạy; thực
hiện tốt lời dạy thứ nhất của Bác “tất cả các dân tộc đều phải đoàn kết chặt chẽ,
thương yêu giúp đỡ nhau như anh em một nhà” nội bộ chi bộ luôn đoàn kết thống
nhấn có được sự thống nhất đó là nhờ có sự chỉ đạo chặt chẽ của Ban Chi ủy chi
bộ, chi bộ đã đẩy mạnh giáo dục chính trị, tư tưởng, coi trọng rèn luyện đạo đức
cách mạng, bồi dưỡng tình yêu thương đồng chí, tôn trọng lẫn nhau cho cán bộ,
đảng viên là nhiệm vụ chủ yếu, giáo dục để mỗi cán bộ đảng viên tự hiểu và giác
ngộ chính trị; quan tâm chặt chẽ đến công tác tuyên truyền trong Đảng nhằm nâng
cao trình độ nhận thức cho mỗi đảng viên trong chi bộ. Hằng tháng chi bộ đều tổ
chức sinh hoạt để đánh giá kết quả thực hiện nhiệm vụ, tư tưởng chính trị của mỗi
cán bộ đảng viên trong tháng, đánh giá góp ý thẳng thắn để giúp mỗi cá nhân đảng
viên nhận thực được những mặt hoạt động được, mặt chưa được từ đó rút kinh
nghiệm thực hiện tốt hơn trong tháng tiếp theo, chi bộ cũng đã kịp thời biểu dương
những đảng viên gương mẫu và giúp đỡ giáo dục, xử lý những đảng viên có thiếu
sót, khuyết điểm, vi phạm để chi bộ thực sự là nơi quan lý, giáo dục, đào tạo, rèn
luyện và sàng lọc đội ngũ đảng viên; luôn tôn trọng quyền của đảng viên, nhất là
quyền được thảo luận thẳng thắn các vấn đề về đường lối, chính sách của Đảng;
quyền được phê bình, chất vấn trong phạm vi tổ chức của đảng viên ở mọi cấp;
quyền được thông tin, được bảo lưu ý kiến của mình như Điều lệ Đảng đã quy
định. Trong chi bộ phải chống mọi biểu hiện độc đoán, quy chụp, áp đặt ý kiến cá
nhân, thành kiến, trù dập, kiêu căng, thiếu khiêm tốn hoặc e dè nê nang, thiếu trung
thực, không dám đấu tranh với những việc làm, quan điểm sai trái. Để thực hiện tốt
sự đoàn kết trong nội bộ, chi bộ văn phòng HĐND-UBND huyện đã luôn định
hướng cho cán bộ, đảng viên chủ động đấu tranh phê bình những hành động sai
trái, không nể nang né tránh. Thực hiện tốt công tác kiểm tra, giám sát của chi ủy,
chi bộ đối với cán bộ, đảng viên vì công tác kiểm tra có vai trò đặc biệt quan trọng
trong việc tăng cường đoàn kết thống nhất trong chi bộ. Công tác kiểm tra giúp kịp
thời phát hiện và ngăn chặn nguyên nhân, hiện tượng mất đoàn kết. Đồng thời biểu

dương kịp thời và có biện pháp cụ thể, thiết thực giúp cho cán bộ, đảng viên chấp
hành nghiêm kỷ luật của Đảng, giáo dục cán bộ, đảng viên không ngừng chăm lo
vun đắp cho khối đoàn kết thống nhất trong Đảng.
Câu 6: Đề xuất giải pháp nâng cao hiệu quả việc học tập và làm theo tư
tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh; Tám lời Bác Hồ căn dặn Đảng bộ
và nhân dân các dân tộc tỉnh Hà Giang tại chi bộ, cơ quan, đơn vị mình?


Học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh; Tám lời
Bác Hồ căn dặn Đảng bộ và nhân dân các dân tộc tỉnh Hà Giang có ý nghĩa đặc
biệt quan trọng đối với mỗi người cán bộ, đảng viên, nhất là trong thời kỳ hiện
nay; việc học tập góp phần bồi dưỡng phẩm chất đạo đức cách mạng, tư duy Lý
luận và phương pháp công tác của mỗi cán bộ, đảng viên, rèn luyện bản lĩnh chính
trị, đạo đức, tư cách, phẩm chất cách mạng, nâng cao lòng tự hào về Bác, về Đảng
Cộng sản Việt Nam, tự nguyện sống, cống hiến cho sự nghiệp xây dựng và phát
triển đất nước nói chung và phát triển huyện Quang Bình nói riêng.
Việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh; Tám
lời Bác Hồ căn dặn Đảng bộ và nhân dân các dân tộc tỉnh Hà Giang, trên địa bàn
huyện Quang Bình theo tôi cần thực hiện như sau:
Cấp ủy các cấp tiếp tục chỉ đạo đưa việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo
đức, phong cách Hồ Chí Minh; Tám lời Bác Hồ căn dặn Đảng bộ và nhân dân các
dân tộc tỉnh Hà Giang trở thành nội dung sinh hoạt thường xuyên, quan trọng của
các chi, đảng bộ; gắn với thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 “Một số vấn đề cấp
bách về xây dựng Đảng hiện nay”, nâng cao chất lượng sinh hoạt chi bộ. Thực hiện
học tập phải gắn với thực hiện nhiệm vụ chính trị của từng ngành, địa phương, cơ
quan, đơn vị gắn với công tác xây dựng Đảng, thực hiện Nghị quyết Trung ương 4
(khóa XI) “Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay”; kiên quyết chỉ
đạo giải quyết có hiệu quả những vấn đề nổi cộm, bức xúc, yếu kém kéo dài mà
cán bộ, đảng viên quan tâm. Tạo sự thống nhất cao trong toàn Đảng bộ huyện,
trước hết là trong cấp ủy về mục đích, ý nghĩa của việc Học tập và làm theo tư

tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh; Tám lời Bác Hồ căn dặn Đảng bộ và
nhân dân các dân tộc tỉnh Hà Giang phải làm cho tư tưởng, đạo đức, phong cách là
lời căn dặn của Bác thể hiện trong việc lớn và việc cụ thể hàng ngày, không coi nhẹ
hay tuyệt đối hóa một lĩnh vực nào.
Phát huy tốt vai trò của các cấp ủy, nhất là người đứng đầu trên cả hai mặt
“lãnh đạo, chỉ đạo” và “gương mẫu, đi đầu”; tâm huyết, chủ động, tích cực thực
hiện các chủ trương, đường lối, quy định của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà
nước. Và điều quan trọng là đội ngũ cán bộ lãnh đạo chủ chốt phải thực sự nêu
gương, dám nghĩ, dám làm, quyết liệt trong tư duy và hành động. Rà soát việc xây
dựng chuẩn mực đạo đức ngắn gọn, dễ nhớ, dễ thực hiện, phù hợp với đặc điểm
của từng chi bộ, cơ quan, đơn vị; ban hành quy định về việc thực hiện nghiêm túc
các chuẩn mực đạo đức đã xây dựng, lấy kết quả phấn đấu theo các chuẩn mực đạo
đức, cũng như kết quả thực hiện quy định nêu gương, quy định về những điều đảng


viên không được làm là một tiêu chí bình xét thi đua, khen thưởng, đánh giá kết
quả phấn đấu rèn luyện, tu dưỡng của cá nhân và tập thể hàng năm.
Xây dựng từng chuyên đề học tập về tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí
Minh; Tám lời Bác Hồ căn dặn Đảng bộ và nhân dân các dân tộc tỉnh Hà Giang
cho từng tháng, quý cụ thể, chi tiết để các tổ chức cơ sở đảng, các cơ quan, đơn vị
tổ chức học tập trong cán bộ, đảng viên, đoàn viên, hội viên và quần chúng nhân
dân thông qua định kỳ sinh hoạt hàng tháng của chi bộ và các tổ chức đoàn thể
chính trị- xã hội.
Trên đây là bài dự thi Tìm hiểu về học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức,
phong cách Hồ Chí Minh và Tám lời Bác Hồ căn dặn Đảng bộ và nhân dân tỉnh Hà
Giang của cá nhân tôi, kính mong chi bộ xem xét./.




×