Tải bản đầy đủ (.doc) (70 trang)

Đánh giá hiệu quả hoạt động của các HTX Thủy sản vùng lòng hồ thủy điện Sơn La

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (279.83 KB, 70 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC TÂY BẮC

BÁO CÁO TỔNG KẾT
ĐỀ TÀI KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ CẤP CƠ SỞ
ĐÁNH GIÁ HIỆU QUẢ KINH TẾ CỦA CÁC HỢP TÁC XÃ THỦY SẢN
VÙNG LÒNG HỒ THỦY ĐIỆN SƠN LA TỈNH SƠN LA
Mã số:

Chủ nhiệm đề tài: ThS. Đặng Công Thức

Sơn La, tháng 12 năm 2014


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC TÂY BẮC

BÁO CÁO TỔNG KẾT
ĐỀ TÀI KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ CẤP CƠ SỞ
ĐÁNH GIÁ HIỆU QUẢ KINH TẾ CỦA CÁC HỢP TÁC XÃ THỦY SẢN
VÙNG LÒNG HỒ THỦY ĐIỆN SƠN LA TỈNH SƠN LA
Mã số:

Xác nhận của cơ quan chủ trì đề tài

Chủ nhiệm đề tài

(Ký, họ tên, đóng dấu)

(Ký, họ tên)


Sơn La, tháng 12 năm 2014


MỤC LỤC


DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
Từ viết tắt
PTNT
VĐT
TĐC
NTTS
HTX
HĐKD
UBND

Chữ viết đầy đủ
Phát triển nông thôn
Vốn đầu tư
Tái định cư
Nuôi trồng thủy sản
Hợp tác xã
Hoạt động kinh doanh
Ủy ban nhân dân


DANH MỤC BẢNG BIỂU


MỞ ĐẦU

1. Tổng quan vấn đề nghiên cứu
* Những nghiên cứu nước ngoài
Từ những năm 60 của thế kỷ thứ XX trở lại đây, do nguồn thủy sản khai
thác tự nhiên không đáp ứng được nhu cầu của dân số tăng nhanh các quốc gia
đã phát triển ngành nuôi trồng thủy sản để dần thay thế cho đánh bắt. Phục vụ
nhu cầu phát triển của ngành thủy sản, nhiều nghiên cứu đã được triển khai dưới
nhiều góc độ khác nhau như: Sinh học, nông học, kỹ thuật nuôi trồng, kinh tế
thủy sản, … Riêng trong lĩnh vực kinh tế có những hướng nghiên cứu sau:
Nghiên cứu về vai trò, tầm quan trọng của ngành thủy sản trong cơ cấu
nông nghiệp nói riêng và nền kinh tế nói chung. Tác giả Cát Quang Hoa và
các cộng sự (2005) trong cuốn kinh doanh tại các HTX nuôi trồng thủy sản
cho rằng: “Nuôi trồng thủy sản giữ vai trò chủ đạo đối với nghề cá nói chung
và ngành thủy sản nói riêng”. Và ông khẳng định nghề nuôi trồng thủy sản
không chiếm đất nông nghiệp, đầu tư ít, hiệu quả nhanh, độ rủi ro lớn, đòi hỏi
kỹ thuật cao.
Nghiên cứu phát triển nuôi trồng thủy sản ở một số nước và khu vực.
Asian, Nhà nghiên cứu Khondker Murshed đã khái quát xu hướng phát triển
thủy sản tại các nước khu vực Asian trong thế kỷ 21 như sau: giữ vững an ninh
lương thực quốc gia, nâng cao mức sống cho cộng đồng, tạo sản phẩm xuất
khẩu, thu ngoại tệ cho đất nước.
Nghiên cứu về tạo môi trường bảo vệ trong quá trình nuôi trồng thủy sản
Chính phủ Thái Lan đã đưa ra một số nguyên tắc bảo vệ môi trường như sau:
Nguyên tắc phòng ngừa, sản xuất hiện đại từ thủ công. Nghĩa là sản xuất bằng
công nghệ tốt nhất, gắn kết, thân thiện với môi trường, không được ảnh hưởng
đến môi trường, thiết lập các trang Website quản lý tuyên truyền, thực hiện cách
quản lý trang trại tốt, coi đó là sự thành công trong nuôi trồng thủy sản.
Nghiên cứu về các mô hình tổ chức nuôi trồng thủy sản có nghiên cứu
Naoto Imagawa với tác phẩm giới thiệu kinh nghiêm phát triển hợp tác xã nông
nghiệp Nhật Bản.
1



* Những nghiên cứu trong nước
Tại Việt Nam có một số công trình nghiên cứu về phát triển thủy sản và
các mô hình tổ chức để nuôi trồng thủy sản như sau:
Nguyễn Duy Trinh (2008) với công trình “tổng qua về nguồn lợi thủy sản,
chiến lược và chính sách phát triển thủy sản Việt Nam” nghiên cứu đã đưa ra
bức tranh tổng quát về nguồn lợi thủy sản, tiềm năng và lợi thế của Việt Nam
trong nuôi trồng thủy sản.
Đề tài nghiên cứu khoa học của Viện Nghiên cứu NTTS (2007) về nghề
nuôi trồng thủy sản ở Đồng bằng Sông Cửu Long: hiện trạng và xu hướng phát
triển, nghiên cứu đã đưa ra bức tranh tổng quát về nghề NTTS ở Đồng bằng
Sông Cửu Long và đề xuất giải pháp phát triển.
Nghiên cứu của Phạm Xuân Thủy (2008) – Quản trị doanh nghiệp nuôi
trồng thủy sản tác giả đã nêu ra vai trò ngành thủy sản, kêu gọi đầu tư đồng bộ
cho nuôi trồng thủy sản, các tiêu chí đánh giá hiệu quả kinh tế thủy sản.
Nghiên cứu của TS. Nguyễn Minh Tú “Mô hình tổ chức Hợp tác xã kiểu
mới – góp phần xây dựng xã hội hợp tác, đoàn kết” nhất tác giả đề cập tới bối
cảnh phát triển và các thời kỳ phát triển hợp tác xã ở nước ta, tìm hiểu khu vực
hợp tác xã ở nước ta đang đứng ở đâu, tư tưởng hợp tác xã và một số kinh
nghiệm quốc tế về phát triển hợp tác xã và chỉ ra tương lai phát triển của hợp tác
xã ở nước ta
Nghiên cứu của TS. Nguyễn Mạnh Hùng đăng trên Tạp chí Kinh tế và Dự
báo, số 2 (Số 418) năm 2008“Mô hình hợp tác xã kiểu mới” Trước hết, tác giả
chỉ ra sự khác biệt cơ bản của mô hình HTX kiểu mới so với mô hình HTX kiểu
cũ. Tiếp đó, tác giả trình bày khái quát các hình thức tổ chức hoạt động của các
HTX và khẳng định xu hướng chuyên môn hoá trong các HTX là một hướng đi
tích cực. Và để minh chứng cho khẳng định đó của mình, tác giả viện dẫn hàng
loạt các mô hình hoạt động thành công của các HTX ở nhiều địa phương trong
cả nước và rút ra những kinh nghiệm của các HTX làm ăn giỏi.


2


Ngoài ra còn rất nhiều các công trình nghiên cứu về nuôi trồng thủy sản.
Lĩnh vực nghiên cứu đánh giá hiệu quả kinh tế của các mô hình nuôi trồng thủy
sản còn nghiên cứu chưa nhiều, lý luận chưa hoàn thiện, nhất là tại vùng lòng hồ
thủy điện Sơn La nơi đang có nhiều HTX thủy sản hoạt động nuôi trồng thủy
sản. Do đó việc nghiên cứu đánh giá hiệu quả kinh tế của các hợp tác xã thủy
sản vùng lòng hồ thủy điện Sơn Là là một hướng nghiên cứu mới, không bị
trùng lặp.
2. Lý do lựa chọn đề tài
Trong những năm gần đây sản lượng nuôi trông thủy sản của Việt Nam
đạt 3.210 ngàn tấn/năm, đóng góp 35% tổng sản lượng thủy sản của cả nước,
góp phần quan trọng thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và tạo ra nhiều việc làm
cho nhiều người dân, đặc biệt là vùng dân nghèo ven biển, vùng sâu vùng xa,
hải đảo.
Đập thủy điện Sơn La hoàn thành đã tạo ra một dung tích hồ chứa 9,26 tỷ
m3, diện tích hồ chứa gần 225 km2, diện tích lưu vực: 43.760 km2, mực nước
dâng bình thường 215 m, với 13.000 ha diện tích mặt hồ thuộc phạm vi 17 xã
thuộc 3 huyện Thuận Châu, Mường La, Quỳnh Nhai trong đó huyện Quỳnh
Nhai có diện tích mặt hồ lớn nhất là 10.327 ha chiếm 81% tổng diện tích vùng
lòng hồ thủy điện. Tại đây, vùng lòng hồ thuộc đoạn thượng lưu và trung lưu của
Sông Đà nên mặt nước phẳng lặng, có nhiều eo ngách là nơi tập trung nhiều bãi
cá đẻ tự nhiên, là nơi thích hợp cho nhiều đàn cá con tập trung kiếm mồi, và
cũng là nơi neo đậu tàu thuyền dễ dàng, thuận tiện. Ngoài ra, ở đây là địa điểm
lý tưởng cho việc phát triển nuôi cá lồng.
Để khai thác thuận lợi mà tự nhiên đem lại, Ủy ban nhân dân huyện Quỳnh
Nhai đã giao cho Phòng Nông nghiệp và PTNT phối hợp với Liên minh hợp tác
xã tỉnh, hướng dẫn hồ sơ thủ tục thành lập các hợp tác xã thủy sản. Tính đến đầu

năm 2014 khu vực lòng hồ thủy điện Sơn La đã thành lập được 8 hợp tác xã
thủy sản ở Quỳnh Nhai, đầu năm 2013 có 3 hợp tác xã đã tiến hành thả cá giống
kinh doanh đến nay đã hoàn thành một niên vụ kinh doanh.

3


Đây là một hướng đi mới của huyện Quỳnh Nhai trong phát triển kinh tế, nâng
cao đời sống của nông dân vùng lòng hồ. Tuy nhiên, việc kinh doanh của các hợp tác
xã cần được tính toán, đánh giá cụ thể để có thể có căn cứ nhân rộng mô hình,
khuyến khích người dân, vận động được nguồn vốn đầu tư phát triển mô hình.
Vì vậy, việc nghiên cứu đề tài: “ Đánh giá hiệu quả kinh tế của các hợp
tác xã thủy sản vùng lòng hồ thủy điện Sơn La tỉnh Sơn La” là yêu cầu cấp
thiết đặt ra.
3. Mục tiêu nghiên cứu
Hệ thống hóa lý luận về hiệu quả kinh tế, các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả
kinh tế trong các mô hình hoạt động trong lĩnh vực thủy sản.
Đánh giá thực trạng hoạt động và hiệu quả kinh tế của các hợp tác xã thủy
sản tại vùng lòng hồ thủy điện Sơn La – tỉnh Sơn La.
Đề xuất giải phát nâng cao hiệu quả kinh tế của hợp tác xã nuôi trồng thủy
sản vùng lòng hồ thủy điện Sơn La với tỉnh Sơn La.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu: Hiệu quả kinh tế của các hợp tác xã thủy sản.
4.2. Phạm vi nghiên cứu: Đề tài sẽ nghiên cứu hiệu quả kinh tế của 3
hợp tác xã là: Xe Ngoài, Phá Uôn, Chiềng Bằng thuộc huyện Quỳnh Nhai – Sơn
La từ năm 2012 - 2014. (Vì 3 hợp tác xã này được thành lập đầu tiên, có hoạt
động thả cá, có số liệu báo cáo để phân tích, được UBNN huyện Quỳnh Nhai
chọn để báo cáo hoạt động nuôi trồng thủy sản vùng lòng hồ thủy điện Sơn La
năm 2013).
5. Phương pháp nghiên cứu

* Phương pháp thu thập, phân tích và sử lý số liệu: Thu thập, hệ thống
hóa, xử lý, phân tích, đánh giá các tài liệu, số liệu có sẵn từ các báo cáo UBND
huyện Quỳnh Nhai, Phòng Nông nghiệp huyện Quỳnh Nhai, quy hoạch thủy sản
tỉnh Sơn La đến 2020, các bài báo, đề tài nghiên cứu trước ở trong cùng lĩnh vực.
* Phương pháp so sánh: Đề tài sẽ tiến hành so sánh không gian để có căn cứ
đưa ra những đánh giá, nhận định về hiệu quả kinh tế của các hợp tác xã thủy sản.

4


* Phương pháp chuyên gia: Trong quá trình thực hiện đề tài sẽ đăng ký
lồng ghép vào các buổi sinh hoạt chuyên đề ở bộ môn Kinh tế - Khoa Kinh tế Đại học Tây Bắc nhằm trao đổi thông tin, đóng góp thêm về lý luận cũng như
thực tiễn về những nội dung mà đề tài đang nghiên cứu.
6. Cấu trúc đề tài
Ngoài phần mở đầu và kết luận, đề tài được kết cấu thành 3 chương chính
Chương 1: Lý luận chung về hợp tác xã thủy sản và hiệu quả kinh tế của
các hợp tác xã thủy sản.
Chương 2: Thực trạng hoạt động và hiệu quả kinh tế của các hợp tác xã
thủy sản vùng lòng hồ thủy điện Sơn La.
Chương 3: Giải pháp nâng cao hiệu quả kinh tế của các hợp tác xã thủy
sản vùng lòng hồ thủy điện Sơn La.

5


CHƯƠNG 1: LÝ LUẬN CHUNG VỀ HỢP TÁC XÃ THỦY SẢN VÀ
HIỆU QUẢ KINH TẾ CỦA CÁC HỢP TÁC XÃ THỦY SẢN
1.1. Hợp tác xã thủy sản (HTX)
1.1.1. Khái niệm
Theo nghị định 46/Cp ngày 29/4/1997 của Chính Phủ HTX được định

nghĩa: HTX thuỷ sản là tổ chức kinh tế tự chủ của những người làm nghề khai
thác, nuôi trồng thuỷ hải sản, hoạt động dịch vụ và sản xuất kinh doanh khác
phục vụ cho khai thác, nuôi trồng thuỷ hải sản.
HTX thuỷ sản là một đơn vị hạch toán kinh tế độc lập, có đầy đủ tư cách
pháp nhân, có con dấu riêng, được mở tài khoản bằng tiền Việt Nam và ngoại tệ
tại các ngân hàng, hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ theo pháp luật. HTX
thuỷ sản có tư cách pháp nhân để hoạt động kể từ ngày được cấp giấy chứng
nhận đăng ký kinh doanh.
HTX thủy sản hoạt động dựa trên các nguyên tắc sau:
+ Tự nguyện gia nhập và ra hợp tác xã: ngư dân và những người lao động
có đủ điều kiện theo đúng quy định của Luật HTX, tán thành Điều lệ HTX thuỷ
sản và tự nguyện góp vốn, góp sức, đều có thể trở thành xã viên. Xã viên có
quyền ra hợp tác xã theo quy định của Điều lệ HTX thuỷ sản.
+ Quản lý dân chủ và bình đẳng: Xã viên HTX thuỷ sản có quyền tham
gia quản lý, giám sát mọi hoạt động của hợp tác xã và có quyền ngang nhau
trong bầu cử, ứng cử và biểu quyết.
+ Tự chịu trách nhiệm và cùng có lợi: HTX thuỷ sản tự chịu trách nhiệm
về kết quả hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ; tự quyết định về phân phối
thu nhập, bảo đảm HTX và xã viên cùng có lợi.
+ Việc chia lãi phải kết hợp lợi ích của xã viên và sự phát triển của HTX:
Sau khi thực hiện nghĩa vụ thuế, bù lỗ năm trước (nếu có), lãi được trích một
phần để đưa vào các quỹ của HTX, phần còn lại chia cho xã viên theo vốn góp,
công sức đóng góp và mức độ sử dụng dịch vụ của HTX do Đại hội xã viên
quyết định.
6


+ Hợp tác và phát triển cộng đồng, xã viên phát huy tinh thần tự chủ, nâng
cao ý thức hợp tác trong HTX trong cộng đồng xã hội, giữa các HTX với nhau ở
trong nước và ngoài nước theo quy định của pháp luật.

1.1.2. Đặc điểm
HTX là một tổ chức kinh tế hoạt động trong lĩnh vực nuôi trồng thủy sản:
- Được thành lập để tiến hành các hoạt động sản xuất, kinh doanh và dịch
vụ trong lĩnh vực nuôi trồng thủy sản.
- Là một tổ chức kinh tế của nông dân, có đặc trưng gắn với hộ nông dân.
- HTX thủy sản là tổ chức kinh tế mang tính xã hội cao:
+ HTX thủy sản trước hết là để đáp ứng các nhu cầu và nguyện vọng của
các hộ dân cư về nuôi trồng, kinh doanh và dịch vụ thủy sản.
+ Nông dân gia nhập hợp tác xã vì họ cần được HTX phục vụ, cần
HTX trợ giúp những việc mà họ không thể tự làm hoặc làm một mình không
có hiệu quả, khắc phục được những nhược điểm và hạn chế khi sản xuất kinh
doanh đơn lẻ.
- Hoạt động nuôi trồng, kinh doanh, thủy sản của HTX chỉ là công cụ
nhằm làm tăng thêm lợi ích, hiệu quả sản xuất kinh doanh của hộ nông dân.
1.2. Vai trò, đặc điểm của hoạt động nuôi trồng thủy sản
1.2.1. Vai trò
Hoạt động nuôi trồng thủy sản có các vai trò sau:
* Cung cấp thực phẩm đáp ứng nhu cầu xã hội: Nuôi trồng thuỷ sản
(NTTS) là ngành sản xuất vật chất cung cấp sản phẩm cho con người như cá,
tôm, cua, ghẹ, ...những sản phẩm này cung cấp chất dinh dưỡng cho con người
giúp con người có thể tạo ra các hoạt động trong xã hội. Khi xã hội ngày càng
phát triển, đời sống vật chất, tinh thần được nâng cao thì nhu cầu những loại
thực phẩm có giá trị dinh dưỡng cao, bổ dưỡng, dễ chế biến như thủy sản được
người tiêu dùng quan tâm. Ngoài ra, hoạt động NTTS còn cung cấp những loại
thực phẩm đáp ứng nhu cầu thiết yếu của con người, cung cấp thức ăn cho chăn
nuôi, cung cấp nguyên liệu cho công nghiệp chế biến.
* Thúc đẩy tăng trưởng kinh tế: Hoạt động NTTS đóng góp một phần
quan trọng trong tăng trưởng chung của ngành thuỷ sản nói riêng và toàn nền
7



kinh tế nói chung. Đối tượng của NTTS là những sinh vật thông qua hoạt động
chế biến chúng tạo thành những sản phẩm có giá trị dinh dưỡng và giá trị kinh tế
cao. Việc tiêu thụ sản phẩm này trong nội địa hay xuất khẩu sang thế giới đều
giúp cho nước ta thu được lợi nhuận, góp phần không nhỏ vào sự tăng trưởng
của toàn nền kinh tế nói chung. NTTS ở quy mô hộ gia đình, tạo nên nguồn thu
nhập quan trọng góp phần xoá đói giảm nghèo.
* Góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế: Hiện nay, ngành nông nghiệp
đang chuyển dịch mạnh mẽ, biểu hiện là tỷ trọng ngành chăn nuôi tăng lên, tỷ
trọng ngành trồng trọt giảm. Ngành thuỷ sản phát triển cũng đóng vai trò quan
trọng trong sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế của nước ta. Xu hướng chuyển đổi
diện tích trồng trọt kém hiệu quả phát triển NTTS đã và đang diễn ra mạnh mẽ.
Bên cạnh đó phát triển NTTS cũng đã thu hút sự tham gia nhiều thành phần kinh
tế như doanh nghiệp Nhà nước, doanh nghiệp liên doanh, công ty trách nhiệm
hữu hạn và quan trọng hơn cả là sự tham gia của các hộ gia đình nông thôn, thúc
đẩy sự phát triển kinh tế tư nhân. NTTS phát triển cũng kéo theo sự phát triển
của các ngành dịch vụ và công nghiệp như các cơ sở sản xuất thức ăn, các công
ty chế bến thuỷ sản. Ngành NTTS được xem là một ngành quan trọng giúp
chuyển dịch cơ cấu kinh tế, đặc biệt trong cơ cấu kinh tế ngành Nông - Lâm Ngư nghiệp. Góp phần đa dạng hoá thêm cơ cấu ngành, thúc đấy sự phát triển.
* Giải quyết việc làm và tăng thu nhập: Hoạt động NTTS với sự phát
triển nhanh của mình đã tạo ra hàng loạt việc làm và thu hút một lực lượng đông
đảo tham gia vào tất cả công đoạn sản xuất làm giảm sức ép nạn thất nghiệp trên
phạm vi cả nước. NTTS góp phần giải quyết việc làm cho bộ phận dân cư, giúp
họ tạo thêm được thu nhập nuôi sống bản thân và gia đình. NTTS phát triển
cũng góp phần giảm bớt sự chênh lệch giữa nông thôn và thành thị. Hoạt động
NTTS thu hút một số lượng lao động dư thừa, tạo công ăn việc làm. Các hoạt
động phục vụ như vá lưới, cung cấp thực phẩm,..., chủ yếu do lao động nữ thực
hiện đã tạo ra thu nhập đáng kể, cải thiện vị thế kinh tế của người phụ nữ, đặc
biệt là ở các vùng nông thôn miền núi.


8


* Cung cấp nguyên liệu cho công nghiệp chế biến thuỷ sản: Các sản
phẩm thuỷ sản ngoài phục vụ nhu cầu tiêu thụ trực tiếp của dân cư, thì một phần
lớn được cung cấp cho các nhà máy chế biến làm nguyên liệu cho công nghiệp
chế biến. Việc chế biến các sản phẩm thuỷ sản dùng công nghệ bao gói chủ yếu
nhằm mục đích xuất khẩu sang thị trường thế giới. Để các sản phẩm này thực sự
làm hài lòng người tiêu dùng ngoại quốc thì chất lượng sản phẩm phải đặt lên
hàng đầu.
1.2.3. Đặc điểm
Hoạt động NTTS có các đặc điểm chính sau:
* Diện tích mặt nước NTTS vừa là tư liệu sản xuất chủ yếu vừa là tư
liệu sản xuất đặc biệt không thay thế được: Diện tích mặt nước là tư liệu sản
xuất song nó là tư liệu sản xuất đặc biệt khác với tư liệu khác ở chỗ: diện tích
của chúng có giới hạn, vị trí cố định, sức sản xuất không giới hạn nếu biết sử
dụng hợp lý thì đất đai không những không bị hao mòn mà còn tốt hơn. Mặt
khác diện tích mặt nước là tư liệu sản xuất không đồng nhất về chất lượng do
thổ nhưỡng, địa hình vị trí đến độ màu mỡ của diện tích mặt nước giữa các vùng
thường khác nhau. Chính vì vậy, khi sử dụng diện tích mặt nước phải hết sức tiết
kiệm, phải quản lý chặt chẽ trên cả ba mặt pháp chế, kinh tế, kỹ thuật.
* NTTS là một ngành phát triển rộng và tương đối phức tạp hơn so với
các ngành sản xuất vật chất khác: Đối tượng sản xuất của ngành thuỷ sản là
các loài động vật máu lạnh, sống trong môi trường nước, chịu ảnh hưởng trực
tiếp của rất nhiều yếu tố môi trường như thuỷ lý, thuỷ hoá, thuỷ sinh do đó
muốn cho các đối tượng nuôi trồng phát triển tốt con người phải tạo môi trường
sống phù hợp cho từng đối tượng nuôi. Các biện pháp kỹ thuật sản xuất chỉ khi
nào phù hợp với các yếu cầu sinh thái, phù hợp với quy luật sinh trưởng, phát
triển và sinh sản của các đối tượng nuôi trồng thì mới giúp đối tượng nuôi phát
triển tốt, đạt được năng suất, sản lượng cao và ổn định. Hơn nữa hoạt động

NTTS là hoạt động sản xuất ngoài trời các điều kiện sản xuất như khí hậu, thời
tiết, các yếu tố môi trường...và sinh vật có ảnh hưởng tác động qua lại lẫn nhau
đồng thời luôn có sự biến động khôn lường.
9


* Nuôi trồng thuỷ sản có tính thời vụ cao: Trong NTTS ngoài sự tác
động của con người, các đối tượng nuôi còn chịu tác động của tự nhiên. Vì vậy,
NTTS quá trình tái sản xuất kinh tế xen kẽ với quá trình tái sản xuất tự nhiên,
thời gian lao động không hoàn toàn ăn khớp với thời gian sản xuất do đó ngành
NTTS có tính thời vụ rất rõ rệt.
* Đối tượng sản xuất của ngành NTTS là những cơ thể sống: Là các
loài động thực vật thuỷ sản chúng sinh trưởng, phát triển và phát dục theo các
quy luật sinh học nên con người phải tạo được môi trường sống phù hợp cho
từng đối tượng mới thúc đẩy khả năng sinh trưởng và phát triển của nó.
1.3. Hệ thống chỉ tiêu đánh giá hiệu quả kinh tế của các hợp tác xã NTTS
1.3.1. Khái niệm và bản chất của hiệu quả kinh tế
Kinh tế hợp tác xã NTTS là hình thức tổ chức sản xuất trong nông nghiệp
nông thôn của nước ta. Vì vậy, việc nghiên cứu hiệu quả kinh tế NTTS của hợp
tác xã là nghiên cứu hiệu quả kinh tế của hình thức tổ chức sản xuất trong nông
nghiệp. Muốn đánh giá đúng hiệu quả kinh tế NTTS của HTX một cách toàn
diện, chúng ta không căn cứ vào một chỉ tiêu nào đó mà cần phải thiết lập một
hệ thống chỉ tiêu đánh giá hiệu quả kinh tế NTTS cho phù hợp với đặc điểm
nuôi trồng thuỷ sản của HTX. Từ quan điểm đó, để đánh giá hiệu quả kinh tế
nuôi trồng thuỷ sản của HTX, cần đánh giá trên các góc độ sau:
Kết quả sản xuất kinh doanh NTTS của HTX là những gì thu được sau
một quá trình sản xuất kinh doanh nuôi trồng thuỷ sản (Thường tính là một
năm), đó là sản lượng sản phẩm thủy sản nuôi trồng, giá trị sản xuất, thu nhập
mà các HTX thu được sau khi sử dụng các nguồn lực của mình như đất đai, mặt
nước, lao động, tiền vốn hay nói cách khác là chi phí sản xuất. Kết quả cao hay

thấp, một mặt phụ thuộc nhiều đến chất lượng nguồn lực như độ màu mỡ, PH
của môi trường nuôi... còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác như trình độ sử
dụng các nguồn lực, sự hiểu biết kỹ thuật nuôi trồng thuỷ sản, khả năng tổ chức
sản xuất, kinh nghiệm, v.v... của HTX.
Trong điều kiện nguồn lực để NTTS có hạn của HTX, vấn đề đặt ra là làm
sao sử dụng các nguồn lực một cách tiết kiệm, mang lại kết quả cao hơn bằng
10


các biện pháp kỹ thuật, kỹ thuật thâm canh, hình thức nuôi, cách thực hiện quy
trình kỹ thuật nuôi, cách tổ chức quản lý sản xuất v.v... đó chính là hiệu quả kinh
tế của HTX.
Nếu nói kết quả phản ánh quy mô của cái “được” thì hiệu quả phản ánh
trình độ tận dụng các nguồn lực của hộ nông dân để tạo ra cái “được” đó. Vì
vậy, hiệu quả kinh tế NTTS của HTX là so sánh các phương án sử dụng nguồn
lực của các HTX đó. Cùng một điều kiện NTTS hay cùng một loại sản phẩm đầu
ra nhưng mỗi HTX tạo ra kết quả khác nhau. Như vậy, so sánh các phương án
hay so sánh các kết quả khác nhau trong cùng một điều kiện NTTS đó chính là
hiệu quả kinh tế NTTS.
Khi đề cập tới hiệu quả các nguồn lực, thông thường người ta nói tới hiệu
quả kinh tế và việc sử dụng các nguồn lực đó. Hiệu quả sản xuất đã được nhiều
nhà kinh tế bàn tới và đều thống nhất là phải phân biệt rõ 3 khái niệm cơ bản về
hiệu quả
+ Hiệu quả kỹ thuật: là số lượng sản phẩm có thể đạt được trên 1 chi phí
đầu vào hay nguồn lực sử dụng trong sản xuất với những điều kiện cụ thể về kỹ
thuật hay công nghệ áp dụng vào sản xuất hiệu quả kỹ thuật thường được phản
ánh trong mối quan hệ về hàm sản xuất, nó liên quan tới phương tiện vật chất
của sản xuất, chỉ ra rằng một đơn vị nguồn lực dùng vào sản xuất đem lại bao
nhiêu đơn vị sản phẩm hoặc tăng thêm bao nhiêu đơn vị sản phẩm.
+ Hiệu quả phân bổ: là chỉ tiêu hiệu quả trong đó các yếu tố giá sản phẩm

và giá đầu vào được đưa vào tính toán, để phản ánh giá trị sản phẩm thu trên
một đơn vị chi phí thêm về đầu vào hay nguồn lực. Thực chất của hiệu quả phân
bổ là hiệu quả kỹ thuật có tính đến các yếu tố về giá đầu vào và giá đầu ra. Việc
xác định hiệu quả phân bổ giống như xác định các điều kiện về lý thuyết biên để
tối đa hoá lợi nhuận, có nghĩa là giá trị biên của sản phẩm phải bằng giá trị biên
của nguồn lực sử dụng vào sản xuất.
+ Hiệu quả kinh tế: là phạm trù kinh tế mà trong đó sản xuất đạt cả hiệu
quả kỹ thuật và hiệu quả phân bổ. Điều đó có nghĩa là các yếu tố hiện vật và yếu
tố giá trị đều tính đến khi xem xét việc sử dụng nguồn lực. Chỉ khi nào việc sử
11


dụng nguồn lực đạt cả hiệu quả kỹ thuật và hiệu quả phân bổ thì khi đó sản xuất
mới đạt hiệu quả kinh tế.
Như vậy, qua phân tích cách phân loại như trên chúng ta thấy rằng tuy có
nhiều quan điểm khác nhau về hiệu quả kinh tế nhưng đều thống nhất ở bản chất
của nó. Người sản xuất muốn thu được lợi nhuận thì phải bỏ ra những chi phí
nhất định như nhân lực, nguyên vật liệu, vốn, so sánh kết quả đạt được với chi
phí bỏ ra để đạt kết quả sẽ có hiệu quả kinh tế, chênh lệch càng cao thì hiệu quả
kinh tế càng lớn.
1.3.2. Đặc điểm hiệu quả kinh tế NTTS tại HTX Thủy sản
1.3.2.1. Biểu hiện của quy luật giảm dần về chi phí sản xuất là không rõ rệt
Bất kỳ một hoạt động kinh tế nào cũng theo đuổi mục đích: Sản lượng lớn
nhất, lợi nhuận cao nhất, giá thành sản phẩm nhỏ nhất. Sản lượng chính là cơ sở
của hiệu quả, không có sản lượng thì không có hiệu quả. Nhưng đối tượng
NTTS là động thực vật thủy sản có giá trị kinh tế sinh sống trong môi trường
nước, là những cơ thể sống, biểu hiện của quy luật giảm dần về chi phí sản xuất
là không rõ rệt, tức là sản lượng tối đa nhưng hiệu quả không nhất thiết là tối đa.
Hơn nữa, sản lượng trong điều kiện kỹ thuật nhất định cũng không thể tăng lên
một cách vô hạn. Hệ số sử dụng thức ăn tăng, dẫn đến hiệu quả kinh tế giảm

xuống. Cùng một sản lượng, nhưng do cơ cấu sản phẩm và kích cỡ sản phẩm
khác nhau dẫn tới doanh thu và giá thành sản phẩm cũng khác nhau, hiệu quả
kinh tế khác nhau. Có phương thức nuôi trồng, tuy tỷ lệ lợi nhuận trên giá
thành sản phẩm rất cao, nhưng sản lượng không đáp ứng được nhu cầu thị
trường. Vì vậy, trong thực tế nuôi trồng thủy sản, sản lượng, chất lượng, giá
thành sản phẩm, hiệu quả kinh tế, trên lý luận đều có một giới hạn nhất định,
cần phải tiến hành xây dựng các luận chứng kinh tế kỹ thuật cụ thể đối với các
biện pháp nuôi trồng.
1.3.2.2. Khó xác định được hiệu quả kinh tế của từng loại nuôi
Trong một thủy vực, có thể nuôi ghép nhiều đối tượng thủy sản khác nhau.
Qua sản xuất, người lao động đã thấy rằng giữa các loại cá nuôi có mối quan hệ
tương hỗ, nuôi ghép nhiều loại có thể tận dụng được diện tích mặt nước và thức
12


ăn trong thủy vực, tăng mật độ giống nuôi thả. Đây chính là một biện pháp nhằm
nâng cao sản lượng nuôi trồng thủy sản. Các loại cá nuôi ở Việt Nam gồm rất
nhiều loại, kích cỡ khác nhau vì vậy khi nuôi thả, cần nuôi ghép các loại có phổ
thức ăn khác nhau, có kích cỡ khác nhau nhằm tận dụng được nguồn thức ăn của
vùng nước để nâng cao năng suất và sản lượng các đối tượng nuôi trồng. Một
nhân tố quan trọng trong nuôi trồng thủy sản là thức ăn. Trong nuôi trồng thủy
sản, ngoài việc sử dụng các loại thức ăn tự nhiên, còn phải sử dụng thức ăn nhân
tạo. Có như vậy mới có thể đáp ứng được nhu cầu của đối tượng nuôi trồng. Mật
độ nuôi thả tăng, số lượng thức ăn cho ăn tăng, tỷ lệ chi phí thức ăn so với tổng
chi phí sản xuất tăng lên, sản lượng sản phẩm sản xuất tăng, hiệu quả sản xuất
tăng. Mặt khác, nếu cung cấp thức ăn không đầy đủ, sản lượng sản phẩm sản
xuất giảm, hiệu quả sản xuất giảm.
Ngoài chi phí thức ăn, trong ao nuôi các hộ nông dân còn phải bỏ vào
nhiều chi phí khác như phân bón, điện nước, khấu hao ao, ...tất cả các chi phí bỏ
ra được tính cho cả ao nuôi hay cho tất cả các loại nuôi trong ao. Người dân

không thể xác định được mỗi loại nuôi sử dụng hết bao nhiêu chi phí. Về sản
lượng hay giá trị sản lượng có thể xác định được cho từng loại nhưng không xác
định được chi phí tiêu hao cho từng loại đó, vì vậy việc xác định hiệu quả kinh
tế cho từng loại trong ao nuôi ghép nhiều loại khó xác định được.
1.3.2.3. Khó xác định được hiệu quả kinh tế cho từng vụ hay sau mỗi lần thu hoạch
Do đặc điểm của sản xuất nuôi trồng thủy sản là lệ thuộc rất nhiều vào
điều kiện khí hậu và tự nhiên. Trong nuôi trồng thủy sản ngoài sự tác động trực
tiếp của con người, các đối tượng nuôi còn chịu sự tác động của môi trường tự
nhiên. Trong nuôi trồng thủy sản, quá trình tái sản xuất kinh tế xen kẽ với quá
trình tái sản xuất tự nhiên, do đó nuôi tồng thủy sản mang tính thời vụ rõ rệt.
Hay nói cách khác thời gian sản xuất nuôi trồng thủy sản diễn ra theo mùa vụ.
Mỗi đối tượng nuôi trồng, các giai đoạn sinh trưởng, phát triển diễn ra trong các
khoảng thời gian khác nhau của mùa vụ sản xuất, bởi vậy việc thu hoạch và tiêu
thụ diễn ra trong các thời gian khác nhau trong thời gian sản xuất. Bởi vậy, có
thời gian nông hộ chỉ bỏ chi phí mà không có thu, có thời gian có thu hoạch
13


nhưng doanh thu không đủ bù đắp chi phí. Chính vì vậy, việc tính toán các
khoản chi phí, phân bổ chi phí cố định cho vụ, từng lần thu hoạch khó xác định,
từ đó khó xác định được hiệu quả kinh tế của từng vụ hay sau mỗi lần thu hoạch
trong năm nuôi trồng.
1.3.2.4. Việc tính toán và phân bổ chi phí khấu hao tài sản cố định khó xác định
cho các đối tượng nuôi
Trong nuôi trồng thủy sản, hệ thống cơ sở hạ tầng, các công trình phục vụ
rất khác nhau, đa dạng như hệ thống ao nuôi, máy, thiết bị, đường ống cấp thoát
nước, …. có vai trò quan trọng đối với sản xuất NTTS. Đặc điểm chung ở các
nông hộ, ngoài nuôi trồng thủy sản, họ còn tiến hành nhiều hoạt động sản xuất
nông nghiệp như trồng lúa, trồng trọt các loại cây phục vụ cho sản xuất và sinh
hoạt của gia đình, chăn nuôi nên nhiều tài sản cố định được sử dụng cho nhiều

hoạt động. Chính vì vậy việc tính toán chi phí khấu hao hay phân bổ chi phí
khấu hao tài sản cố định gặp nhiều khó khăn. Do đó, riêng trong lĩnh vực nuôi
trồng thủy sản của nông hộ, chỉ tính toán chi phí khấu hao đối với tài sản cố định
trực tiếp và chỉ dùng cho nuôi trồng thủy sản như khấu hao ao. Mặt khác, ngay
trong một ao nuôi, các hộ nuôi nhiều đối tượng, thời gian thu hoạch có thể nhiều
lần trong năm nên khó xác định chi phí khấu hao cho các đối tượng nuôi.
1.3.2.5. Đòi hỏi phải có sự ghi chép về giá bán để xác định hiệu quả sau một
năm nuôi trồng thủy sản
Do đặc điểm nghề NTTS mang tính thời vụ, sản phẩm nuôi là những cơ
thể sống có đặc điểm sinh trưởng phát triển khác nhau giữa các loài và phụ
thuộc nhiều vào điều kiện môi trường, thời gian đưa vào nuôi nên việc thu hoạch
sản phẩm và tiêu thụ được thực hiện nhiều lần (hình thức “đánh tỉa thả bù”). Mỗi
lần thu giá bán có thể khác nhau, vì vậy để tính giá nào cho hiệu quả thì phải có
sự ghi chép giá bán sau mỗi lần thu hoạch.
1.3.2.6. Mỗi phương thức nuôi trồng khác nhau hiệu quả kinh tế có sự khác nhau
Do điều kiện tự nhiên và điều kiện kinh tế xã hội ở các nơi khác nhau,
điều kiện áp dụng, chuyển giao công nghệ, kỹ thuật NTTS và dịch vụ thủy sản
như cung cấp con giống, chất lượng giống khác nhau, mức đầu tư chi phí khác
14


nhau dẫn đến phương thức nuôi trồng khác nhau và hiệu quả kinh tế khác nhau.
Trong NTTS có thể nuôi từng cá thể hay cả quần thể với nhiều hình thức nuôi
theo các mức độ thâm canh khác như quảng canh, bán thâm canh và thâm canh.
Quảng canh là hình thức canh tác ở mức độ đầu tư thấp, bán thâm canh là hình
thức canh tác ở mức độ đầu tư trung bình, thâm canh là hình thức nuôi với mức
độ đầu tư tương đối cao. Trên phương diện chi phí hay giá thành sản phẩm thì
quảng canh lại có hiệu quả cao, trên phương diện thu nhập hay lợi nhuận thì
thâm canh lại đem lại hiệu quả cao.
1.3.3. Hệ thống chỉ tiêu đánh giá hiệu quả kinh tế

Để đánh giá được hiệu quả kinh tế cần dựa vào hệ thống chỉ tiêu, hệ thống
chỉ tiêu đánh giá, hiệu quả kinh tế phải xuất phát từ bản chất của hiệu quả và
phải đáp ứng được các yêu cầu sau:
- Phải đảm bảo tính thống nhất về nội dung với hệ thống chỉ tiêu của nền
kinh tế quốc dân nói chung và ngành nông nghiệp nói riêng.
- Phải đảm bảo tính toàn diện và tính hệ thống
+ Tính toàn diện thể hiện ở chỗ phải có đầy đủ các chỉ tiêu tổng quát, chỉ
tiêu bộ phận, chỉ tiêu chủ yếu, chỉ tiêu bổ sung.
+ Tính hệ thống thể hiện ở chỗ, nó phải là một bộ phận thống nhất của hệ
thống chỉ tiêu cùng loại trong hệ thống chỉ tiêu của nền kinh tế quốc dân.
Phương pháp tính hiệu quả kinh tế nuôi trồng thủy sản ở hộ nông dân phải
nhất quán đảm bảo có thể so sánh được hiệu quả kinh tế ở các vùng khác nhau,
các hộ khác nhau và có khả năng so sánh giữa các phương thức hay loại nuôi
khác nhau.
Hệ thống chỉ tiêu hiệu quả kinh tế NTTS ở các HTX bắt nguồn từ đặc
điểm bản chất hiệu quả kinh tế nuôi trồng thủy sản ở HTX. Đó là mối quan
hệ giữa các yếu tố đầu vào và đầu ra và được xác định bằng các chỉ tiêu cơ
bản sau :
* Chỉ tiêu thu nhập :
Thu nhập = Kết quả thu được - Chi phí bỏ ra
Công thức này cho ta nhận biết qui mô hiệu quả NTTS của các HTX. Kết
15


quả thu được từ hoạt động sản xuất nuôi trồng thủy sản của các HTX được xác
định theo chỉ tiêu tổng giá trị sản xuất nuôi trồng thủy sản.
Tổng giá trị sản xuất nuôi trồng thủy sản: là toàn bộ giá trị sản phẩm
nông nghiệp, thuỷ sản nuôi trồng sản xuất ra trong năm theo giá bán thực tế kể
cả sản phẩm chính và sản phẩm phụ. Trong nuôi trồng thủy sản, sản phẩm là số
lượng sản phẩm thu hoạch trong cả một năm, không phải chỉ là số lượng sản

phẩm thu hoạch trong một vụ sản xuất. Vì chỉ số lượng sản phẩm thu hoạch
trong 1 năm mới nêu được thành tích nơi đã đầu tư khoa học kỹ thuật, cơ sở hạ
tầng, giống,... để tăng vụ sản xuất trong một năm, làm ra nhiều sản phẩm hơn
trên diện tích đã có. Sản phẩm nuôi trồng thuỷ sản chỉ có tính theo giá bán của
người sản xuất, giá thực tế mới phản ảnh được sản phẩm đó có thích hợp với
nhu cầu thị trường hay không, thích hợp đến mức độ nào. Sản phẩm sản xuất
phù hợp với thị trường mới bán được và bán với giá hợp lý. Như vậy, sản phẩm
được tính theo giá bán của người sản xuất, giá bán thực tế là hoàn toàn đúng
đắn. Số lượng sản phẩm sản xuất được người sản xuất tiêu dùng, hay cho, biếu
cũng tính theo giá sản phẩm người sản xuất bán. Chi phí sản xuất bỏ ra, có thể
biểu hiện theo các phạm vi tính toán sau:
- Chi phí bằng tiền: là toàn bộ các khoản chi phí thường xuyên bằng tiền mà
HTX bỏ ra để mua và thuê các yếu tố đầu vào và chi phí dịch vụ trong thời kỳ
sản xuất ra tổng sản phẩm đó.
- Tổng chi phí vật chất: là toàn bộ các khoản chi phí chi phí vật chất tính
bằng tiền, gồm chi phí bằng tiền cộng với khoản chi phí khấu hao tài sản cố
định, khoản tiền thuế và chi phí tài chính khác trong quá trình sản xuất tạo ra sản
phẩm đó.
- Tổng chi phí sản xuất: là tổng hao phí tính bằng tiền của các nguồn tài
nguyên và các chi phí dịch vụ vật chất khác tham gia vào quá trình sản xuất ra
tổng sản phẩm đó. Trong NTTS, chi phí sản xuất bao gồm tất cả chi phí vật chất
(như giống, thức ăn, phân bón, công cụ dụng cụ, thuốc phòng trừ dịch bệnh.
v.v...,) để sản xuất ra sản phẩm và tiền công trả cho lao động thuê ngoài, không
tính lao động của người chủ sản xuất và gia đình họ.
16


Chỉ tiêu thu nhập cho chúng ta biết được mức thu nhập của HTX lớn hay
nhỏ nhưng lại không phản ánh được hiệu quả của một đồng vốn đầu tư.
* Chỉ tiêu hiệu quả sử dụng các nguồn lực:

Công thức tổng quát để tính hiệu quả
H =

K
C

Trong đó:
H: Hiệu quả đạt được.
K: Là kết quả thu được từ một hoạt động, một quá trình.
C: Là hao phí các nguồn lực để có được các kết quả đó.
Trong NTTS, người ta thường dùng các chỉ tiêu chủ yếu sau :
Chỉ tiêu thu nhập trên một đơn vị diện tích: Chỉ tiêu này cho biết mỗi
đơn vị diện tích đem vào NTTS tạo ra bao nhiêu thu nhập.
Thu nhập/lao động gia đình: chỉ tiêu này cho biết một công lao động gia
đình đem lại bao nhiêu đồng thu nhập.
Giá trị sản xuất trên chi phí trung gian (GO/IC)
Chỉ tiêu này phản ánh một đồng chi phí trung gian sẽ tao được bao nhiêu
đồng giá trị sản xuất.
Giá trị gia tăng trên chi phí trung gian (VA/IC)
Chỉ tiêu này phản ánh một đồng chi phí trung gian sẽ tạo ra được bao
nhiêu đồng giá trị gia tăng.
Giá trị gia tăng trên trên tổng giá trị sản xuất(VA/GO)
Chỉ tiêu này phản ánh một đồng tổng giá trị sản xuất sẽ tạo ra bao nhiêu
đồng giá trị gia tăng.
Trong đó:
Tổng giá trị sản xuất (GO): là chỉ tiêu biểu hiện toàn bộ kết quả đã mang
lại cho bà con nông dân trong một khoảng thời gian nhất định.
GO = ∑Qi x Pi
+ Qi là sản lượng sản phẩm
+ Pi là giá của sản phẩm tương ứng

17


Chi phí trung gian (IC): là chỉ tiêu bao gồm những chi phí vật chất và dịch
vụ thuê mua ngoài không kể khấu hao tài sản cố định và lao động
Giá trị gia tăng (VA): chỉ tiêu này là hiệu số giữa giá trị sản xuất và chi
phí trung gian trên một đơn vị diện tích nuôi.
VA = GO – IC
+ GO là giá trị sản xuất
+ IC là chi phí trung gian
1.4. Các nhân tố ảnh hướng đến hiệu quả kinh tế của các HTX thủy sản
1.4.1. Đối tượng nuôi trồng
Đối tượng của NTTS là động vật thuỷ sinh, nó là nguồn tài nguyên hết
sức nhạy cảm, có khả năng tái tạo nhưng lại rất dễ bị bệnh hàng loạt và hầu như
không có khả năng cứu chữa kịp thời. Có nhiều loại động vật, thực vật có giá trị
dinh dưỡng và kinh tế cao.
Đối tượng NTTS rất đa dạng và phong phú, chúng là những cá thể sống
trong môi trường nước nên luôn tuân theo những quy luật sinh trưởng và phát
triển riêng của nó. Hoạt động sống của nó nhờ vào thức ăn, các chất dinh dưỡng,
khí o2 hoà tan trong nước. Các biện pháp kỹ thuật sản xuất của con người chỉ khi
nào phù hợp với quy luật sinh trưởng, phát triển và sinh sản của động thực vật
thủy sản mới có thể thu được hiệu quả cao. Vì vậy, việc lựa chọn đối tượng để
nuôi trồng phù hợp với môi trường ao nuôi và điều kiện kinh tế kỹ thuật của
HTX có ảnh hưởng rất lớn đến hiệu quả kinh tế nuôi. Các đối tượng nuôi cho
năng suất cao sẽ cho sản lượng lớn, đối tượng nuôi có giá trị kinh tế cao sẽ có
giá bán cao. Nhiều đối tượng nuôi thuộc nhóm ăn thực vật, ăn tạp như các loại
cá họ cá chép, nên nuôi những đối tượng này mức đầu tư thấp phù hợp với
người dân lao động. Có những đối tượng nuôi thuộc nhóm ăn động vật như cá
quả, ba ba, cá hồi..., đòi hỏi nuôi có sự đầu tư chi phí cao.
1.4.2. Chất lượng giống

Trong NTTS tỷ lệ sống của con giống phụ thuộc rất lớn vào trình độ, kỹ
thuật của người nuôi và chất lượng con giống cung cấp. Đặc biệt với loại giống
nuôi thả trong vùng ven biển, độ nhạy cảm rất cao nên tỷ lệ sống của chúng còn
18


thấp nên ta phải quan tâm đến khâu giống và kĩ thuật nuôi. Con giống đưa vào
nuôi trồng nếu đảm bảo về chất lượng như đã thuần chủng, được luyện, không
dịch bệnh, loại giống có giá trị kinh tế cao và khả năng kháng bệnh tốt sẽ có tốc
độ sinh trưởng, phát triển tốt, tỷ lệ sống cao dẫn đến cho năng suất và sản lượng
cao. Ngược lại, nếu con giống không đảm bảo chất lượng sẽ dẫn đến tỷ lệ sống
thấp, thoái hóa, sinh trưởng, phát triển chậm ... và như vây năng suất thấp, chất
lượng sản phẩm giảm thấp, kéo dài thời gian thu hoạch, giá bán thấp. Tuy nhiên
chi phí giống sẽ phụ thuộc vào chất lượng giống. Các loại giống tốt, giống lớn
thường có giá cao. Ngoài ra, còn các yếu tố ảnh hưởng đến chi phí giống như:
điều kiện tự nhiên của kỳ thu mua, đối tượng cung cấp, hình thức vận chuyển.
1.4.3. Phương thức nuôi
Các phương thức NTTS khác nhau sẽ mang lại hiệu quả kinh tế khác
nhau. Quảng canh là hình thức canh tác ở mức độ đầu tư thấp, nguồn giống và
thức ăn dinh dưỡng chỉ trông vào tự nhiên. Do đó, hiệu quả kinh tế của phương
thức nuôi này xét về thu nhập thường thấp, sản lượng phụ thuộc chủ yếu vào
điều kiện tự nhiên. Tuy nhiên, do đầu tư thấp nên hiệu quả lại cao. Đối với các
HTX NTTS không dựa vào nguồn giống tự nhiên, họ phải đầu tư con giống,
thức ăn phân bón cho đối tượng nuôi. Mức đầu tư chi phí, trong đó chi phí thức
ăn càng cao, mật độ thả cao, kỹ thuật đòi hỏi cao hay nói cách khác mức độ
thâm canh càng cao thì chi phí càng lớn, do đó hiệu quả sản xuất càng cao và
đem lại thu nhập cao cho hộ.
1.4.4. Hình thức nuôi
Các hình thức nuôi khác nhau cũng mang lại hiệu quả kinh tế khác nhau.
Trong NTTS, có những hình thức nuôi chủ yếu sau:

- Nuôi tổng hợp (nuôi ghép) là nuôi nhiều đối tượng trong cùng thuỷ vực
với mục đích chính là lợi dụng tự nhiên một cách hợp lý. Thí dụ: nuôi ghép cá
trắm cỏ với cá mè trắng, mè hoa và một số loại cá khác, nuôi ghép cá trắm cỏ
với cá trôi ấn, cá mè trắng, mè hoa và một số loại khác.
- Nuôi chuyên canh (nuôi đơn) là hình thức nuôi chỉ với một loại cá có
khả năng cho hiệu quả kinh tế cao, người nuôi thường thả mật độ cao và tạo điều
19


kiện thuận lợi nhất về thức ăn, phân bón cho chúng để thu hoạch với năng suất
cao nhất có thể đạt được.
- Nuôi kết hợp (nuôi bền vững) là hình thức nuôi mà chất thải của quá
trình này là chất dinh dưỡng cung cấp cho quá trình kia, như nuôi theo hệ VAC,
nuôi với công thức cá - vịt hoặc nuôi cá, tôm trong ruộng cấy lúa. Nuôi luân
canh là hình thức sử dụng nhiều vụ nối tiếp nhau, đối tượng nuôi vụ sau sử dụng
chất thải hay vật chất còn lại của đối tượng nuôi vụ trước, như lúa (vụ xuân) +
cá (vụ mùa).
Các hình thức nuôi ghép, nuôi kết hợp hay luân canh thường đầu tư chi
phí thức ăn thấp hơn hình thức nuôi đơn, sản phẩm nhiều loại có thể cung cấp
cho thị trường. Tuy nhiên, những hình thức nuôi này thường cho năng suất cũng
như sản lượng thấp hơn so với nuôi đơn. Đối với hình thức nuôi đơn, chi phí đầu
tư lớn nhưng mang lại hiệu quả kinh tế cao.
1.4.5. Chất lượng môi trường ao nuôi
Đối tượng sản xuất của ngành NTTS là các loại động vật máu lạnh, sống
trong môi trường nước, chịu ảnh hưởng trực tiếp của rất nhiều yếu tố môi trường
như thủy lý, thủy hóa, thủy sinh. Hơn nữa, hoạt động NTTS là hoạt động sản
xuất ngoài trời, các điều kiện sản xuất như khí hậu, thời tiết, các yếu tố môi
trường và sinh vật có ảnh hưởng, tác động qua lại lẫn nhau, đồng thời luôn có sự
biến đổi khôn lường. Trong điều kiện môi trường ao nuôi thuận lợi cho đối
tượng nuôi thì đối tượng nuôi trồng sẽ sinh trưởng, phát triển tốt và tác động tích

cực đến năng suất, sản lượng. Ngược lại, chỉ cần sự biến đổi của một yếu tố môi
trường không phù hợp với đối tượng nuôi đã gây nên những thiệt hại khôn lường
như đối tượng nuôi có thể chết hàng loạt. Vì vậy, chất lượng nước hay môi
trường ao nuôi ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả kinh tế NTTS. Các biện pháp
kỹ thuật sản xuất chỉ khi nào phù hợp với các yêu cầu sinh thái, phù hợp với
quy luật sinh trưởng, phát triển của các đối tượng nuôi trồng đồng thời thời tiết
thuận lợi, môi trường nước ao nuôi đảm bảo thì mới giúp đối tượng nuôi phát
triển tốt, đạt được năng suất, sản lượng cao và ổn định, góp phần nâng cao hiệu
quả kinh tế.
20


×