Tải bản đầy đủ (.pdf) (105 trang)

Nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn để đề xuất những nội dung cơ bản quy hoạch lâm nghiệp huyện bát xát tỉnh lào cai

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (979.02 KB, 105 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PTNT

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LÂM NGHIỆP VIỆT NAM
------------------------

NGUYỄN MẠNH HỒNG

NGHIÊN CỨU CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN ĐỀ XUẤT
NHỮNG NỘI DUNG CƠ BẢN QUY HOẠCH LÂM NGHIỆP
HUYỆN BÁT XÁT - TỈ NH LÀ O CAI

Chuyên ngành: Lâm học
Mã số : 60.62.60

LUẬN VĂN THẠC SỸ KHOA HỌC LÂM NGHIỆP

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
PGS.TS Trần Hữu Viên

Hà Nội - 2010


2


3


1



ĐẶT VẤN ĐỀ

Rừng là quầ n thể sinh vâ ̣t và các yế u tố môi trường sinh thái, trong đó thực
vâ ̣t rừng đóng vai trò chủ đa ̣o, mang tính đă ̣c trưng khác biê ̣t với các loa ̣i thực
vâ ̣t khác về chu kỳ số ng, về khả năng cung cấ p và bảo vê ̣ môi trường sống.
Nhiều năm trước đây do việc quản lý sử dụng chưa bền vững, nhu cầu rất lớn về
khai hoang đất rừng và lâm sản cho phát triển kinh tế - xã hội, nên diện tích và
chất lượng rừng bị suy giảm liên tục. Hiện nay vốn rừng tuy có tăng, nhưng chất
lượng và tính đa dạng sinh học rừng tự nhiên nhiều nơi vẫn tiếp tục bị suy giảm.
Nguyên nhân do nhận thức về lâm nghiệp của các cấp, các ngành chưa đầy đủ và
toàn diện, chưa đánh giá đúng giá trị môi trường của rừng đem lại cho xã hội,
chưa xác định rõ vị thế lâm nghiệp là một ngành kinh tế hoàn chỉnh từ khâu tạo
rừng, khai thác, chế biến lâm sản và cung cấp các dịch vụ từ rừng…….
Nghề rừng không những tạo ra các sản phẩm lâm sản hàng hóa và dịch vụ
đóng góp cho nên kinh tế quốc dân, mà còn có vai trò quan trọng trong bảo vệ
môi trường như phòng hộ đầu nguồn, giữ đất, điều tiết nguồn nước, điều hòa khí
hậu…góp phần bảo vệ an ninh quốc gia, đặc biệt đối với bảo vệ biên giới, hải
đảo; từng bước cải thiện đời sống, xóa đói, giảm nghèo cho người dân nông thôn
và miền núi.
Với quan điểm phát triển lâm nghiệp phải đồng bộ từ quản lý, bảo vệ, sử
dụng hợp lý tài nguyên, từ trồng rừng, cải tạo rừng đến khai thác chế biến lâm
sản, dịch vụ môi trường, du lịch sinh thái….góp phần đa dạng hóa kinh tế nông
thôn, tạo việc làm và thu nhập, nâng cao mức sống cho những người làm nghề
rừng, đặc biệt cho đồng bào dân tộc ít người ở miền núi, vùng sâu, vùng xa. Do
vậy, các hoạt động sản xuất lâm nghiệp phải dựa trên nền tảng quản lý bền vững
thông qua quy hoạch, bố cục hợp lý về mặt không gian tài nguyên rừng và bố
trí cân đối các hạng mục sản xuất kinh doanh theo các cấp quản lý lãnh thổ,
quản lý sản xuất khác nhau, làm cơ sở cho việc lập kế hoạch, định hướng sản



2

xuất kinh doanh lâm nghiệp đáp ứng nhu cầu lâm sản cho nền kinh tế quốc
dân, cho kinh tế địa phương, cho xuất khẩu và cho đời sống nhân dân, đồng
thời phát huy những tác dụng có lợi khác của rừng là yêu cầu cấp thiết hiện
nay.
Bát Xát là huyện miền núi của tỉnh Lào Cai có diện tích rừng và đất lâm
nghiệp chiếm hơn 67% so với tổng diện tích đất tự nhiên. Nhưng trong sản
xuất lâm nghiệp còn nhiều tồn tại, bất cập, những tồn tại này làm cho công tác
quản lý, bảo vệ và phát triển rừng gặp rất nhiều khó khăn. Do vậy, việc đề
xuất một quy hoạch lâm nghiệp hợp lý, có cơ sở sẽ góp phần tăng thu nhập,
cải thiện đời sống của người dân địa phương, thực hiện xoá đói giảm nghèo
và đưa kinh tế - xã hội miền núi phát triển hoà nhập với tiến trình công nghiệp
hoá hiện đại hoá đất nước.
Xuất phát từ những vấn đề trên, với mục đích làm cơ sở cho huyện phát
triển rừng bền vững, sử dụng đất rừng hợp lý trong những năm tới. Chúng tôi
tiến hành thực hiện đề tài: “Nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn để đề xuất
những nội dung cơ bản quy hoạch lâm nghiệp huyện Bát Xát - tỉnh Lào Cai”.


3

Chương 1
TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU

1.1. Trên Thế giới
1.1.1. Qui hoạch vùng
Qui hoạch vùng tuân theo học thuyết Mác - Lê Nin về phân bố và phát
triển lực lượng sản xuất theo lãnh thổ và sử dụng các phương pháp của chủ

nghĩa duy vật biện chứng.
Các Mác và Ăng Ghen đã chỉ ra: “Mức độ phát triển lực lượng sản xuất
của một dân tộc thể hiện rõ nét hơn hết ở chỗ phân công lao động của dân tộc
đó được phát triển đến mức độ nào”.
Như vậy, sức lao động là một bộ phận cấu thành quan trọng nhất của
phân bố lực lượng sản xuất.
Lê Nin cũng đã chỉ ra: “Sự nghiên cứu tổng hợp tất cả các đặc điểm tự
nhiên, kinh tế, xã hội của mỗi vùng là nguyên tắc quan trọng để phân bố lực
lượng sản xuất”. Vì vậy, nghiên cứu các đặc điểm đặc trưng cho sự phân bố
lực lượng sản xuất ở một vùng trong quá khứ và hiện tại để xác định khả năng
tiềm tàng và tương lai phát triển của vùng đó.
Từ đánh giá sức lao động và nguồn tài nguyên thiên nhiên đã đi tới nhận
định: Phân bố lực lượng sản xuất hợp lý là một trong các điều kiện cơ bản để
nâng cao năng suất lao động, tích luỹ nhiều của cải vật chất cho xã hội, không
ngừng phát triển sản xuất và văn hóa của đất nước.
Kế hoạch phát triển của các ngành kinh tế quốc dân liên quan chặt chẽ
với kế hoạch phân bố lực lượng sản xuất.
Sự phân bố dân cư và các hình thái điểm dân cư và mức độ trang thiết bị
thay đổi phụ thuộc vào sự biến đổi hình thành xã hội.
Dựa trên cơ sở học thuyết của Mác và Ăng Ghen, V.I.Lê Nin đã
nghiên cứu các hướng cụ thể về kế hoạch hoá phát triển lực lượng sản
xuất trong xã hội chủ nghĩa.


4

Sự phân bố lực lượng sản xuất được xác định theo các nguyên tắc sau.
- Phân bố lực lượng sản xuất có kế hoạch trên toàn bộ lãnh thổ của đất
nước, tỉnh, huyện nhằm thu hút các nguồn tài nguyên thiên nhiên và lao động
của tất cả các vùng và quá trình tái sản xuất mở rộng.

- Kết hợp tốt lợi ích của Nhà nước và nhu cầu phát triển kinh tế của từng
tỉnh và từng huyện.
- Đưa các xí nghiệp công nghiệp đến gần nguồn nguyên liệu để hạn chế
chi phí vận chuyển.
- Kết hợp chặt chẽ các ngành kinh tế quốc dân ở từng vùng, từng huyện
nhằm nâng cao năng suất lao động và sử dụng hợp lý tiềm năng thiên nhiên.
- Tăng cường toàn diện tiềm lực kinh tế và quốc phòng bằng cách phân
bố hợp lý và phát triển đồng đều lực lượng sản xuất ở các vùng, huyện.
Trên cơ sở đó, tìm hiểu qui hoạch vùng ở một số nước trên thế giới như
sau:
1.1.1.1. Quy hoạch vùng lãnh thổ ở Bungari trước đây
a) Mục đích của quy hoạch vùng lãnh thổ ở Bungari
- Sử dụng một cách hiệu quả nhất lãnh thổ của đất nước.
- Bố trí hợp lý các hoạt động của con người nhằm đảm bảo tái sản xuất
mở rộng.
- Xây dựng đồng bộ môi trường sống.
- Quy hoạch lãnh thổ đất nước được phân thành các vùng.
+ Lãnh thổ là môi trường thiên nhiên phải bảo vệ.
+ Lãnh thổ thiên nhiên không có nông thôn, sự tác động của con người
vào đây rất ít.
+ Lãnh thổ là môi trường thiên nhiên có mạng lưới nông thôn, có sự can
thiệp vừa phải của con người, thuận lợi cho nghỉ mát.
+ Lãnh thổ là môi trường nông nghiệp không có mạng lưới nông thôn
nhưng có sự tác động của con người.


5

+ Lãnh thổ là môi trường nông nghiệp có mạng lưới nông thôn và sự can
thiệp vừa phải của con người, thuận lợi cho sản xuất nông nghiệp.

+ Lãnh thổ là môi trường công nghiệp với sự can thiệp tích cực của con người.
Trên cơ sở quy hoạch vùng lãnh thổ cả nước, tiến hành quy hoạch lãnh
thổ vùng và quy hoạch lãnh thổ địa phương. Trên cơ sở quy hoạch vùng lãnh
thổ, bao gồm các vùng lớn ranh giới bằng một tỉnh hoặc lớn hơn một tỉnh.
Nhiệm vụ khảo sát quy hoạch lãnh thổ vùng, trong đó có quy hoạch vùng
nông nghiệp là sự bố trí đúng đắn và hợp lý các hoạt động khác trên lãnh thổ
vùng, sử dụng một cách có hiệu quả nhất là nguồn tài nguyên thiên nhiên, liên
hiệp với các môi trường sống, hoàn thiện mạng lưới nông thôn.
b) Nội dung của quy hoạch vùng
Đồ án quy hoạch lãnh thổ địa phương là thể thiện quy hoạch chi tiết các
liên hiệp nông - công nghiệp và liên hiệp công - nông nghiệp và giải quyết các
vấn đề sau.
- Cụ thể hoá và chuyên môn hoá sản xuất nông nghiệp.
- Phối hợp hợp lý sản xuất nông nghiệp và công nghiệp với mục đích
liên kết dọc.
- Xây dựng các mạng lưới công trình phục vụ lợi ích công cộng và sản xuất.
- Tổ chức đúng đắn mạng lưới khu dân cư và phục vụ công cộng liên
hợp trong phạm vi hệ thống nông thôn.
- Bảo vệ môi trường thiên nhiên và tạo điều kiện tốt nhất cho nhân dân
lao động ăn, ở, nghỉ ngơi.
1.1.1.2. Quy hoạch vùng ở Pháp
Theo quan điểm chung của hệ thống các mô hình quy hoạch vùng
M.Thénevin (M. Pierre Thénevin), một chuyên gia thống kê đã giới thiệu một
số mô hình quy hoạch vùng được áp dụng thành công miền Tây Nam nước
cộng hoà Côte d’ivoire.


6

Trong mô hình quy hoạch vùng này, người ta đã nghiên cứu hàm mục

tiêu cực đại giá trị tăng thêm xã hội với các ràng buộc trong nội vùng, có quan
hệ với các vùng khác và với nước ngoài. Thực chất mô hình là một bài toán
quy hoạch tuyến tính có cấu trúc.
a) Các hoạt động sản xuất
- Sản xuất nông nghiệp theo các phương thức trồng trọt gia đình và trồng
trọt công nghiệp với các mức thâm canh cao độ, thâm canh trung bình và cổ
điển (truyền thống).
- Hoạt động khai thác rừng.
- Hoạt động đô thị: chế biến gỗ, bột giấy, vận chuyển, dịch vụ thương mại..
b) Nhân lực theo các dạng thuê thời vụ, các loại lao động nông nghiệp,
lâm nghiệp.
c) Cân đối xuất nhập, thu chi và các cân đối khác vào ràng buộc về diện
tích đất, về nhân lực, về tiêu thụ lương thực ...
Quy hoạch vùng nhằm đạt mục đích khai thác lãnh thổ theo hướng tăng
thêm giá trị sản phẩm của xã hội theo phương pháp mô hình hoá trong điều
kiện thực tiễn của vùng, so sánh với vùng xung quanh và nước ngoài.
1.1.1.3. Quy hoạch vùng lãnh thổ của Thái Lan
Công tác qui hoạch phát triển vùng được chú ý từ những năm 1970.
Về hệ thống phân vị, qui hoạch tiến hành theo ba cấp: Quốc gia, vùng, á
vùng hay địa phương.
Vùng (Region) được coi như là một á miền (Subdivision) của đất nước
đó là điều cần thiết để phân chia quốc gia thành á miền theo các phương diện
khác nhau như: Phân bố dân cư, khí hậu, địa hình,... đồng thời vì lý do quản
lý hay chính trị, đất nước được chia thành các miền như: Đơn vị hành chính
hay đơn vị bầu cử.
Qui mô diện tích của một vùng phụ thuộc vào kích thước, diện tích
của đất nước. Thông thường vùng nằm trên một diện tích lớn hơn đơn vị


7


hành chính lớn nhất. Sự phân bố các vùng theo mục đích của qui hoạch,
theo đặc điểm của lãnh thổ.
Quy hoạch phát triển vùng tiến hành ở cấp á miền được xây dựng theo 2
cách:
Thứ nhất: Sự bổ sung của kế hoạch Nhà nước được giao cho vùng,
những mục tiêu và hoạt động được xác định theo cơ sở vùng, sau đó kế hoạch
vùng được giải quyết trong kế hoạch quốc gia.
Thứ hai: Quy hoạch vùng được giải quyết căn cứ vào đặc điểm của
vùng, các kế hoạch đóng góp vào việc xây dựng kế hoạch quốc gia.
Qui hoạch phải gắn liền với tổ chức hành chính và quản lý Nhà nước,
phải phối hợp với Chính phủ và chính quyền địa phương.
Dự án phát triển của Hoàng gia Thái Lan đã xác định được vùng nông
nghiệp chiếm một vị trí quan trọng về kinh tế xã hội và chính trị ở Thái Lan
và tập trung xây dựng ở 2 vùng: Trung tâm và Đông Bắc. Trong 30 năm
(1961 - 1988 đến 1992 - 1996), tổng dân cư nông thôn trong các vùng nông
nghiệp từ 80% giảm xuống 66,6 %, các dự án tập trung vào mấy vấn đề quan
trọng: Nước, đất đai, vốn đầu tư kỹ thuật, nông nghiệp, thị trường.
1.1.2. Qui hoạch vùng nông nghiệp
Quy hoạch vùng nông nghiệp là một biện pháp tổng hợp của Nhà nước
về phân bố và phát triển lực lượng sản xuất trên lãnh thổ của các vùng hành
chính - nông nghiệp nhằm đáp ứng các nhu cầu về phát triển tất cả các thành
phần kinh tế quốc dân trong vùng.
Qui hoạch vùng nông nghiệp là giai đoạn kết thúc kế hoạch hoá tương
lai của Nhà nước một cách chi tiết sự phát triển và phân bố lực lượng sản xuất
theo lãnh thổ của vùng, là biện pháp xác định các xí nghiệp chuyên môn hoá
một cách hợp lý; là biện pháp thiết kế và đưa vào nề nếp việc sử dụng đất đai
trên từng khu vực cụ thể của vùng, là biện pháp xác định sự phân bố đúng đắn
các cơ quan y tế và phục vụ sinh hoạt văn hoá cho nhân dân; là biện pháp xây



8

dựng các tiền đề tổ chức lãnh thổ nhằm sử dụng hợp lý các của cải tự nhiên,
các thành tựu khoa học kỹ thuật, các nguồn lao động nhằm phát triển với tốc
độ nhanh kinh tế của tất cả các xí nghiệp đồng thời cải thiện đời sống vật chất
và văn hoá của nhân dân trong vùng lao động nông nghiệp đó.
Vùng hành chính là đối tượng quy hoạch vùng nông nghiệp. Đồng thời
các vùng hành chính cũng là các vùng lãnh thổ mà ở đó có các điều kiện kinh
tế và tổ chức lãnh thổ thuận lợi cho việc phát triển có kết quả tất cả các ngành
kinh tế quốc dân, như vậy trong quy hoạch vùng nông nghiệp lấy vùng hành
chính nông nghiệp làm đối tượng quy hoạch.
Lập kế hoạch sử dụng tài nguyên thiên nhiên, tổ chức lãnh thổ với việc
lập các sơ đồ quy hoạch vùng là một trong những nội dung của quy hoạch
vùng nông nghiệp (hay quy hoạch huyện nông nghiệp).
1.1.3. Quy hoạch lâm nghiệp trên thế giới
Sự phát triển của quy hoạch lâm nghiệp gắn liền với sự phát triển kinh tế
tư bản chủ nghĩa. Từ thế kỷ thứ XIX, khi nền kinh tế tư bản chủ nghĩa bắt đầu
phát triển với tốc độ nhanh chóng theo các ngành kinh tế thì nhu cầu về gỗ
bao gồm cả về khối lương và chất lượng ngày càng tăng. Vì vậy sản xuất gỗ
đã tách khỏi nền kinh tế địa phương của chế độ phong kiến và bước vào thời
đại kinh tế hàng hóa tư bản chủ nghĩa. Thực tế này đòi hỏi sản xuất lâm
nghiệp không thể bó hẹp trong việc sản xuất gỗ đơn thuần mà cần phải có
ngay những lý luận và biện pháp nhằm đảm bảo lợi ích tối đa cho các chủ
rừng đồng thời bảo vệ môi trường hướng nền lâm nghiệp phát triển theo
hướng bền vững. Vì những yêu cầu khách quan đó mà những lý luận về quy
hoạch lâm nghiệp đã được hình thành và phát triển nhằm thỏa mãn nhu cầu
thực tế khách quan của xã hội loài người. Thời kỳ này đã có những công trình
nghiên cứu về quy hoạch lâm nghiệp nói chung và quy hoạch sử dụng đất lâm
nghiệp nói riêng.



9

Đầu thế kỷ XVIII, phạm vi quy hoạch lâm nghiệp mới chỉ giải quyết
việc “khoanh khu chặt luân chuyển”, có nghĩa đem trữ lượng hoặc diện tích
tài nguyên rừng chia đều cho từng năm của chu kỳ khai thác và tiến hành
khoanh khu chặt luân chuyển theo trữ lượng hoặc diện tích. Phương thức này
phục vụ cho phương thức kinh doanh rừng chồi, chu kỳ khai thác ngắn. Sau
cách mạng công nghiệp, vào thể kỷ XIX phương thức kinh doanh rừng chồi
được thay bằng phương thức kinh doanh rừng hạt với chu kỳ khai thác dài và
phương thức “khoanh khu chặt luân chuyển” nhường chỗ cho phương thức
“chia đều” của Hartig. Hartig đã chia đều chu kỳ khai thác thành nhiều thời
kỳ lợi dụng và trên cơ sở đó khống chế lượng chặt hàng năm. Đến năm 1816,
xuất hiện phương thức luân kỳ lợi dụng của H.Cotta, Cotta chia chu kỳ khai
thác thành 20 thời kỳ lợi dụng và cũng lấy đó để khống chế lượng chặt hàng
năm. Sau đó phương pháp “bình quân thu hoạch” ra đời, quan điểm phương
pháp này là giữ đều mức thu hoạch trong chu kỳ khai thác hiện tại, đồng thời
vẫn đảm bảo thu hoạch được liên tục trong chu kỳ sau. Và đến cuối thế kỷ
XIX, xuất hiện phương pháp “lâm phần kinh tế” của Judeich. Phương pháp
này khác với phương pháp “bình quân thu hoạch” về căn bản, Judeich cho
rằng những lâm phần nào đảm bảo thu hoạch được nhiều tiền sẽ được đưa vào
diện khai thác. Hai phương pháp “bình quân thu hoạch” và “lâm phần kinh tế”
chính là tiền đề của hai phương pháp tổ chức kinh doanh và tổ chức rừng khác
nhau. Phương pháp “bình quân thu hoạch” và sau này là phương pháp “cấp
tuổi” chịu ảnh hưởng của “lý luận rừng tiêu chuẩn”, có nghĩa là rừng phải có
kết cấu tiêu chuẩn về tuổi cũng như về diện tích, trữ lượng, vị trí và đưa các
cấp tuổi cao vào diện tích khai thác. Hiện nay, phương pháp kinh doanh rừng
này được dùng phổ biến ở các nước có tài nguyên rừng phong phú. Còn
phương pháp “lâm phần kinh tế” và hiện nay là phương pháp “lâm phần”

không căn cứ vào tuổi rừng mà dựa vào đặc điểm cụ thể của mỗi lâm phần
tiến hành phân tích, xác định sản lượng và biện pháp kinh doanh. Cũng từ


10

phương pháp này, còn phát triển thành “phương pháp kinh doanh lô” và
“phương pháp kiểm tra”.
Tại châu Âu, vào thập kỷ 30 và 40 thế kỷ XX, quy hoạch ngành giữ vai
trò lấp chỗ trống của quy hoạch vùng được xây dựng vào đầu thế kỷ. Năm
1946, Jack G.V. đã cho ra đời chuyên khảo đầu tiên về phân loại đất đai với
tên “phân loại đất đai cho quy hoạch sử dụng đất”. Đây cũng là tài liệu đầu
tiên đề cập đến đánh giá khả năng của đất cho quy hoạch sử dụng đất. Tại
vùng Rhodesia trước đây, nay là cộng hoà Zimbabwe, Bộ Nông nghiệp đã
xuất bản cuốn sổ tay hướng dẫn quy hoạch sử dụng đất hỗ trợ cho quy hoạch
cơ sở hạ tầng cho trồng rừng. Vào đầu những năm 60 của thế kỷ XX, tạp chí
“East African Journal for Agriculture Forestry” đã xuất bản nhiều bài báo về
quy hoạch cơ sở hạ tầng ở Nam châu Phi. Năm1966, hội Đất học của Mỹ và
hội Nông học Mỹ cho ra đời chuyên khảo về hướng dẫn điều tra đất, đánh giá
khả năng của đất và ứng dụng trong qui hoạch sử dụng đất.
Năm 1994 đã có hai cuộc hội thảo quốc tế về PRA tại Ấn Độ, đến nay
có hơn 30 nước đã và đang áp dụng PRA vào việc phát triển các lĩnh vực:
- Quản lý tài nguyên thiên nhiên
- Nông nghiệp
- Các chương trình xã hội và xóa đói gảm nghèo
- Y tế và an toàn lương thực …
Ở chương trình hội thảo quốc tế tại Việt Nam (1998) cũng đã đề cập một
cách chi tiết khái niệm về sự tham gia và đề xuất các chiến lược QHSDĐ
cũng như giao đất.
Ngày nay, PRA và RRA đã dần dần được hoàn thiện, thể hiện được vai

trò không thể thiếu của nó trong mọi hoạt động thuộc lĩnh vực lập kế hoạch,
quy hoạch sử dụng đất.


11

1. 2. Ở Việt Nam
1.2.1. Quy hoạch vùng chuyên canh (QH vùng chuyên canh cây trồng)
Trong quá trình xây dựng nền kinh tế, đã quy hoạch các vùng chuyên
canh lúa ở vùng sông Hồng và đồng bằng sông Cửu Long, các vùng rau thực
phẩm cho các thành phố lớn, các vùng cây công nghiệp ngắn ngày (hàng
năm): Vùng bông Thuận Hải, vùng đay Hải Hưng, vùng thuốc lá Quảng An Cao Bằng, Ba Vì - Hà Nội, Hữu Lũng - Lạng Sơn, Nho quan – Ninh Bình,
vùng mía Vạn Điểm, Việt Trì, Sông Lam, Quảng Ngãi...Các vùng cây công
nghiệp dài ngày (lâu năm ): Vùng cao su Sông Bé, Đồng Nai, Buôn Hồ- Đắc
Lắc, Chư Par- Gia Lai, vùng cà phê Krông Búc, Krông Bách- Đắc Lắc, Chư
Pả, Ninh Đức - Gia Lai (hợp tác với Liên Xô trước đây, CH dân chủ Đức,
Tiệp Khắc, Bungari) vùng chè ở Yên Bái, Lào Cai, Mộc Châu, Thái Nguyên,
Phú Thọ, Tuyên Quang, Lâm Đồng, vùng dâu tằm Bảo Lộc - Lâm Đồng.
a. Tác dụng của quy hoạch vùng chuyên canh
- Xác định phương hướng sản xuất, chỉ ra những vùng chuyên môn hoá
và những vùng có khả năng hợp tác kinh tế.
- Xác định và chọn những vùng trọng điểm giúp Nhà nước tập trung vốn
đầu tư đúng đắn.
- Xây dựng được cơ cấu sản xuất, các chỉ tiêu sản xuất sản phẩm và sản
phẩm hàng hoá của vùng, yêu cầu xây dựng cơ sở vật chất, kỹ thuật phục vụ
sản xuất, nhu cầu lao động.
- Cơ sở để xây dựng kế hoạch phát triển nghiên cứu tổ chức quản lý kinh
doanh theo ngành và theo lãnh thổ.
Quy hoạch vùng chuyên canh đã thực hiện nhiệm vụ chủ yếu là bố trí
cơ cấu cây trồng được chọn với quy mô và chế độ canh tác hợp lý, theo

hướng tập trung để ứng dụng tiến bộ kỹ thuật nhằm nâng cao năng suất, sản
lượng và chất lượng sản phẩm cây trồng đồng thời phân bố các chỉ tiêu


12

nhiệm vụ cụ thể cho từng cơ sở sản xuất, làm cơ sở cho công tác quy hoạch,
kế hoạch sản xuất cho các cơ sở sản xuất.
b. Nội dung của quy hoạch vùng chuyên canh
- Xác định quy mô, ranh giới vùng.
- Xác định phương hướng, chỉ tiêu nhiệm vụ sản xuất.
- Bố trí sử dụng đất đai.
- Xác định quy mô, ranh giới, nhiệm vụ chủ yếu cho các xí nghiệp trong
vùng và tổ chức sản xuất ngành nông nghiệp.
- Xác định hệ thống cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ sản xuất đời sống.
- Tổ chức và sử dụng lao động.
- Ước tính đầu tư và hiệu quả kinh tế.
- Dự kiến tiến độ thực hiện quy hoạch.
1.2.2. Quy hoạch nông nghiệp huyện
Quy hoạch nông nghiệp huyện được tiến hành ở hầu hết các huyện, là
một quy hoạch ngành bao gồm cả nông nghiệp, lâm nghiệp, thuỷ sản, thủ
công nghiệp và công nghiệp chế biến.
a. Nhiệm vụ của quy hoạch nông nghiệp huyện
- Trên cơ sở điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội của huyện căn cứ vào dự
án phát triển và phân bố lực lượng sản xuất và phân vùng nông nghiệp tỉnh
hoặc thành phố đã được phê duyệt, xác định phương hướng nhiệm vụ, mục
tiêu phát triển nông nghiệp và xây dựng các biện pháp nhằm thực hiện được
các mục tiêu đó theo hướng chuyên môn hoá, tập trung hoá kết hợp phát triển
tổng hợp nhằm thực hiện 3 mục tiêu nông nghiệp là giải quyết lương thực,
thực phẩm, nguyên liệu cho công nghiệp và nông sản xuất khẩu ổn định.

- Hoàn thiện phân bổ sử dụng đất đai cho các đối tượng sử dụng đất
nhằm sử dụng đất đai có hiệu quả cao, đồng thời bảo vệ và nâng cao được độ
phì nhiêu của đất.
- Tạo điều kiện để ứng dụng các kỹ thuật vào sản xuất nông nghiệp.


13

- Tính vốn đầu tư cơ bản và hiệu quả của sản xuất nông nghiệp theo quy
hoạch.
b. Nội dung chủ yếu của quy hoạch nông nghiệp huyện
- Xác định phương hướng và mục tiêu phát triển nông nghiệp.
- Bố trí sử dụng đất đai.
- Xác định cơ cấu và quy mô sản xuất nông nghiệp (phân chia và tính
toán quy mô các vùng sản xuất chuyên môn hoá, xác định vùng sản xuất thâm
canh cao sản, các tổ chức liên kết nông - công nghiệp, các cơ sở dịch vụ nông
nghiệp, bố trí trồng trọt, bố trí chăn nuôi).
- Tổ chức các cơ sở sản xuất nông nghiệp.
- Tổ chức công nghiệp chế biến nông sản và tiểu thủ công nghiệp trong
nông nghiệp.
- Giải quyết mối quan hệ giữa các ngành sản xuất có liên quan trong và
ngoài ngành nông nghiệp.
- Bố trí cơ sở vật chất, kỹ thuật phục vụ nông nghiệp (thuỷ lợi, giao
thông, cơ khí, điện cơ sở dịch vụ thương nghiệp).
- Tổ chức sử dụng lao động nông nghiệp, phân bố các điểm dân cư nông
thôn.
- Những cân đối chính trong sản xuất nông nghiệp (lương thực, thực
phẩm) thức ăn gia súc, trong đó vật tư kỹ thuật nông nghiệp, nguyên liệu cho
các xí nghiệp chế biến.
- Tổ chức các cụm kinh tế xã hội.

- Bảo vệ môi trường.
- Vốn đầu tư cơ bản.
- Hiệu quả sản xuất và tiến độ thực hiện quy hoạch.
Đối tượng của quy hoạch nông nghiệp huyện là toàn bộ đất đai, ranh
giới hành chính huyện.


14

1.2.3. Quy hoạch lâm nghiệp
Quy hoạch lâm nghiệp áp dụng ở nước ta ngay từ thời kỳ Pháp thuộc,
như việc xây dựng phương án điều chế rừng chồi, sản xuất củi. Điều chế rừng
thông theo phương pháp hạt đều...
Đến năm 1955 - 1957, tiến hành sơ thám và mô tả để ước lượng tài
nguyên rừng. Năm 1958- 1959 tiến hành thống kê trữ lượng rừng miền Bắc.
Đến năm 1960 - 1964, công tác quy hoạch mới áp dụng ở miền Bắc. Từ năm
1965 đến nay, lực lượng quy hoạch lâm nghiệp ngày càng được tăng cường và
mở rộng. Viện điều tra quy hoạch rừng kết hợp chặt chẽ với lực lượng điều tra
quy hoạch ở các sở Nông nghiệp và PTNT không ngừng cải tiến phương pháp
điều tra, quy hoạch của các nước ngoài cho phù hợp với trình độ và điều kiện
tài nguyên rừng ở nước ta. Tuy nhiên, so với lịch sử phát triển của các nước
khác thì quy hoạch lâm nghiệp nước ta hình thành và phát triển muộn hơn
nhiều. Vì vậy những nghiên cứu cơ bản về kinh tế, xã hội, kỹ thuật và tài
nguyên rừng làm cơ sở cho công tác quy hoạch lâm nghiệp chưa được giải
quyết, nên công tác này ở nước ta đang trong giai đoạn vừa tiến hành vừa
nghiên cứu áp dụng.
Theo chiến lược phát triển lâm nghiệp quốc gia giai đoạn 2006 - 2020,
một trong những tồn tại mà Bộ Nông nghiệp và PTNT đánh giá là “công tác
quy hoạch nhất là quy hoạch dài hạn còn yếu và chậm đổi mới, chưa kết hợp
chặt chẽ với quy hoạch của các ngành khác, còn mang nặng tính bao cấp và

thiếu tính khả thi. Chưa quy hoạch 3 loại rừng hợp lý và chưa thiết lập được
lâm phần ổn định trên thực địa...”. Đây cũng là nhiệm vụ đặt ra ngày càng
được hoàn thiện đối với ngành lâm nghiệp.
1.2.3.1. Đặc thù của công tác quy hoạch lâm nghiệp
- Địa bàn quy hoạch lâm nghiệp rất đa dạng, phức tạp (bao gồm cả vùng
ven biển, trung du, núi cao và biên giới, hải đảo), thường có địa hình cao, dốc,


15

chia cắt mạnh, giao thông đi lại khó khăn và có nhiều ngành kinh tế hoạt
động.
- Là địa bàn cư trú của đồng bào các dân tộc ít người, trình độ dân trí
thấp, kinh tế xã hội chậm phát triển, đời sống vật chất và tinh thần còn gặp
nhiều khó khăn. Đối tượng của công tác quy hoạch lâm nghiệp là rừng và đất
lâm nghiệp, từ bao đời nay chung của đồng bào các dân tộc nhưng thực chất
là vô chủ.
- Cây lâm nghiệp có chu kỳ kinh doanh dài (ngắn 8-10 năm, dài 40-100
năm). Người dân chỉ tự giác bỏ vốn tham gia trồng rừng nếu biết chắc chắn sẽ
có lợi.
- Mục tiêu của quy hoạch lâm nghiệp cũng rất đa dạng: Quy hoạch rừng
phòng hộ (phòng hộ đầu nguồn, phòng hộ ven biển và phòng hộ môi trường); Quy
hoạch rừng đặc dụng (các vườn quốc gia, các khu bảo tồn thiên nhiên, các khu di
tích văn hóa, lịch sử, danh thắng) và quy hoạch phát triển các loại rừng sản xuất.
- Quy mô của công tác quy hoạch lâm nghiệp bao gồm cả tầm vĩ mô và
vi mô: Quy hoạch toàn quốc, từng vũng lãnh thổ, từng tỉnh, huyện, công ty
lâm nghiệp, quy hoạch phát triển lâm nghiệp xã và làng lâm nghiệp.
- Lực lượng tham gia làm công tác quy hoạch thường luôn phải lưu
động, điều kiện sinh hoạt khó khăn, cơ sở vật chất thiếu thốn về mọi mặt.. Đội
ngũ cán bộ xây dựng phương án quy hoạch cũng rất đa dạng, bao gồm cả lực

lượng của Trung ương và địa phương, thậm chí các ngành khác cũng tham gia
làm quy hoạch lâm nghiệp (nông nghiệp, công an, quân đội); trong đó có một
bộ phận được đào tạo bài bản qua các trường lớp, song phần lớn chỉ dựa vào
kinh nghiệm hoạt động lâu năm trong ngành lâm nghiệp.
Những yêu cầu của công tác quy hoạch lâm nghiệp phục vụ chuyển đổi
cơ cấu nông nghiệp nông thôn.
Công tác quy hoạch lâm nghiệp được triển khai dựa trên những chủ
trương, chính sách và định hướng phát triển kinh tế - xã hội của Nhà nước và


16

chính quyền các cấp trên từng địa bàn cụ thể. Với mỗi phương án quy hoạch
lâm nghiệp phải đạt được.
- Hoạch định rõ ranh giới đất nông nghiệp - đất lâm nghiệp và đất do các
ngành khác sử dụng; trong đó đất nông nghiệp, đất lâm nghiệp được quan tâm
hàng đầu vì là hai ngành chính sử dụng đất đai.
- Trên phần đất lâm nghiệp đã được xác định, tiến hành hoạch định 3
loại rừng (phòng hộ, đặc dụng và sản xuất). Từ đó xác định các giải pháp lâm
sinh thích hợp với từng loại rừng và đất rừng (bảo vệ, trồng rừng mới, khoanh
nuôi tái sinh tự nhiên, khoanh nuôi tái sinh kết hợp trồng bổ sung, nông lâm
kết hợp, khai thác lợi dụng rừng…).
- Tính toán nhu cầu đầu tư (chủ yếu nhu cầu lao động, vốn và vật tư thiết
bị). Vì là phương án quy hoạch nên việc tính toán nhu cầu đầu tư chỉ mang
tính khái quát, phục vụ cho việc lập kế hoạch sản xuất ở những bước tiếp
theo.
- Xác định một số giải pháp đảm bảo thực hiện những nội dung quy
hoạch (giải pháp lâm sinh, khoa học công nghệ, cơ chế chính sách, giải pháp
về vốn, lao động).
- Đối mới một số phương án quy hoạch có quy mô lớn (cấp toàn quốc,

vùng, tỉnh) còn đề xuất các chương trình, dự án cần ưu tiên để triển khai bước
tiếp theo là lập dự án đầu tư hoặc báo cáo nghiên cứu khả thi.
1.2.3.2. Quy hoạch lâm nghiệp cho các cấp
Trong giai đoạn trước năm 1993 nhìn chung quy hoạch lâm nghiệp được
thực hiện bởi tổ chức chuyên môn trong ngành. Các đối tượng quy hoạch lâm
nghiệp hiện nay ở nước ta gồm có:
1) Quy hoạch lâm nghiệp cho các cấp quản lý SXKD
Quy hoạch lâm nghiệp cho các cấp quản lý SXKD bao gồm: Quy hoạch
tổng công ty lâm nghiệp, công ty lâm nghiệp; quy hoạch lâm trường; quy
hoạch lâm nghiệp cho các đối tượng khác (quy hoạch cho các khu rừng phòng


17

hộ, quy hoạch các khu rừng đặc dụng, quy hoạch phát triển sản xuất lâm nông
nghiệp cho cộng đồng làng bản và trang trại lâm nghiệp hộ gia đình). Các nội
dung quy hoạch lâm nghiệp cho các cấp quản lý sản xuất kinh doanh là khác
nhau tùy theo điều kiện cụ thể của mỗi đơn vị và thành phần kinh tế tham gia
vào sản xuất lâm nghiệp mà lựa chọn các nội dung quy hoạch cho phù hợp.
2) Quy hoạch lâm nghiệp cho các cấp quản lý lãnh thổ
Ở nước ta, các cấp quản lý lãnh thổ bao gồm các đơn vị quản lý hành
chính: Từ toàn quốc tới tỉnh (thành phố trực thuộc Trung ương), huyện (thành
phố trực thuộc tỉnh, thị xã, quận) và xã (phường). Để phát triển, mỗi đơn vị
đều phải xây dựng phương án quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế xã hội,
quy hoạch phát triển các ngành sản xuất và quy hoạch dân cư, phát triển xã
hội ….
Ở những đối tượng có tiềm năng phát triển lâm nghiệp thì quy hoạch
lâm nghiệp là một vấn đề quan trọng, làm cơ sở cho việc phát triển sản xuất
nghề rừng nói riêng và góp phần phát triển kinh tế - xã hội nói chung trên địa
bàn.

- Quy hoạch lâm nghiệp toàn quốc
Quy hoạch lâm nghiệp toàn quốc là quy hoạch phát triển sản xuất lâm
nghiệp trên phạm vi lãnh thổ quốc gia nhằm giải quyết một số vấn đề cơ bản,
bao gồm: Xác định phương hướng nhiệm vụ chiến lược phát triển lâm nghiệp
toàn quốc. Quy hoạch đất đai tài nguyên rừng theo các chức năng (sản xuất,
phòng hộ và đặc dụng). Quy hoạch bảo vệ, nuôi dưỡng và phát triển tài
nguyên rừng hiện có. Quy hoạch tái sinh rừng (bao gồm tái sinh tự nhiên và
trồng rừng), thực hiện nông lâm kết hợp. Quy hoạch lợi dụng rừng, chế biến
lâm sản gắn với thị trường tiêu thụ. Quy hoạch tổ chức sản xuất, phát triển
nghề rừng, phát triển lâm nghiệp xã hội. Quy hoạch xây dựng cơ sở hạ tầng,
giao thông vận tải, xác định tiến độ thực hiện.


18

Do đặc thù khác với ngành kinh tế khác, cho nên thời hạn quy hoạch lâm
nghiệp thường được thực hiện trong thời gian 10 năm và các nội dung quy
hoạch được thực hiện tùy theo các vùng kinh tế lâm nghiệp.
- Quy hoạch lâm nghiệp cấp tỉnh
Quy hoạch lâm nghiệp cấp tỉnh giải quyết những vấn đề: Xác định
phương hướng nhiệm vụ phát triển lâm nghiệp trong phạm vi tỉnh căn cứ vào
phương hướng nhiệm vụ phát triển kinh tế xã hội của tỉnh, căn cứ quy hoạch
lâm nghiệp toàn quốc đồng thời căn cứ vào điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội
của tỉnh. Tiến hành quy hoạch đất lâm nghiệp trên địa bàn tỉnh theo ba chức
năng: Rừng sản xuất, rừng phòng hộ và rừng đặc dụng, căn cứ vào phương
hướng nhiệm vụ phát triển kinh tế xã hội của tỉnh, căn cứ vào điều kiện đất
đai tài nguyên rừng, đồng thời căn cứ vào nhu cầu phòng hộ và các nhu cầu
đặc biệt khác. Quy hoạch bảo vệ, nuôi dưỡng và phát triển tài nguyên rừng
hiện có. Quy hoạch tái sinh rừng (bao gồm tái sinh tự nhiên và trồng rừng),
thực hiện nông lâm kết hợp. Quy hoạch lợi dụng rừng, chế biến lâm sản gắn

với thị trường tiêu thu. Quy hoạch tổ chức sản xuất, phát triển nghề rừng, phát
triển lâm nghiệp xã hội. Quy hoạch xây dựng cơ sở hạ tầng, giao thông vận
tải. Xác định tiến độ thực hiện.
- Quy hoạch lâm nghiệp cấp huyện
Quy hoạch lâm nghiệp cấp huyện về cơ bản các nội dung quy hoạch lâm
nghiệp cũng tượng tự như quy hoạch lâm nghiệp tỉnh, tuy nhiên nó được thực
hiện cụ thể, chi tiết hơn và được tiến hành trên phạm vi địa bàn huyện. Quy
hoạch lâm nghiệp huyện đề cập giải quyết các vấn đề sau.
+ Căn cứ vào phương hướng, nhiệm vụ phát triển tổng thể kinh tế - xã
hội của huyện, căn cứ vào phương án phát triển lâm nghiệp của tỉnh và điều
kiện tự nhiên kinh tế - xã hội, đặc biệt là điều kiện tài nguyên rừng của huyện
để xác định phương hướng nhiệm vụ phát triển trên địa bàn huyện.


19

+ Căn cứ phương hướng phát triển lâm nghiệp huyện và điều kiện đất
đai tài nguyên rừng, nhu cầu phòng hộ và nhu cầu đặc biệt khác. Tiến hành
quy hoạch đất lâm nghiệp trong huyện theo 3 chức năng: Sản xuất, phòng hộ
và đặc dụng.
+ Quy hoạch bảo vệ, nuôi dưỡng tài nguyên rừng hiện có.
+ Quy hoạch các biện pháp tái sinh rừng: Trồng rừng, khoanh nuôi phục
hồi rừng tự nhiên. Quy hoạch thực hiện nông lâm kết hợp và sản xuất hỗ trợ
trên đất lâm nghiệp.
+ Quy hoạch khai thác lợi dụng lâm đặc sản, chế biến lâm sản gắn liền
với thị trường tiêu thụ.
+ Quy hoạch tổ chức sản xuất lâm nghiệp, quy hoạch đất lâm nghiệp cho
các thành phần kinh tế trong huyện, tổ chức phát triển lâm nghiệp xã hội.
+ Quy hoạch xây dựng cơ sở hạ tầng, giao thông vận tải.
+ Xác định tiến độ thực hiện.

Thời gian quy hoạch lâm nghiệp cấp huyện thường là 10 năm. Các nội
dung quy hoạch lâm nghiệp cũng cần phải phù hợp với phương hướng phát
triển kinh tế - xã hội chung của từng tiểu vùng trong huyện.
- Quy hoạch lâm nghiệp cấp xã
Xã là đơn vị hành chính nhỏ nhất, là đơn vị cơ bản quản lý và tổ chức
sản xuất lâm nghiệp trong các thành phần kinh tế tập thể và tư nhân. Quy
hoạch lâm nghiệp trên địa bàn xã cần chi tiết cụ thể hơn và được tiến hành
trong thời gian 10 năm. Quy hoạch lâm nghiệp xã thường tiến hành các nội
dung sau: Điều tra các điều kiện cơ bản của xã hội có liên quan đến sản xuất
lâm nghiệp như điều kiện tự nhiên, điều kiện kinh tế xã hội, điều kiện tài
nguyên rừng. Căn cứ vào quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế xã hội, căn cứ
vào quy hoạch cấp huyện và các điều kiện cơ bản của xã, xác định phương
hướng nhiệm vụ phát triển lâm nghiệp trên địa bàn xã. Quy hoạh đất đai trong
xã theo ngành và theo đơn vị sử dụng. Xác định rõ mối quan hệ giữa các


20

ngành sử dụng đất đai trên địa bàn xã. Căn cứ phương hướng pháp triển, các
điều kiện về nhu cầu phòng hộ và các nhu cầu đặc biệt khác (nếu có) phân
chia đất lâm nghiệp theo ba chức năng sử dụng: Sản xuất, phòng hộ, đặc
dụng. Quy hoạch các nội dung sản xuất kinh doanh lợi dụng rừng, bố trí
không gian, tổ chức các biện pháp kinh doanh lợi dụng rừng: Bảo vệ và nuôi
dưỡng rừng hiện có, trồng rừng và tái sinh phục hồi rừng, nông lâm kết hợp,
khai thác, chế biến các loại lâm sản, đặc sản phục vụ nhu cầu của địa phương
và thị trường, quy hoạch các nội dung sản xuất hỗ trợ. Quy hoạch tổ chức sản
xuất lâm nghiệp cho các thành phần kinh tế trong xã gắn với phát triển lâm
nghiệp xã hội. Quy hoạch xây dựng cơ sở hạ tầng giao thông vận tải, các công
trình phục vụ sản xuất và đời sống. Ước tính đầu tư và hiệu quả: Ước tính đầu
tư lao động tiền vốn, vật tư thiết bị. Hiệu quả đầu tư cần được đánh giá đầy đủ

trên các mặt kinh tế - xã hội, môi trường. Xác định tiến độ để thực hiện.
Về cơ bản nội dung quy hoạch lâm nghiệp cho các cấp quản lý lãnh thổ
từ toàn quốc đến tỉnh, huyện, xã là tương tự như nhau. Tuy nhiên mức độ giải
quyết khác nhau về chiều sâu và chiều rộng tùy theo các cấp.
1.2.4. Nhận xét công tác quy hoạch SDĐ và QHLN ở nước ta
Từ đầu những năm 1990 đến nay, cùng với sự hợp tác với các nhà khoa
học và tổ chức quốc tế, các nhà khoa học nước ta đã có nhiều công trình
nghiên cứu và thử nghiệm về quy hoạch sử dụng đất, đặc biệt là quy hoạch
phát triển lâm nghiệp. Từ kết quả của những nghiên cứu đó, có thể rút ra một
số ý kiến nhận xét sau.
- Tuy có nhiều công trình nghiên cứu, nhiều dự án thực hiện quy hoạch
lâm nghiệp cấp tỉnh, huyện. Nhưng chưa được tổng kết, đánh giá và phát triển
thành phương pháp luận.
- Phương pháp QHSDĐ trong nông - lâm nghiệp chưa thật sự thống nhất
ở mỗi một địa phương.


21

- Thiếu sự phối kết hợp giữa các cấp, các ngành trong việc xây dựng quy
hoạch sử dụng đất, quy hoạch lâm nghiệp, quy hoạch các ngành kinh tế khác
dẫn tới việc chồng chéo trong sử dụng đất ở nhiều địa phương. Vì vậy rất cần
có những nghiên cứu chuyên sâu về quy hoạch.
Lào Cai là một trong những tỉnh miền núi phía Bắc Việt Nam, với nhận
thức cao về tầm quan trọng của lâm nghiệp trên địa bàn, nhằm khai thác hiệu
quả tiềm năng, thế mạnh phục vụ sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội của
tỉnh. Bát Xát là huyện được giao nhiệm vụ thực hiện một phần nội dung phát
triển lâm nghiệp. Đời sống của người dân trong huyện hiện nay còn gặp nhiều
khó khăn, chưa tận dụng hết khả năng, tiềm năng tài nguyên một cách hiệu quả,
hợp lý. Với huy vọng nghiên cứu này sẽ góp phần phát triển lâm nghiệp của

huyện bền vững, do vậy chúng tôi đi sâu tìm hiểu và đề xuất những nội dung
cơ bản quy hoạch lâm nghiệp huyện Bát Xát giai đoạn 2011 – 2020.
1.2.5. Các văn bản chính sách Nhà nước liên quan đến quy hoạch lâm
nghiệp
- Hiến pháp của nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992
nêu tại điều 18 chương II của hiến pháp nước CHXHCN Việt Nam đã quy
định “đất đai thuộc quyền sở hữu toàn dân do Nhà nước thống nhất quản lý
theo pháp luật, đảm bảo sử dụng đúng mục đính, đạt hiệu quả cao. Nhà nước
giao đất cho các hộ gia đình, cá nhân sử dụng ổn định lâu dài”.
- Luật đất đai năm 1993, Luật sửa đổi bổ sung một số điều của Luật đất
đai năm 1998, năm 2001; Luật đất đai năm 2003.
- Luật Bảo vệ và phát triển rừng năm 1991; Luật Bảo vệ và phát triển
rừng năm 2004.
Sau khi có Luật đất đai và Luật bảo vệ phát triển rừng, một số các chính
sách được ban hành:
+ Quyết định số 264/CT ngày 22/07/1992 của Chủ tịch Hội đồng Bộ
trưởng về chính sách đầu tư phát triển rừng.


22

+ Quyết định 264/CP (năm 1992) của Chính phủ về tín dụng vay vốn ưu
đãi để trồng rừng sản xuất.
+ Quyết định 327/QĐ/CT ngày 15/09/1992 của Chủ tịch Hội đồng Bộ
trưởng (nay là Thủ tướng Chính phủ) ban hành một số chủ trương, chính sách
sử dụng đất trống, đồi núi trọc, rừng, bãi bồi ven biển và mặt nước.
+ Nghị định 170/HĐBT (năm 1993) của Hội đồng Bộ trưởng nay là
Chính phủ về chính sách đối với kinh tế cá thể, xí nghiệp tư nhân trong nông
lâm nghiệp.
+ Nghị định 64/CP ngày 27/09/1993 của Chính phủ về giao đất nông

nghiệp cho hộ gia đình, cá nhân sử dụng ổn định lâu dài vào mục đích nông
nghiệp.
+ Nghị định số 02/CP ngày 15/01/1994 của Chính phủ ban hành quy
định về việc giao đất lâm nghiệp cho tổ chức, hộ gia đình, các nhân sử dụng
ổn định lâu dài vào mục đích lâm nghiệp.
+ Quyết định số 202/TTg ngày 02/05/1994 của Thủ tướng Chính phủ
ban hành văn bản quy định về việc khoán bảo vệ rừng - khoanh nuôi tái sinh
rừng và trồng rừng.
+ Nghị định số 01/CP ngày 04/01/1995 của Chính phủ về giao khoán đất
sử dụng vào mục đích nông nghiệp, lâm nghiệp, nuôi trồng thủy sản trong các
doanh nghiệp.
+ Quyết định số 661/TTg ngày 29/07/1998 của Chính phủ về thực hiện
dự án trồng rừng 5 triệu ha với mục tiêu 2010 cả nước đạt 14,3 triệu ha rừng,
đạt tỷ lệ che phủ 43%.
+ Quyết định 245/1998/QĐ/TTg ngày 21/12/1998 của Thủ tướng Chính
phủ về thực hiện trách nhiệm quản lý Nhà nước của các cấp về rừng và đất
rừng.
+ Quyết định 187/1999/TTg ngày 16/09/1999 của Thủ tướng Chính phủ
về đổi mới tổ chức và cơ chế quản lý lâm trường quốc doanh.


×