BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PTNT
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LÂM NGHIỆP
TRỊNH PHÚ THUẬN
NGHIÊN CỨU XÂY DỰNG
CÁC GIẢI PHÁP QUẢN LÝ CHÁY RỪNG TẠI
THỊ XÃ UÔNG BÍ, TỈNH QUẢNG NINH
Chuyªn ngµnh: Qu¶n lý b¶o VỆ TÀI NGUYÊN rõng.
M· sè: 60 62 68
TÓM TẮT LUẬN VĂN THẠC SỸ KHOA HỌC LÂM NGHIỆP
Hà Nội, năm 2010
1
ĐẶT VẤN ĐỀ
Rừng là nguồn tài nguyên quí giá đối với Việt Nam cũng như bất cứ quốc
gia nào trên thế giới. Rừng có vai trò rất lớn đối với sự phát triển kinh tế xã
hội của các địa phương nhất là những vùng núi nơi người dân chủ yếu sống
dựa vào rừng. Ngoài giá trị kinh tế cao, rừng còn đóng vai trò quan trọng đối
với việc bảo vệ môi trường sinh thái.
Mặc dù vậy, trong nhiều thập kỷ gần đây diện tích rừng trên thế giới cũng
như ở Việt Nam đang bị suy giảm nghiêm trọng cả về số lượng và chất lượng.
Sự suy giảm này là một trong những nguyên nhân gây nên biến đổi khí hậu,
hạn hán, lũ lụt xảy ra thường xuyên hơn. Mất rừng được coi là một trong
những nguyên nhân của đói nghèo và bất ổn xã hội ở nhiều nơi.
Có nhiều nguyên nhân làm cho rừng bị suy giảm, trong đó có cháy rừng.
Theo số liệu thống kê của Cục Kiểm lâm, từ năm 2002 đến năm 2009, cả
nước ta đã xảy ra 6255 vụ cháy làm mất diện tích rừng là 42.589,3ha, chủ yếu
xảy ra ở rừng trồng với diện tích là 33.388,65ha (chiếm 78.4% tổng diện tích
rừng bị cháy). Đặc biệt chỉ trong 4 tháng đầu năm 2010 đã xảy ra nhiều vụ
cháy rừng với diện tích thiệt hại là 3.812ha. Trong đó vụ cháy rừng ở Vườn
quốc gia Hoàng Liên đã làm thiệt hại 718ha. Các vụ cháy rừng không những
gây thiệt hại về kinh tế mà còn làm cho môi trường bị suy giảm, làm tăng lũ
lụt ở vùng hạ lưu, ô nhiễm môi trưởng không khí, giảm tính đa dạng sinh học,
phá vỡ cảnh quan, tác động xấu đến an ninh quốc phòng…
Nhiều năm qua Nhà nước ta rất quan tâm đến công tác quản lý, bảo vệ
rừng và PCCCR, nhằm hạn chế đến mức thấp nhất thiệt do cháy rừng gây ra.
Tuy nhiên, kết quả vẫn chưa được như mong muốn, cháy rừng vẫn thường
xuyên xảy ra. Sự khác biệt về điều kiện tự nhiên, kinh tế và xã hội ở các địa
phương nên việc vận dụng những văn bản pháp luật cũng như những biện
pháp cụ thể trong PCCCR không hoàn toàn giống nhau. Công tác PCCCR là
2
một việc phải được áp dụng đồng bộ và phải được các cấp các ngành quan
tâm, người dân hưởng ứng, các cơ quan quản lý Nhà nước, các chủ rừng cần
phải nắm được đầy đủ những quy định, pháp luật và những biện pháp cụ thể
liên quan đến PCCCR và vận dụng một cách sáng tạo vào hoàn cảnh cụ thể
của từng địa phương
Thị xã Uông Bí nằm ở phía Tây của tỉnh Quảng Ninh, với đặc thù là khu
vực có nhiều diện tích rừng dễ cháy như rừng Thông, rừng Bạch đàn, rừng
Tre nứa xen lẫn rừng gỗ... cộng với sự biến đổi khắc nghiệt của khí hậu thời
tiết, thì nguy cơ cháy rừng luôn tiềm ẩn. Chỉ tính riêng từ năm 2002 đến năm
2009, (theo số liệu của Chi cục Kiểm lâm tỉnh Quảng Ninh) [9] trên địa bàn
toàn tỉnh đã xảy ra 336 vụ cháy thiệt hại 2019.96ha, chủ yếu là rừng trồng với
diện tích là 2003,91ha (chiếm 99.2% tổng diện tích rừng bị cháy). Thực tế cho
thấy công tác PCCCR vẫn còn nhiều bất cập, việc dự báo, cảnh báo nguy cơ
cháy rừng và phát hiện sớm điểm cháy rừng triển khai chưa hiệu quả kịp thời,
các công trình PCCCR chưa được xây dựng đủ cả về số lượng và chất lượng.
Một trong những nguyên nhân quan trọng làm cho cháy rừng vẫn xảy ra
trên thị xã Uông Bí nói riêng và tỉnh Quảng Ninh nói chung là do thiếu những
nghiên cứu cơ bản về công tác quản lý cháy rừng. Xuất phát từ những thực
tế đó chúng tôi tiến hành đề tài “Nghiên cứu xây dựng các giải pháp quản lý
cháy rừng tại thị xã Uông Bí, tỉnh Quảng Ninh” nhằm góp phần khắc phục
những tồn tại trong công tác PCCCR tại địa phương cũng như nâng cao hơn
nữa công tác quản lý cháy rừng trên địa bàn.
3
Chương 1 : TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1.1.Trên thế giới
Trước những nguy cơ to lớn về cháy rừng và những tổn thất của nó gây ra
đã có nhiều nghiên cứu về phòng cháy chữa cháy rừng, dự báo nguy cơ cháy
rừng... Những công trình nghiên cứu của Mỹ, Nga, Thụy Điển, Nhật Bản,
Trung Quốc... về phòng cháy chữa cháy rừng, phương pháp dự báo cháy rừng
đều dựa trên cơ sở mối quan hệ giữa các yếu tố khí tượng với nguồn vật liệu
cháy hoặc giữa các yếu tố khí tượng với số vụ cháy xảy ra trong nhiều năm.
Các nghiên cứu chủ yếu hướng vào làm suy giảm 3 thành phần của tam giác
lửa: (1) - Giảm nguồn lửa bằng cách tuyên truyền vận động không mang lửa
vào rừng, dập tắt than sau khi dùng lửa... (2) - Giảm khối lượng vật liệu cháy
bằng cách đốt trước một phần vật liệu cháy, hoặc đốt đón đầu để cô lập đám
cháy; (3) - Giảm khả năng cung cấp oxi cho đám cháy bằng cách dùng chất
dập lửa (Hóa chất, cát, nước, đất...) để ngăn vật liệu cháy tiếp xúc với oxi.
Ở Mỹ từ những năm 1914, hai nhà khoa học E.A.Beal và C.B.Show đã
có những nghiên cứu về dự báo khả năng cháy rừng thông qua việc xác định
độ ẩm của lớp thảm mục [8]. Các tác giả đã chỉ ra rằng độ ẩm lớp thảm mục
thể hiện mức độ khô hạn của rừng. Độ khô hạn càng cao, khả năng cháy rừng
càng lớn. Đây là một trong những công trình nghiên cứu đầu tiên xác định yếu
tố quan trọng nhất đối với nguy cơ cháy rừng. Sau này còn nhiều phương
pháp và mô hình dự báo cháy rừng được đề xuất và cải tiến trên cơ sở phân ra
mô hình vật liệu, kết hợp với các yếu tố thời tiết, độ ẩm vật liệu cháy với địa
hình để dự báo mức độ nguy hiểm của lửa rừng.
Đến năm 1978 các nhà khoa học Mỹ đã đưa ra được hệ thống dự báo
cháy rừng tương đối hoàn thiện. Theo hệ thống này, có thể dự báo nguy cơ
cháy rừng trên cơ sở phân ra các mô hình vật liệu cháy, kết hợp với các số
liệu quan trắc khí tượng và số liệu về điều kiện địa hình.
4
Năm 1904, Dulop - nhà khoa học người Đức đã nghiên cứu sự thay đổi
hàm lượng nước của lá khô theo độ ẩm không khí làm cơ sở để xác định khả
năng bắt lửa của lớp thảm mục trong rừng [13]. Để xác định mối quan hệ này,
tác giả đã sử dụng lá của một số loài cây như: Sơn mao tử, Bạch đàn, Phong,
Đường tế, Dẻ và cây Hoa để ở nhiệt độ 26.70C trong thời gian 24 giờ. Hàm
lượng nước chứa trong lá khô được xác định và biểu diễn trên đồ thị theo
những sự thay đổi của độ ẩm không khí.
Đến năm 1918, Weitmann đã xác định được mối quan hệ chặt chẽ giữa
hàm lượng nước của vật liệu cháy là thảm khô, thảm mục và cỏ dại với khả
năng phát sinh cháy rừng. Ông cho rằng giữa độ ẩm nhỏ nhất của VLC và
nhiệt độ cao nhất trong ngày có quan hệ chặt chẽ với nhau, để từ đó đưa ra
mối quan hệ giữa hàm lượng nước của VLC và khả năng cháy rừng để dự báo
nguy cơ cháy rừng như bảng 1.1 [4].
Bảng 1.1: Hàm lượng nước của VLC với mức độ nguy hiểm của cháy rừng
Cấp cháy Hàm lượng nước của VLC (%)
Mức nguy hiểm của cháy rừng
I
> 25
Không phát sinh
II
15 – 25
Khó phát sinh
III
13 – 15
Dễ phát sinh
IV
10 – 13
Nguy hiểm
V
< 10
Cực kỳ nguy hiểm
Ở Nga cũng có nhiều công trình nghiên cứu về dự báo cháy rừng, trong đó
phải kể đến công trình của giáo sư V.G. Nesterov (1929-1940) nghiên cứu về
của một số yếu tố khí tượng ảnh hưởng đến mức độ nguy hiểm cháy rừng.
Ông kết luận rằng: nơi nào có nhiệt độ không khí càng cao, độ ẩm không
khí thấp, số ngày không mưa kéo dài thì vật liệu cháy càng khô và càng dễ
phát sinh đám cháy. Trên cơ sở phân tích trên ông đã đưa ra chỉ tiêu khí tượng
tổng hợp để đánh mức độ nguy hiểm cháy rừng theo công thức:
5
Trong đó:
P: Chỉ tiêu tổng hợp phản ánh nguy cơ cháy rừng của một ngày nào đó
ti13: Nhiệt độ không khí lúc 13h ngày thứ i (0C)
di13: Độ chênh lệch bão hòa độ ẩm không khí tại thời điểm 13h ngày
thứ i (mb)
n: Số ngày không mưa hoặc có mưa nhỏ hơn 3mm kể từ ngày cuối cùng
có lượng mưa lớn hơn 3mm.
Từ chỉ tiêu P xây dựng được các cấp dự báo mức độ nguy hiểm cháy rừng
cho từng địa phương khác nhau.
Đến năm 1968, trung tâm khí tượng thủy văn quốc gia Liên Xô [8] đã cải
tiến công thức của Nesterov thành công thức sau:
Trong đó:
K: Hệ số điều chỉnh lượng mưa được xác định như sau:
Lượng mưa
(mm)
Hệ số K
0
0.1- 0.9
1 - 2.9
3 - 5.9
6 - 14.9
1
0.8
0.6
0.4
0.2
15 - 19.9 > 20
0.1
0
Di: Là nhiệt độ điểm sương (0C)
Các chỉ tiêu được ký hiệu như ở công thức 1.1.
Thực tế, nhiệt độ điểm sương phụ thuộc vào độ chênh lệch bão hòa của độ ẩm
không khí nên về bản chất 2 công thức (1.1) và (1.2) là giống nhau. Tuy
nhiên hạn chế của phương pháp này là chưa tính đến tốc độ gió và đặc điểm
Vật liệu cháy. Với hệ số K xác định lượng mưa ngày và áp dụng công thức
6
(1.2), tính được chỉ tiêu P, từ đó phân mức nguy hiểm của cháy rừng thành 5
cấp như bảng 1.2.
Bảng 1.2: Phân cấp mức độ nguy hiểm của cháy rừng theo chỉ tiêu P
Cấp cháy
Chỉ tiêu tổng hợp P
Mức độ nguy hiểm
Theo Nesterov
Theo ΓMЦ
của cháy rừng
I
≤ 300
≤ 200
Không nguy hiểm
II
301 - 500
201 – 450
Ít nguy hiểm
III
501 - 1000
451 – 900
Nguy hiểm
IV
1001 - 4000
901 – 2000
Rất nguy hiểm
V
> 4000
> 2000
Cực kỳ nguy hiểm
- Năm 1979, Trabaud [8] tiến hành nghiên cứu thực nghiệm ở miền nam
nước Pháp đã kết luận rằng: tốc độ cháy lan của ngọn lửa ở đám cháy nhỏ phụ
thuộc vào tốc độ gió, chiều cao thực bì của VLC theo công thức:
Vp = 0.066 × Uv0.439 × H0.345
với r = 0.84
(1.3)
Trong đó: Vp: Là tốc độ cháy lan (cm/s)
Uv: Tốc độ gió trung bình (cm/s)
H: Chiều cao thực bì (cm)
Theo công thức (1.3), tốc độ gió càng lớn thì lửa cháy lan càng nhanh,
chiều cao thực bì liên quan đến sinh khối của VLC cũng như tốc độ cháy của
ngọn lửa.
Cũng theo Trabaud, độ ẩm VLC càng cao, mức độ cháy lan càng giảm thể
hiện bằng công thức
Vp =
với r = 0.88
(1.4)
Trong đó: Te - Hàm lượng nước tính theo trọng lượng tươi của vật liệu
Công trình nghiên cứu của ông còn chỉ ra rằng chiều cao của ngọn lửa tỷ lệ
thuận với tốc độ cháy lan và chiều cao thực bì được tính theo công thức:
7
Lf = 12.33 × Vp0.428 × H0.477 với r = 0.83
(1.5)
Trong đó: Lf - Chiều cao ngọn lửa (cm)
Ở Thụy Điển dự báo cháy rừng dựa trên cơ sở chỉ số Angstrom [4]:
I=
(1.6)
Trong đó: I - Là chỉ số Angstrom để xác định khả năng cháy rừng
R - Độ ẩm không khí thấp nhất trong ngày (%)
T - Nhiệt độ không khí cao nhất trong ngày (0C)
Sau khi tính được chỉ số I theo công thức trên, tiến hành phân mức nguy
cơ cháy rừng theo các cấp như bảng 1.3.
Bảng 1.3: Phân cấp nguy cơ cháy rừng theo chỉ số Angstrom
Cấp cháy
Chỉ số I
Mức nguy cơ cháy rừng
I
I > 4.0
Không có khả năng cháy
II
2.5 ≤ I < 4.0
Ít có khả năng cháy
III
2.0 ≤ I < 2.5
Khả năng cháy rừng trung bình
IV
I < 2.0
Có nhiều khả năng cháy rừng
Phương pháp dự báo này không tính đến ảnh hưởng của các nhân tố khí
tượng: nhiệt độ không khí, độ ẩm không khí, lượng mưa, thời gian mưa và gió
nên chưa phản ánh rõ nét mối quan hệ giữa nhiệt độ không khí, độ ẩm không
khí với vật liệu cháy.
Tuy nhiên đây là phương pháp đơn giản, dễ tính toán nên phương pháp dự
báo cháy rừng theo chỉ số Angstrom vẫn được áp dụng rộng rãi ở Bồ Đào Nha
và nhiều nước thuộc địa cũ của Bồ Đào Nha.
Theo nghiên cứu của Byram [8], [16], khối lượng vật liệu cháy ảnh hưởng
đến cường độ đám cháy thể hiện qua công thức:
I=
(1.7)
Trong đó: I - Cường độ cháy (KW/m)
8
H - Nhiệt lượng cháy của vật liệu cháy (KJ/kg)
W - Khối lượng vật liệu cháy có sẵn (tấn/ha)
R - Tốc độ cháy lan của ngọn lửa phía trước (m/phút)
Cường độ cháy được chia thành 4 cấp theo bảng 1.4.
Bảng 1.4: Phân cấp cường độ cháy theo Byram
Cấp
Cường độ cháy (KW/m)
Chiều cao ngọn lửa lớn nhất (m)
Thấp
I < 500
1.5
Trung bình
500 < I < 3.000
6
Cao
3.000 < I < 7.000
15
Rất cao
I > 7.000
>15
Qua nghiên cứu 103 khu vực bị cháy ở Trung Quốc, Yangmei [8] đã đưa
ra phương pháp dự báo cháy rừng theo chỉ tiêu khả năng bén lửa với trình tự
như sau:
- Dựa vào mối quan hệ của mức độ bén lửa của vật liệu cháy với các yếu
tố: nhiệt độ không khí cao nhất (T14), độ ẩm tương đối không khí nhỏ nhất
trong ngày (R14), số giờ nắng (m), lượng bốc hơi (M).
- Sau đó căn cứ vào trị số của I trung bình để đánh giá mức độ nguy hiểm
của cháy rừng với 5 cấp: không cháy, khó cháy, có thể cháy, dễ cháy và cháy
mạnh.
Phương pháp dự báo nguy cơ cháy rừng theo chỉ tiêu bén lửa của
Yangmei cũng đã tính tới tác động tổng hợp của các nhân tố khí tượng có ảnh
hưởng quan trọng tới khả năng phát sinh và phát triển của cháy rừng trong
những ngày tháng dễ xảy ra cháy rừng một cách định lượng nhưng phương
pháp này còn chưa đề cập tới sự ảnh hưởng của gió cũng như độ ẩm của vật
liệu cháy.
Cho đến những năm đầu của thế kỷ XX, nhiều chuyên gia về lửa rừng ở
9
các nước trên thế giới đã bắt đầu quan tâm đến việc xây dựng các công trình
nhằm hạn chế tác hại của lửa rừng như: làm đường băng trắng, đường băng
xanh cản lửa; đốt trước vật liệu cháy có kiểm soát ở những nơi có nguy cơ
cháy rừng cao…nhằm hạn chế tối đa những thiệt hại mà lửa rừng gây ra cho
nền kinh tế cũng như môi trường sinh thái và tính đa dạng sinh học trong mỗi
hệ sinh thái rừng.
Đến những năm 70 của thế kỷ XX trở lại đây ở các nước đi đầu trong lĩnh
vực quản lý lửa rừng như: Mỹ, Nga, Canada, Phần Lan…đã nghiên cứu và
đưa ra những quy trình đốt trước cho các khu rừng trồng thuần loài có nguy
cơ cháy cao [36]. Đốt trước có kiểm soát được sử dụng phổ biến ở những
nước này và được coi là một biện pháp quản lý rừng hiệu quả.
Năm 1995, ở Trung Quốc, Wu Deyou cùng một số tác giả khác đã tiến
hành nghiên cứu các biện pháp đốt trước có điều khiển dưới rừng Thông đuôi
ngựa, Thông ba lá và Thông vân sam để làm giảm lượng VLC [38]. Theo các
tác giả, khi tiến hành đốt trước cần quan tâm đến 4 nhân tố chính ảnh hưởng
đến khả năng cháy rừng đó là: chiều cao dưới cành, loại vật liệu cháy bề mặt,
sự tích lũy vật liệu cháy và chỉ số khô hạn. Bên cạnh những yếu tố đó thì địa
hình và độ dốc cũng là những nhân tố cần được quan tâm khi thực hiện biện
pháp đốt trước VLC. Kết quả nghiên cứu cho thấy giữa chiều cao bị cháy xém
của cây và tỷ lệ cây bị chết có quan hệ với nhau. Từ đó tác giả đưa ra một số
quy định về việc đốt trước có điều khiển cho các loại rừng trên ở Trung Quốc.
Đây được coi là công trình đầu tiên của Trung Quốc về vấn đề đốt trước VLC
có điều khiển với quy mô lớn.
Nhìn chung có thể thấy rằng các nghiên cứu về dự báo cháy rừng, quản lý
VLC trong công tác PCCCR được bắt đầu và hoàn thiện dần phần lớn từ
những nước ở Châu Âu, Mỹ, Australia…Còn ở những nước đang phát triển,
trong đó có Việt Nam những công trình nghiên cứu mới chủ yếu áp dụng có
10
cải tiến những công trình nghiên cứu của các nước, vì vậy cần có những
nghiên cứu cụ thể để áp dụng trong công tác PCCCR cho phù hợp với từng
địa phương.
1.2. Ở Việt Nam
Công tác dự báo khả năng xuất hiện cháy rừng mới được đề cập đến vào
những năm 70 của thế kỷ XX nhưng chỉ được xem một cách định tính về các
yếu tố khí tượng như: nắng, gió, mưa…Các nghiên cứu về dự báo nguy cơ
cháy rừng được nghiên cứu có định lượng và sâu hơn bắt đầu từ đầu năm
1981.
Năm 1988, Phạm Ngọc Hưng đã áp dụng phương pháp của V.G.Nesterov
trên cơ sở nghiên cứu cải tiến, điều chỉnh hệ số K theo lượng mưa ngày để
tính
toán và xây dựng phương pháp dự báo cháy rừng cho rừng Thông tỉnh Quảng
Ninh [17] theo công thức sau:
Trong đó:
P: Chỉ tiêu tổng hợp đánh giá nguy cơ cháy rừng
K: Hệ số điều chỉnh theo lượng mưa, K có giá trị bằng 1 khi lượng mưa
ngày < 5mm, K có giá trị bằng 0 khi lượng lượng mưa ngày ≥ 5mm.
ti13: Nhiệt độ không khí lúc 13h ngày thứ i (0C)
di13: Độ chênh lệch bão hòa độ ẩm không khí tại thời điểm 13h ngày thứ i (mb)
n: Số ngày không mưa hoặc có mưa nhưng nhỏ hơn 5mm kể từ ngày cuối
cùng có lượng mưa ≥ 5mm.
Sau đó tác giả dựa vào kết quả phân tích mối quan hệ giữa chỉ tiêu P với
số vụ cháy đã xảy ra trong10 năm để chỉnh lý ngưỡng của các cấp dự báo
cháy rừng ở Quảng Ninh, kết quả được ghi ở bảng 1.5.
11
Bảng 1.5: Phân cấp cháy rừng Thông theo chỉ tiêu P ( Phạm Ngọc Hưng)
Cấp cháy
Độ lớn của P
Khả năng cháy rừng
I
<1000
Ít có khả năng cháy rừng
II
1001-2500
Có khả năng cháy rừng
III
2501-5000
Nhiều khả năng cháy rừng
IV
5001-10000
Nguy hiểm về cháy rừng
V
>10000
Cực kỳ nguy hiểm đối với cháy rừng
Năm 1991, A.N.Cooper, chuyên gia về quản lý cháy rừng của FAO, sau
khi khảo sát một số địa phương nước ta đề nghị sử dụng phương pháp của
V.G. Nesterov nhưng cần phải tính tới tốc độ gió[37]. Sau khi tính chỉ tiêu P
nhân với
hệ số gió như sau:
Khi tốc độ gió là 0 - 4km/h
P×1
Khi tốc độ gió từ 5 - 15km/h
P ×1.5
Khi tốc độ gió từ 16 - 25km/h
P ×2
Khi tốc độ gió lớn hơn 25km/h
P ×3
Sau khi tính chỉ tiêu P thì giá trị P mới (Pm) cho Việt Nam từ đó ông phân
cấp nguy cơ cháy rừng thành 4 cấp theo bảng 1.6.
Bảng 1.6: Cấp cháy cho rừng Thông của Việt Nam (theo A.N. Cooper, 1991)
Cấp cháy
Đặc trưng cấp cháy
Chỉ số P
Chỉ thị theo màu
< 4000
Xanh
I
Có nguy hiểm cháy thấp
II
Có nguy hiểm cháy trung bình
4001 - 12000
Vàng
III
Có nguy hiểm cháy cao
12001 - 30000
Da cam
IV
Có nguy hiểm cháy rất cao
> 30000
Đỏ
Yếu tố gió được đo vào lúc 13h hàng ngày ở độ cao 10m trên đỉnh đồi.
Tuy nhiên, do đặc tính của gió là có thể thay đổi nhanh cả về hướng gió và tốc
12
độ nên hệ số gió thường chỉ có thể có giá trị cao nhất 24 giờ kể từ khi đo tính.
Tuy vậy đến nay phương pháp này vẫn đang được thử nghiệm và nghiên cứu tiếp.
Phó Đức Đỉnh thử nghiệm đốt trước vật liệu cháy dưới rừng Thông non 2
tuổi ở Đà Lạt [14]. Theo tác giả, ở rừng Thông non nhất thiết phải gom vật
liệu cháy vào giữa các hàng cây hoặc nơi trống để đốt, chọn thời tiết để đốt để
ngọn lửa cháy âm ỉ, không cao quá 0.5m, nếu cao quá có thể gây cháy tán cây.
Tuy nhiên, đây là một công trình nghiên cứu chưa toàn diện vì tác giả chưa đề
cập đến những yếu tố như: khí tượng, địa hình có ảnh hưởng đến cháy rừng.
Đồng thời biện pháp này đòi hỏi nhiều công sức và kinh phí thực hiện nên
khó áp dụng được trên diện rộng.
Năm 1995, Phan Thanh Ngọ nghiên cứu một số giải pháp PCCCR cho
rừng Thông ba lá và rừng Tràm ở Việt Nam [22]. Tác giả đã thử nghiệm và đề
xuất giải pháp phòng cháy chủ động cho rừng Thông ba lá ở Đà Lạt và Nghệ
An. Theo tác giả, với rừng Thông lớn tuổi không cần phải gom vật liệu cháy
mà trước khi đốt chỉ cần tuân thủ những nguyên tắc về chọn thời điểm và thời
tiết thích hợp để đốt. Tác giả cũng cho rằng có thể áp dụng đốt trước vật liệu
cháy cho một số trạng thái rừng ở địa phương khác. Tuy nhiên nghiên cứu
mới chỉ áp dụng cho các lâm phần Thông trên 10 tuổi còn những trạng thái
khác thì chưa được đề cập đến.
Năm 1995, Võ Đình Tiến và các cộng sự đã tiến hành dự báo cháy rừng
theo phương pháp chỉ tiêu tổng hợp P cải tiến và chỉ số khô hạn của Phạm
Ngọc Hưng dựa vào các yếu tố: khí hậu và thời tiết, loại rừng, VLC, địa hình
và các yếu tố khí tượng. Từ đó để đưa ra chỉ tiêu nguy hiểm cháy rừng và tiến
hành phân cấp trọng điểm cháy dựa vào sự ảnh hưởng của các yếu tố khí tượng
đến độ ẩm vật liệu cháy [28]. Tác giả đã phân vùng trọng điểm cháy rừng cho
Bình Thuận dựa vào những điều kiện khí tượng riêng biệt của vùng và rất quan
tâm đến yếu tố con người là một trong những nguyên nhân gây cháy rừng.
13
Năm 2001, Bế Minh Châu [6] đã nghiên cứu ảnh hưởng của các điều kiện
khí tượng đến độ ẩm và khả năng cháy và vật liệu cháy dưới tán rừng Thông
ở miền Bắc Việt Nam. Kết quả nghiên cứu cho thấy ảnh hưởng của các yếu
tố: lượng mưa, nhiệt độ, độ ẩm không khí, số ngày không mưa liên tục, số
ngày mưa liên tục và độ ẩm vật liệu cháy ngày hôm trước tới độ ẩm vật liệu
cháy chúng có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, thể hiện qua những phương
trình tương quan.
Tác giả đã nghiên cứu tại 3 khu vực: huyện Hoành Bồ - Quảng Ninh, Hà
Trung - Thanh Hóa và Nam Đàn - Nghệ An, kết quả cho thấy cả 3 khu vực
khi áp dụng các phương trình dự báo độ ẩm VLC để có sai số tích lũy theo
thời gian. Trong 5 ngày, sai số trung bình là 7%, trong 10 ngày liên tục sai số
trung bình là 8.5%, trong 15 ngày liên tục sai số trung bình xấp xỉ 10% và
trong khoảng 20 ngày liên tục sai số trung bình trong cả 3 khu vực là lớn hơn
10%. Do đó để đảm bảo độ chính xác cho công tác dự báo chính xác thì sau
10 ngày phải xác định lại độ ẩm vật liệu cháy bổ sung. Từ đó tác giả đưa ra
được biểu phân cấp cháy rừng theo độ ẩm VLC như bảng 1.7.
Bảng 1.7: Phân cấp cháy rừng theo độ ẩm VLC
Cấp
Độ ẩm
Tốc độ cháy
Biến đổi của
Khả năng xuất hiện
cháy
VLC (%)
(m/s)
tốc độ cháy
cháy rừng
I
> 50
Không cháy
Không có khả năng cháy
II
33 - 50
0.002 - 0.0037
Chậm
Ít có khả năng cháy,
không nguy hiểm
III
IV
17 - 32.9
10 - 16.9
0.0038 - 0.0063
0.0064 - 0.0096
Tương đối
Có khả năng cháy,
nhanh
tương đối nguy hiểm
Nhanh
Có nhiều khả năng cháy,
nguy hiểm
V
< 10
> 0.0096
Rất nhanh
Rất dễ bắt cháy,
cực kỳ nguy hiểm
14
Từ năm 2002, trường Đại học Lâm nghiệp phối hợp với Cục Kiểm lâm đã
xây dựng phần mềm dự báo cháy rừng cho Việt Nam. Ưu điểm của phần
mềm này là cho phép liên kết được phương tiện hiện đại vào công tác dự báo
và truyền tin về nguy cơ cháy rừng, tự động cập nhật, lưu trữ số liệu và xác
định nguy cơ cháy cho các địa phương. Phần mềm này đã góp phần tích cực
trong việc nâng cao nhận thức về phòng cháy chữa cháy rừng của cán bộ và
nhân dân cả nước. Tuy nhiên, phần mềm dự báo cháy rừng sau một thời gian
áp dụng đã thể hiện một số tồn tại sau: nguy cơ cháy rừng được đồng nhất cho
những đơn vị hành chính rộng lớn và đồng nhất cho các kiểu rừng khác nhau.
Trong khi đó, điều kiện khí hậu và nguy cơ cháy rừng phân hoá mạnh theo
không gian và cả các trạng thái rừng. Vì vậy tính chính xác của thông tin dự
báo cháy rừng chưa cao.
Năm 2002 - 2005, Vương Văn Quỳnh và các cộng sự đã tiến hành nghiên
cứu phân vùng trọng điểm cháy rừng cho vùng Tây Nguyên và U Minh [24].
Nhóm tác giả căn cứ vào khí hậu, địa hình, trạng thái rừng để phân vùng trọng
điểm cháy rừng. Tuy vậy, việc phân vùng chưa tính tới ảnh hưởng của các
yếu tố xã hội và chưa xây dựng rộng rãi cho các địa phương khác.
Năm 2004 - 2006, Lê Thị Hiền và các cộng sự đã thực hiện đề tài nghiên
cứu cơsở khoa học để hiệu chỉnh phương pháp dự báo cháy rừng ở các tỉnh
phía Bắc [15]. Đề tài đã nghiên cứu được đặc điểm phân hóa của một số nhân
tố khí tượng, phân hóa tiểu khí hậu và nguy cơ cháy rừng ở các kiểu rừng có
nguy cơ cháy cao ở các tỉnh phía Bắc. Từ đó làm cơ sở nghiên cứu hiệu chỉnh
phương pháp dự báo cháy rừng cho các tỉnh phía Bắc, là công thức dự báo
cháy rừng ở Miền Bắc có dạng chung của của công thức dự báo nguy cơ cháy
rừng của Việt Nam - công thức của Nesterov. Tuy nhiên đây là công thức dự
báo cho một vùng không phải cho một khu vực đơn lẻ, do đó sẽ gặp khó khăn
cho một số địa phương.
15
Năm 2004, Nguyễn Tiến Đạt đã nghiên cứu phương pháp dự báo cháy
rừng cho một số kiểu rừng dễ cháy tỉnh Gia Lai [12]. Tác giả đã nghiên
cứu đặc điểm cấu trúc một số trạng thái rừng với nguy cơ cháy rừng và đưa ra
một số phương trình dự báo độ ẩm vật liệu cháy, tốc độ cháy dưới rừng
Thông và rừng Khộp ở khu vực nghiên cứu để giúp cho việc bố trí lực lượng
và phương tiện chữa cháy. Tuy nhiên, đề tài vẫn chưa thử nghiệm được tốc độ
cháy của vật liệu cháy cho từng trạng thái rừng nên chưa xác định được cấp
cháy cho từng trạng thái rừng, phải kế thừa phân cấp nguy cơ cháy rừng của
các nghiên cứu trước mà chưa có kiểm nghiệm độ chính xác.
Năm 2006, Vương Văn Quỳnh và các cộng sự đã nghiên cứu xây dựng
phần mềm dự báo lửa rừng cho khu vực U Minh và Tây Nguyên. Phần mềm
này khắc phục được một số nhược điểm của phần mềm xây dựng năm 2002 .
Cho đến nay phương pháp dự báo cháy rừng ở nước ta vẫn còn mới mẻ,
trong đó vẫn chưa tính đến đặc điểm của trạng thái rừng, đặc điểm khí hậu và
điều kiện kinh tế xã hội có ảnh hưởng tới cháy rừng từng địa phương.
Năm 2007, Lê Văn Tập nghiên cứu cơ sở khoa học để hiệu chỉnh cấp dự
báo nguy cơ cháy rừng cho các tỉnh vùng Bắc Trung Bộ [25]. Tác giả đã
nghiên cứu trên 3 loại rừng:
Loại 1: là rất dễ cháy bao gồm rừng tre nứa tự nhiên, rừng trồng Thông, tre
luồng và một số trạng thái thực bì như ràng ràng, cỏ tranh, lau lách…
Loại 2: là rừng dễ cháy gồm một số trạng thái rừng trồng ngoài Thông,
trạng thái Ia, Ib.
Loại 3: là rừng ít có khả năng cháy là rừng tự nhiên và rừng ngập mặn.
Qua nghiên cứu tác giả đã đưa ra bảng hiệu chỉnh chỉ tiêu P cho 2 loại
rừng rất dễ cháy và dễ cháy cho khu vực Bắc Trung Bộ, hệ số điều chỉnh
chính là hệ số. Đề tài nghiên cứu đã kết luận: Đặc điểm cấu trúc có ảnh hưởng
rõ rệt đến nguy cơ cháy rừng của các kiểu rừng khác nhau. Nhưng nghiên cứu
16
mới chỉ đưa ra các yếu tố khí tượng có ảnh hưởng đến biến đổi vật liệu cháy
là nhiệt độ, độ ẩm không khí, lượng mưa mà chưa đưa ra ảnh hưởng của gió
đến vật liệu cháy.
Năm 2007, Hà Văn Hoan đã nghiên cứu một số giải pháp nhằm quản lý
vật liệu cháy cho rừng trồng tại huyện Cam Lộ, Tỉnh Quảng Trị [16]. Tác giả
đã thử nghiệm trên rừng Thông 6 tuổi, 10 tuổi, 20 tuổi và rừng Keo lá Tràm 3
tuổi, 6 tuổi. Nghiên cứu chỉ ra những nhân tố ảnh hưởng đến đặc tính đám
cháy bao gồm: khối lượng vật liệu cháy, độ ẩm vật liệu cháy, loại thực bì. Tuy
nhiên nghiên cứu chưa đề cập đến một số yếu tố khí tượng ảnh hưởng đến
VLC, ảnh hưởng của địa hình đến vật liệu cháy.
Năm 2008, Trần Văn Thắng đã nghiên cứu xây dựng giải pháp quản
lý thủy văn phục vụ phòng cháy chữa cháy rừng vườn quốc gia U Minh
Thượng, tỉnh Kiên Giang [27]. Kết quả nghiên cứu cho thấy để đảm bảo an
toàn cho rừng Tràm trên than bùn không bị cháy thì mực nước cần đảm bảo
duy trì ở mức ngập 50 cm so với mặt than bùn. Kết quả này làm cơ sở cho
việc điều tiết chế độ thủy văn phục vụ công tác PCCCR ở VQG U Minh
Thượng nhưng lại chưa có cơ hội để kiểm nghiệm thực tế.
Năm 2008, Nguyễn Tuấn Anh đã phân vùng trọng điểm cháy cho tỉnh
Quảng Bình [1].Tác giả đã đưa ra được mối quan hệ giữa nhiệt độ không khí
và lượng mưa trung bình theo kinh độ, vĩ độ và độ cao để có thể phân vùng
trọng điểm cháy của Quảng Bình theo điều kiện khí hậu và địa hình thành 5
cấp. Tuy nhiên đề tài mới chỉ dừng lại ở một số trạng thái rừng điển hình của
khu vực, chưa có nghiên cứu về ảnh hưởng của các yếu tố kinh tế - xã hội đến
nguy cơ cháy rừng.
Năm 2009, Nguyễn Đình Thành đã nghiên cứu giải pháp kỹ thuật lâm sinh
nhằm giảm thiều nguy cơ cháy rừng trồng ở Bình Định [26]. Tác giả đã tiến
hành nghiên cứu trên trạng thái Bạch đàn và Keo ở các tuổi khác nhau, ảnh
17
hưởng của vật liệu cháy, độ ẩm vật liệu cháy và độ dốc đến khả năng cháy
rừng, đồng thời cũng đưa ra một số loài cây trồng làm băng xanh để giảm
thiểu nguy cơ cháy rừng như: Sao đen, Muồng đen, Chò chỉ, Xà cừ, Dầu rái,
Xoan ta, Bời lời nhớt, Sữa, Keo lá tràm, Keo lai. Tác giả cũng đã nghiên cứu
thấy rằng với rừng trồng Bạch đàn thì việc đốt trước có hiệu quả hơn việc áp
dụng biện pháp vệ sinh rừng. Tuy nhiên việc nghiên cứu mới chỉ thử nghiệm
trên diện tích chưa rộng và việc lựa chọn loài cây trồng làm băng cản lửa chưa
được thử nghiệm trên từng điều kiện lập địa. Vì vậy cần có những nghiên cứu
cho các vùng lân cận để đánh giá chính xác hơn của nghiên cứu này. Trong
quá trình nghiên cứu tác giả đã đưa ra bảng phân cấp khả năng xuất hiện cháy
rừng theo độ ẩm VLC. Việc dự báo khả năng cháy rừng và phân cấp mức độ
nguy hiểm của cháy rừng cho từng ngày cụ thể cần phải xác định chính xác
độ ẩm vật liệu trong ngày đó. Nhưng thực tế điều này rất khó làm, nên việc dự
báo phải thông qua yếu tố khí tượng.
Nhìn chung quá trình nghiên cứu ở Việt Nam cho thấy rằng các tác giả đã
vận dụng những phương pháp của thế giới thay đổi cho phù hợp với điều kiện
của chúng ta. Tuy nhiên thì việc nghiên cứu mới chỉ quan tâm nhiều đến nhân
tố VLC, còn vấn đề quản lý nguồn VLC và các vấn đề kinh tế xã hội thì chưa
được đi sâu nghiên cứu.
Thị xã Uông Bí thuộc tỉnh Quảng Ninh, có diện tích đất Lâm nghiệp khá
lớn với nhiều diện tích rừng dễ cháy, tuy nhiên chưa có một nghiên cứu cụ thể
nào về công tác PCCCR. Do đó, nghiên cứu xây dựng các giải pháp quản lý
cháy rừng cho thị xã Uông Bí là rất cần thiết.
18
Chương 2: MỤC TIÊU, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Mục tiêu nghiên cứu
2.1.1. Mục tiêu chung
Góp phần hoàn thiện và nâng cao hiệu quả của công tác quản lý cháy rừng
tại thị xã Uông Bí, tỉnh Quảng Ninh.
2.1.2. Mục tiêu cụ thể
- Đánh giá được thực trạng công tác quản lý cháy rừng tại thị xã Uông Bí
- Đề xuất các giải pháp quản lý cháy rừng phù hợp cho khu vực thị xã
Uông Bí, tỉnh Quảng Ninh
2.2. Đối tượng nghiên cứu
Các trạng thái rừng chủ yếu của khu vực thị xã Uông Bí gồm: rừng trồng
Thông, rừng trồng Keo và trạng thái rừng tự nhiên (IIa, IIb, IIIa1), trạng thái
Ia, Ib và Ic.
2.3. Giới hạn nghiên cứu
Đề tài chỉ tập trung vào nghiên cứu một số trạng thái rừng chủ yếu của thị
xã Uông Bí, đặc biệt ở những khu vực như: phường Bắc Sơn, phường Thượng
Yên Công nơi có nhiều rừng tự nhiên, rừng trồng trong khu vực.
Đề tài chỉ tiến hành nghiên cứu định lượng về ảnh hưởng của các nhân tố
như độ ẩm VLC, vận tốc gió và độ dốc với một số đặc trưng của đám cháy là
tốc độ và chiều cao ngọn lửa của đám cháy khởi khởi đầu.
2.4. Nội dung nghiên cứu
Đề tài tiến hành nghiên cứu những nội dung chủ yếu sau:
(1) Đặc điểm rừng và tình hình cháy rừng tại thị xã Uông Bí.
- Diện tích và sự phân bố các loại rừng
- Đặc điểm cấu trúc một số trạng thái rừng chủ yếu.
- Tình hình cháy rừng tại khu vực.
19
(2) Ngiên cứu dặc điểm một số nhân tố chủ yếu ảnh hưởng tới cháy
rừng tại thị xã Uông Bí
+ Đặc điểm vật liệu cháy
- Khối lượng, bề dầy, và độ ẩm VLC
- Ảnh hưởng của VLC tới tốc độ và chiều cao ngọn lửa ở các trạng thái rừng
+ Ảnh hưởng của tốc độ gió tới khả năng cháy rừng
+ Đặc điểm độ dốc
(3 )Đánh giá thực trạng công tác quản lý cháy rừng tại khu vực nghiên cứu
- Công tác tổ chức
- Công tác giáo dục - tuyên truyền
- Kỹ thuật phòng chống cháy rừng
- Trang thiết bị PCCCR
(4) Đề xuất các giải pháp quản lý cháy rừng cho thị xã Uông Bí
* Giải pháp về tổ chức - thể chế
* Giải pháp về kỹ thuật
+ Xây dựng bản đồ quản lý cháy rừng
+ Quản lý vật liệu cháy
- Vệ sinh rừng
- Trồng rừng hỗn giao
- Xây dựng đường băng cản lửa
- Đốt trước có điều khiển
* Giải pháp kinh tế - xã hội
2.5. Phương pháp nghiên cứu
2.5.1. Phương pháp luận
Rừng là một hệ sinh thái bao gồm các thành phần sống và không sống, có
quan hệ mật thiết với nhau. Muốn nghiên cứu những quy luật diễn ra với hệ
sinh thái rừng cần phải nghiên cứu đầy đủ các thành phần trong hệ sinh thái.
20
Tuy nhiên do giới hạn thời gian, đề tài chỉ nghiên cứu những thành phần ảnh
hưởng quyết định đến nguy cơ cháy rừng như: cấu trúc rừng, thành phần vật
liệu cháy, khí hậu khu vực nghiên cứu...
Cấu trúc rừng là quy luật sắp xếp tổ hợp của các thành phần cấu tạo nên
quần thể rừng theo không gian và thời gian. Các đặc điểm về cấu trúc như: loài
cây, mật độ, độ tàn che, độ che phủ...có ảnh hưởng lớn đến khả năng xuất hiện
và lan rộng đám cháy. Mặt khác cấu trúc rừng còn ảnh hưởng đến việc hình
thành tiểu khí hậu, làm thay đổi các chỉ tiêu về độ ẩm không khí, nhiệt độ, tốc
độ gió...và các yếu tố này lại ảnh hưởng trực tiếp đến nguy cơ cháy rừng.
Cháy rừng chỉ xuất hiện khi có đầy đủ cả 3 yếu tố: oxi, nguồn lửa và vật
liệu cháy. Thiếu một trong ba yếu tố này thì cháy rừng không xảy ra. Trong
các yếu tố nói trên, Oxi luôn có sẵn trong không khí (khoảng 21%), luôn đủ
đáp ứng để duy trì và phát triển đám cháy. Nguồn lửa chủ yếu do con người
mang đến hoặc do các hiện tượng của tự nhiên sấm sét, nhưng khó kiểm soát.
Vật liệu cháy phụ thuộc vào độ ẩm, khi có độ ẩm nhỏ sẽ dễ cháy còn khi có
độ ẩm lớn sẽ không cháy hoặc quá trình cháy sẽ tự tắt. Điều này phụ thuộc
vào điều kiện khí hậu. Vật liệu cháy, là tất cả vật chất hữu cơ ở trong rừng có
thể bắt lửa và bốc cháy, bao gồm cả chất hữu cơ trong đất và trên mặt đất,
nhưng vật liệu chỉ có thể cháy khi độ ẩm thấp. Nhiều công trình nghiên cứu
về dự báo cháy rừng đã kết luận: độ ẩm và khả năng cháy rừng phụ thuộc chủ
yếu vào điều kiện khí hậu và cấu trúc rừng. Độ ẩm vật liệu cháy là yếu tố dễ
thay đổi nhất dưới ảnh hưởng của điều kiện thời tiết, độ ẩm không khí,
gió…Sự khác biệt về thời tiết, khí hậu trong lãnh thổ là do sự khác biệt về
điều kiện địa hình. Do đó khi đề xuất các giải pháp phòng cháy, chữa cháy
người ta thường căn cứ vào các quy luật ảnh hưởng của vật liệu cháy đến
cháy rừng và đặc điểm biến đổi của chúng trong khu vực.. Trong đó cũng phải
thừa nhận thấy rằng lửa rừng là nhân tố chịu ảnh hưởng cả của yếu tố tự nhiên
21
và xã hội. Việc quản lý lửa rừng phải dựa trên cả những đặc điểm về kinh tế
và xã hội mới đạt được hiệu quả cao.
2.5.2. Phương pháp thu thập số liệu
* Phương pháp kế thừa
Đề tài kế thừa những tài liệu nghiên cứu có liên quan như: khí hậu khu vực
nghiên cứu, điều kiện tự nhiên kinh tế xã hội, công tác phòng chống cháy rừng
của Hạt kiểm lâm thị xã Uông Bí, thống kê tình hình cháy rừng trong nhiều
năm của khu vực...Kết hợp với điều tra thực tế.
* Phương pháp điều tra đặc trưng cấu trúc rừng
Trên địa điểm nghiên cứu đã lựa chọn, đề tài tiến hành lập 17 ô tiêu chuẩn
phân bố ở các trạng thái rừng tự nhiên và rừng trồng. Thông tin về cấu trúc các
trạng thái rừng được thu thập bằng phương pháp điều tra trên các ô tiêu chuẩn
điển hình tạm thời. Diện tích mỗi ô tiêu chuẩn là 500m2. Trên mỗi ô tiêu chuẩn
lập 5 ô dạng bản để điều tra cây bụi thảm tươi, cây tái sinh. Bộ mẫu biểu điều
tra ngoài thực địa được trình bày ở phụ lục 01 phần phụ biểu.
- Đường kính D1.3 được xác định bằng thước kẹp kính có độ chính xác
đến mm
- Chiều cao vút ngọn (Hvn) và chiều cao dưới cành (Hdc) của tầng cây cao
được xác định bằng thước Blume-lessi có độ chính xác đến 0.5m.
- Đường kính tán của tầng cây cao được xác định bằng sào có độ chính xác
đến 0.1m
- Xác định độ tàn che bằng phương pháp hệ thống mạng lưới 100 điểm
được bố trí ngẫu nhiên, cách đều trong các ô tiêu chuẩn.
Lớp cây tái sinh cây bụi, thảm tươi được điều tra trên 5 ô dạng bản phân
bố ở bốn góc và giữa ô tiêu chuẩn, diện tích mỗi ô dạng bản là 25m2
(5m*5m). Trong mỗi ô dạng bản tiến hành điều tra chiều cao, độ che phủ và
tình hình sinh trưởng của cây bụi, thảm tươi. Cây tái sinh được điều tra theo
22
nguồn gốc tái sinh (chồi hay hạt), chiều cao phân 3 cấp (<0.5m, từ 0.5 - 1m, >
1m), chất lượng được đánh giá theo 3 cấp (tốt, trung trình, xấu).
- Chiều cao cây tái sinh được xác định bằng sào có độ chính xác đến dm.
- Chất lượng cây tái sinh được đánh giá qua hình dạng thân và tán lá.
* Điều tra đặc điểm vật liệu cháy
- Vật liệu cháy được điều tra trên 15 ô dạng bản có diện tích 1m2 phân bố
đều trong ô tiêu chuẩn. Xác định khối lượng của vật liệu cháy bằng cách thu
gom toàn bộ VLC trong ô dạng bản chia thành 3 loại: thảm tươi, thảm khô và
thảm mục; từng loại được cân riêng bằng cân có độ chính xác đến 10 gam,
sau đó tính trung bình cho cả ô tiêu chuẩn (tấn/ha).
- Độ ẩm VLC: Lấy mẫu VLC ở các ÔTC trong thời gian sau 5 ngày không
có mưa, xác định độ ẩm của chúng bằng phương pháp cân sấy.
Khả năng cháy của vật liệu và tốc độ lan tràn của đám cháy được xác định
qua kết quả đốt thử. Trên mỗi ô tiêu chuẩn tiến hành đốt thử trên 3 ô mẫu,
diện tích đốt thử là 1m2 (1m×1m). Trước khi đốt, xác định khối lượng VLC,
tốc độ gió, độ dốc... Trong quá trình đốt xác định chiều cao ngọn lửa, tốc độ
đám cháy, thời gian ngọn lửa cháy hết và ảnh hưởng của đám cháy tới hệ thực
vật rừng xung quanh. Khi đốt chuẩn bị đầy đủ các yêu cầu để đảm bảo an toàn
tránh để cháy lan.
+ Quan trắc các yếu tố khí tượng ở khu vực nghiên cứu
Để phân tích ảnh hưởng của các yếu tố khí tượng đến độ ẩm vật liệu cháy
và nguy cơ cháy rừng, đề tài tiến hành quan trắc số liệu khí tượng bằng các
thiết bị của phòng thí nghiệm sinh thái môi trường của Trường cao đẳng Nông
Lâm Đông bắc. Các chỉ tiêu đo quan trắc như sau:
- Nhiệt độ không khí xác định bằng nhiệt kế điện tử có độ chính xác đến 0.10.
- Độ ẩm không khí được xác định bằng ẩm kế điện tử có độ chính xác đến
1%. Thời gian tổ chức quan trắc điều kiện khí tượng hiện trạng rừng là 42
23
ngày. Các yếu tố khí tượng được đo vào 13 giờ hàng ngày. Đây là thông tin cần
thiết để phân tích quan hệ giữa tốc độ cháy của vật liệu với các yếu tố khí tượng.
* Điều tra đánh giá thực trạng công tác quản lý cháy rừng tại khu vực
nghiên cứu
- Sử dụng bản đồ hiện trạng rừng của thị xã Uông Bí kết hợp với đi khảo
sát ngoài thực tế.
- Phỏng vấn thu thập thông tin, số liệu tại UBND thị xã Uông Bí
- Khảo sát thực tế các biện pháp, công trình phòng cháy chữa cháy rừng
2.5.3. Phương pháp xử lý số liệu
* Xác định công thức tổ thành rừng tự nhiên
+ Thống kê thành phần số loài, số lượng cá thể trong mỗi loài..
+ Tính số cá thể bình quân cho mỗi loài theo công thức:
Ntb =
Trong đó: Ntb: số cá thể trung bình/ một loài;
N: tổng số cá thể của các loài
m: tổng số loài điều tra
- Xác định hệ số tổ thành loài
Ki=
x 10
- Những loài nào có N ≥ Ntb sẽ là những loài tham gia vào công thức tổ thành.
- Những loài có hệ số K > 0,5 ghi dấu +
- Những loài có hệ số K < 0,5 ghi dấu Trong đó: ni: Tổng số cá thể loài i, N tổng số cá thể loài.
* Xử lý và phân tích thông tin được thực hiện theo phương pháp thống kê
toán học trên máy vi tính bằng phần mềm Ecxel và SPSS.
Để đánh giá nguy cơ cháy rừng ở khu vực nghiên cứu, đề tài lựa chọn một
số trạng thái rừng chủ yếu ở thị xã Uông Bí. Sử dụng phương pháp chỉ số
canh tác cải tiến Ect có trọng số. Ở phương pháp này các yếu tố ảnh hưởng
đến cháy rừng sẽ có trọng số khác nhau. Số liệu được chuẩn hóa theo phương
24
pháp đối lập.
Với những yếu tố giá trị càng cao, càng làm tăng khả năng bén lửa và hình
thành đám cháy khởi đầu : Fij =
Với những yếu tố giá trị càng cao, càng làm giảm khả năng bén lửa và
hình thành đám cháy khởi đầu : Fij =
Tiến hành lập bảng tính điểm cho các trạng thái rừng, với trọng số và giá
trị của từng yếu tố từng trạng thái đã được chuẩn hóa.
Sau khi xác định Ect cho từng trạng thái, tiến hành phân chia chúng thành
các cấp nguy cơ cháy rừng cháy (NCCR) rừng khác nhau theo giá trị Ect
- Lập bản đồ quản lý cháy rừng thể hiện những thông tin:
Thông tin về bố trí các công trình PCCCR, trụ sở của Ban chỉ huy PCCCR
thị xã Uông Bí...
Nguy cơ cháy rừng ở trong khu vực được đánh giá theo 4 cấp:
Cấp I: Ít nguy hiểm
Cấp II: Trung bình
Cấp III: Cao
Cấp IV: Rất cao
Cơ sở phân cấp dựa vào tổng số các chỉ tiêu ở các trạng thái rừng: khối
lượng VLC, độ ẩm, chiều cao dưới cành, chiều cao thảm tươi, cây bụi, độ
dốc, hàm lượng dầu nhựa dễ cháy, vận tốc cháy của các trạng thái rừng.