Tải bản đầy đủ (.pdf) (94 trang)

Tuyển tập 100 bài hành trình quê mẹ Mặc Giang

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (569.76 KB, 94 trang )

Hành Trình Quê Mẹ
của Mặc Giang
-----------------------------------

Mục lục
Lời giới thiệu
Lời mở đầu
Quê hƣơng muôn thuở

Lý Việt Dũng
Tác giả Mặc Giang
Quốc Anh

01. Non nƣớc Việt Nam
02. Miền Bắc quê hƣơng tôi – 1
03. Miền Trung quê hƣơng tôi – 1
04. Miền Nam quê hƣơng tôi – 1
05. An Giang quê tôi
06. Bà Rịa – Vũng Tàu quê tôi
07. Bạc Liêu quê tôi
08. Bắc Giang quê tôi
09. Bắc Kạn quê tôi
10. Bắc Ninh quê tôi
11. Bình Dƣơng quê tôi
12. Bình Định
13. Bình Phƣớc quê tôi
14. Bình Thuận quê tôi
15. Bến Tre quê tôi
16. Cà Mau quê tôi
17. Cao Bằng quê tôi
18. Cần Thơ quê tôi


19. Đà Nẵng quê tôi
20. Đắk Lắk (Đắc Lắc) quê tôi
21. Đồng Nai quê tôi
22. Đồng Tháp quê tôi
23. Gia Lai quê tôi
24. Hà Giang quê tôi
25. Hà Nam quê tôi
26. Hà Nội tim ngƣời
27. Hà Tây quê tôi
28. Hà Tĩnh quê tôi
29. Hải Dƣơng quê tôi
30. Hải Phòng quê tôi
31. Hòa Bình quê tôi
32. Hƣng Yên quê tôi
33. Khánh Hòa quê tôi
34. Kiên Giang quê tôi
35. Kon Tum quê tôi
36. Lâm Đồng quê tôi
37. Lai Châu quê tôi
38. Lạng Sơn quê tôi
39. Lào Cai quê tôi
40. Long An quê tôi
41. Nam Định quê tôi
1


42. Nghệ An quê tôi
43. Ninh Bình quê tôi
44. Ninh Thuận quê tôi
45. Phú Thọ quê tôi

46. Phú Yên quê tôi
47. Quảng Bình quê tôi
48. Quảng Nam quê tôi
49. Quảng Ngãi quê tôi
50. Quảng Ninh quê tôi
51. Quảng Trị quê tôi
52. Sài Gòn, thành phố mến yêu
53. Nhớ Sài Gòn
54. Sơn La quê tôi
55. Sóc Trăng quê tôi
56. Tây Ninh quê tôi
57. Thái Bình quê tôi
58. Thái Nguyên quê tôi
59. Thanh Hóa quê tôi
60. Thừa Thiên - Huế quê tôi
61. Tiền Giang quê tôi
62. Trà Vinh quê tôi
63. Tuyên Quang quê tôi
64. Vĩnh Long quê tôi
65. Vĩnh Phúc quê tôi
66. Yên Bái quê tôi
67. Tôi chỉ là một Ngƣời Việt Nam
68. Ta là Ngƣời Thanh Niên
69. Tôi là Ngƣời Thanh Nữ
70. Ta là Ngƣời Công Nhân Viên
71. Tôi là Cô Thôn Nữ
72. Tôi là Ngƣời Nông Dân
73. Tôi là Ngƣời Chinh Nhân
74. Ngƣòi dân quê đất mới
75. Gởi quê hƣơng

76. Gởi miền quê
77. Gởi thị thành
78. Gởi vùng sâu
79. Gởi ngƣời nƣớc mặn đồng chua
80. Gởi ngƣời ở vùng cao
81. Thăm lại trƣờng xƣa
82. Thăm ngƣời nghèo
83. Thăm viếng nhà thƣơng
84. Thăm viện cô nhi
85. Thăm nơi giữ trẻ
86. Thăm ngƣời lao động
87. Trao thế hệ đàn em
88. Tôi gởi thơ tôi
89. Rau cỏ bốn mùa
90. Cây trái bốn mùa
91. Sắc thắm muôn hoa
92. Làng quê yêu dấu
93. Tình biển nghĩa sông
94. Tình non nghĩa nƣớc
2


95. Sông nƣớc Việt Nam
96. Mẹ Việt Nam muôn đời
97. Một nhà Việt Nam
98. Dệt mộng mƣời đi
99. Điệp khúc quê hƣơng
100. Quê hƣơng tình tự muôn đời

LỜI GIỚI THIỆU

Ngƣời phƣơng tây thƣờng nói “trẻ ƣớc mơ, già hoài niệm”, nhƣng sau khi đọc xong tập thơ
Hành Trình Quê Mẹ, tôi thấy tác giả, một nhà thơ ở tuổi tri thiên mạng, nhƣng lại luôn ghi
lòng tạc dạ, nâng niu trân trọng các giá trị đƣợc tài bồi bởi tiền nhân; tác giả còn hoài bảo, mơ
vọng một hƣớng sống thiết thực cho ngƣời Việt Nam nói chung. Với Mặc Giang, hoài niệm
và ƣớc mơ nào có hạn cuộc bởi tuổi tác. Hoài niệm và ƣớc mơ ấy đã trở thành chất liệu tài
bồi cho dòng thơ với chủ đề Hành Trình Quê Mẹ tuôn chảy không mỏi mệt, để nguồn thơ của
thi nhân vốn nhào nặn từ cuộc sống, trở lại phụng sự cuộc sống ấy, trở thành niềm tự hào
kiêu hãnh của trào lƣu thi ca hiện đại.
Tập thơ Hành Trình Quê Mẹ, trƣớc tiên cho ngƣời đọc một sự bất ngờ đầy thú vị về quá trình
dong ruổi của tác giả trên các nẻo đƣờng đất nƣớc Việt Nam. Với các địa danh và một vài chi
tiết chấm phá của mỗi nơi, tác giả đã nói lên tình tự của mình nhƣ một ngƣời con chính thống
của các vùng đất mà tác giả đi qua. Tập thơ có thể đƣợc xem nhƣ là một quyển địa lý thi, một
bản địa chí tóm tắt cho những ai chƣa có dịp đi xa hoặc chuẩn bị cất bƣớc lên đƣờng làm một
cuộc viễn du xuyên Việt. Riêng tôi vốn là một ngƣời trải bƣớc giang hồ khắp 62 tỉnh trên cả
nƣớc, nên càng có sự đồng cảm cao với tác giả, bởi qua những “quê tôi” của Mặc Giang, tôi
nhƣ sống và thấy lại các nơi mà có lần mình đã tạm dừng bƣớc.
Về hình thức, tập thơ đƣợc viết bằng nhiều thể loại, có thể xem là thơ tự do, tuy nhiên lục bát
vẫn giữ vai trò truyền thống của nó ở những nơi mang nặng tình tự dân tộc. Về nội dung, tác
giả biết dung hòa đan xen nỗi niềm hoài cổ và phong cách hiện sinh. Ở đây, ngƣời ta bất chợt
ngậm ngùi về một thời lịch sử, về một vùng địa lý gắn liền với bao biến cố đã qua. Ngậm ngùi
mà không oán trách. Ngậm ngùi để trực nhận công đức của tiền nhân, để nhìn lại mình, để thế
hệ hôm nay càng có ý thức xây dựng cuộc đời, gìn giữ và phát triển đất nƣớc.
Thoát ra ngoài những phạm trù hạn cuộc về ý thức, và nhằm trở về nguồn cội, tác giả lúc nào
cũng xem mọi miền quê Việt Nam là “vùng đất hứa” là nơi “quy cố hương”. Qua đó, đã
hoàn thiện hoá những hình ảnh tƣởng chừng đã rạc rời vì thƣơng hải tang điền, hay bị tha hoá
bởi làn sóng văn minh cơ khí. Hình ảnh đó là ai? chính là những thanh niên, thanh nữ, thôn
nữ, nông dân, chinh nhân ….; họ là những con ngƣời đầy cốt cách và nghĩa khí. Có thể nói,
chỉ những thi nhân nào mang trong lòng nhịp đập của trái tim Việt Nam, niềm tự hào dân tộc
và sự vững tin vào linh khí Việt Nam mới có thể có đƣợc phong cách thi ca đó.
Qua đó chúng ta thấy, sự từng trải của tác giả qua các địa phƣơng Viêt Nam cũng là sự đi qua

các nẻo đƣờng của tâm thức, để cuối cùng trở về với quê hƣơng bản nguyên - quê hƣơng vô
tận vô biên tế. Vậy, ý niệm về Tổ quốc quê hƣơng của Mặc Giang là ý niệm về những giá trị
văn hoá vật chất và tinh thần, cụ thể là tâm linh của mỗi ngƣời chúng ta. Nói cách khác, Tổ
quốc hiện hữu một cách trọn vẹn ngay trong mỗi vùng đất, mỗi ngọn núi con sông của mẹ
Việt Nam, đƣợc vun đắp bởi xƣơng máu, mồ hôi, nƣớc mắt của tiền nhân; vừa hiện hữu trong
hơi thở cha ông, trong từng nếp suy tƣ và dòng máu chúng ta đang mang.

3


Ôi ! “một nắm xương khô nghe lòng da diết, mộ giọt máu đào thấm nhuận non sông”.
Quê hƣơng bây giờ và ở đây, bạt ngàn vô tận nhƣng cũng ngay trong tầm mắt, gang tay của
mỗi chúng ta. Mong quý đọc giả hãy cùng thi nhân cƣu mang và sống trọn vẹn với quê
hƣơng điền địa của mình.
Tháng 4/2007
Tiến sĩ Lý Việt Dũng
Viện nghiên cứu Phật học Việt Nam
Cẩn chí

Lời Mở Đầu
Dù đƣợc sinh ra bất cứ nơi nào, sống ở đâu và làm gì, tình tự quê hƣơng ai cũng cƣu mang,
ôm ấp trong lòng. Non Nƣớc Việt Nam, trải dài từ ải Nam Quan tới mũi Cà Mau, từ rừng núi,
cao nguyên, đồng bằng, hải đảo đến phố phƣờng, thành thị, thôn quê, từ thắng cảnh danh lam
đến sông lạch ao hồ, kia con đƣờng cái quan, nọ mái trƣờng làng, kia lối ngõ đầu thôn, đây
bên lề góc phố, ai không từng trải qua một thời đâu đó, và ai không chạnh lòng một thoáng
nhớ thƣơng !
Non nƣớc Việt Nam, con ngƣời Việt Nam, chỉ vỏn vẹn bốn chữ hai lần đi chung với nhau,
nhƣng là một trời quê hƣơng đã 5000 năm từ thuở cha ông, một dòng huyết thống luân lƣu
Lạc Hồng tạo nên vóc dáng hình hài. Mới nghe qua, tƣởng chừng thuở sơ khai hồng hoang
Văn Lang dị sử xa xƣa, thuở đồ đá đồ đồng qua khảo cổ còn vài di tích ! Sót lại “nền cũ lâu

đài bóng tịch dƣơng” ! Nhƣng từ Lạc Long Quân – Âu Cơ và những dấu chân xƣa, từng thời
kỳ đi qua hun hút theo chiều dài lịch sử, ta mới có hơn 80 triệu ngƣời chung sống 61 tỉnh
thành trên toàn cõi Việt Nam và khắp nơi.
Năm 2003, tác giả viết bài Non Nƣớc Việt Nam - một bài thơ 96 câu biến thể tự do - lục bát,
nhƣ một phát họa trên dấu ấn, đi trên từng nét son vàng đó là đi trên cả quê hƣơng địa chí
vƣơng vài dấu chấm phá lịch sử. Có ngƣời nói, làm vài bài về Tỉnh BĐ đi, viết một bài về tỉnh
đó đi ! Tôi chỉ mỉm cƣời, im lặng, không nói gì. Nhƣng vô tình, thầm hứa trong lòng, viết là
viết tất cả chứ không viết riêng tỉnh nọ tỉnh kia, hay viết về tỉnh của mình – nơi chôn nhau cắt
rốn - để khi nào rảnh cái đã, rồi sẽ tính. Và thời gian cứ thế trôi đi, đã nhiều năm có lẽ ! Ngày
tháng thấm thoát đƣa thoi, dòng đời triền miên cuốn hút. Thỉnh thoảng nhớ lại sự thầm hứa
kia, đôi lúc băng qua một thoáng, đôi khi trằn trọc kéo dài, khắc khoải không nguôi !
Vào đầu tháng 3 – 2007, bèn quyết định phải cho xong mới đƣợc, chứ lỡ có gì, sẽ mang một
nỗi ân hận mà lúc đó dù muốn cũng không xong, tuy chẳng ai bắt buộc. Lục trong tủ sách lấy
nhiều cuốn sử, cuốn địa, Non Nƣớc Việt Nam, Danh Lam Nƣớc Việt, lật tới lật lui, tự nhủ,
các cuốn này không giúp đƣợc những điều muốn viết. Tìm không ra các quyển của Vƣơng
Hồng Sển, Sơn Nam nói về Miền Nam, Nam Kỳ lục tỉnh, có lẽ ai mƣợn, chỉ còn Miền Bắc
Khai Nguyên của Toan Ánh Cửu Long Giang với Tập Bản Đồ Hành Chính Việt Nam in năm
2003. Dán mắt và trầm ngâm vào bản đồ Việt Nam dán trên tƣờng, nghe tâm tƣ chùn xuống,
toàn nƣớc Việt Nam hiện ra, ôm ấp vào lòng.
Nơi đây, xin thƣa trƣớc, chứ không dám mạo nhận và nơi nào cũng “quê tôi”. Bởi nƣớc Việt
Nam là nƣớc của mình, ngƣời Việt Nam là ngƣời của mình, dù sinh ra ở tỉnh nọ, miền kia.
Bởi khi ai nói tới Việt Nam, lắng nghe thử họ nói gì ! Ai nhắc đến mọi miền đất nƣớc quê
hƣơng, lắng nghe thử nói gì ! Nếu có ai nhắc đến một địa danh, một ngọn núi, một dòng sông,
một danh lam, một cây cầu, một hải đảo nào đó, dù biết hay không biết, lòng đã sung sƣớng
lên rồi. Tình tự quê hƣơng thật đơn sơ, giản dị, mà cũng thật chân tình, thiêng liêng. Tác giả
xin phép hòa cùng quí vị viếng thăm từng vùng đất quê tôi từ quận huyện trở lên, chứ không
4


đi xuống các đơn vị nhỏ hơn nhƣ phƣờng, xã, buôn, làng, để “ôm lấy quê hƣơng vào lòng”,

hai con mắt đứng lại, nhìn thật xa, chìm sâu.
Nhìn vào bản đồ tổng thể Việt Nam treo trƣớc mặt, đếm bao nhiêu tỉnh giáp Biển Đông, bao
nhiêu tỉnh giáp Trung Hoa, Lào, Cao Miên, … và còn lại bao nhiêu tỉnh nằm gọn trong lòng
quê hƣơng, không dính biển cả hay lằn ranh biên giới. Tự hỏi, sẽ bắt đầu từ đâu, từ Bắc vào
Nam, từ Nam ra Bắc, từ tỉnh quê mình, các tỉnh thân quen, để khơi nguồn của ý ??? Lạ chƣa ?
quê hƣơng non nƣớc của mình mà lại quen không quen ? Đâu cũng là quê cha đất tổ ! Đâu
cũng là đất mẹ Việt Nam ! Lật quyển Bản Đồ Hành Chính một lần nữa, từ trang 6 đến trang
71, cứ mỗi trang là một tỉnh thành, khơi lên nguồn mạch đây rồi, cứ đi từng trang, từng trang,
tuần tự từ đầu tới cuối mà thôi.
Thế rồi “… quê tôi”, “quê tôi”, tiếp theo “… quê tôi”, và thật không ngờ, ròng rã 10 ngày, kết
thúc 62 bài cho 61 tỉnh thành, vừa soạn vừa đánh máy, trong đó có ngày bận không động một
chữ nào, cọng thêm 38 trong số 700 bài đã viết, cấu thành 100 bài cho Hành Trình Quê Mẹ.
Hành Trình Quê Mẹ chân tình đơn sơ nhƣ thế đó, không hoa mỹ, không kiêu kỳ, không trau
chuốt.
Hành Trình Quê Mẹ, tự nó đã thắm đƣợm đậm đà, chơn phƣơng mà sâu xa, bình thƣờng mà
tha thiết nhƣ tâm tƣ, tấm lòng, nhìn, thấy, biết, để thƣơng để nhớ, rung động, thiêng liêng.
Hành Trình Quê Mẹ nhƣ cha ông còn đó muôn đời, hôm nay gìn giữ nâng niu, ngàn sau tiếp
nối trên những bƣớc đi quê hƣơng gấm vóc, núi non hùng vĩ, biển rộng sông dài.
Kính mong Hành Trình Quê Mẹ, xin gởi đến và đƣợc chia sẻ với ngƣời dân của từng tỉnh
thành “quê tôi” để sống với và ôm ấp quê hƣơng vào lòng, lắng nghe tình tự mênh mang.
Ngày 20 tháng 4 năm 2007
Mặc Giang
Trân trọng

QUÊ HƢƠNG MUÔN THUỞ
Quốc Anh
(Những câu thơ trong các đoạn văn hoặc trong ngoặc kép đều
được trích từ Thơ Mặc Giang)
Bất luận anh ở đâu, chị ở đâu, em và tôi ở đâu, hễ nghe nhắc đến Quê
Hƣơng, thì cảm nghe tâm tƣ tràn ngập một trời nhung nhớ; hễ nghe bàn về Quê

Mẹ, thì niềm tự hào và tình nhớ thƣơng nhƣ đang chắt lọc, lắng đọng bồi vun...
Bởi Quê Hƣơng là nơi ta bi bô tập nói, nơi đầu tiên Mẹ dẫn ta vào phân khoa đại
học cuộc đời, nơi Cha nghiêm hƣớng cho ta leo lên đỉnh cao thành tựu. Vì vậy,
xƣa nay, một số bài về quê hƣơng của thi nhân đều khiến ngƣời đọc luôn thấy
hấp dẫn trong cảm giác mới mẻ tinh nguyên. Những câu thơ với chủ đề Việt
Nam nguồn cội, quê hƣơng của ngàn năm oai hùng kiêu sa, cũng đƣợc nhà thơ
Mặc Giang thể hiện qua những dòng thơ rất thực, thắm thiết tình nhớ thƣơng,
nhắn gởi ý thức trách nhiệm, đồng thời cũng tạo dựng một lối về thênh thang
trên “hành trang lội ngƣợc”. Sức cuốn hút của dòng thơ về tình tự Quê Hƣơng
trong thơ Mặc Giang, thiết nghĩ, là một trong những đề tài giá trị trong thơ ông.
Luận bàn về chúng, cũng nhƣ đang nói với chính mình, nhƣ đang thì thầm bên
5


Mẹ Việt Nam, đang lặng yên lắng nghe tiếng vọng của hồn thiêng sông núi Quê
Hƣơng. Mà qua đó, chất thơ, hồn thơ, tứ thơ, nội dung thơ mang phong cách đặc
biệt, mới mẻ của nhà thơ Mặc Giang đã cho chúng ta có cơ hội biết lắng đọng
lòng mình, biết trân qúy Quê Hƣơng - đất nƣớc của những dãy núi trùng điệp in
hình công Cha, của những con sông mang âm hƣởng tiếng hò thân thiết của Mẹ
Việt Nam.
Nhờ ý thức sâu xa về nguồn cội Việt Nam, nên trong những bài thơ nói về
đất nƣớc Việt Nam nòi giống Tiên Rồng năm ngàn năm lịch sử, Mặc Giang
thƣờng thể hiện một thơ phong tự hào, phấn kích, nhƣng cũng trầm ngâm qua
giọng thơ tự tin khẳng định, hoành tráng.…:
Việt Nam còn đó non sông
Mẹ Âu, cha Lạc, con Rồng, cháu Tiên
(Non nƣớc Việt Nam)
Rồng và Tiên, một tƣợng trƣng cho tinh hoa tiết liệt, mạnh mẽ nhƣ cuồng
phong vũ bảo, hùng hồn nghĩa khí, bất khuất, tràn đầy nhựa sống, là chúa tể ngự
trị cả đại dƣơng cuồn cuộn; một tƣợng trƣng cho sự trong sạch, thanh cao, tâm

hồn đôn hậu, liêm khiết, trong sạch, ngay thẳng, chất trực, không uẩn khúc
quanh co, ngự trị cả dãy Trƣờng Sơn hùng vĩ điệp trùng. Vì ý thức cội nguồn là
con cháu Rồng Tiên là một trong những tƣ tƣởng văn hóa truyền thống về cội
nguồn quý hiếm cao sang nhất trong khởi nguyên dòng giống lịch sử toàn nhân
loại, nên Việt Nam quê hƣơng trong thơ Mặc Giang luôn là những chất liệu ngọt
ngào, mênh mang lai láng, kết quyện đan thanh:
Tổ quốc Việt Nam thật mến yêu
Cầu tre lắt lẻo nhịp cầu kiều
Đò ngang đò dọc non liền nƣớc
Cẩm tú giang sơn thật mỹ miều
Quê hƣơng một dãy kết ba miền
Sông núi muôn đời của Tổ Tiên …
(non nƣớc Việt Nam non nƣớc tôi)
Hình bóng và chất liệu quê hƣơng Việt Nam, hậu duệ của Hùng Vƣơng Văn
Lang trong thơ Mặc Giang nhƣ là lời tự hào thi thiết của tâm can, đó cũng chính
là hình ảnh của con ngƣời với quê mẹ Việt Nam tin yêu, thƣơng nhớ, nhẹ nhàng
lâng lâng nhƣ một nhà thơ đã cảm tác:
Tôi lại về quê Mẹ nuôi xƣa
Một buổi trƣa, nắng dài bãi cát
Gió lộng xôn xao, sóng biển đu đƣa
Mát rƣợi lòng ta, ngân nga tiếng hát
Bởi quê hƣơng trong lòng thi nhân không những là quê hƣơng của niềm tự
hào Rồng Tiên, mà qua bao biến đổi tang thƣơng, trong chiều dài hun hút của
lịch sử bế bồng năm ngàn năm, vẫn khắc sâu trong hồn sông núi quê hƣơng
những lao khổ của cha ông, nên trong Tôi chỉ là một ngƣời nƣớc Việt Nam, thi
nhân Mặc Giang viết:
Tôi chỉ là một ngƣời nƣớc Việt Nam
Của những nơi đất cày lên sỏi đá
Gạo thóc chua cay, đẫm mồ hôi lá mạ
Những bác nông phu tàn tạ nắng sớm mƣa chiều

6


Nhìn những khổ đau, rách nát, điêu tàn,
Dày xéo, chất chồng trên hình cong chữ “S”
Càng yêu sóng biển rạt rào, yêu phù sa lở bồi, yêu cảnh xanh mơn núi rừng,
của từng buổi cơm canh đạm bạc chan chứa tình quê bao nhiêu, cũng chính là
thƣơng cảnh sống quê nghèo thôn dã bấy nhiêu. Quê hƣơng bao giờ cũng mặn
mà tình mẹ, dạt dào tình cha và đong đầy tình bạn. Ngƣời nông phu với con trâu,
cái cày trong nắng sớm mƣa chiều, một nắng hai sƣơng luôn là hình ảnh đậm đà,
chắt lọc, thắm thiết tình quê hƣơng, đã từng khiến thi sĩ Mặc Giang ngậm ngùi
trầm ngâm, rồi tuôn chảy những dòng thơ nhƣ đang thân thiết sẻ chia nỗi khó
nhọc, gạt hộ giọt mặn trên ruộng đất khô cằn nƣớc mặn đồng chua. Đây là động
năng khiến dòng mực cứ chảy dài trên trang thơ khi tác giả viết về nỗi khổ nhọc
của làng quê Việt Nam. Do vậy, lúc nào cũng cho chúng ta cái cảm giác, thơ của
thi nhân Mặc Giang luôn là những trang thơ nóng hổi, chƣa ráo mực, cho dù viết
từ tháng trƣớc, năm trƣớc hay tự hồi nào.
Dù hôm nay hay mai kia mốt nọ, em có làm gì đi nữa, chị có làm gì đi nữa
và anh có làm chi đi nữa, thì trong chúng ta vẫn không bao giờ nhạt phai chất
liệu mặn mà quê hƣơng. Bởi sau những buổi tan trƣờng, dọc đƣờng về nhà,
chúng ta đã từng san sẻ chia chác nhau củ sắn, củ khoai, hoặc trái sim trái mận
còn non xèo đắng chát. Và khi ý thức về nguồn cội Việt Nam, về chất liệu mặn
mà quê hƣơng trong mỗi chúng ta, cũng là lúc chúng ta xác định rõ mối quan hệ
thắm thiết giữa con ngƣời Việt Nam. Nhƣ trong Quê hƣơng nguồn cội, Mặc
Giang nhắc nhủ đàn em:
Em sinh tại quê hƣơng
Tôi sinh vùng đất khách
Dù xa xôi cách biệt
Nhƣng là ngƣời Việt nam
Em máu đỏ da vàng

Nhìn tôi đâu có khác
Tóc em đen óng mƣợt
Tóc tôi chẳng lạ gì
Ngăn cách không gian nào có nghĩa gì đâu, không ngăn đƣợc tình ngƣời Việt
nam. Trong bất kì hoàn cảnh nào, tôi cũng sẽ dễ dàng nhận ra em, không gì có
thể làm thay đổi quan hệ thâm tình giữa mỗi chúng ta. “Dù xa cách dặm trƣờng,
tình yêu thƣơng chỉ một”, bởi trong chúng ta, ai cũng mang giọt máu của Mẹ
Âu, linh hồn của Cha Lạc và bản lĩnh của vua Hùng. Cũng chính vì vậy, nên khi
nào thi nhân cũng thấy tình quê hƣơng qua hình ảnh sông nƣớc mênh mông, tâm
hồn thi sĩ Mặc Giang cũng nhƣ ánh trăng đêm hè tỏa mát lấp loáng lung linh trên
dòng sông quê hƣơng, nơi mà thi nhân đã từng:
Đêm trăng tắm mát dòng sông
Áo phơi trƣớc ngọn gió lồng
Cùng reo câu hò tiếng hát
Khuya về bỏ lại bến không
(Xóm nhỏ làng quê)
Hình ảnh gắn bó với làng quê vào thuở ấu thơ này đã theo suốt cuộc đời thi
nhân, là một trong những hoài niệm đẹp nhất, trân quý nhất, bởi nó đã để lại
trong lòng thi nhân bao ngọt ngào; từ đó có thể dệt nên những trang thơ cuộc
7


đời, tạo nên bao ấm nồng của những chiều đông gió bấc căm căm. Hình ảnh với
bao kỷ niệm thân quen đậm màu tình quê, xanh ngắt màu xanh đồng lúa Việt
Nam này khiến chúng ta phải nhớ đến một hình ảnh tƣơng tợ của thi sĩ Tế Hanh
tả trong bài nhớ con sông quê hƣơng:
Tôi giơ tay ôm nƣớc vào lòng
Vẫn trở về lƣu luyến bên sông
Vâng, chính nỗi niềm yêu quê luôn vò võ thổn thức trong tâm hồn đầy nhiệt
huyết, nên hình bóng quê hƣơng Việt Nam luôn là niềm thƣơng nỗi nhớ trong

lòng thi nhân, cả hai hòa quyện đan chặt nhau nhƣ sông nhớ nguồn, nhƣ núi nhớ
non, thân thiết ấm nồng nhƣ con sông quê hƣơng từng tắm mát cả đời thi nhân
Mặc Giang, khiến ông nhƣ giữ mãi mối tình ấy và luôn cảm thấy mới mẻ hấp
dẫn, cuốn lôi.
Đến suốt cuộc đời, nó vẫn luôn là đầu nguồn đích thực, là hạ lƣu vĩnh hằng
để thi nhân kí thác nỗi nhớ niềm thƣơng, đong đầy kỉ niệm mỗi độ thu về mát
lạnh, đông đến gió rét căm căm, xuân tới rộn rã tiếng chim, hay hạ về với hƣơng
sen ngào ngạt, để rồi cất lời hoan ca nhƣ khúc nhạc khải hoàn: “ta đi trên nƣớc
non mình, ta về lƣu lại bóng hình quê hƣơng, ta đi một nhớ hai thƣơng, ta về ta
nhớ vấn vƣơng muôn đời. ” Đây chính là lời ca quê hƣơng đƣợc dệt kết trên
cung đàn thƣơng nhớ, vấn vƣơng, không chia lìa, không xa cách ; là những bƣớc
chân chắc nịch nện mạnh trên lòng sông vách núi; là những “dấu hài vạn thuở
vẫn chƣa pha” trên lộ trình nâng niu và tiếp hƣớng về nguồn cội Việt Nam.
Có đƣợc hoa trái tình thƣơng đối với quê hƣơng qua bao vun bồi, dƣỡng
nuôi, chăm bón nhƣ thế, do Ngƣời thơ Mặc Giang không những ý thức đƣợc
tinh hoa nguồn cội Việt Nam, mà trƣớc những tàng tích đau thƣơng đất nƣớc
qua bao thời cuộc, ông còn luôn thống thiết nhƣ máu bồi trong tim, quặn thắt
từng cơn nhƣ phải trăm ngàn mũi kim, hay đếm từng giọt khô giữa khắc nghiệt
đông về. Trong Ta còn Việt Nam, sông núi hồn thiêng, Ngƣời thơ Mặc Giang
nói:
Một nắm xƣơng khô nghe lòng da diết,
Một giọt máu đào thấm nhuận non sông
Năm ngàn năm lịch sử, nhục vinh thành bại
Đã biết bao lần chất chồng xƣơng núi máu sông
Nhƣ một sự đánh động tâm tƣ lãng quên của những ai nếu có, hay nhƣ một
sự tài bồi cho tâm lực hằng nhiên. Giang sơn gấm vóc chúng ta đã bồi đắp biết
bao mồ hôi xƣơng máu của cha anh từ thuở dựng nƣớc cho đến hôm nay, “là
tinh hoa tiết liệt qua nhiều thời đại”, chính là tất cả những gì đã kếttinh thành
ngƣời con Việt hôm nay. Bởi đó là sự khơi động mạch nguồn giao cảm, sự vần
vũ lại qua giữa thƣợng nguồn và hạ lƣu, khắn khít keo sơn nhƣ hồn sông núi,

buộc ràng miên viễn nhƣ hình với bóng, quyện hòa nhƣ sữa với nƣớc giữa nhiều
thế hệ chuyển tiếp qua bao thời đại. Và chính vì vậy, dù trên vạn nẻo đƣờng đời
và mƣa nguồn thác lũ, thì Việt Nam trong tâm hồn thi nhân luôn là bài ca bi
hùng, tự quyết:
Nhìn chữ “S” cong cong
Sao nghe đau vời vợi
Tôi từng nghe tiếng gọi
Dân tộc Việt yêu thƣơng
8


Dù xa cách dặm trƣờng
Tình quê hƣơng chỉ một
(Quê hƣơng nguồn cội)
Càng tự hào khi nhìn giang sơn gấm vóc một cách sâu sắc bao nhiêu, thì
càng nhức nhối, đau vời vợi bấy nhiêu, đó đâu không phải là ý tƣởng “nhìn quê
hƣơng anh nghe nhiều cay đắng, nhìn cội nguồn tôi thấm những niềm đau ?”.
Cũng vì qua chất liệu quê hƣơng ngọt ngào, qua những thành bại trôi dòng lịch
sử mấy ngàn năm, thi nhân Mặc Giang trăn trở thổn thức trong tận cùng sâu
thẳm của tâm hồn hình ảnh “Mẹ nằm đó, mặt lệ nhòa, không nói. Cha trầm
ngâm trắng phếu bạc mái đầu.” Niềm cay đắng của anh, nỗi đau thƣơng của tôi,
nhòa lệ trong im lặng của Mẹ và dáng điệu trầm ngâm bạc đầu của Cha, đều là
cùng trầm thống về quê hƣơng, về con ngƣời Việt Nam cùng chung máu đỏ da
vàng, cùng đỡ đần qua vách chắn Trƣờng Sơn, cùng uống cạn nguồn mạch Thái
Bình. Lời thơ nhƣ vƣợt trùng khơi bay xa giữa cõi đời huyễn mộng, chính đã mở
ra lộ trình tiến bƣớc cho “tình ca muôn thuở của ngƣời Việt Nam”, để cùng nhau
đi xa hơn trên hành trình của nẻo về tình tự quê hƣơng.
Chừng ấy, đủ cho ai cũng thấy biết đƣợc ý thức hệ về tình Quê Hƣơng, tình
dân tộc của Ngƣời thơ Mặc Giang. Nhà thơ đã mở ra cho chúng ta lối về quê
hƣơng nguồn cội chỉ có một mà thôi, đó là lối về của yêu thƣơng, yêu thƣơng vô

điều kiện, không mang tính tạc thù ƣớc lệ, không đòi hỏi yêu sách bất kì thứ gì.
Chỉ cần gặp nhau cho dù chƣa từng quen biết, chúng ta cũng có thể ôm choàng
lấy nhau mà khóc, rồi cùng nhau ôn lại “dòng lịch sử còn rung thời tiết đọng.
Thuở dựng cờ, khai tổ quốc giang san”, rồi cùng khóc cƣời mà hát điệp khúc:
“Tình quê ca khúc nẻo đƣờng. Em reo ca khúc quê hƣơng muôn đời ”
Đây là nỗi niềm khiến Ngƣời thơ Mặc Giang thao thức trằn trọc bâng
khuâng, 60 ngày đêm liền không ngủ. Xƣa, khi mất bạn, Nguyễn Khuyến
nói:“rƣợu ngon không có bạn hiền. Không mua, không phải không tiền, không
mua”. Nay, thi sĩ Mặc Giang có lẽ vì trầm tƣ trƣớc đà biến chuyển xa khơi của
con đò quê hƣơng, trƣớc ánh nắng vàng vọt hắt hiu yếu ớt vào một chiều lụi tàn
dần tắt bình minh quê mẹ. Trong Kỉ niệm 60 đêm không ngủ, Mặc Giang nói:
Hai ngọn đèn không cần phải châm dầu
Sáu mƣơi đêm cháy hoài không muốn tắt
Tôi nằm yên, nghe đến từng hơi thở
Tôi đăm chiêu, nghe mềm cõi tâm tƣ
Sáu mƣơi đêm không ngủ, mang nặng hình cây đa, gốc dừa, bến nƣớc, am
tranh của quê hƣơng; hai tháng trời thức trắng, mang nỗi niềm tình tự yêu
thƣơng, để rồi trong thanh vắng đêm trƣờng, thi nhân còn nhớ thƣơng luôn tất cả
ngƣời anh em chị em. Ở đó nhƣ mở ra một thông điệp ngõ vào tình thƣơng giữa
con ngƣời Việt Nam:“anh với tôi đâu phải ngƣời xa lạ, dù không quen cũng gợi
cảm tình ngƣời ”. Cho nên thi nhân đã từng đếm từng tiếng khuya rơi rụng, từng
nghe mềm cõi tâm tƣ, nhìn sâu vào bóng đêm trong thiết tha, đợi chờ, mong
mỏi.
Từ đó, trong Mặc Giang, những dòng thơ tràn ngập triết lí sống và dạt dào
tình thƣơng, đã thâm thiết mở ra cho đồng bào Việt Nam lối về tình tự muôn
thuở trên con đƣờng “mọi nẻo hƣơng quê, rung hồn lệ sử”. Con ngƣời Việt Nam
nên phải “nâng niu trau chuốt từng ngày”, phải biết:
9



Biển rộng sông dài gìn giữ điểm tô
Phải nên khuyên nhau:
Anh đi xây đắp nẻo đƣờng
Tôi đi vá lại quê hƣơng rã rời
(Tình ca muôn thuở của ngƣời Việt Nam)
Những chuyển biến thời cuộc, những thay đổi do ý thức hệ trong mỗi thời
đại, vô tình đã biến quê hƣơng không còn nhƣ xƣa, khiến con ngƣời đôi khi
cũng nổi trôi theo thế vận, khiến nét mặt quê hƣơng mang những dấu ấn phong
sƣơng thời gian, là nét rã rời biến thể của đồng xanh, nét tàn phai trơ trọi của
mùa lúa chín, là âm vọng rời rạc chắp nối ứ nghẹn của điệp khúc tình tang trở
về. Nên lời thơ của thi nhân Mặc Giang nhƣ đang thủ thỉ bên tai chúng ta là hãy
tận lực, hãy dốc tâm, hãy hành động cho Việt Nam, cái nôi quê hƣơng muôn
thuở, nơi mang bao kỉ niệm tình Mẹ, bao hoài cố nghĩa Cha.
Nhƣng điểm tô, xây đắp trau chuốt bằng cách cách nào mới vẹn tình quê?
Không gì khác, đó là xây dựng, bồi đắp, bền vững hơn tình ngƣời, tình đồng
bào, tình huynh nghĩa đệ. Đây chính là lúc thi nhân muốn nói:
Dòng lịch sử, muôn đời, ta chung sống
Hồn quê hƣơng, muôn thuở ta đắp xây
Tình anh em, mãi mãi, ta tiếp tay
Tình dân tộc, ngàn đời, không lay chuyển
(Ta bƣớc đi trên quê hƣơng ta)
Có một lịch sử oai hùng, hồn quê hƣơng ngọt ngào đƣờng mía lau nhƣ thế,
thì anh em chị em phải gìn giữ, đắp xây, phải “tay trong tay, tình trong tình, máu
trong máu”, để tình dân tộc ngàn đời không biến chuyển đổi thay. Thế mới
chính là đích thực yêu quê hƣơng, thƣơng nòi giống Âu Lạc, trân quý nguồn cội
Tiên Rồng.
Một nhạc sĩ nào đó viết về quê hƣơng cũng khá cảm động “…quê hƣơng,
mỗi ngƣời chỉ một, nhƣ là chỉ một mẹ thôi, quê hƣơng nếu ai không hiểu, sẽ
không lớn nổi thành ngƣời.” Không hiểu, tức không biết trân quý, không xây
dựng tình thƣơng , để “cho vạn vật nhân sinh hòa điệu sống.” Không lớn nổi

thành ngƣời là thành thân mà không thành danh, thành khí mà không thành chất,
thành hƣ mà không thành thực; không thực sự cƣu mang tiếng hát ầu ơ của Mẹ,
tiếng hát vƣợt băng vách chắn thời gian; không thực sự mang hình hài cốt khí của
Cha, hình hài càng sắc nét, càng linh tri theo sóng nƣớc lan tỏa không gian.
Để xây dựng tình yêu quê hƣơng trọn vẹn trong hoàn thiện tình ngƣời, thì
bƣớc đầu tiên, phải xác lập sự thân thiện, lòng cảm thông. Nên biết rằng, hiểu
nhau và thƣơng nhau là nhu yếu khơi dòng của mạch sống, hôm qua hôm nay
ngày mai, đầu tiên sau cùng và mãi mãi. Nhạc sĩ vƣợt thời gian Trịnh Công Sơn
có lời ca nhƣ là một lời nhắn nhủ thâm thiết, là ý thức đầu nguồn không thể
thiếu để thiết lập dựng xây, vun vén tình ngƣời:
Mƣa vẫn mƣa bay cho đời biến động
Làm sao em biết bia đá không đau!
Xin hãy cho mƣa qua miền đất rộng
Ngày sau sỏi đá cũng cần có nhau

10


Ngay sỏi đá, đâu phải vô tình, giữa chúng có mối tƣơng quan mật thiết,
chúng cũng biết đau, cũng cần có tình thƣơng, cần có nhau, thì con ngƣời, chúng
ta chắc ai cũng tự biết.
Thiết lập trọn vẹn tình huynh nghĩa đệ, tràn đầy ý thức cùng mang dòng máu
cha ông, là lúc chúng ta hội đủ tƣ cách của một đấng trƣợng phu với phong thái:
Ngước mặt ngẩng đầu sống dọc ngang
Cho hay con cháu giống da vàng…
(Mặc Giang, xin nguyện làm ngƣời nƣớc Việt Nam)
Là chính thức xác định mình trong ý thức tình tự quê hƣơng dân tộc. Ý thơ
vừa nhƣ một lời thệ nguyện kiên trinh, lại vừa nhƣ một lời khuyên chân tình của
thức giả, lời kêu gọi thân thiết của ngƣời bạn hiền, lời vỗ về tâm can của cha, lời
dặn dò nhƣ van lơn của mẹ. Vâng! phải cao thƣợng, phải khí tiết, nhìn lên không

thẹn với trời xanh, ngó xuống không hỗ với đất dày, nhƣ thế mới xứng danh con
cháu Tiên Rồng, mới đủ tƣ cách dự vào hàng ngũ hậu duệ của Văn Lang. Đã là
con cháuRồng Tiên, thì nên sống nhƣ thế; sống đƣợc nhƣ thế, mới đúng hợp với
chất liệu cốt cách Tiên Rồng.
Chính nhờ thế, nên một cách khẳng khái, quyết đoán, trong Xin nguyện làm
ngƣời nƣớc Việt Nam, thi sĩ Mặc Giang đã tình tự nát cõi tâm can với non sông
gấm lệ, với Linh Hồn Tiên Tổ rằng:
Kiếp sau nếu đƣợc làm ngƣời nữa
Xin nguyện làm ngƣời nƣớc Việt Nam
Nhƣ thế, nói với chính mình, nhƣng chẳng khác nào tác giả nhƣ đang nói với
đàn em đó sao! Vì trong quê hƣơng, là hơi thở của em, là nụ cƣời của thi nhân,
nhƣ thi nhân đã khẳng định: “em vẽ một vòng tròn, tôi vẽ một hình vuông, khép
hai chữ vuông tròn, thành quê hƣơng muôn thuở”, đây là chất liệu và cũng là
tiền đề để dựng xây bồi tô cho Quê hƣơng nguồn cội.
Có nhƣ thế, chúng ta mới càng thêm tự hào khẳng định sự tồn tại miên
trƣờng bất diệt của quê hƣơng, đó là sự thể hiện một cách hoành tráng, rung
động nhƣ trống chiêng, và cũng êm ái dịu dàng nhƣ khúc rẽ dòng sông:
Việt Nam tổ quốc quê hƣơng tôi,
Thời thế thế thời dẫu đổi ngôi,
Lịch sử năm ngàn không biến đổi,
Truyền trao thế hệ mãi tô bồi
(Mặc Giang, Nguyện làm ngƣời nƣớc Việt Nam)
Đó cũng chính là khúc hát của Việt Nam quê hƣơng còn đó, với lời ca vang
vƣợt cả mây ngàn và gió núi bao la: “xƣa nay trang sử lựa là, lật ra một cái còn
ta với mình, Việt Nam muôn thuở tồn sinh, quê hƣơng muôn thuở nhƣ mình với
ta”. Đó là cách thể hiện hùng hồn nhất tấm lòng tri ân báo ân, biết cội biết
nguồn, biết trân trọng nâng niu dòng máu khai sinh, biết quý thƣơng từng dải
giang san đẫm xƣơng máu cha ông qua bao thời đại, và đó chính là sự thể hiện
“Uống nƣớc nhớ nguồn cây nhớ cội”. Có thế mới làm cho “ngàn năm rạng rỡ
giống Rồng Tiên”

Những chất liệu mặn mà của quê hƣơng luôn thẩm sâu trong lòng thi nhân
những khúc tao đàn tuyệt diệu, nhƣ những tình tự khắn khít niềm tin yêu:
“thƣơng quê từ bấy đến giờ, yêu quê từ độ bơ vơ khơi dòng”. Chính những chất
11


liệu này càng thêm nung nấu nóng chảy niềm nhớ thƣơng của nhà thơ Mặc
Giang. Trong Thầm Lặng, thi nhân gởi trao niềm nhớ thƣơng khôn nguôi:
Khóc mẹ ủ gầy tận cuối quê
Thƣơng em èo uột khổ trăm bề
Đôi tay nƣơng níu hồn sông núi
Ƣớc vọng ngày nao bƣớc trở về
Chỉ cần rung lên nỗi niềm tình tự, chỉ cần chùn xuống tận nẻo tâm tƣ, sẽ thấy
bụi tre hàng dậu nghiêng bóng thân quen, thƣởng thức đƣợc hƣơng vị thơm
ngon của trái bắp củ khoai vùi trong đống tro tàn, uống đƣợc từng ngụm nƣớc
sông ngọt lành đựng trong chiếc gáo dừa bền chắc, đen điu, bóng láng. Chỉ có
qua những đậm đà hƣơng vị thấm đƣợm tình quê ấy, chúng ta mới uống đƣợc
luôn cả quốc hồn quốc túy Việt Nam. Chúng sẽ nuôi dƣỡng chúng ta lớn thêm
lên nhiều lắm, mà sơn hào hải vị năm châu làm sao sánh đƣợc!
Khúc hát tình tự về quê hƣơng Việt Nam của Ngƣời thơ Mặc Giang mãi mãi
nhƣ con tàu tình cảm dân tộc, đƣa hƣớng ta đi trên hành trình vô tận không bến
bờ, không sân ga, để tạo tựu chất liệu keo sơn, xây dựïng bồi tô cho non sông
gấm vóc ba Miền, vun vén cho nghĩa đệ huynh thêm bao la. Nên dù anh có đi
muôn hƣớng, chị có đến ngàn phƣơng, thì chỉ có một chỗ duy nhất để trở về, và
nẻo trở về Quê Hƣơng chỉ một con đƣờng mà thôi, con đƣờng hƣớng đến chân
trời xanh ngát màu xứ sở, hƣớng về buôn làng lúa trổ đòng đòng của đất mẹ dấu
yêu. Quê hƣơng mãi mãi là điệp khúc hay nhất trong tất cả các điệp khúc mà tôi
hát cho anh nghe, cho chị nghe, và cho em nghe. Tình tự quê hƣơng của thi sĩ
Mặc Giang luôn rung động trào dâng thân thiết nhất trong các tình tự. Trong đó,
chúng ta càng có cơ hội dệt thêm sắc màu của bếp lửa nhà tranh, để “ngọn lửa

thêm hồng, Việt Nam trời Đông, quê hƣơng ta đó!!! ”. Nét đặc biệt trong tình tự
quê hƣơng của nhà thơ Mặc Giang khiến ta bất chợt nhớ đến lời khẳng quyết:
“một câu thơ, mà còn hơn triều sóng … một ý thơ, rung động cả thiên thu”, cũng
vì chủ đề quê hƣơng đất nƣớc của thi nhân đã mở ra cho hôm nay, cho cả mai
sau lối về của ý, cõi đi về của tâm thể trên dòng đời miên viễn, xuyên suốt vô
tận thời gian, bạt ngàn vô hạn không gian.
Gió đồng nội chiều nay mát lắm, khúc mía lau nhƣ càng thêm lịm ngọt,
chuyến đò ngang vẫn lững lờ đợi khách sang sông, từng cánh én đang tung mình
trên nền trời quê hƣơng xanh thẳm, em bé mục đồng đang lùa trâu về trong ráng
hồng yếu ớt… Đâu đó trong gió thoảng lƣng đồi là tiếng chày giã gạo liên hồi,
tiếng ru hời của mẹ yêu nhƣ đang lâng lâng lan tỏa trên sông dài biển rộng mênh
mông, ngút ngàn giữa núi thẳm rừng xanh bao la của con ngƣời Việt Nam. Cả
thi nhân, cả chúng ta nhƣ đang từng bƣớc chập choạng trong bóng đêm để tìm
về mái tranh ấm hồng bếp lửa, ngồi bên Mẹ dấu yêu, ngồi bên Cha trầm
lắng, bên anh chị em để cùng hát và kể cho nhau nghe về điệp khúc của tình Quê
Hƣơng muôn thuở. Chắc rằng câu chuyện sẽ cuốn hút, chìm sâu, lắng đọng tâm
tƣ để nghe, nghe cho đến khi trời Đông ửng hồng!!!
Năm 2006
Quốc Anh

12


Non Nƣớc Việt Nam
Quê Hƣơng để giữ gìn, để Thƣơng để Nhớ
 Tháng 09-2003 *
 Mặc Giang
Tôi xin mở bản dƣ đồ hình cong chữ “S”
Ngắm từng Tỉnh, từng Vùng
Của nƣớc Việt dấu yêu

Của giang sơn cẩm tú mỹ miều
Cho dòng giống Lạc Hồng gìn giữ nâng niu
Tôi xin mở bản dƣ đồ hình cong chữ “S”
Bắc Nam Trung một dãi nối liền
Của quê hƣơng gấm vóc Ba Miền
Để thắm tô Sông Núi Hồn Thiêng
Nối tình dài Con-Cháu-Tổ-Tiên
Tôi xin mở bản dƣ đồ hình cong chữ “S”
Biển rộng sông dài non nƣớc Việt Nam
Đi từ Cà Mau đến Ải Nam Quan
Đi từ rừng cao cho đến đồng sâu
Đi từ bờ đê cho đến ruộng dâu
Đất nƣớc yêu thƣơng con cháu da vàng
Mở đầu Miền Bắc khai nguyên
Thƣợng du miền ngƣợc, xuôi miền Trung du
LAI CHÂU kê núi gối đầu
LÀO CAI Bản Giốc sƣơng mù HÀ GIANG
LẠNG SƠN cách khoảng CAO BẰNG
QUẢNG NINH ven biển chờ trăng ánh vàng
Vàng lên tựa cửa BẮC GIANG
THÁI NGUYÊN,BẮC KẠN,TUYÊN QUANG một nhà
Ô kìa YÊN BÁI, SƠN LA
Anh lên Miền Ngƣợc, em về Miền Xuôi
Xuôi về HÀ NỘI mới thôi
Thăng Long hoài cổ, đổi dời thành đô
Năm ngàn năm, dựng cơ đồ
Theo dòng lịch sử điểm tô muôn đời
Em đi, đi nữa em ơi
Băng qua PHÖ THỌ lên đồi BẮC NINH
VĨNH YÊN, VĨNH PHÖC xoay mình

Chở che Hà Nội, HÕA BÌNH, HÀ TÂY
Hà Tây còn có SƠN TÂY
HÀ ĐÔNG bên đó, bên nầy HẢI DƢƠNG
Đi ra tận cửa HẢI PHÕNG
Trùng dƣơng sóng vỗ HẠ LONG tuyệt vời
HƢNG YÊN một chuyến rong chơi
13


HÀ NAM bén gót, buông lơi THÁI BÌNH
NINH BÌNH, NAM ĐỊNH xinh xinh
Hồng Hà sông nƣớc, Thái Bình nƣớc sông
Em về THANH HÓA hơn không
NGHỆ AN, HÀ TĨNH mênh mông núi đồi
Sông Đà, sông Mã dặm soi
Bắt ngang Đồng Hới, mù khơi QUẢNG BÌNH
Còn kia, QUẢNG TRỊ điêu linh !
Sông Gianh, Bến Hải vặn mình kêu sƣơng !!!
THỪA THIÊN, Phố Huế, sông Hƣơng
Hội An - Đà Nẵng dặm trƣờng QUẢNG NAM
Thƣơng ra QUẢNG NGÃI mới cam
Thƣơng vô BÌNH ĐỊNH bao hàm PHÖ YÊN
Thƣơng lên đến tận Cao Nguyên
KON TUM, ĐÁC LẮC giữa miền GIA LAI
Tình xƣa lối cũ dấu hài
Hoàng Triều Cƣơng Thổ thở dài một phen !
Thu Bồn khói quyện quen quen
Đà Rằng lƣợn khúc, chƣa hoen KHÁNH HÕA
Thùy dƣơng cát trắng phôi pha
PHAN RANG, PHAN RÍ xót xa thuở nào !!!

Em đi lòng dạ nao nao
Thời gian đi mãi vẫy chào tháng năm
CAM RANH mây nƣớc xanh lam
ĐÀ LẠT mơ mộng Suối Vàng, Cam Ly
Đƣờng lên BÌNH PHƢỚC anh đi !
Em về PHAN THIẾT có chi ngại ngùng ?
VŨNG TÀU, BÀ RỊA một vùng
Xa khơi hƣơng Bƣởi nhớ nhung BIÊN HÒA
BÌNH DƢƠNG cây trái lá hoa
TÂY NINH là tỉnh cuối bờ Trƣờng Sơn
SÀI GÕN nói thiệt nào hơn !
Viễn Đông Hòn Ngọc dễ sờn mấy ai ???
Ai về GIA ĐỊNH, ĐỒNG NAI ?
Đừng quên Bến Nghé, mối mai Nhà Bè !
SÀI GÕN chƣa vẹn câu thề !!!
Em đi đi nữa xuôi về Miền Nam
Kề vai xỏa tóc LONG AN
MỸ THO mấy khúc, TIỀN GIANG mấy bờ
Em đừng vội đến CẦN THƠ
Mà quên ĐỒNG THÁP dựng cờ phía Tây
Sông Tiền, sông Hậu là đây
BẾN TRE bên đó, bên này TRÀ VINH
VĨNH LONG in bóng theo hình
SÓC TRĂNG cuối ngọn, đầu ghình AN GIANG
Hà Tiên, Rạch Giá, KIÊN GIANG
14


BẠC LIÊU rẽ bƣớc đôi hàng CÀ MAU
Muốn ra PHÖ QUỐC lên tàu

CÔN SƠN mờ tỏa một màu xanh xanh
Việt Nam muôn thuở thanh bình
Việt Nam sông núi đầu ghềnh, biển Đông
Việt Nam còn đó non sông
Mẹ Âu, Cha Lạc, con Rồng, cháu Tiên
Việt Nam sông núi Ba Miền
Bắc Nam Trung, quyện an nhiên muôn đời
Hình Cong Chữ “S” nơi nơi
Non non nƣớc nƣớc của Ngƣời Việt Nam.

Miền Bắc Quê Hƣơng Tôi -1
* 7 – 2004 *

Miền Bắc quê tôi nƣớc Việt Nam
Cái nôi dân tộc năm ngàn năm
Tôi đi khắp phố phƣờng Hà Nội
Phảng phất hồn thiêng thán phục thầm
Miền Bắc quê hƣơng nƣớc Việt này
Ngàn xƣa lƣu lại đến hôm nay
Tôi đi lên ải nhìn non nƣớc
Đến tận ngàn sau chẳng đổi thay
Nhớ thuở bình mông nhớ thuở nào
Thăng Long hoài cổ nhớ làm sao
Xƣa nay tình tự còn vang bóng
Miền Bắc khai nguyên tự thuở nào
Miền Bắc quê tôi đó một miền
Phần ba sắc thắm núi hồn thiêng
Miền Nam kết lại Miền Trung nữa
Đất nƣớc ba miền của Tổ Tiên
Quê hƣơng Miền Bắc của tôi ơi

Cảnh cũ ngƣời xƣa vật đổi dời
Bãi biển nƣơng dâu dù biến đổi
Quê hƣơng ta đó giữ muôn đời
Nhớ về Miền Bắc quê hƣơng tôi
Khói quyện bay bay nhớ núi đồi
Sông Thái sông Hồng con sóng nƣớc
Nhắc nhau từng thế hệ em tôi.

Miền Trung Quê Hƣơng Tôi -1
15


* 7 – 2004 *

Quê hƣơng tôi đó ở Miền Trung
Đồng ruộng vắt ngang núi chập chùng
Đất xéo lƣng đèo ven biển cả
An lành san sẻ, khổ chia chung
Miền Trung sỏi đá lƣợn quanh đèo
Tình tự đeo lòng dạ đẳng đeo
Ẩn nét thùy dƣơng miền cát trắng
Phong ba chẳng động đá đƣa vèo
Miền Trung tôi đó tự xƣa nay
Hùng dũng hiên ngang chẳng đổi thay
Góp sức huy hoàng trang sử Việt
Nam nhi nữ kiệt nƣớc non này
Miền Trung tôi đó nói sao vừa
Lối dọc đƣờng ngang lối dọc dừa
Khai mở từ thời khai mở nƣớc
Miền Trung nƣớc Việt trung trinh chƣa

Ai về thăm lại đất Miền Trung
Gởi nhớ giùm tôi nhớ lạ lùng
Nhớ những đƣờng làng quanh xóm nhỏ
Nhớ thuở chia xa nhớ lạ lùng
Miền Trung gió nắng lộng thùy dƣơng
Đèo Cả giăng ngang mắc đoạn đƣờng
Đèo Hải Vân xanh mây nƣớc biếc
Đi về vƣơng vấn những yêu thƣơng.

Miền Nam Quê Hƣơng Tôi -1
* 7 – 2004 *

Đất nƣớc Miền Nam nƣớc Việt tôi
Ba trăm năm sử đã lên ngôi
Viễn đông hòn ngọc luôn tô thắm
Nét đẹp Miền Nam mãi đắp bồi
Miền Nam trù phú rộng phì nhiêu
Bản chất ngƣời Nam thật đáng yêu
Lúa nắng cò bay chim mỏi cánh
Dân tình chan chứa mãi nâng niu
Miền Nam tôi đó dáng yêu kiều
16


Mỗi bƣớc đi về mỗi mến yêu
Nhƣ Cửu Long giang hòa chín khúc
Sài Gòn-Lục Tỉnh tựa tranh thêu
Miền Nam tôi đó thật an lành
Nhƣ lúa mộng vàng dệt mạ xanh
Nhƣ mạ xanh non chờ lúa nắng

Nhƣ trăng chờ gió gió trăng thanh
Tôi thƣơng nhớ lắm Miền Nam ơi
Nhớ nhịp cầu tre tiếng đệm lời
Nhớ nƣớc đƣa đò, đƣa mái đẩy
Sông Tiền sông Hậu sóng đầy vơi
Tôi đâu có hát Miền Nam tôi
Tuyệt tác tình ca, ca hát rồi
Hòa tiếng cung đàn reo khúc nhạc
Nhƣ cau thêm thắm vị trầu vôi.

An Giang, quê tôi
(TP Long Xuyên, TX Châu Đốc)
Tháng 3 – 2007
An Giang quê tôi, đầu nguồn Cửu Long
Đón cả hai dòng, ngay từ biên giới
Mênh mông nƣớc chảy, khi xiết khi ròng
Tiền Giang, bên đó anh trông
Hậu Giang, em đứng chờ mong bên này
Đồng vàng thẳng cánh cò bay
Lúa vàng ửng mộng, đong đầy tình ca
Bao con kênh, rạch, nối qua
Ghe đi dƣới nƣớc, cá sa trên bờ
Em gái Hậu Giang, quê hƣơng tôi đó
An Phú, Châu Phú, còn có Châu Thành
Chợ Mới, Phú Tân, lại có Thoại Sơn
Tân Châu, Tịnh Biên, và Tri Tôn nữa
Lại còn Vàm Láng, Châu Đốc, Thất Sơn
An Giang quê tôi
Lúa thóc đầy đồng
Ghe chạy dƣới sông

Cá chèo trên nƣớc
17


Cuộc sống đậm đà
Tình nghĩa mặn mà
Hậu Giang em đó
Ai còn nhớ không.

Bà Rịa – Vũng Tàu, quê tôi
(Tp Vũng Tàu, Tx Bà Rịa)
Tháng 3 – 2007
Bà Rịa quê tôi, Thành phố Vũng Tàu
Một vùng biển lộng trời xanh
Sóng lƣớt, thi nhau đuổi gió
Mây bay, rƣợt bóng trên ngàn
Kia, Xuyên Mộc, Long Đất,
Nọ, Châu Đức, Tân Thành
Con ngƣời yêu nắng thấm da
Dân tình thắm nghĩa mặn mà mến nhau
Vũng Tàu, bãi trƣớc, bãi sau
Đƣa nhau ra biển, nhớ nhau thì về
Bà Rịa ơi,
Giọt mồ hôi vƣơng mùi biển mặn
Vũng Tàu ơi,
Lộng trùng khơi đẩy sóng vô bờ
Thì thầm biển gọi đêm mơ
Lăng tăng biển nhớ vỗ về có nhau
Bà Rịa quê tôi, thành phố Vũng Tàu
Trăng tàn rơi rụng nơi đâu

Còn đây, bãi trƣớc bãi sau, rì rào
Đón mây, xin hỏi ngàn sao
Đi đâu cũng nhớ, mến nhau thì về.

Bạc Liêu, quê tôi
(Thị xã Bạc Liêu)
Tháng 3 – 2007
Quê tôi, vùng đất Bạc Liêu
Ai nghe có biết nhiễu điều hay không
Bạc Liêu, chỉ một dòng sông
Còn toàn kênh, rạch, không thông thì đào
Ở ngay bờ biển, mƣa rào
18


Quanh năm sóng vỗ xạc xào, lạ chƣa
Khác nào đem nắng chan mƣa
Đem mƣa chan nắng, cho vừa hóa công
Bạc Liêu nghĩa mặn tình nồng
Nhƣ bông lúa chín ruộng đồng thơm hƣơng
Ầu ơi, í dầu
Í dầu, ầu ơi
Mình làm mình biết mình ơi
Ngƣời dân bốn huyện, một đời vẫn vui
Bạc Liêu nắng gió mƣa mùa
Dƣới sông cá chốt trên bờ Triều Châu
Chạnh lòng xa xứ đã lâu
Nhớ canh cá chốt nhớ câu tiếng Tiều
Nhớ Vĩnh Lợi, thì thầm biển cát
Nhớ Giá Rai, Kênh Xáng nối nhau

Nhớ Hồng Dân, nằm kế Gò Quao
Và Phƣớc Long, hai đầu hai tỉnh
Bạc Liêu quê tôi
Hai tiếng nhiễu điều
Hỏi ai, ai nhớ
Con ngƣời Bạc Liêu.

Bắc Giang, quê tôi
(TX Bắc Giang)
Tháng 3 – 2007
Nhớ tỉnh Bắc Giang đẹp tuyệt trần
Sông Cầu uốn khúc gặp Sông Thƣơng
Lục Nam thanh tú chìm mây nƣớc
Chân bƣớc đi rồi, dạ vấn vƣơng
Ai về Bắc Giang, vùng đất quê tôi
Ai đến sông Cầu, ai nhớ sông Thƣơng
Lục Nam, Lục Ngạn mờ sƣơng
Sơn Động, Yên Dũng trên đƣờng đi qua
Việt Yên, Tân Yên hát ca
Hiệp Hòa trổi khúc, đậm đà Lạng Giang
Nhớ ngƣời Hùm Xám dọc ngang
Anh hùng Yên Thế vang vang một thời
Ai về Trung Du, khi đến Bắc Giang
19


Nối liền Hà Nội, băng lên núi rừng
Bƣớc đi, nửa bƣớc nửa dừng
Sông Cầu gờn gợn, sông Thƣơng ngập ngừng
Dừng chân, bƣớc nữa, hay đừng

Sông Cầu vỗ sóng Sông Thƣơng.

Bắc Cạn, quê tôi
(TX Bắc Cạn)
Tháng 3 – 2007
Bắc Cạn quê tôi, nằm giữa Thƣợng Du
Năm tỉnh bao quanh, đi đâu không nhớ
Nhớ Sông Cầu thì thầm muôn thuở
Sông Nà Rì tựa cửa Bắc Giang
Nhớ sông Lô, nhớ sông Năng
Nhớ thƣợng du, nhớ Hồ Ba Bể
Hồ Ba Bể, giữa núi rừng tuyệt thế
Nƣớc trong xanh nhìn trời đất bao la
Nhƣ kết tinh thành một dải ngân hà
Mời vũ trụ và trăng sao thăm viếng
Bắc Cạn quê tôi
Nhƣ một thân, tựu hình Cao - Bắc - Lạng
Vững nhƣ kiềng thạch trụ ba chân
Trải bao phen bèo bọt thế nhân
Vẫn ngạo nghễ đuổi xâm lăng sạch bóng
Bắc Cạn quê tôi
Đây Hồ Ba Bể, đó có Ngân Sơn
Chợ Đồn, Chợ Mới, Na Rì, Bạch Thông
Nhớ thƣơng một mảnh non sông
Thƣợng du Bắc Cạn một lòng sắt son
Bắc Cạn, cạn mấy không sờn
Cho ngƣời Bắc Cạn, vẫn còn nhớ nhau.

Bắc Ninh, quê tôi
(TX Bắc Ninh)

Tháng 3 – 2007
Bắc Ninh quê tôi
Nằm giữa hai bờ trên dòng Sông Đuống
Nhận nƣớc Sông Hồng, chảy về hƣớng đông
20


Xuống gặp Sông Thƣơng, đổ sông Thái Bình
Phía bắc còn có Sông Cầu, nối nhịp Bắc Giang
Bắc Ninh quê của chúng mình
Xuất phát tiếng hát câu hò
Tiên Du đƣa đẩy Võ Giàng
Trổi khúc nhịp nhàng quan họ Bắc Ninh
Bắc Ninh, ơi hỡi quê mình
Quốc Võ bên đó, Gia Bình bên đây
Lƣơng Tài xin ngỏ lời nầy
Từ Sơn dang rộng kết tay Thuận Thành
Yên Phong, còn nói chi anh
Bƣớc đi chẳng nỡ, bƣớc quanh chẳng về
Ai về Bắc Ninh, trôi về nỗi nhớ
Nhớ Cổ Pháp, dựng xây Nhà Lý
Nhớ Tiên Du, Phù Đổng Thiên Vƣơng
Bát Vân Sơn, lại nhớ Cao Biền
Nhớ quá nhiều, trăm nhớ ngàn thƣơng
Bắc Ninh ta đó nên thơ
Nhƣ chim chuyền cánh trên cành líu lo
Líu lo tiếng hát câu hò
Quan họ quan hò, quan họ Bắc Ninh.

Bình Dƣơng, quê tôi

(Thị xã Thủ Dầu Một)
Tháng 3 – 2007
Bình Dƣơng quê tôi
Giữa hai dòng sông
Sông Sài Gòn, Sông Bé
Tiến thẳng về Đồng Nai
Rồi tạo nên Nhà Bè
Bình Dƣơng quê tôi
Dĩ An, Thuận An nối liền thành phố
Thủ Dầu Một ra xa
Dầu Tiếng, Phú Giáo giao hòa
Bến Cát, Tân Uyên liên khúc
Dân tình Bình Dƣơng
Hòa ái mến thƣơng
Nhƣ Sông Nƣớc Trong
21


Nhƣ Hồ Đá Bàn
Nhƣ Hồ Cần Nôm
Hồ Suối Bông Trang
Bình Dƣơng quê tôi
Ngày ngày đổi mới
Ngƣời ngƣời đi tới
Công nghiệp dựng nên
Bƣớc tiến ngày mai
Rộng mở thênh thang
Bình Dƣơng quê tôi
Còn có Lái Thiêu
Đất cát phì nhiêu

Cây trái bốn mùa
Nếp sống chan hòa
Con ngƣời Bình Dƣơng.

Bình Định, quê tôi
(Thành phố Qui Nhơn)
Tháng 3 – 2007
Bình Định quê tôi, đất cày lên sỏi đá
Mỗi năm hai mùa, một nắng một mƣa
Biển réo trùng khơi, rừng khua gió núi
Dòng máu miền trung, dũng khí có thừa
Nhớ thuở nào tháp chàm Chiêm quốc
Nhớ thuở nào nhà Nguyễn Tây Sơn
Ngƣợc thời gian không thể nào hơn
Xuôi thời gian rạng soi sử sách
Qui Nhơn ơi, Vân Canh, Tuy Phƣớc
Phù Cát ơi, Vĩnh Thạnh, Hoài Nhơn
Phù Mỹ ơi, Hoài Ân, An Lão
Đá hay vàng, thử mấy sắt son
Đèo Cù Mông, xuôi Nam, thẳng tiến
Đèo An Khê, vắt vảnh cao nguyên
Sông Hà Thanh xuyên thành ra biển
Sông Lại Giang thẳng tắp Thái Bình
Nhớ không anh, đất cày sỏi đá
Nhớ không em, vùng đất nằm nôi
Dừa Tam Quan, củ mì, của “nẫu”
22


“Nẫu” ra sao,

“Nẫu” cũng là Bình Định, quê tôi !

Bình Phƣớc, quê tôi
(Thị xã Đồng Xoài)
Tháng 3 – 2007
Bình Phƣớc quê tôi, tay vẫy tay chào
Bao nhiêu đồn điền, cây trái vƣơng cao
Lập ấp khẩn hoang, khai nuơng khai rẫy
Đắp xây đời mới, nặng sức cần lao
Khó khăn nào rồi cũng đi qua
Giọt mồ hôi mƣa nắng chan hòa
Giữa núi rừng thông thƣơng biên giới
Tay đan tay ôm ấp mọi nhà
Bình Phƣớc quê tôi, ta còn ghi nhớ
Nhớ Đồng Xoài, Đồng Phú năm xƣa
Nhớ Bù Đăng, Phƣớc Long chẳng vừa
Còn Lộc Ninh, Bình Long đây nữa
Cả một vùng nghiêng nắng, đổ mƣa
Bình Phƣớc quê tôi
Mở thƣợng nguồn Sông Bé
Rẽ một nhánh Đồng Nai
Mênh mông Bù Gia Mập
Mộng đời, ru Thác Mơ
Bình Phƣớc quê tôi
Một nhánh Đồng Nai
Mở dòng Sông Bé
Mộng đời, ru Thác Mơ.

Bình Thuận, quê tôi
(Thành phố Phan Thiết)

Tháng 3 – 2007
Bình Thuận quê tôi, Phan Thiết hữu tình
Tuy Phong – Phan Rí, ôm ấp Bắc Bình
Đức Linh, Tánh Linh, Hàm Tân, Phú Quý
Anh, Hàm Thuận Bắc, em, Hàm Thuận Nam
Nƣơng sông La Ngà, xuyên qua ba huyện
23


Theo dòng Sông Cả, giữa phố thanh tao
Đến mũi Kê Gà, viếng thăm Hòn Bà
Đi ra Mũi Né, nhớ ghé Hòn Lao
Ai về Bình Thuận, Phan Thiết quê tôi
Nƣớc mắm thơm thơm, lừng danh Nam Bắc
Hữu xạ nhiên hƣơng
Không thêm không bớt
Quê tôi hiền hòa
Ngọc nhiểu, châu sa
Bình Thuận ơi, nghĩa nặng tình nồng
Bình Thuận ơi, biển nhớ chờ sông
Cho ngƣời Bình Thuận
Muôn thuở bình mông
Phan Thiết ơi, phố nhỏ quanh phƣờng
Phan Thiết ơi, cỏ ngậm mùi sƣơng
Cho ngƣời Phan Thiết
Trọn đời mến thƣơng.

Bến Tre, quê tôi
(Thị xã Bến Tre)
Tháng 3 – 2007

Bến Tre quê tôi
Quê hƣơng của bốn dòng sông
Mạ non nho nhỏ ruộng đồng
Lá dừa không xanh bến cát
Lúa vàng thƣa thớt trổ bông
Sông Mỹ Tho đi về Cửa Đại
Sông Ba Lai đến Cửa Ba Lai
Sông Hàm Luông mở Cửa Hàm Luông
Sông Cổ Chiên còn đi xa nữa
Bến Tre quê tôi,
Quê hƣơng của bốn dòng sông
Muốn đi cho hết, không ghe thì đò
Qua cầu, xe chạy ro ro
Làm sao nghe đƣợc câu hò trên sông
Hò ơi, ới hò
Ai về, có nhớ ai không
Ai về, ai nhớ, dòng sông, ghe, đò
Mùa hè nắng đổ, ai lo
Mùa đông lành lạnh, ai cho ấm lòng
24


Hò ơi, ới hò
Bình Đại ơi, nhớ Châu Thành, Chợ Lách
Mỏ Cày ơi, nhớ Thạnh Phú, Giồng Trôm
Còn kia, ai nhớ thƣơng mình
Vân Tiên nhớ mẹ, bóng hình Ba Tri
Hò ơi, ơi hò
Bến phà Rạch Miễu thầm thì
Hỏi ngƣời bên đó tên gì,

Ơi hò, hò ơi,
Tên là Bến Tre.

Cà Mau, quê tôi
(TP Cà Mau)
Tháng 3 – 2007
Mũi Cà Mau, ngàn trùng sóng vỗ
Ải Nam Quan, mù tỏa sơn khê
Hai đầu kết một bài thơ
Tạo thành hình thể dƣ đồ Việt Nam
Cà Mau ơi, Thới Bình có nhớ
Từ Đầm Dơi cho tới U Minh
Trần Văn Thời ru hời Cái Nƣớc
Ngọc Hiển chùi mũi nhọn ra khơi
Nhớ thuở nào Nam Kỳ Lục Tỉnh
Nhớ thuở nào Mạc Cửu xa xƣa
Nhớ Phan Thanh Giản nặng thề
Vì dân vì nƣớc, tuẫn thân, quên mình
Thƣơng U Minh, rừng tràm thâm thấp
Thƣơng Sông Trẹm, nƣớc chảy lờ đờ
Anh đi em ở lại chờ
Bên dòng Sông Trẹm sắc nhòa không pha
Mịt mờ Phú Quốc xa xa
Côn Sơn trắng xóa trùng ba sóng cồn
Hòn Khoai nho nhỏ
Rạch Tàu không xa
Cà Mau ơi, Cà Mau ơi !

Cao Bằng, quê tôi
(TX Cao Bằng)

Tháng 3 – 2007
25


×