TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA GIÁO DỤC MẦM NON
======
LÊ THỊ HUYỀN
THẾ GIỚI NHÂN VẬT TRONG TÁC PHẨM
BỎ TRỐN CỦA PHAN THỊ THANH NHÀN
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Văn học thiếu nhi
Ngƣời hƣớng dẫn khoa học
TS. DƢƠNG THỊ THÚY HẰNG
HÀ NỘI - 2017
LỜI CẢM ƠN
Tôi xin chân thành cảm ơn sâu sắc tới TS. Dƣơng Thị Thúy Hằng ngƣời
đã giúp đỡ tôi trong suốt q trình nghiên cứu và hồn thành Khóa luận.
Tôi cũng xin gửi lời cảm ơn chân thành tới gia đình, bạn bè đã quan tâm
động viên, khích lệ, giúp đỡ tơi trong q trình học tập và nghiên cứu.
Mặc dù đã nỗ lực cố gắng song do thời gian khơng nhiều, năng lực bản
thân có hạn nên khóa luận chắc chắn cịn nhiều thiếu sót. Kính mong nhận đƣợc
sự lƣợng thứ và góp ý chân thành của các thầy cô giáo và các bạn để đƣợc học
hỏi và rút kinh nghiệm cho những cơng trình sau.
Hà Nội, ngày 26 tháng 4 năm 2017
Sinh viên
Lê Thị Huyền
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là đề tài khóa luận là kết quả nghiên cứu của riêng
tơi. Những gì đƣợc triển khai trong khóa luận khơng trùng khít với bất cứ một
cơng trình nghiên cứu của tác giả nào đã đƣợc cơng bố trƣớc đó. Nếu sai tơi xin
hoàn toàn chịu trách nhiệm.
Hà Nội, ngày 26 tháng 4 năm 2017
Sinh viên
Lê Thị Huyền
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ............................................................................................................... 1
1. Lý do chọn đề tài ............................................................................................... 1
2. Lịch sử nghiên cứu ............................................................................................ 2
3. Mục đích nghiên cứu......................................................................................... 4
4. Đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu ........................................................................ 4
4.1. Đối tƣợng nghiên cứu .................................................................................... 4
4.2. Phạm vi nghiên cứu........................................................................................ 4
5. Phƣơng pháp nghiên cứu .................................................................................. 5
6. Bố cục khóa luận ............................................................................................... 5
CHƢƠNG 1. HỆ THỐNG NHÂN VẬT TRONG TÁC PHẨM BỎ TRỐN ........ 6
1.1. Vài nét về tác giả Phan Thị Thanh Nhàn và tác phẩm Bỏ trốn ..................... 6
1.1.1. Tác giả Phan Thị Thanh Nhàn .................................................................... 6
1.1.2. Tác phẩm Bỏ trốn........................................................................................ 8
1.2. Hệ thống nhân vật .......................................................................................... 9
1.2.1. Những kiếp ngƣời bất hạnh....................................................................... 10
1.2.2. Những nhân vật giàu lòng nhân ái ............................................................ 19
1.2.3. Những nhân vật tha hóa về nhân cách ..................................................... 25
CHƢƠNG 2 NGHỆ THUẬT XÂY DỰNG NHÂN VẬT TRONG TÁC PHẨM
BỎ TRỐN ............................................................................................................ 31
2.1. Nghệ thuật miêu tả ngoại hình ..................................................................... 31
2.2. Nghệ thuật miêu tả hành động ..................................................................... 34
2.3. Nghệ thuật miêu tả nội tâm .......................................................................... 38
2.4. Nghệ thuật sử dụng ngôn ngữ nhân vật ....................................................... 40
2.4.1. Nghệ thuật đối thoại .................................................................................. 40
2.4.2. Ngôn ngữ độc thoại ................................................................................... 46
KẾT LUẬN ......................................................................................................... 49
TÀI LIỆU THAM KHẢO .................................................................................. 50
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
1.1. M. Gocki đã từng nói “Văn học là nhân học”. Văn học đóng vai trị là
chiếc chìa khóa mở cánh cửa đƣa con ngƣời tới những chân trời rộng lớn. Hơn
thế nữa, những tác phẩm văn học chân chính cịn đóng góp một phần to lớn
trong việc bồi đắp, ni dƣỡng tình cảm trong tâm hồn con trẻ. Trên thực tế, trẻ
em lớn lên không chỉ bằng những câu hát ru “À ơi” ngọt ngào đằm thắm, hay
những câu chuyện cổ tích với những yếu tố kì ảo, huyền bí. Trẻ cịn cần đƣợc
tiếp xúc với những câu chuyện mang nội dung gần gũi, đời thƣờng, quen thuộc
tồn tại ngay trong cuộc sống xung quanh trẻ. Những câu chuyện này có thể đến
với trẻ thông qua con đƣờng mẹ đọc con nghe, bà đọc cháu nghe… Từ đây, thế
giới tinh thần của trẻ sẽ đƣợc mở rộng và phong phú hơn.
1.2. Tác giả Phan Thị Thanh Nhàn trƣởng thành trong kháng chiến chống
Mỹ cùng thời với Xuân Quỳnh, Lâm Thị Mĩ Dạ,Ý Nhi... Tên tuổi bà gắn với bài
thơ nổi tiếng Hương thầm đã đƣợc phổ nhạc. Bên cạnh đó, bà cịn đƣợc biết
đến với những đóng góp trong mảng sáng tác cho trẻ em, với các tác phẩm:
Xóm đê ngày ấy, Tuổi trăng rằm, Bỏ trốn và gần đây là Học trò lớp chín…
Nếu nhà thơ Xuân Quỳnh viết văn làm thơ cho trẻ em trƣớc hết là viết cho
chính những đứa con - tình yêu máu thịt của mình thì tác giả Phan Thị Thanh
Nhàn viết văn làm thơ cho trẻ em lại bởi sự không may của số phận cô đơn
thiếu vắng tiếng bi bô trẻ nhỏ trong căn nhà của bà. Nhà thơ đã tìm đến trang
văn cho trẻ em nhƣ để giãi bày, nhƣ để tìm một sự chia sẻ ấm áp trong lành giữa
cảnh đời còn nhiều nỗi khổ đau. Dù trong thời bình nhƣng nỗi bất hạnh, vất vả
ln đe dọa, rình rập cuộc sống của các gia đình, ập xuống mái đầu con trẻ.
Phan Thị Thanh Nhàn đã khơng ngần ngại sử dụng ngịi bút chân thực của mình
miêu tả những cảnh đời bất hạnh, những số phận bèo bọt trong xã hội, những kế
sinh nhai đến khó tin. Chính bởi lẽ đó, ở mảng sáng tác cho trẻ em, Phan Thị
Thanh Nhàn ghi dấu ấn khá sâu đậm. Truyện Bỏ trốn là một minh chứng tiêu
1
biểu.
Tác phẩm Bỏ trốn ra đời khi đất nƣớc đang trong thời kỳ đổi mới cả đất
nƣớc đang chuyển mình tham gia công cuộc đổi mới, mọi thứ bắt đầu thay da
đổi thịt. Số phận cá nhân của con ngƣời đặc biệt là trẻ nhỏ ngày càng đƣợc chú
ý. Bỏ trốn là một câu chuyện xúc động lấy đi những giọt nƣớc mắt đồng cảm
của bạn đọc. Câu chuyện còn có ý nghĩa sâu sắc trong việc giáo dục trẻ em biết
yêu thƣơng, chia sẻ, cảm thông với bạn bè, những ngƣời có hồn cảnh khó khăn
trong cuộc sống, đồng thời dạy trẻ biết quan tâm, yêu thƣơng, và dành tình cảm
đặc biệt đối với các thành viên trong gia đình mình. Có thể nói, truyện dài Bỏ
trốn đã thể hiện đƣợc tài năng, sự sáng tạo cá tính đặc biệt cũng nhƣ những tình
cảm của Phan Thị Thanh Nhàn dành cho trẻ em. Phải là một ngƣời có trái tim
giàu lịng nhân ái và am hiểu tâm lí trẻ thơ thì tác giả mới tái hiện đƣợc một
cách chân thực số phận bất hạnh, éo le của nhân vật bé Thi. Tác phẩm một lần
nữa khẳng định giá trị, chỗ đứng trong lịng bạn đọc nói riêng và trên văn đàn
Việt Nam nói riêng.
Giá trị của tác phẩm Bỏ trốn đã đƣợc khẳng định ngay khi mới ra đời
bằng giải A (một trong ba giải A) ở Cuộc vận động sáng tác cho thiếu nhi 1993
-1995 (nhà xuất bản Kim Đồng). Sau đó, tác phẩm đã đƣợc dựng thành phim Bỏ
trốn - một bộ phim ít ỏi thành cơng về đề tài trẻ em.
Việc tìm hiểu thế giới nhân vật trong tác phẩm Bỏ trốn sẽ giúp chúng tôi
hiểu sâu hơn về thế giới nghệ thuật của tác phẩm, đồng thời phục vụ một phần
cho q trình cơng tác sau này của chúng tơi.
Trên cơ sở đó, chúng tơi lựa chọn đề tài khóa luận: “Thế giới nhân vật
trong tác phẩm Bỏ trốn của Phan Thị Thanh Nhàn”.
2. Lịch sử nghiên cứu
Từ khi bắt đầu cầm bút cho đến giờ, dù đã thất thập lai hi, nhìn chung,
Phan Thị Thanh Nhàn ln nhận đƣợc sự trìu mến, ƣu ái từ phía độc giả và giới
phê bình. Cũng dễ hiểu, dù ở thơ hay truyện, dù viết văn hay làm báo, chúng ta
đều dễ dàng bắt gặp một ngòi bút thơng minh và đơn hậu, ân tình; một tâm hồn
2
dung dị, dễ cảm, dễ thấu. Tác giả Vũ Quần Phƣơng đã rất sâu sắc khi cho rằng:
“Tình cảm chín dần trong nỗi thấm thía nội tâm. Bước tiến của Thanh Nhàn
song hành với sự lịch lãm từng trải và sự lao động kiên trì của bà. Thanh Nhàn
ngày càng lặn sâu vào lịng mình, mạnh dạn mà cũng khá nhuần nhuyễn bộc lộ
nỗi riêng tư rất cá thể trước cuộc đời”.
Bàn về văn xuôi Phan Thị Thanh Nhàn, dù số lƣợng bài viết ít ỏi hơn
nhƣng các nhà nghiên cứu, phê bình, các độc giả cũng đã dành cho bà một tình
cảm trân trọng, trìu mến khơng kém. Chúng tôi xin điểm qua một số những bài
viết, ý kiến tiêu biểu hơn cả.
Trên báo Văn nghệ quân đội, nhà nghiên cứu Lã Thị Bắc Lý đã dành
những tình cảm đặc biệt đối với tác phẩm Bỏ trốn của Phan Thị Thanh Nhàn.
Tác phẩm đƣợc liệt kê là một trong những thành công lớn trong mảng văn học
thiếu nhi Việt Nam từ đầu đổi mới. PGS. TS. Lã Thị Bắc Lý viết “Sự đổ vỡ của
mơ hình truyền thống - gia đình ba thế hệ sống vui vầy đầm ấm - cùng sự khắc
nghiệt của nền kinh tế thị trường ảnh hưởng khơng ít tới cuộc sống của mỗi cá
nhân, đặc biệt là đời sống trẻ em”.
Nhà văn Lê Phƣơng Liên cũng hơn một lần lần xao xuyến trƣớc trang văn
viết cho trẻ em của Phan Thị Thanh Nhàn “Nhà thơ Phan Thị Thanh Nhàn viết
văn và làm thơ cho thiếu nhi bởi sự không may của số phận cô đơn thiếu vắng
tiếng bi bô trẻ nhỏ trong căn nhà của chị. Nhà thơ đã tìm đến trang văn cho trẻ
em để giãi bày, như để tìm một sự chia sẻ ấm áp trong lành giữa cảnh đời còn
nhiều nỗi khổ đau. Bước vào làng văn Việt Nam chị Nhàn dường như đã dành
nhiều tình cảm sâu sắc và chân thành cho những số phận bất hạnh, vất vưởng
nghèo khó, cùng cực tồn tại cận kề ngay tại thủ đô Hà Nội văn minh sang trọng.
Truyện Bỏ trốn chính là một sự thành công của nhà thơ Phan Thị Thanh Nhàn
trong mảng đề tài ấy và là một đóng góp đáng kể cho văn xuôi dành cho thiếu
nhi Việt Nam”.
Trên tạp chí Nhà văn Thành phố Hồ Chí Minh, nhà thơ Nguyễn Thị Hồng
Ngát đánh giá cao những nỗ lực của Phan Thị Thanh Nhàn: “Chị còn viết rất
3
nhiều truyện cho thiếu nhi mà truyện nào cũng rất đặc sắc như Xóm đê ngày
ấy, Bỏ trốn, Tuổi trăng rằm... Đặc biệt truyện dài Bỏ trốn được giải A cuộc thi
viết cho thiếu nhi của NXB Kim Đồng năm 1995 của chị đã được Hãng phim
truyện Việt Nam đưa lên thành bộ phim truyện nhựa rất xúc động do đạo diễn
Phạm Nhuệ Giang dàn dựng. Và người viết bài này đã “có cơng” phát hiện,
giới thiệu để Hãng phim đưa vào sản xuất và làm biên tập cho bộ phim”.
Có thể nói, tác phẩm Bỏ trốn đã nhận đƣợc quan tâm từ khá nhiều nhà
phê bình nghiên cứu và độc giả. Điều này cho thấy chỗ đứng nhất định của tác
phẩm trong dòng chảy văn học trẻ em Việt Nam. Tuy nhiên, các bài viết mới
chỉ dừng lại ở việc nêu nhận định hoặc phân tích một vài ví dụ tiêu biểu. Cho
đến nay, trong số các cơng trình nghiên cứu chúng tơi tập hợp, chƣa có một
cơng trình nào tìm hiểu sâu về những vấn đề cụ thể trong tác phẩm Bỏ trốn.
Trên cơ sở đó, chúng tơi đi vào tìm hiểu thế giới nhân vật trong tác phẩm này,
với quan niệm cho rằng việc khám phá về thế giới nhân vật sẽ là tiền đề quan
trọng để khám phá thế giới nghệ thuật của tác phẩm.
3. Mục đích nghiên cứu
Trong phạm vi khóa luận, chúng tơi bƣớc đầu chỉ ra những đặc điểm cơ
bản về thế giới nhân vật của truyện dài Bỏ trốn. Từ đây, chúng tôi muốn khẳng
định rằng, thế giới nhân vật là một trong những yếu tố quan trọng góp phần làm
nên thành công của tác phẩm. Thông qua thế giới nhân vật, giá trị giáo dục của
tác phẩm cũng đƣợc thể hiện.
4. Đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Khóa luận tìm hiểu thế giới nhân vật trong tác phẩm Bỏ trốn của Phan
Thị Thanh Nhàn.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi nghiên cứu của khóa luận là truyện dài Bỏ trốn của Phan Thị
Thanh Nhàn.
4
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Một số phƣơng pháp đƣợc chúng tơi sử dụng chủ yếu trong khóa luận
nhƣ sau:
Phƣơng pháp thống kê, phân loại.
Phƣơng pháp phân tích, tổng hợp.
Phƣơng pháp đối chiếu, so sánh.
6. Bố cục khóa luận
Ngồi Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo, nội dung khóa luận Thế giới
nhân vật trong tác phẩm Bỏ trốn của Phan Thị Thanh Nhàn gồm 2 chƣơng:
Chƣơng 1: Hệ thống nhân vật trong tác phẩm Bỏ trốn
Chƣơng 2: Nghệ thuật xây dựng nhân vật trong tác phẩm Bỏ trốn
5
CHƢƠNG 1
HỆ THỐNG NHÂN VẬT TRONG TÁC PHẨM BỎ TRỐN
1.1. Vài nét về tác giả Phan Thị Thanh Nhàn và tác phẩm Bỏ trốn
1.1.1. Tác giả Phan Thị Thanh Nhàn
Phan Thị Thanh Nhàn sinh ngày 9/8/1943 tại phƣờng Tứ Liên, quận Tây
Hồ, Hà Nội. Bà là Đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam, hội viên Hội Nhà văn
Việt Nam. Phan Thị Thanh Nhàn từng theo học khoa báo chí trƣờng Tuyên giáo
Trung ƣơng, khóa 5 lớp bồi dƣỡng những ngƣời viết văn trẻ Hội Nhà văn Việt
Nam, khóa cao học dành cho các nhà văn trẻ Việt Nam tại học viện Gorky (Liên
Xô). Phan Thị Thanh Nhàn làm thơ từ sớm, đầu thập niên 1960 đã có thơ đăng
báo. Năm 1969, bài thơ Hương thầm của bà đoạt giải nhì cuộc thi thơ của
báo Văn nghệ. Ngoài làm thơ, bà cịn viết báo, truyện ngắn, truyện cho trẻ em.
Có thể nói dù ở mảng đề tài nào, Phan Thị Thanh Nhàn cũng gặt hái đƣợc
những thành công nhất định.
Phan Thị Thanh Nhàn kết hôn với nhà thơ Thi Nhị (đã mất năm 1979).
Hiện nay, bà sống tại Hà Nội.
Phan Thị Thanh Nhàn viết nhiều thơ tình. Theo năm tháng, những bài thơ
tình của tác giả từ nhẹ nhàng, tƣơi tắn chuyển sang giàu trải nghiệm, trăn trở,
đầy độ lƣợng. Nhƣng dù thế nào, những bài thơ của bà vẫn rất chân thành, gần
gũi và vì thế chiếm đƣợc chỗ trong lòng ngƣời đọc. Bài thơ Hương thầm của
Phan Thị Thanh Nhàn đƣợc nhạc sĩ Vũ Hoàng phổ nhạc năm 1984 và cũng trở
nên nổi tiếng.
Phan Thị Thanh Nhàn không chỉ có duyên thầm ở mảng thơ ca viết cho
ngƣời lớn. Với trẻ em, cô Nhàn, bà Nhàn cũng rất thân thiết với bài thơ Làm
anh và một số bài thơ khác. Khơng dừng lại ở đó tình cảm thân thiết đó, tác giả
cịn viết nhiều tác phẩm gần gũi với cuộc sống sinh hoạt thƣờng ngày của trẻ
em. Những tác phẩm tiêu biểu, có thể kể tên: Xóm dê ngày ấy, Tuổi trăng rằm,
Bỏ trốn, Cậu học trị lớp chín.
Từ năm 2000 đến nay, tác giả Phan Thị Thanh Nhàn tham gia làm giám
6
khảo nhiều cuộc thi của trẻ em, nổi bật nhất là cuộc thi Viết thư Quốc tế
UPU dành cho thiếu nhi do Việt Nam tổ chức. Qua hơn 15 năm liên tục tham
gia cuộc thi với cƣơng vị là giám khảo, Phan Thị Thanh Nhàn cùng một số nhà
văn nổi tiếng khác nhƣ Tạ Duy Anh, Lê Phƣơng Liên, Phong Điệp... đã góp
phần khơng nhỏ trong việc giúp học sinh Việt Nam thể hiện tài năng, bản lĩnh
của mình trên trƣờng quốc tế với 11 giải Quốc tế do UPU và UNESCO trao
tặng trong hơn 25 năm Việt Nam tham gia.
Các tác phẩm chính:
Thơ: Tháng giêng hai (Văn học, 1969, in chung với Thúy Bắc và Hoàng
Thị Minh Khanh); Hương thầm (Văn học, 1973); Chân dung người chiến
thắng (Tác phẩm mới, 1977); Bông hoa không tặng (Tác phẩm mới, 1987);
Nghiêng về anh (Hội nhà văn, 1992); Bài thơ cuộc đời ( Hà Nội, 1999); Thơ
với tuổi thơ (Kim Đồng, 2002).
Văn xi: Xóm đê ngày ấy (tái bản ba lần, Kim Ðồng - 1975, Hà Nội,
1982, Kim Đồng - 1999); Hoa mặt trời (Phụ nữ, 1981); Ánh sáng của anh
(Kim Đồng, 1978); Tuổi trăng rằm (Kim Đồng, 1982); Bỏ trốn (Kim Đồng,
1995 - 1996 - 1999).
Phan Thị Thanh Nhàn đã nhận đƣợc các giải thƣởng văn học:
Giải nhì cuộc thi thơ báo Văn Nghệ 1969
Giải A của Hội Liên hiệp văn học nghệ thuật Hà Nội các năm 1974 và
1980.
Giải C Nhà xuất bản Kim Đồng cho tác phẩm Tuổi trăng rằm năm 1982.
Giải A Nhà xuất bản Kim Đồng cho tác phẩm Bỏ trốn năm 1995.
Năm 1996 tác phẩm này đƣợc xƣởng phim truyện Việt Nam dựng thành
phim nhựa và đoạt giải Bạc của Hội Điện ảnh Việt Nam năm 1996.
Có thể nói những thành quả mà Phan Thị Thanh Nhàn mang lại cho cơng
chúng là những đóng góp vơ cùng quan trọng. Bà xứng đáng đƣợc tặng Giải
thƣởng Nhà nƣớc về văn học nghệ thuật năm 2007.
7
1.1.2. Tác phẩm Bỏ trốn
Bỏ trốn là cuốn truyện cảm động Phan Thị Thanh Nhàn viết cho trẻ em.
Tác phẩm đã khẳng định đƣợc những tƣ duy mới mẻ trong sáng tác của bà về
mảng đề tài này. Tác phẩm Bỏ trốn ra đời vào lúc đất nƣớc sang trang đổi mới,
cùng với sự tƣng bừng của công cuộc phát triển kinh tế, những nỗi bất hạnh của
thời bình đã rình rập, đe dọa giáng xuống mái đầu xanh con trẻ. Bỏ trốn không
chỉ gây hứng thú cho trẻ em mà nó cịn chiếm đƣợc phần lớn tình cảm của các
bậc phụ huynh. Bởi lẽ, tác phẩm không chỉ là những vấn đề của con trẻ, sự thiếu
ăn, thiếu mặc, nỗi cô đơn, bất hạnh của những đứa trẻ không cha khơng mẹ
mà cao hơn hết, đó là bức tranh về hiện thực cuộc sống một thời với những
trái ngang, hỗn độn, xơ bồ của nó.
Xun suốt trong tác phẩm là tình cảm của Phan Thị Thanh Nhàn đối với
những số phận bèo bọt, sống lay lắt, vất vƣởng trong xã hội. Nhà thơ đã tìm đến
trang văn cho trẻ em nhƣ một sự sẻ chia, đồng cảm, bày tỏ nỗi trắc ẩn giữa
những mảnh đời còn nhiều éo le mà ở đó nhân vật bé Thi trong tác phẩm Bỏ
trốn đã phải chịu dồn dập những tai họa liên tiếp. Trƣớc hết, bé là nạn nhân của
cảnh ly hôn, bố mẹ đột ngột không cùng chung sống, ngƣời cha đi theo một
hạnh phúc khác. Sau đó, tai nạn giao thông đã cƣớp đi ngƣời mẹ yêu quý của bé
Thi. Cô bé mồ côi sống trong căn nhà của ngƣời bác ruột với những nỗi tủi thân
do cảnh bác dâu “khác máu tanh lòng”. Sự hiểu nhầm về hai chỉ vàng đã khiến
bé Thi bỏ nhà ra đi, theo một đám tang, đến bên mộ bà ngoại, cuối cùng rơi vào
cuộc sống của “cƣ dân nghĩa trang”...
Vốn là một nhà báo, Phan Thị Thanh Nhàn khơng ngần ngại dùng ngịi
bút của mình miêu tả chân thực câu chuyện về những mảnh đời bất hạnh, đau
thƣơng, những kiếp ngƣời lay lắt với những kế sinh nhai đến khó tin lại tồn tại
ngay giữa thủ đô Hà Nội. Câu chuyện đƣợc tác giả kể một cách tự nhiên, có lúc
dồn nén, có lúc khiến ngƣời đọc hồi hộp chờ đợi… Tác giả đã dẫn dắt bạn đọc
đi qua nhiều cung bậc cảm xúc để rồi với một cái kết có hậu trong nỗi ân hận
của ngƣời lớn và tình cảm khoan dung của đứa trẻ ngoan. Tác phẩm Bỏ trốn
8
mang bóng dáng phảng phất một câu chuyện dân gian truyền thống, nhắc nhở
ngƣời đời gìn giữ lấy tình cảm vốn có tƣởng chừng đã cũ càng rồi nhƣng ở hiện
đại vẫn ám ảnh đâu đó cuộc sống giống với nhân vật bé Thi.
Truyện dài Bỏ trốn hiện vẫn là một trong những cuốn sách bán chạy.
Bạn đọc nhỏ tuổi tìm đến cuốn sách khơng chỉ bởi sự đồng cảm, sự sẻ chia, xót
thƣơng những số phận của những trẻ em khơng may mắn mà cịn bởi sự mến
mộ tài quan sát tỉ mỉ, cách miêu tả nội tâm nhân vật sinh động, chân thực của
tác giả cùng với nghệ thuật xây dựng thế giới nhân vật, xây dựng một lúc nhiều
tuyến nhân vật. Số lƣợng nhân vật tuy nhiều nhƣng các nhân vật đều đƣợc nhà
văn khắc họa một cách rõ nét về ngoại hình, tâm lý, hành động, đặt nhân vật vào
hồn cảnh sống điển hình để làm nổi bật nét tính cách riêng của họ.
Đọc tác phẩm Bỏ trốn, ta không hề cảm thấy bàn tay đẽo gọt của nhà văn
mà chỉ thấy nổi lên cái đẹp thuần pháp, tinh tế thơng qua cái nhìn tỉ mỉ của nhà
văn. Dƣờng nhƣ, tác giả đã hóa thân vào nhân vật trẻ thơ, bởi vậy mỗi trang văn
của Phan Thị Thanh Nhàn có nhiều góc nhìn, góc chiếu đa dạng nhiều chiều.
Tóm lại Bỏ trốn ngay từ khi ra đời đã khẳng định chỗ đứng và chiếm
đƣợc nhiều tình cảm, sự mến mộ của bạn đọc. Nó là thành công nổi bật của
Phan Thị Thanh Nhàn nhƣ một bƣớc chuyển mình của tác giả khi chuyển sang
đề tài viết văn dành cho trẻ em. Tác phẩm đã đoạt Giải A (trong ba giải A) Cuộc
vận động sáng tác cho thiếu nhi 1993-1995 của Nhà xuất bản Kim Đồng. Sau đó
tác phẩm đã đƣợc đạo diễn Phạm Nhuệ Giang và nhà biên kịch Nguyễn Thị
Hồng Ngát chuyển thành phim nhựa một bộ phim thành công hiếm hoi về đề tài
trẻ em và đã đoạt giải bạc của Hội Điện ảnh năm 1996.
1.2. Hệ thống nhân vật
Nhân vật là đối tƣợng (thƣờng là con ngƣời) đƣợc miêu tả, thể hiện trong
tác phẩm văn học nghệ thuật.
Nhân vật góp phần vào sự thành cơng của tác phẩm. Văn học phản ánh
bằng hình tƣợng, bằng những nhân vật cụ thể. Do đó, có thể nói nhân vật chính
là phƣơng tiện để nhà văn khái quát hiện thực. Tác phẩm văn học không thể
9
thiếu đƣợc nhân vật. Bởi chỉ thơng qua nó, nhà văn mới thể hiện đƣợc nhận thức
của mình về xã hội, con ngƣời với những đặc điểm về số phận và tính cách của
nó, mới có thể chuyển tải đƣợc vấn đề có tính quy luật của đời sống.
Trong truyện dài Bỏ trốn, Phan Thị Thanh Nhàn đã khắc họa hệ thống
nhân vật một cách tài tình với những nét tính cách khác nhau. Tựu chung lại,
chúng tơi thấy hệ thống nhân vật trong tác phẩm này có thể chia làm ba kiểu:
Những kiếp ngƣời bất hạnh; những con ngƣời giàu lịng nhân ái; những con
ngƣời tha hóa về nhân cách.
1.2.1. Những kiếp người bất hạnh
Với tài quan sát tỉ mỉ, cách miêu tả chân thực và một trái tim sẻ chia ấm
áp, Phan Thị Thanh Nhàn đã khắc họa thành công những kiếp ngƣời bất hạnh
trong tác phẩm. Tiêu biểu là nhân vật Bé Thi - một cô bé chỉ mới mƣời tuổi cái
tuổi hồn nhiên, vô tƣ nhất trong cuộc đời mỗi con ngƣời, cái tuổi của bao ƣớc
mơ màu hồng. Ấy vậy mà cô bé đã phải hứng chịu biết bao nhiêu nỗi bất hạnh
liên tiếp xảy ra. Trƣớc hết, cô bé là nạn nhân của cuộc hơn nhân khơng hạnh
phúc. Tính chất cơng việc nhà báo và sự độc lập của ngƣời mẹ, cộng với những
xích mích, mâu thuẫn gia đình, tất cả đã khiến Thi phải sống thiếu vắng sự che
chở, bao bọc, yêu thƣơng của ngƣời cha. Bố mẹ Thi li hôn, ngƣời cha đi theo
một hạnh phúc khác, cô bé sống với mẹ từ lúc mới hơn mƣời tháng tuổi. Có lẽ,
khơng có điều gì đáng thƣơng hơn là cuộc sống thiếu thốn tình cảm, thiếu vắng
tình yêu thƣơng của ngƣời bố trong gia đình. Đây là một điều thiệt thịi khiến
Thi khác với những đứa trẻ khác cùng trang lứa. Bé chín chắn, dạn dĩ hơn so với
tuổi thực của em.
Đọc tác phẩm, ta nhìn thấy một cơ bé vơ cùng ngoan ngoãn, rất yêu
thƣơng mẹ và những ngƣời thân trong gia đình, biết nhƣờng nhịn, ngậm ngùi,
chịu đựng sự ghẻ lạnh của ngƣời bác dâu. Thi là một cô bé kiên cƣờng, có tấm
lịng vị tha, khoan dung thật đáng trân trọng. Dƣới ngòi bút chân thực, tài quan
sát tỉ mỉ, tác giả đã đƣa bạn đọc đi theo nhân vật Thi qua từng cung bậc cảm xúc
có lúc hồi hộp, có lúc dồn nén, có lúc nghẹn ngào, có lúc vỡ òa trong hy vọng...
10
Cảm xúc ấy đƣợc thể hiện sâu lắng trong tác phẩm, để rồi một lần nữa
độc giả phải xót xa, cảm thƣơng trƣớc cảnh mẹ Thi đi công tác xa. Thi đƣợc gửi
ở nhà với bà và Bác Mai. Đáng lẽ khi đƣợc sống cùng bà, đƣợc chơi với hai anh
chạc tuổi mình, đặc biệt là đƣợc đi học với anh Quang, đƣợc anh Quang dạy học
bài cô bé phải cảm thấy vui vẻ, hớn hở bởi bấy lâu nay Thi chỉ sống một mình
với mẹ. Trạng thái tâm lí của Thi đƣợc tác giả miêu tả bằng một loạt những
hành động “Cái Thi nép sau lưng bà, nhìn mẹ nó, nước mắt rưng rưng: “Con ứ
ở đây đâu! cho con đến nhà cô Thanh bạn mẹ cơ!” [1, 12]. Rõ ràng hành động
sợ sệt, rƣng rƣng nƣớc mắt của Thi cho thấy cô bé ý thức đƣợc sự không thoải
mái, thái độ ghẻ lạnh của bác Mai đối với nó. Nhà văn đã rất thành cơng khi
miêu tả thành công thế giới nội tâm của nhân vật bé Thi. Cơ bé sẵn sàng địi mẹ
đƣa sang ở cùng với một ngƣời bạn xa lạ của mẹ hơn là đƣợc ở cùng với những
ngƣời thân trong gia đình mình. Tiếp đến, từ trạng thái tâm lí lo sợ, rƣng rƣng
nƣớc mắt khi mẹ đi rồi để lại Thi ở đó với tâm trạng buồn rầu khơng nói khơng
cƣời dù bà và Quang dỗ nhƣ thế nào cô bé cũng không vui vẻ, chơi đùa với các
anh. Cô bé không những hiểu mà cịn ý thức đƣợc tình cảnh của mình nhƣ thế
nào khi ở cùng ngƣời bác luôn lạnh nhạt, ghét bỏ mình ra mặt.
Khơng đâu xa, ngay ngày hơm sau Thi đã phải chịu đựng sự ghẻ lạnh,
thờ ơ của bác Mai. Vốn dĩ anh Quang và Thi học cùng trƣờng nhƣng đến giờ đi
học ngƣời Bác của Thi khơng những khơng đèo Thi tới trƣờng cùng Quang mà
cịn gắt gỏng, đối xử với cô cháu gái không bằng một ngƣời dƣng. Chỉ vì những
toan tính nhỏ nhặt trong quan hệ gia đình đã biến bác Mai trở thành con ngƣời
vơ cảm, tha hóa về đạo đức và nhân cách đến nhƣ vậy. Một đứa trẻ nhƣ Thi đâu
có tội tình gì để phải hứng chịu những tổn thƣơng, sự ghét bỏ đến nhƣ vậy.
Ở đây, chúng ta bắt gặp bóng dáng xa gần của cậu bé Duy trong tác phẩm
Côi cút giữa cảnh đời của nhà văn Ma Văn Kháng. Trong Côi cút giữa cảnh
đời, Ma Văn Kháng đã để nhân vật cậu bé Duy tự kể về cuộc đời đầy đắng cay,
bất hạnh; có cha, có mẹ mà cũng nhƣ khơng; chỉ có hai bà cháu cơi cút nghèo
khổ, lại bị chính quyền áp bức sống nƣơng tựa lẫn nhau. Nhìn trên bình diện
11
nào, chúng ta đều thấy, ở cả hai nhà văn, ngồi tài năng văn chƣơng cịn vằng
vặc một tấm lịng nhân ái, độ lƣợng và bao dung.
Thi rất sợ sự ghét bỏ, thái độ ghẻ lạnh, khinh khỉnh của bác Mai đối với
mình bởi vậy cơ bé buồn rầu từ chối lời đề nghị của anh Quang “Thôi anh ạ.
Anh cứ đi xe máy với bác, khơng thì bác lại càng ghét em” [1, 14]. Phải chăng
Thi sống với mẹ từ nhỏ, không mấy khi đƣợc gặp bố nên cô bé đã sớm làm
quen với cuộc sống lặng lẽ, tủi thân. Cơ bé khao khát có một ơng anh đứng ra
bảo vệ, quan tâm, bênh vực. Tuy vậy, vì cuộc sống quen thiếu thốn tình cảm
cộng với việc ý thức rõ sự ghét bỏ, lạnh nhạt của bác Mai đối với mình nên trên
hết, cơ bé Thi khơng dám thân thiết với Quang vì sợ sự những cái lƣờm nguýt,
đay nghiến bác Mai.
Thật khó tin khi một đứa trẻ mới chỉ mới mƣời tuổi đã suy nghĩ thấu đáo
đến nhƣ vậy. Thi chỉ có thể hơn nhiên vơ tƣ, kể liến láu tất cả mọi chuyện duy
nhất khi có hai bà cháu. Chỉ khi bên cạnh bà, Thi mới trở về với chính con
ngƣời thật của mình, đúng hơn bà mới là niềm vui cuộc sống của cô bé. Đọc tác
phẩm, ta thấy rất rõ tình cảm u thƣơng vơ bờ bến của Thi dành cho bà bởi
không ai khác bà chính là điểm tựa duy nhất mà cơ bé có thể dựa vào. Bà là
cuộc sống, là ngƣời thân, là vũ trụ vĩ đại của Thi.
Nhân vật bé Thi đƣợc tác giả khắc họa vô cùng sống động, với nhiều
cung bậc tình cảm và những rối ren trong trạng thái tâm lí. Cơ bé khơng những
là ngƣời con ngoan ngỗn mà cịn là ngƣời cháu hiếu thảo biết quan tâm, chăm
sóc bà “Tối ấy bà đi nằm sớm, kêu đau lưng, nhức đầu. Thi đấm lưng, bóp đầu,
bóp tay cho bà” [1, 21]. Chẳng những vậy cơ bé cịn rất ý tứ, biết bác Mai vốn
khơng ƣa mình, Thi chẳng những không dám ngồi chung bàn học với anh
Quang vì sợ những cái lƣờm nguýt mà bác Mai sẽ ném cho mình. Bé lủi thủi
ngồi dƣới chân giƣờng của bà học bài. Thật tội nghiệp và đáng thƣơng trƣớc
tình cảnh trớ trêu đó. Đáng lẽ, cơ bé phải nhận đƣợc sự yêu thƣơng, sẻ chia của
bác bởi cuộc sống của Thi đã vơ cùng khó khăn, bất hạnh từ khi mới mƣời
tháng tuổi. Nhƣng không, ngƣời bác ấy chẳng những ghẻ lạnh mà còn hẹp hòi,
12
với những toan tính nhỏ nhặt. Trẻ con chơi với nhau, giúp đỡ nhau trong học tập
là điều nên làm, nhƣng bác Mai cũng nổi giận, mắng mỏ “Học hành gì lạ thế?
Cái gì cũng hỏi. Khơng cịn cho nó làm gì nữa. Anh mày chứ có phải thầy giáo
của mày đâu! Cái loại cha mẹ bỏ nhau lớn lên lại chẳng hư sớm. Báu lắm đấy!”
[1, 14]. Những lời nói cay độc giáng xuống đầu một đứa trẻ nghe sao mà chua
xót thế! Tác giả đã rất tài tình khi miêu tả rất thành công thế giới nội tâm của
nhân vật bé Thi. Xuyên suốt trong tác phẩm là những giọt nƣớc mắt trong cam
chịu khiến bạn đọc không những thƣơng cảm, xót xa.
Số phận của Thi càng trở nên bất hạnh, đáng thƣơng khi mẹ Thi đột qua
đời trong một tai nạn giao thơng. Khơng cịn nỗi đau nào lớn hơn đối với đứa trẻ
đáng thƣơng này khi ngƣời thân duy nhất, điểm tựa duy nhất đã rời xa Thi. Đọc
tác phẩm, ta nhận thấy trang văn của Phan Thị Thanh Nhàn là trang văn tình
huống, tác giả ln đặt nhân vật bất hạnh vào tình huống trớ trêu, với muôn vàn
những rắc rối để làm nổi bật hình ảnh, tính cách nhân vật. Trong mọi hồn cảnh,
bé Thi luôn nhẫn nhịn, cam chịu, kiên cƣờng vƣợt qua Lại nói đến nhân vật Thi
khi nhận đƣợc tin mẹ qua đời cơ bé đứng ngây ra khơng khóc nổi để rồi con bé
choáng váng ngã gục xuống đất. Đến khi tỉnh dậy Thi cảm nhận đƣợc khơng khí
ảm đảm, hƣơng nhang nghi ngút. Một lần nữa, những giọt nƣớc mắt bất hạnh lại
lăn dài trên khuôn mặt của đứa trẻ ngoan ngỗn nhƣng vơ cùng đáng thƣơng khi
đƣợc cơ Thanh bạn thân của mẹ an ủi, chia sẻ. Đến giờ phút đó, dƣờng nhƣ cơ
bé đã ý thức đƣợc ngƣời thân duy nhất mà cơ bé có thể bám víu là ngƣời bố
đang đứng cúi đầu trƣớc bàn thờ của mẹ... Chao ôi! Một tiếng gọi “Bố, bố ơi!
Bố ơi mẹ đâu rồi” [1, 24] sao mà nghe da diết nghẹn ngào đến thế, để rồi nhận
lại là sự im lặng, thở dài của ngƣời bố mà từ nhỏ tới giờ Thi mới chỉ gặp có ba
lần. Sự vơ vọng lại tìm đến với cơ bé bởi ngƣời bố mà Thi có thể trơng chờ duy
nhất lúc này lại từ chối việc nuôi nấng con. Bất hạnh chồng chất bất hạnh,
dƣờng nhƣ đứa trẻ mƣời tuổi ấy đang phải cố gắng tự lo lắng cho cuộc sống của
mình, cơ bé lo lắng khơng ai ni mình, lo lắng sợ hãi khi nghĩ tới việc phải
sống chung với ngƣời bác và ngƣời dì ghẻ độc ác ln căm ghét nó ra mặt.
13
Chƣa lúc nào Thi hoang mang, bơ vơ, lạc lõng đến nhƣ vậy. Để rồi sự bám víu
cuối cùng của Thi lại dành cho cô Thanh - một ngƣời bạn của mẹ vốn dĩ khơng
máu mủ, ruột thịt gì với Thi. Chẳng những vậy cơ bé cịn hụt hẫng hơn bao giờ
hết khi cố tình nghe đƣợc những bàn tán của mọi ngƣời về việc ai sẽ trách
nhiệm nuôi nấng Thi. Ai cũng có những lí do riêng khơng thể đèo bịng thêm cơ
bé, Thi hiểu rất rõ hồn cảnh của bố với hai ngƣời con và một bà vợ vô cùng
ghê gớm chắc chắn không thể cáng ráng đƣợc cơ bé. Cịn bác Mai đang cố gắng
phú thác mọi trách nhiệm cho bố Thi, cô bé cảm nhận rất rõ khuân mặt nặng nề
của bác Mai khi bố Thi bối rối, xấu hổ phải từ chối việc nuôi nấng con mình. Cơ
Thanh mặc dù rất u q Thi, nhƣng cơ cũng đang ở cùng nhà chồng, rất khó
khăn để cơ có thể chăm sóc cho Thi đƣợc. Lúc này đây, chỉ có bà là yêu thƣơng
Thi và sẵn sàng che chở, chăm sóc cho cơ bé. Trƣớc thái độ chì chiết của bác
Mai, bà nghẹn ngào vừa nói vừa khóc “- Ơ hay, nó là cháu tơi, là em thằng
Quang, thằng Qúy. Bác Quốc nó và tơi nhất định khơng để nó đi đâu hết. Chị
Mai khơng muốn thì để tôi với cháu ăn riêng, ở riêng ra...” [1, 27].
Cuộc sống của Thi trở bất hạnh hơn bao giờ hết kể từ hôm mẹ mất. Thi
bắt đầu cuộc sống với ngƣời bác ruột. Bà ngoại vì quá đau buồn chuyện của mẹ
Thi, phần cũng vì suy nghĩ thƣơng xót đứa cháu gái tội nghiệp nên ngày càng
yếu đi. Chỉ có Thi gần gũi và chăm sóc bà, cơ bé rót nƣớc, lấy khăn mặt, quần
áo bẩn của bà đi giặt. Thi không những làm thay tất cả công việc chăm sóc bà
vốn dĩ đó là trách nhiệm của ngƣời con dâu đối với mẹ chồng; cơ bé cịn phải
vừa đi học vừa lo toan công việc nội trợ trong gia đình. Có những chi tiết trong
tác phẩm khiến cho bạn đọc phải ngậm ngùi rơi nƣớc mắt, xót thƣơng trƣớc
hoàn cảnh bất hạnh của Thi. Phải sống chung với ngƣời bác vốn dĩ khơng u
thƣơng gì mình, Thi cố gắng chăm chỉ dọn dẹp nhà cửa, chăm sóc bà, đi chợ,
nấu cơm, giặt giũ lo liệu mọi công việc nội trợ trong gia đình; âm thầm chịu
đựng sự mắng nhiếc, chì chiết của bác Mai “Mày có mồm khơng mà nấu canh
mặt chát thế này?. Hơm qua thì cơm nát như cám, bảo cho ít nước thơi thế là lại
khô như rang. Ai sống nổi với mày không?”[1, 29]. Từng câu, từng chữ bác Mai
14
rít lên khiến đứa trẻ tội nghiệp ấy chỉ biết tủi phận, lặng lẽ, chịu đựng. Có những
lúc cơ bé tƣởng chừng cuộc sống của mình bế tắc trong vơ vọng chỉ biết quay
mặt đi lau những giọt nƣớc mắt tủi nhục, chịu đựng “Lại cịn khóc hả? Oan ức
lắm hả? Con gái không học làm học ăn, muốn trèo lên bàn thờ cho người ta thờ
hả? [1, 30]. Dƣới ngịi bút chân thực của tác giả, chúng ta có thể cảm nhận một
cách sâu lắng nhất để rồi đồng cảm, xót xa trƣớc số phận bất hạnh của nhân vật
Thi.
Cịn gì nghiệt ngã hơn nữa khi ngƣời bà mà Thi yêu thƣơng nhất đã ra đi
mãi mãi. Cô bé thƣơng bà đến nỗi, sợ bà lo nghĩ cho mình q nhiều bệnh càng
thêm nặng, Thi khơng cịn dám xà vào lịng bà ịa lên khóc mỗi lần bị bác Mai
mắng nhiếc nhƣ lúc bà còn khỏe nữa mà trƣớc mặt bà cô bé luôn tỏ ra vui vẻ, kể
đủ thứ chuyện để bà vui hơn. Đứa trẻ ngoan ngoãn, hiểu chuyện, hiếu thảo đó
dƣờng nhƣ khơng cịn ngƣời thân nào để bám víu “Thơi thế là từ nay khơng cịn
ai bênh vực nó, an ủi nó, chẳng cịn ai yêu thương nó nữa” [1, 36]. Từng nỗi
đau một cứ đeo bám đứa trẻ bất hạnh ấy. Những tƣởng khi bà mất, bác Mai đã
thật sự thƣơng nó hơn. Cơ bé chƣa kịp cảm nhận hết những tình cảm gia đình
ngọt ngào, đầm ấm trong một tuần ngắn ngủi khi bác Quốc ở nhà. Thi khơng chỉ
đƣợc bác chăm sóc, yêu chiều mua đủ thứ cho Thi nào là quần bò, váy đầm, sơ
mi thêu... Mà còn đƣợc bác Quốc ân cần dạy bảo, hƣớng dẫn Thi bài vở. Thêm
vào đó cịn gì sung sƣớng hơn khi bác Mai dƣờng nhƣ đã trở thành một con
ngƣời khác, bác khơng cịn chì chiết, khắt khe với Thi thay vào đó là thái độ
tƣơi cƣời, vui vẻ kể cả khi cô bé làm bác Mai khơng vừa lịng bất kì điều gì. Cô
bé cất cao giọng hát “Cuộc đời vẫn đẹp sao...” [1, 37] trong niềm vui sƣớng
khôn xiết, trong giây phút đó Thi bỗng chốc muốn đƣợc coi bác Quốc là cha,
bác Mai là mẹ, anh Quang, anh Qúy là anh ruột của mình.
Hịa chung cảm xúc vui sƣớng, hạnh phúc với Thi bạn đọc nhƣ đang thở
phào nhẹ nhõm trƣớc cuộc sống tƣơi đẹp tựa một phép màu mà Thi chƣa bao
giờ dám nghĩ tới. Nhƣng khơng lịng ngƣời đâu có dễ dàng thay đổi đến thế? Sự
kịch tính, hồi hộp mà tác phẩm đem đến cho bạn đọc ngày càng trở nên cao trào
15
hơn khi màn kịch làm vừa lòng chồng trong một tuần đã kết thúc. Thi vẫn đinh
ninh bác Mai đã suy nghĩ lại và yêu thƣơng nó nhƣ con kể cả khi bác Quốc
khơng có ở nhà. Cơ bé vẫn hồn nhiên nói cƣời, tinh nghịch, chỉ đến khi những
lời chì chiết cay độc mà bác Mai dành cho nó, nó mới bất giác hiểu ra mọi
chuyện “Những đứa khơng cha khơng mẹ thì cháy cũng khơng có mà ăn đâu!”
[1, 41]. Những ngày tháng khổ đau, tủi nhục nhất lại bắt đầu với cơ bé, Thi
khơng cịn đƣợc bác Mai đèo tới trƣờng nhƣ mọi hôm nữa, cũng chẳng còn
những bữa ăn sáng đầy đủ nhƣ những ngày bác Quốc ở nhà thay vào đó cơ bé
cịn bị cắt nốt phần ăn vào buổi sáng.
Trang văn ấy càng trở nên khắc khoải, sâu lắng hơn bởi không biết từ bao
giờ Thi đã trở thành ngƣời ở, là cái gai trong mắt của ngƣời bác vơ nhân tính đó.
Chi tiết Thi phải dậy sớm để đun nƣớc ấm cho bác và các anh rửa mặt đánh
răng, tới bữa ăn Thi bị đối xử khơng khác gì kẻ hầu ngƣời hạ. Cô bé chẳng
những không dám ăn cùng cả nhà mà còn lặng lẽ lủi thủi chờ mọi ngƣời ăn
xong mới dám ngồi vào ăn. Bởi lẽ Thi biết rằng bác Mai coi mình nhƣ kẻ ăn
nhờ ở đậu đâu có thể xếp ngang hàng với con trai bác. Có thể nói chỉ bằng một
vài chi tiết nhỏ nhƣng vơ cùng đắt giá trong tác phẩm đã khiến trái tim bạn đọc
phải thổn thức, xót thƣơng, cảm thơng trƣớc nhân vật bất hạnh mà nhà văn xây
dựng vô cùng thành công đó.
Đọc tác phẩm, có lẽ chúng ta đều tự hỏi: tại sao một đứa trẻ chỉ mới
mƣời tuổi lại có thể hiểu chuyện, biết suy nghĩ thấu đáo, biết tự an ủi bản thân,
kiên cƣờng vƣợt qua mọi bất hạnh trong cuộc sống đến nhƣ vậy? Phải chăng vì
cuộc sống tự lập, thiếu vắng sự chăm sóc của ngƣời cha từ nhỏ đã rèn luyện nên
một bé Thi mạnh mẽ, chịu đựng vƣợt qua mọi sóng gió của cuộc sống nhƣ vậy
sao? Càng đi sâu vào tác phẩm, chúng ta càng khâm phục sự nghị lực, luôn suy
nghĩ mọi chuyện theo chiều hƣớng tích cực, khơng gục ngã trƣớc số phận bất
hạnh, tự biết an ủi mình của cơ bé có trái tim giàu lịng nhân hậu ấy.
Tiếp nối dịng cảm xúc đó, bạn đọc sẽ vơ cùng thƣơng xót trƣớc cảnh cô
bé bất hạnh ngã sấp xuống đất bởi cái tát nảy lửa bác Mai giáng vào mặt chỉ vì
16
hiểu lầm về hai chỉ vàng bà cho Thi trƣớc khi mất. Cô bé không chỉ bị coi là kẻ
ăn cắp, mà còn bị bác Mai đánh đuổi ra khỏi nhà “- Bây giờ mới xin, mới nhờ
hả? Mày muốn sống muốn tốt đi ngay khỏi nhà tao. Tao không có loại con cháu
lì lợm bướng bỉnh tắt mắt như mày. Đi ngay!” [1, 50]. Đau đớn, buồn tủi, uất ức
vì bác Mai khơng tin lời mình, cơ bé thất thểu lang thang vơ định vừa đi vừa
khóc, khơng biết đi đâu về đâu. Bất giác, cô bé nghĩ tới bà với tia hy vọng bà sẽ
phù hộ để bác Mai hiểu ra mọi chuyện; để rồi cô bé tội nghiệp, bất hạnh ấy phải
chua xót, lừa dối trở thành một đứa ăn xin đi theo một đám tang xuống thăm mộ
bà. Ở đây, Thi đƣợc lũ trẻ lam lũ, rách rƣới cùng chạc tuổi Thi giúp đỡ cơ bé
tìm mộ bà với mục đích vịi tiền. Cuối cùng, nhờ sự đồng cảm, chia sẻ của
những đứa trẻ có hồn cảnh đáng thƣơng ở nghĩa trang, Thi đƣợc chúng đƣa về
nhà. Ở đây Thi đƣợc mọi ngƣời yêu thƣơng, coi cơ bé nhƣ một thành viên trong
gia đình. Có lẽ đây mới thực sự là gia đình bởi ở đó Thi cảm nhận đƣợc sự ấm
áp, ân cần của ngƣời mẹ câm dịu hiền, thánh thiện cùng một ngƣời cha lầm lì, ít
nói có ngoại hình vơ cùng đáng sợ nhƣng rất mực yêu thƣơng các con; lại có cả
những ngƣời anh em thân thiện, dễ gần rất yêu quí Thi giống nhƣ anh Cò, thằng
Còi, thằng Cu, cái Tý... Tất cả những thành viên đó đã trở thành điểm tựa ấm áp
cho Thi dựa vào. Từ đây, cô bé tội nghiệp đó bắt đầu cuộc sống mƣu sinh với lũ
trẻ lam lũ ở nghĩa trang Văn Điển. Tuy bƣớc đầu còn nhiều bỡ ngỡ, Thi bị bọn
trẻ khác bắt nạt nhƣng hơn bao giờ hết cô bé vẫn cảm thấy may mắn bởi Thi
nhận đƣợc sự che chở, bênh vực từ những ngƣời thân yêu mới dành cho mình.
Điều chúng tơi tâm đắc hơn cả chính là nhan đề Bỏ trốn tác giả đặt cho
tác phẩm. Đây là sự bỏ trốn bởi lo lắng, sợ hãi, không dám về nhà, không dám
đối mặt với sự cay nghiệt, ruồng bỏ của bác Mai chứ không phải là sự bỏ trốn vì
bất mãn, bng xi trƣớc số phận bất hạnh của cơ bé Thi. Ai cũng có những
giới hạn riêng cho bản thân và Thi cũng không ngoại lệ. Bởi vậy cô bé vô cùng
sợ hãi, cuống quýt chạy trốn anh Quang và cái Hảo khi biết hai ngƣời đang tìm
mình. Điều này cũng dễ hiểu thôi bởi những hoang mang, sợ sệt về ngƣời bác
đó ln ám ảnh tâm hồn non nớt của Thi. Chi tiết tất cả mọi ngƣời cùng đến tìm
17
Thi trong đó có cả bác Mai lại khiến cơ bé càng muốn trốn chạy thật xa bởi
trong Thi giờ đây đã mất hết niềm tin, sự hy vọng vào ngƣời bác ấy.
Phan Thị Thanh Nhàn đã rất thành công khi khắc họa vơ cùng tinh tế
nhân vật Thi, có thể nói nhân vật hiện lên là một nhân vật điển hình cho những
kiếp ngƣời bất hạnh trong xã hội. Với những trang văn xuất phát từ trái tim khi
xây dựng nhân vật bé Thi, tác giả đã nhận đƣợc sự thán phục từ phía độc giả,
cùng những giọt nƣớc mắt cảm động, sẻ chia, đồng cảm trƣớc nhân vật bất hạnh
mà tác giả xây dựng.
Mẹ Thi cũng là một điển hình của những con ngƣời bất hạnh trong xã hội.
Mẹ Thi hiện lên là một ngƣời phụ nữ hiền lành, tốt bụng, năng động, nhanh
nhẹn, tháo vát lại vô cùng hiếu thảo nhân hậu. Vậy mà ngƣời phụ nữ đó khơng
những khơng có đƣợc hạnh phúc gia đình, mà cịn phải một mình tần tảo khuya
sớm chăm lo cho đứa con gái bé bỏng. Có lẽ điều bất hạnh nhất của ngƣời phụ
nữ trong bất kỳ thời đại nào chính là sự cơ đơn thiếu vắng sự sẻ chia, đồng hành
của ngƣời bạn đời. Nuốt vào trong mọi nỗi bất hạnh đó là sự hy sinh của một
ngƣời mẹ tần tảo dành cho Thi. Chính bởi đƣợc sống trong vòng tay hiền dịu,
nhân hậu của mẹ từ nhỏ nên Thi cũng thấm nhuồn những đức tính tốt đẹp từ mẹ.
Mặc dù điều kiện kinh tế cịn nhiều khó khăn nhƣng cơ ln đặt chữ hiếu lên
hành đầu, chăm sóc chu đáo cho mẹ khi thì quà bánh khi thì củ sâm... Thêm vào
đó là sự lan rộng tình cảm, xót thƣơng, chia sẻ trƣớc những hồn cảnh đáng
thƣơng ngồi xã hội. Với tấm lịng nhân hậu, cơ ln dành tình cảm yêu thƣơng,
giúp đỡ những trẻ em tội nghiệp, ngƣời già cơ nhỡ lang thang trên đƣờng.
Những tƣởng một ngƣời phụ nữ tốt bụng, nhân hậu nhƣ vậy sẽ gặp mọi may
mắn trong cuộc sống. Nhƣng không cuộc đời thật lắm nghịch lí khi cơ Tâm (mẹ
Thi) khơng may mắn trở thành nạn nhân xấu số trong một vụ tai nạn giao thông.
Đây không chỉ là sự bất hạnh đối với số phận của mẹ Thi mà còn để lại biết bao
nỗi đau cho những ngƣời thân bên cạnh nhƣ Thi, bà ngoại, bác Quốc, cô
Thanh...
Tác phẩm ra đời khi đất nƣớc đang bƣớc sang một thời kì mới cùng với
18
sự tƣng bừng của công cuộc phát triển kinh tế. Tuy vậy, vẫn cịn đâu đó những
kiếp ngƣời bất hạnh vất vƣởng, đói rách tồn tại ngay giữa lịng thành phố đang
khổ sở tìm kế sinh nhai nhƣ những nhân vật: Thằng Cò, thằng Còi, thằng Cu,
cái Tý, bà mẹ câm, ngƣời bố mặt rỗ, hay những trẻ em đánh giày, xin ăn, những
ngƣời già mù dở, tật nguyền... Mặc dù đói rách lam lũ nhƣng họ vẫn hồn nhiên,
vui vẻ, chăm chỉ, yêu đời, yêu cuộc sống và hơn bao giờ hết họ luôn biết yêu
thƣơng đồng cam cộng khổ sẻ chia giữa những ngƣời thân trong gia đình và hơn
thế nữa là những hoàn cảnh tội nghiệp giống nhƣ bé Thi. Ở họ ta bắt gặp một
nghị lực sống phi thƣờng đến lạ lùng thật đáng ngƣỡng mộ. Mặc dù cái đói cái
khát làm họ túng thiếu nhƣng ở họ ta vẫn nhìn thấy một nhân cách cao đẹp “Đói
cho sạch rách cho thơm” khơng vì đói rách mà tha hóa đạo đức, trộm cắp, lầm
lỗi... Họ vẫn ngày đêm chăm chỉ, tận tụy, trách nhiệm, tử tế với công việc đào
huyệt thuê, đánh giày thuê những mong kiếm thêm bữa ăn từng ngày hay những
kiếp ngƣời tàn tật khơng cịn khả năng lao động họ thà xin ăn qua ngày chứ
không từ bỏ cuộc sống hoặc phú thác cho số phận.
Chỉ những ngƣời có trái tim giàu lịng u thƣơng mới có thể viết lên
những trang văn đầy thƣơng cảm mà thấm thía đi vào lịng ngƣời đến nhƣ vậy.
Tác giả đã dành nhiều tình cảm, sự sẻ chia trƣớc những số phận bất hạnh trong
xã hội. Phan Thị Thanh Nhàn xây dựng nhân vật bằng một trái tim chan chứa
tình ngƣời, tình đời. Trang văn của bà không nhiều nhƣng vừa đủ tỏa ngát
hƣơng thơm lan rộng tính nhân văn trong mỗi tác phẩm.
1.2.2. Những nhân vật giàu lịng nhân ái
Nhân ái chính là tình u thƣơng giữa ngƣời với ngƣời. Đó là cách mà
chúng ta trao đi yêu thƣơng đối với ngƣời khác. Tình cảm đó xuất phát từ trái
tim mỗi ngƣời, khơng ép buộc, khơng cƣỡng cầu, khơng địi hỏi phải nhận lại
những gì. Bởi rằng đối với nhiều ngƣời thì khi trao đi yêu thƣơng họ thấy bản
thân đƣợc thanh thản và yên lòng. Lòng nhân ái là quà tặng cho mọi ngƣời, là
nguồn suối ngọt ngào có ở nơi ta. “Quà tặng phải đưa vào tận con tim chứ
không phải chỉ trên đôi tay” (Paul Claudel). Nhờ vậy, đi tới đâu ta cũng dễ cảm
19
thấy tình u đang chờ đợi mình, đang chào đón mình.
Nhƣ ở trên có nói, Bỏ trốn ra đời khi cả nƣớc đang tƣng bừng hịa chung
khơng khí đồn tụ, sum họp, cùng nhau xây dựng đất nƣớc nhƣng vẫn còn nhiều
thân phận xứng đáng đƣợc hƣởng hạnh phúc lại bị đói rách đọa đày, ngƣời thân
đối xử tệ bạc quá! Tuy vậy họ vẫn tồn tại và phát triển bởi “Sự sống chẳng bao
giờ chán nản”, bởi trên đời này còn rất nhiều ngƣời tốt sẵn sàng sẻ chia, giúp
đỡ khi họ gặp khó khăn, hoạn nạn. Đó là cái Hảo, thằng Quang, là cô Thanh, là
những nhân vật lam lũ tìm kế sinh nhai trong nghĩa trang thành phố. Trên hết là
hình tƣợng ngƣời bà lung linh tỏa sáng. Những đau tủi, buồn khổ của cô bé đơn
côi giữa cảnh đời bất hạnh, nhờ có bà, đã vơi bớt phần nào. Bà ln mở rộng
vịng tay che chở, cƣu mang cơ cháu gái tội nghiệp đáng thƣơng. Có thể nói
trong bất kì hồn cảnh nào bà ln bên cạnh bênh vực, xoa dịu những đau
thƣơng, tủi khổ mà Thi đang phải gánh chịu. Bà ân cần, lặng lẽ chia sẻ với Thi
từng khó khăn này đến bất hạnh khác. Bà nghiêm khắc, lớn giọng chỉnh đốn con
dâu khi biết vừa hắt hủi, đay nghiến cháu gái bà. Vẫn là bà thƣơng yêu, hiền hậu
bao dung sẵn sàng cƣu mang, vỗ về cô cháu gái tội nghiệp vƣợt qua nỗi đau bất
hạnh mất mẹ. Qủa thực, từ chuyện mẹ Thi đi công tác xa đến chuyện tai nạn đột
ngột cƣớp đi ngƣời mẹ yêu quí của Thi, vẫn chỉ có bà sẵn sàng dang rộng cánh
tay ơm ấp Thi vào lịng. Bà ln cố gắng nén nỗi đau mất con trong mình để
làm chỗ dựa, san sẻ phần nào nỗi đau thƣơng bất hạnh cho cháu. Không một lời
than đến não lịng quặn ruột nào đƣợc thốt ra nơi cửa miệng thay vào đó là ánh
mắt buồn rầu, ƣớt đẫm nƣớc mắt bà nén lại trong lòng bởi bà còn một nỗi lo
lắng suy nghĩ cho cháu gái đáng thƣơng của bà. Phải chăng để có thể hiểu và
thơng cảm cho nỗi đau của ngƣời khác trong khi bản thân cũng bị những vết
thƣơng hành hạ thì chắc hẳn con ngƣời đó cũng là con ngƣời thấm đẫm tình
cảm và tình u thƣơng vơ bờ bến. Bà đúng là Phật bà hay là cô tiên giáng trần
đã che chở cƣu mang Thi bằng tình thƣơng yêu và các phép màu huyền nhiệm,
thần kỳ. Khi bà còn khỏe mạnh Thi giống nhƣ chú chim non ríu rít xà vào lịng
bà mỗi khi đau khổ, buồn tủi. Những đau tủi, buồn khổ của cô bé đơn côi giữa
20
cảnh đời bất hạnh, nhờ có bà, đã vơi bớt phần nào. Bà ln mở rộng vịng tay
che chở, cƣu mang cơ cháu gái tội nghiệp đáng thƣơng. Có thể nói trong bất kì
hồn cảnh nào bà ln bên cạnh bênh vực, xoa dịu những đau thƣơng, tủi khổ
mà Thi đang phải gánh chịu. Bà lúc nào cũng thế, vẫn ở đó âm thầm dõi theo
cháu gái kể cả khi ốm nặng trên giƣờng. Làm sao có thể n lịng bởi cháu bà
cịn q nhỏ, đơi mắt bà cứ ngày ngày nhịe đi vì những lo lắng, suy nghĩ, trăn
trở không nguôi về đứa cháu tội nghiệp. Bà lo choThi từng bữa ăn, giấc ngủ lo
cô bé bao giờ mới đủ lớn để có thể tự làm tự ăn đƣợc đây. Xót xa hơn cả vì suy
nghĩ Thi ăn nhờ ở đậu nhà bác Mai trong khi bác Quốc lại đi vắng. Càng lo nghĩ
bà càng thƣơng cháu nhiều hơn, bà luôn dặn anh Quang phải biết thƣơng Thi,
giúp đỡ Thi học bài...
Trong Côi cút giữa cảnh đời nhà văn Ma Văn Kháng miêu tả ngƣời bà
của cậu bé Duy phúc hậu bởi tình ngƣời tỏa nắng. Bà cứng cỏi, kiên cƣờng
tđảm nhiệm vai trị là cha là mẹ ni nấng, chăm sóc Duy và Thảm từ tấm bé.
Bà lạnh cho chúng cháu ấm. Bà bế bồng dìu dắt chúng cháu đi qua những năm
tháng cách trở, lọc lừa, phản trắc, bất công. Ngƣời bà của Thi trong Bỏ trốn
đƣợc Phan Thị Thanh Nhàn khắc họa là hậu phƣơng vững chắc mỗi khi cô bé
bất hạnh gặp những rắc rối, tủi nhục trong cuộc sống. Kể cả đang nằm trên
giƣờng bệnh linh cảm trƣớc đƣợc bệnh tình của mình, bà vẫn đau đáu lo lắng
cho Thi. Bà nằm đó nhƣ cây cổ thụ che chắn những sóng gió ập đến với Thi. Để
rồi kỉ vật cuối cùng bà dành tặng cho cơ cháu gái tội nghiệp “Bà bảo nó luồn
cái nhẫn vào cạp quần, khâu chặt lại” [1, 32]. Chiếc nhẫn của bà nhƣ một niềm
an ủi ngọt ngào cho lòng Thi ấm lại bởi Thi biết bà thƣơng Thi nhiều nhất. Có lẽ
những đau khổ, nghiệt ngã, bất hạnh mà cô bé đang phải chịu đựng bà đều
muốn san lấp, đền bù, an ủi cho Thi. Phải chăng vƣợt lên trên tất cả, chỉ có tình
u thƣơng máu mủ, ruột thịt mới có thể khỏa lấp, san sẻ mọi nỗi buồn tủi, khổ
đau trong cuộc sống? Tấm lòng bao dung, nhân ái, yêu thƣơng cháu vô điều
kiện của bà nhƣ ngọn lửa sƣởi ấm trái tim lạnh giá, gỉ máu trong Thi.
Bên cạnh cái nhìn sắc lạnh, tỉnh táo khi phản ánh hiện thực Phan Thị
21