Tải bản đầy đủ (.pdf) (112 trang)

LVTS 2015 giám đốc thẩm tái thẩm trong giải quyết tranh chấp đất đai tại tòa án

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.53 MB, 112 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

NINH THỊ KHÁNH TÂN

GI¸M §èC THÈM, T¸I THÈM
TRONG GI¶I QUYÕT TRANH CHÊP §ÊT §AI T¹I TßA ¸N

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI - 2015


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

NINH THỊ KHÁNH TÂN

GI¸M §èC THÈM, T¸I THÈM
TRONG GI¶I QUYÕT TRANH CHÊP §ÊT §AI T¹I TßA ¸N
Chuyên ngành: Luật Kinh tế
Mã số: 60 38 01 07

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Người hướng dẫn khoa học: TS. ĐẶNG QUANG PHƢƠNG

HÀ NỘI - 2015


LỜI CAM ĐOAN


Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng
tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ
công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm
bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các
môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định
của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi
có thể bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƯỜI CAM ĐOAN

Ninh Thị Khánh Tân


MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các từ viết tắt
Danh mục các bảng, bảng phụ lục
Danh mục biểu đồ phụ lục
MỞ ĐẦU ....................................................................................................................1
Chƣơng 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ GIÁM ĐỐC THẨM, TÁI
THẨM TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ .......................................................7
1.1.

Khái niệm giám đốc thẩm, tái thẩm dân sự ..............................................7

1.1.1.


Sự cần thiết của thủ tục giám đốc thẩm, tái tẩm ...........................................7

1.1.2.

Khái niệm giám đốc thẩm dân sự ..................................................................9

1.1.3.

Khái niệm tái thẩm dân sự...........................................................................13

1.1.4.

Tính chất, đặc điểm của giám đốc thẩm và tái thẩm dân sự .......................18

1.2.

Vai trò, chức năng và ý nghĩa của giám đốc thẩm, tái thẩm dân sự ........21

1.2.1.

Vai trò, chức năng của giám đốc thẩm, tái thẩm dân sự .............................21

1.2.2.

Ý nghĩa của giám đốc thẩm, tái thẩm dân sự ..............................................21

1.3.

Quy định của Bộ luật tố tụng dân sự về giám đốc thẩm, tái thẩm .......25


1.3.1.

Những điểm mới về giám đốc thẩm, tái thẩm của Luật sửa đổi bổ
sung một số điều của Bộ luật Tố tụng dân sự. ............................................25

1.3.2.

Quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự về giám đốc thẩm, tái thẩm .............27

Chƣơng 2: THỰC TIỄN GIÁM ĐỐC THẨM, TÁI THẨM CÁC BẢN
ÁN, QUYẾT ĐỊNH CỦA TÒA ÁN ĐÃ CÓ HIỆU LỰC PHÁP
LUẬT TRONG GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP ĐẤT ĐAI ...................50
2.1.

Các tranh chấp đất đai thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án
nhân dân .....................................................................................................50

2.2.

Kết quả giám đốc thẩm, tái thẩm các bản án, quyết định của Tòa
án đã có hiệu lực pháp luật trong giải quyết tranh chấp đất đai ..........53

2.3.

Những vi phạm, sai lầm trong giám đốc thẩm, tái thẩm các bản
án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực về tranh chấp đất đai ..........62


2.3.1.


Chất lượng kháng nghị giám đốc thẩm, tái thẩm trong giải quyết
tranh chấp đất đai chưa được đảm bảo ........................................................62

2.3.2.

Quyết định giám đốc thẩm, tái thẩm còn chưa thực sự được Tòa án
cấp dưới tôn trọng và tồn tại tình trạng xét xử nhiều lần không có
điểm dừng ....................................................................................................65

2.4.

Nguyên nhân của những vi phạm, sai lầm trong giám đốc thẩm,
tái thẩm trong giải quyết tranh chấp đất đai ..........................................73

2.4.1.

Quy định pháp luật tố tụng chưa đầy đủ và cụ thể ......................................73

2.4.2.

Quy định của pháp luật về đất đai, giải quyết tranh chấp đất đai chưa
đồng bộ, cụ thể ............................................................................................79

2.4.3.

Trách nhiệm và trình độ của những người có thẩm quyền giám đốc
thẩm, tái thẩm ..............................................................................................79

2.4.4.


Công tác tổng hợp, ra văn bản hướng dẫn áp dụng thống nhất pháp
luật chưa được thường xuyên, kịp thời .......................................................80

Chƣơng 3: CÁC YÊU CẦU VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT
LƢỢNG GIÁM ĐỐC THẨM, TÁI THẨM TRONG GIẢI
QUYẾT TRANH CHẤP ĐẤT ĐAI TẠI TÒA ÁN ................................81
3.1.

Các yêu cầu nâng cao chất lƣợng giám đốc thẩm, tái thẩm ..................81

3.2.

Các giải pháp nâng chất lƣợng giám đốc thẩm, tái thẩm trong
giải quyết tranh chấp đất đai tại Toà án .................................................82

3.2.1.

Hoàn thiện quy định về việc xử lý đơn thư, khiếu nại ................................82

3.2.2.

Hoàn thiện quy định về căn cứ kháng nghị giám đốc thẩm, tái thẩm .........83

3.2.3.

Hoàn thiện quy định về thẩm quyền kháng nghị giám đốc thẩm, tái thẩm .......86

3.2.4.


Hoàn thiện quy định về thẩm quyền và quyền hạn xét xử giám đốc
thẩm, tái thẩm ..............................................................................................87

3.2.5.

Hoàn thiện quy định về rút quyết định kháng nghị giám đốc thẩm,
tái thẩm .......................................................................................................88

3.2.6.

Tăng cường công tác giám đốc việc xét xử và xây dựng án lệ ...................89

3.2.7.

Tăng cường năng lực cho những người làm công tác giám đốc xét xử ............89

3.2.8.

Thường xuyên tổ chức các chương trình trao đổi nghiệp vụ, giải đáp
các vướng mắc trong quá trình giải quyết các loại án, đặc biệt là án
tranh chấp về đất đai....................................................................................90


3.2.9.

Nâng cao nhận thức pháp luật của nhân dân về giám đốc thẩm, tái
thẩm, nâng cao kiến thức pháp luật trong nhân dân ....................................90

3.2.10. Giải pháp khác .............................................................................................91
KẾT LUẬN ..............................................................................................................92

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ...............................................................93
PHỤ LỤC .................................................................................................................99


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
BLTTDS:

Bộ luật Tố tụng dân sự

CHXHCNVN:

Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam

GCNQSDD:

Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất

HĐTP:

Hội đồng thẩm phán

HĐXX:

Hội đồng xét xử

PLTTGQCVADS: Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án dân sự
QSDD:

Quyền sử dụng đất


TAND:

Toà án nhân dân

TANDTC:

Toà án nhân dân tối cao

TTDS:

Tố tụng dân sự

ThS:

Thạc sĩ

UBND:

Ủy ban nhân dân

VKSND:

Viện kiểm sát nhân dân

VKSNDTC:

Viện kiểm sát nhân dân tối cao

XHCN:


Xã hội chủ nghĩa


DANH MỤC CÁC BẢNG, DANH MỤC BẢNG PHỤ LỤC
Số hiệu bảng

Tên bảng

Trang

Bảng 2.1: Tình hình giải quyết, thụ lý đơn khiếu nại giám đốc
thẩm, tái thẩm của TAND

55

Bảng 2.2: Tình hình giải quyết, thụ lý đơn khiếu nại giám đốc
thẩm, tái thẩm của Tòa dân sự TANDTC

57

Bảng 2.3: Tình hình xét xử giám đốc thẩm, tái thẩm các vụ án

57

dân sự
Bảng 2.4: Số vụ tranh chấp đất đai được giải quyết theo thủ tục
giám đốc thẩm, tái thẩm
Số hiệu bảng

Tên bảng phụ lục


58
Trang

Bảng 1.1: Điểm mới trong BLTTDS về thủ tục giám đốc thẩm, tái
thẩm so với PLTTGQCVADS

100


DANH MỤC BIỂU ĐỒ PHỤ LỤC
Số hiệu biểu đồ

Tên biểu đồ

Trang

Biểu đồ 2.1: Số liệu giải quyết Giám đốc thẩm các loại vụ án của
ngành Tòa án qua các năm

102

Biểu đồ 2.2: số liệu giải quyết Giám đốc thẩm các vụ án Dân sự của
ngành Tòa án qua các năm

103


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài

Bộ luật tố tụng dân sự (BLTTDS) được ban hành năm 2004, sau hơn 7 năm
thi hành đã thể hiện một số bất cập, mâu thuẫn gây khó khăn, vướng mắc trong quá
trình thực hiện. Tại kỳ họp thứ 9 ngày 29/3/2011, Quốc hội nước Cộng hòa xã hội
chủ nghĩa Việt Nam (CHXHCNVN) khóa XII đã thông qua Luật sửa đổi, bổ sung
một số điều của BLTTDS. Với mục đích tối thượng là bảo vệ quyền, lợi ích hợp
pháp của đương sự, với hệ thống những nguyên tắc cơ bản trong hoạt động tố tụng:
trình tự, thủ tục khởi kiện, xét xử, sự tham gia tố tụng dân sự của các chủ thể... được
BLTTDS quy định nhằm mục đích giải quyết các tranh chấp dân sự được chính xác,
công bằng và đúng pháp luật. Tòa án là cơ quan duy nhất có chức năng xét xử trong
hệ thống các cơ quan tư pháp ở nước ta. Các tranh chấp dân sự hằng năm ngành Tòa
án phải thụ lý giải quyết vô cùng lớn, trong đó tranh chấp về đất đai là một mảng
quan trọng, là một trong những loại tranh chấp phổ biến, phức tạp nhất.
Đất đai là một loại tài nguyên đặc biệt, có giá trị lớn, cùng với sự phát triển
của xã hội và kinh tế, đất đai ngày càng chứng minh ý nghĩa quan trọng đối với con
người, giá đất ngày một đắt đỏ, thị trường bất động sản ngày một nóng, quyền sử
dụng đất trở thành một loại tài sản có giá trị lớn, có thể đưa vào góp vốn đầu tư kinh
doanh. Tranh chấp đất đai cũng vì thế mà diễn ra ngày một nhiều, gay gắt hơn và là
đề tài nóng bỏng tại nhiều địa phương trong cả nước, các đương sự trong tranh chấp
thường khiếu kiện quyết liệt, gay gắt, kéo dài… Có thể liệt kê rất nhiều nguyên
nhân dẫn đến tranh chấp đất đai như: Việc quản lý đất đai còn nhiều thiếu sót, sơ
hở; việc giao đất và cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất tiến hành chậm; việc
lấn chiếm đất đai diễn ra ngày càng phổ biến nhưng không được ngăn chặn và xử lý
kịp thời; đất đai từ chỗ chưa được thừa nhận có giá trị nay trở thành tài sản có giá trị
cao, thậm chí ở nhiều nơi, nhiều lúc giá đất tăng đột biến.
Nhà nước ta đã quy định nhiều phương thức giải quyết thuộc thẩm quyền của
các cơ quan khác nhau, trong đó, Tòa án nhân dân (TAND) là cơ quan giải quyết

1



tranh chấp đất đai với những cơ chế hữu hiệu và trình tự tố tụng riêng biệt. Trong
những năm qua, ngành Tòa án đã thụ lý và giải quyết rất nhiều các vụ tranh chấp đất
đai, nhìn chung Tòa án đã, đang và luôn cố gắng giải quyết tốt nhất, đúng đắn nhất
các tranh chấp đất đai theo quy định của pháp luật. Tuy nhiên hoạt động xét xử là
hoạt động của con người cụ thể nên không thể tránh khỏi sai sót, hơn nữa trải qua
nhiều giai đoạn lịch sử khác nhau, trong quá trình đổi mới về kinh tế, những vấn đề
cũ chưa giải quyết xong thì vấn đề mới lại nảy sinh đan xen lẫn nhau, tạo ra những
mâu thuẫn nội tại. Các văn bản pháp luật hướng dẫn giải quyết các tranh chấp về đất
đai ở từng thời kỳ lịch sử khá nhiều và cũng khác nhau; nhiều quy định chỉ nêu chung
chung, nhiều quy định lại chồng chéo không nhất quán, việc giải thích và hướng dẫn
của các cơ quan có thẩm quyền chưa đầy đủ, kịp thời. Vì những nguyên nhân đó, dẫn
đến hiện trạng là có những phán quyết của Tòa án không đúng với sự thật khách quan
hoặc trái pháp luật. Do vậy, cần có một cơ chế xét lại các bản án, quyết định đó của
Tòa án để đảm bảo tính hợp pháp, tính đúng đắn trong các bản án, quyết định cũng
như đảm bảo cho hoạt động của Tòa án khi giải quyết các tranh chấp đúng pháp luật.
Thủ tục giám đốc thẩm và tái thẩm trong tố tụng dân sự ra đời nhằm khắc phục
những sai lầm, thiếu sót đó trong quá trình xử lý vụ án dân sự nói chung và các tranh
chấp đất đai nói riêng. Thủ tục này được thực hiện trên cơ sở một trong những
nguyên tắc tố tụng cơ bản, đó là nguyên tắc Toà án cấp trên giám đốc việc xét xử của
Toà án cấp dưới, Toà án nhân dân tối cao giám đốc việc xét xử của Toà án các cấp để
bảo đảm việc áp dụng pháp luật được nghiêm chỉnh và thống nhất [24].
Trong thực tiễn thi hành BLTTDS cũng như thực hiện thủ tục giám đốc thẩm
và tái thẩm của Tòa án đã có tiến bộ, ngày càng chứng minh vai trò quan trọng
trong các hoạt động tố tụng của tòa án, tuy nhiên vẫn còn tồn tại nhiều hạn chế, chất
lượng xét xử các vụ án dân sự nói chung và các vụ án về tranh chấp đất đai nói
riêng chưa đáp ứng được yêu cầu pháp chế xã hội chủ nghĩa (XHCN). Việc áp dụng
các quy định pháp luật về thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm của Tòa án và một số quy
định về thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm chưa đáp ứng được nhu cầu thực tế như:
vấn đề khiếu nại, phát hiện bản án, quyết định đã có hiệu lực mà có sai sót; thẩm


2


quyền giám đốc thẩm, tái thẩm; quyền hạn của Hội đồng giám đốc thẩm, tái thẩm
… Chính những quy định chưa rõ ràng và đầy đủ trong BLTTDS đã gây ra những
vướng mắc và giảm hiệu quả công tác xét lại bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp
luật của ngành Toà án. Do vậy, cần phải hoàn thiện các quy định về giám đốc thẩm,
tái thẩm nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của Tòa án, đảm bảo mọi phán quyết
đều đúng pháp luật, khách quan, công bằng, đảm bảo cho lợi ích của nhà nước, lợi
ích của nhân dân.
Trước thực trạng và yêu cầu như trên, tác giả chọn đề tài: “Giám đốc thẩm,
tái thẩm trong giải quyết tranh chấp đất đại tại tòa án” làm luận văn thạc sĩ luật
học của mình.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Đã có một số công trình nghiên cứu về thủ tục giám đốc thẩm và tái thẩm
như: Luận văn Thạc sĩ luật học của Ngô Anh Dũng về đề tài “Thủ tục xét lại bản
án, quyết định dân sự đã có hiệu lực pháp luật theo pháp luật tố tụng dân sự Việt
Nam” (năm 1996). Luận văn Thạc sĩ luật học của Dương Thị Thanh Mai về "Những
vấn đề về trình tự và thủ tục giám đốc thẩm dân sự" (năm 1997). Đề tài khoa học
cấp bộ của Viện khoa học kiểm sát- Viện kiểm sát nhân dân tối cao “Thủ tục giám
đốc thẩm trong tố tụng dân sự Việt Nam” (năm 2003) do Tiến sĩ Trần Văn Trung
làm chủ nhiệm đề tài. Sách chuyên khảo của Dương Thị Thanh Mai về “Tìm hiểu
các quy định của pháp luật về thủ tục giám đốc thẩm vụ án dân sự” (Nhà xuất bản
Chính trị quốc gia, năm 2000). Nội dung nghiên cứu của các luận văn và các công
trình nói trên bị giới hạn của phạm vi pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án dân sự
(PLTTGQCVADS) do vào thời điểm đó BLTTDS chưa được ban hành. Luận án
Tiến sĩ luật học của Đào Xuân Tiến “Thủ tục xét lại bản án, quyết định của Toà án
đã có hiệu lực pháp luật trong tố tụng kinh tế, dân sự ở Việt Nam”(năm 2009).
Luận án Tiến sĩ luật học của Mai Ngọc Dương, “Giám đốc thẩm dân sự- Một số vấn
đề lý luận và thực tiễn” (năm 2010).

Ngoài ra còn có các công trình nghiên cứu, các bài viết đăng trên các tạp chí
của các tác giả như: Nguyễn Quang Lộc, Nguyễn Quang Tiến, Trần Anh Tuấn,

3


Đinh Văn Quế… được đăng trên các tạp chí Toà án nhân dân, tạp chí Nhà nước và
pháp luật, tạp chí Luật học.
Tuy nhiên, các công trình, bài viết nói trên chưa đưa ra các giải pháp mang
tính tổng thể mà chủ yếu chỉ đưa vào một số kiến nghị mang tính tổ chức, thủ tục đối
với công tác giám đốc trong tái thẩm dân sự nói chung. Chưa có một công trình khoa
học nào nghiên cứu về giám đốc thẩm, tái thẩm trong giải quyết tranh chấp đất đai.
Do vậy trong luận văn này học viên sẽ đi sâu phân tích thực trạng cũng như nguyên
nhân của khó khăn vướng mắc khi tiến hành hoạt động giám đốc thẩm, tái thẩm trong
giải quyết tranh chấp đất đai tại Tòa án, từ đó đưa ra những kiến nghị hoàn thiện hệ
thống pháp luật cũng như nâng cao chất lượng giám đốc thẩm, tái thẩm các bản án,
quyết định của Toà án đã có hiệu lực pháp luật về tranh chấp đất đai.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
3.1. Mục đích của luận văn
Luận văn góp phần vào việc làm rõ trọng tâm những vấn đề cơ bản về giám
đốc thẩm, tái thẩm dân sự và giám đốc thẩm, tái thẩm trong giải quyết tranh chấp
đất đai. Từ đó luận văn sẽ nêu một số yêu cầu và giải pháp nhằm nâng cao chất
lượng giám đốc thẩm, tái thẩm nói chung và trong tranh chấp đất đai nói riêng.
3.2. Nhiệm vụ của luận văn
Để đạt được mục đích trên, nhiệm vụ của luận văn bao gồm:
- Nghiên cứu các cơ sở lý luận về giám đốc thẩm, tái thẩm trong hoạt động
giải quyết tranh chấp đất đai tại Tòa án nhân dân
- Phân tích thực tiễn việc áp dụng pháp luật trong việc giải quyết các tranh
chấp đất đai của Tòa án theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm
- Đề xuất một số giải pháp nhằm khắc phục các vấn đề còn tồn tại và nâng cao

chất lượng giải quyết các tranh chấp đất đai theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm được quy định trong
BLTTDS của nước ta. Trong đó, tập trung nghiên cứu quy trình thủ tục giám đốc

4


thẩm, tái thẩm và làm nổi bật tính chất đặc biệt của thủ tục này so với các thủ tục
xét xử sơ thẩm, phúc thẩm.
Đồng thời, luận văn nghiên cứu thực tiễn áp dụng thủ tục giám đốc thẩm, tái
thẩm các bản án, quyết định về giải quyết tranh chấp đất đai tại Tòa án có hiệu lực
pháp luật có sai lầm, có tình tiết mới và bị kháng nghị.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Trên cơ sở lý luận, luận văn đi sâu nghiên cứu các quy định của pháp luật tố
tụng dân sự có liên quan đến giải quyết tranh chấp đất đai tại Tòa án nhân dân theo
chuyên ngành Luật Kinh tế.
Trên cơ sở quy định của pháp luật thực định về tố tụng dân sự, tác giả tập
trung nghiên cứu về các vấn đề thuộc phạm vi thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm trong
tố tụng dân sự được quy định tại Phần thứ tư của BLTTDS và thực tiễn thi hành từ
năm 2010 đến năm 2014.
5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu
Luận văn được nghiên cứu trên cơ sở nhận thức và phương pháp luận của
Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và pháp luật, quan điểm,
đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước ta về cải cách tư pháp.
Bằng phương pháp duy vật biện chứng, duy vật lịch sử, tác giả sử dụng các phương
pháp nghiên cứu khoa học chuyên ngành như phương pháp so sánh, phân tích, tổng
hợp, kết hợp với khảo sát thực tiễn trong quá trình công tác tư pháp trong tố tụng
dân sự và giải quyết tranh chấp đất đai tại Toà án để hoàn thành luận văn.

6. Ý nghĩa của luận văn
Luận văn đã góp phần làm rõ bản chất của giám đốc thẩm, tái thẩm trong tố
tụng dân sự, trong đó có các vấn đề như: khái niệm, đặc điểm pháp lý, ý nghĩa pháp
lý. Trong luận văn, đã đưa ra khái niệm mới về giám đốc thẩm dân sự, tái thẩm dân
sự. Luận văn cũng giúp người đọc hình dung được thực tiễn công tác giám đốc
thẩm, tái thẩm trong giải quyết tranh chấp đất đai của ngành Toà án trong những
năm qua, những mặt còn tồn tại, nguyên nhân và đề xuất một số giải pháp nhằm
nâng cao chất lượng công tác giám đốc thẩm, tái thẩm.

5


7. Bố cục của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
gồm 3 chương.
Chương 1:

Những vấn đề chung về giám đốc thẩm, tái thẩm trong Tố tụng
dân sự

Chương 2:

Thực tiễn giám đốc thẩm, tái thẩm các bản án, quyết định của
Tòa án đã có hiệu lực trong giải quyết tranh chấp đất đai.

Chương 3:

Các yêu cầu và giải pháp nâng cao chất lượng giám đốc thẩm,
tái thẩm trong giải quyết tranh chấp đất đai tại Tòa án.


6


Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ GIÁM ĐỐC THẨM, TÁI THẨM
TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ
1.1. Khái niệm giám đốc thẩm, tái thẩm dân sự
1.1.1. Sự cần thiết của thủ tục giám đốc thẩm, tái tẩm
Trong hệ thống chính trị, chỉ Toà án có chức năng xét xử và thực hiện quyền
tư pháp. Khi thực hiện chức trách của mình, nhiệm vụ hàng đầu của Tòa án là bảo
vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân. Điều 102 Hiến pháp năm
2013 quy định: TAND là cơ quan xét xử của nước CHXHCNVN, thực hiện quyền
tư pháp; TAND có nhiệm vụ bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công
dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích
hợp pháp của tổ chức, cá nhân [36].
Tòa án là cơ quan duy nhất có chức năng xét xử, nơi biểu hiện tập trung nhất
của quyền lực tư pháp, nhân danh quyền lực Nhà nước xem xét một cách công khai,
đầy đủ, khách quan và toàn diện các tài liệu, chứng cứ đã thu thập được trong quá
trình tố tụng cũng như kết quả của các hoạt động điều tra, truy tố, bào chữa thông
qua các thủ tục tố tụng luật định để đưa ra những phán quyết về tính hợp pháp và
tính đúng đắn của hành vi pháp luật hay đưa ra quyết định pháp luật khi có sự tranh
chấp và mâu thuẫn giữa các bên có quyền lợi ích đối lập nhau [62, tr.264]
Khi hiện chức năng của mình, hoạt động xét xử Tòa án phải tuân theo những
quy định của pháp luật cả về luật nội dung và luật tố tụng để đưa ra những phán
quyết vô tư, khách quan, công minh và đúng pháp luật. Các phán quyết đó của Tòa
án được thể hiện trong các bản án và quyết định của Tòa án. Các bản án và quyết
định này được Toà án tuyên nhân danh Nhà nước, mang tính quyền lực nhà nước,
thể hiện trực tiếp thái độ của Nhà nước đối với vụ án, quyết định những vấn đề có
liên quan trực tiếp đến quyền lợi, nghĩa vụ của công dân và những chủ thể khác.
Bản án, quyết định của Tòa án luôn phải đảm bảo tính hợp pháp và tính có

căn cứ. Tuy nhiên, trong thực tế vẫn có những bản án được tuyên nhưng không

7


đúng với bản chất sự việc, không đúng pháp luật vì nhiều nguyên nhân khác nhau;
do vậy, việc xem xét lại các bản án, quyết định đó là điều cần thiết. Để đảm bảo tính
chính xác trong hoạt động xét xử, đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của công dân,
ổn định trật tự xã hội, nước ta cũng như các nước Châu Âu lục địa mà điển hình là
Pháp theo mô hình tố tụng thẩm xét đã đặt ra nguyên tắc đặc trưng là nguyên tắc hai
cấp xét xử [6]. Theo nguyên tắc này, bản án, quyết định sơ thẩm chưa có hiệu lực
pháp luật và chưa được đưa ra thi hành thì các bên đương sự có quyền kháng cáo,
Viện kiểm sát có quyền kháng nghị để xem xét lại theo thủ tục phúc thẩm. Toà án
cấp trên có thẩm quyền phúc thẩm vụ án sẽ xét xử cả về tố tụng và nội dung vụ án
đồng thời xem xét tính hợp pháp và tính có căn cứ của bản án, quyết định sơ thẩm
đảm bảo cho quyết định của Tòa án đúng pháp luật, khắc phục được những sai lầm
trong xét xử sơ thẩm. Tuy nhiên, thực tiễn xét xử cho thấy, không phải tất cả các
bản án, quyết định của Tòa án dù đã qua hai cấp xét xử đều đảm bảo công bằng,
đúng pháp luật, đúng với thực tế khách quan. Những bản án, quyết định đã có hiệu
lực pháp luật nhưng không đúng với bản chất sự việc cũng như pháp luật nếu đem
ra thi hành sẽ không đảm bảo quyền, lợi ích đúng đắn cho đương sự. Do đó, pháp
luật đã đặt ra chế định giám đốc thẩm và tái thẩm chính là để xét lại các bản án,
quyết định đã có hiệu lực pháp luật nhưng không đúng bản chất cũng như không
đúng pháp luật, đây chính là một trong những giải pháp pháp luật nhằm đảm bảo
tính hợp pháp và tính khả thi của các bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật.
Để cho chắc chắn hơn trong việc áp dụng pháp luật, nhiều quốc
gia đặt thêm một tòa án ở trên Tòa thượng thẩm để xét lại việc áp dụng
pháp luật của Tòa án cấp dưới. Tòa này sẽ xem xét và quyết định bản án
của Tòa án cấp dưới đã xử đúng hay sai; nếu sai thì Tòa giám đốc tuyên
hủy án đã xử và cho xử lại và nếu đúng thì y án. Chính vì vậy mà Tòa

giám đốc thẩm còn được gọi là Tòa phá án. Nhờ thẩm quyền giám đốc
thẩm, Tòa phá án duy trì được sự áp dụng pháp luật thống nhất trong
toàn quốc [9, tr.269]
Ở Việt Nam, thủ tục xét lại các bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của

8


Tòa án lần đầu được quy định trong Luật tổ chức TAND năm 1960, được gọi là thủ
tục giám đốc thẩm và chỉ có Tòa án nhân dân tối cao (TANDTC) mới có thẩm quyền
giám đốc thẩm đối với những bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án
các cấp. Kể từ khi Luật tổ chức TAND năm 1981 được ban hành đến nay, thủ tục xét
lại các bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật được tách thành hai thủ tục giám
đốc thẩm dân sự và tái thẩm dân sự. Mặt khác, ngoài TANDTC thì các Tòa án cấp
tỉnh cũng có thẩm quyền giám đốc thẩm đối với những bản án, quyết định đã có hiệu
lực pháp luật của Tòa án cấp dưới bị kháng nghị. Hiện nay, Luật tổ chức TAND năm
2014 có quy định thẩm quyền giám đốc thẩm, tái thẩm cho TAND cấp cao và
TANDTC, bỏ thẩm quyền giám đốc thẩm, tái thẩm của TAND cấp tỉnh [63, tr.302]
Tranh chấp đất đai xuất hiện trong những tranh chấp dân sự được Bộ luật Tố
tụng dân sự và tranh chấp trong lĩnh vực hành chính như các tranh chấp về cấp giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất, tranh chấp về thu hồi đất, giải phóng mặt bằng...
được Luật Tố tụng hành chính điều chỉnh. Theo đó, thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm
về tranh chấp đất đai được áp dụng trong cả hai lĩnh vực nói trên. Tuy nhiên trong
phạm vi của luận văn này, tác giả chỉ nghiên cứu về thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm
về những tranh chấp đất đai do Bộ luật Tố tụng dân sự điều chỉnh.
Thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm về tranh chấp đất đai được áp dụng theo Bộ
luật Tố tụng dân sự, Luật Tố tụng hành chínhng dân sự được quy định cụ thể tại
Chương XVIII, XIX của BLTTDS 2004 (sửa đổi, bổ sung năm 2011)
1.1.2. Khái niệm giám đốc thẩm dân sự
Từ góc độ ngôn ngữ học, có nhiều quan niệm về “giám đốc thẩm”: theo từ

điển Tiếng Việt của Viện Ngôn ngữ học không có cụm từ “giám đốc thẩm” mà chỉ
giải nghĩa từ “giám đốc” là “đôn đốc và giám sát” và “thẩm” là “xét kỹ” [71]. Theo
Từ điển Pháp - Việt danh từ “cassation” có nghĩa là “sự phá án” [69]; còn từ điển
Anh - Việt lại giải nghĩa danh từ “cassation” có nghĩa là “sự huỷ bỏ” [70].
Từ góc độ khoa học pháp lý, tại Việt Nam qua các thời kỳ cũng có nhiều
quan niệm khác nhau về giám đốc thẩm:
Theo đó, quan điểm thứ nhất được thể hiện trong cuốn Thuật ngữ pháp lý

9


phổ thông xuất bản năm 1987: “Giám đốc thẩm dân sự là một giai đoạn tố tụng có
mục đích kiểm tra tính hợp pháp và tính có căn cứ của các bản án hoặc quyết định
đã có hiệu lực pháp luật” [17, tr.88]. Theo quan điểm này có thể hiểu rằng, giám
đốc thẩm cũng là một giai đoạn tố tụng chứ không thể hiện là giai đoạn tố tụng đặc
biệt. Việc bản án, quyết định của Tòa án như thế nào mới bị kiểm tra, xem xét
không được đề cập đến.
Quan điểm thứ hai được nêu trong cuốn Từ điển luật học do Nhà xuất bản Từ
điển bách khoa phát hành năm 1999 “giám đốc thẩm” được hiểu là: “Xét lại bản án,
quyết định đã có hiệu lực pháp luật nhưng bị kháng nghị vì phát hiện có vi phạm
pháp luật trong việc xử lí vụ án” [60, tr.172]. Quan điểm này không nêu rõ giám
đốc thẩm là một giai đoạn tố tụng và chỉ nhận định căn cứ kháng nghị giám đốc
thẩm là có vi phạm pháp luật mà không cho rằng những sai lầm trong quá trình giải
quyết vụ án cũng là căn cứ kháng nghị.
Quan điểm thứ ba là của Ts. Trần Anh Tuấn: “Giám đốc thẩm là việc xét lại
bản án, quyết định của Toà án đã có hiệu lực pháp luật nhưng bị kháng nghị vì phát
hiện có sai lầm của Toà án khi nhận định về những tình tiết, sự kiện của vụ án hoặc
có vi phạm pháp luật nghiêm trọng trong việc giải quyết vụ án” [64]. Quan điểm
này cho rằng, căn cứ của kháng nghị giám đốc thẩm là có vi phạm pháp luật nghiêm
trọng trong việc giải quyết vụ án và những sai lầm của Toà án khi nhận định về

những tình tiết, sự kiện của vụ án.
Quan điểm thứ tư: “Thủ tục giám đốc thẩm là một trình tự đặc biệt của tố
tụng tư pháp nhằm xét lại những bản án và quyết định đã có hiệu lực pháp luật
nhưng bị kháng nghị vì có vi phạm ở mức độ nghiêm trọng trong việc giải quyết vụ
án” [18]. Quan điểm này cho rằng giám đốc thẩm như là một trình tự của tố tụng tư
pháp và căn cứ của giám đốc thẩm là kháng nghị của những người có thẩm quyền.
Tuy nhiên, ở một số nước trên thế giới như Cộng hòa Pháp, Nhật Bản hay Trung
Quốc cho rằng việc kháng nghị chỉ là mặt hình thức, thủ tục mà họ quy định kháng
cáo của các đương sự mới là căn cứ để phát sinh thủ tục giám đốc thẩm [22].
Quan điểm thứ năm: Theo Giáo trình Luật Tố tụng dân sự Việt Nam của

10


trường Đại học Luật Hà Nội đã đưa ra khái niệm: “Giám đốc thẩm dân sự là việc
xét lại bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của toà án bị kháng nghị do phát
hiện có sai lầm, vi phạm pháp luật trong quá trình giải quyết vụ án” [61, tr.333].
Theo khái niệm này thì đối tượng của việc xét lại theo trình tự giám đốc thẩm là bản
án, quyết định dân sự đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án mà phát hiện có sai lầm
hoặc là có vi phạm pháp luật thì vụ án cần được xem xét lại để bảo đảm việc xử lý
vụ án được chính xác. Khái niệm này không chỉ ra sai lầm và vi phạm trong quá
trình giải quyết vụ án ở mức độ nào, nghiêm trọng đến mức nào mới xem xét lại hay
bất kì bản án, quyết định nào của Tòa án có vi phạm và sai lầm dù chỉ là lỗi nhẹ,
không ảnh hưởng đến kết quả giải quyết vụ án vẫn là đối tượng của giám đốc thẩm.
Các khái niệm trên chưa thể hiện một cách chính xác và đầy đủ nhất về giám
đốc thẩm, các khái niệm khác nhau về góc độ tiếp cận vấn đề, phạm vi khái niệm,
tính khoa học và sự phù hợp với thực tiễn cũng khác nhau. Tuy nhiên, một số điểm
cơ bản của vấn đề thì vẫn giống nhau như xác định giám đốc thẩm là thủ tục có tính
chất đặc biệt, đó là việc xem xét lại bản án hoặc quyết định của Tòa án đã có hiệu
lực pháp luật bị kháng nghị để kiểm tra tính hợp pháp và tính có căn cứ trong các

bản án và quyết định đó.
Qua quá trình nghiên cứu, theo quan điểm của tác giả, khái niệm giám đốc
thẩm cần được hiểu như quan điểm được nêu trong Giáo trình Luật Tố tụng dân sự
của Đại học Quốc gia Hà Nội: “Giám đốc thẩm dân sự là thủ tục tố tụng đặc biệt
mà Toà án có thẩm quyền xét lại những bản án, quyết định dân sự đã có hiệu lực
pháp luật bị người có thẩm quyền kháng nghị vì có vi phạm pháp luật nghiêm trọng
trong việc giải quyết vụ việc dân sự nhằm đảm bảo pháp luật được áp dụng đúng
đắn và thống nhất” [63, tr.298].
Từ khái niệm này, có một số vấn đề sau đây về giám đốc thẩm cần được xem xét:
Thứ nhất là: đối tượng của kháng nghị giám đốc thẩm
Toà án có thẩm quyền giám đốc thẩm không xem xét những vấn đề về nội
dung vụ án, cũng như không xem xét những bản án, quyết định chưa có hiệu lực
pháp luật vì đối tượng và những nội dung đó sẽ được xem xét trong giai đoạn xét xử

11


sơ thẩm và xét xử phúc thẩm, mà chỉ xét vi phạm nghiêm trọng có trong bản án,
quyết định có hiệu lực pháp luật. Do đó, đối tượng giám đốc thẩm dân sự là bản án
hoặc quyết định có hiệu lực pháp luật của Toà án. Đó là các bản án, quyết định mà
theo đánh giá của người có thẩm quyền kháng nghị phải có vi phạm pháp luật
nghiêm trọng trong quá trình giải quyết.
Thứ hai là: mục đích của giám đốc thẩm
Giám đốc thẩm là một hình thức kiểm tra, giám đốc xét xử đặc biệt của Toà
án. Giám đốc thẩm được đặt ra với mục đích đảm bảo tính hợp hiến, hợp pháp của
các bản án, quyết định của Toà án, đảm bảo pháp chế trong hoạt động xét xử, đảm
bảo quyền và lợi ích của đương sự.
Thứ ba là: cơ sở làm phát sinh giám đốc thẩm trong tố tụng dân sự (TTDS)
Việt Nam
Theo Luật TTDS Việt Nam thì kháng nghị giám đốc thẩm dân sự là cơ sở

pháp lý để Tòa án có thẩm quyền xét xử giám đốc thẩm. Chỉ có kháng nghị của
những người có thẩm quyền mới làm phát sinh giám đốc thẩm còn kháng cáo của
đương sự thì không phải là căn cứ để phát sinh thủ tục giám đốc thẩm, đây cũng là
quan điểm phổ biến ở nước ta, nhưng tại hầu hết các nước coi đơn kháng cáo hợp lệ
của đương sự chính là cơ sở để xem xét theo thủ tục giám đốc thẩm và là nguồn chủ
yếu của thủ tục giám đốc thẩm.
Thứ tư là: thẩm quyền kháng nghị giám đốc thẩm
Để tránh việc kháng cáo, kháng nghị tràn lan làm mất đi tính ổn định của bản
án, quyết định của Tòa án, tránh đình trệ việc thi hành những bản án, quyết định đã
được áp dụng pháp luật đúng và phù hợp với bản chất sự việc thì không phải ai
cũng có quyền kháng nghị giám đốc thẩm. Chỉ có những người có thẩm quyền do
pháp luật quy định mới có quyền kháng nghị nhằm đảm bảo công tác kiểm tra, giám
sát của ngành Toà án, mặt khác cũng tránh việc đương sự lạm dụng quyền của mình
gây tình trạng án kéo dài không cần thiết.
Thứ năm là: thẩm quyền giám đốc thẩm
Giám đốc thẩm là cơ chế tự kiểm tra của ngành tư pháp, là một thủ tục tố

12


tụng đặc biệt, việc xem xét lại không phải ai, cấp nào cũng thực hiện được. Thẩm
quyền giám đốc thẩm bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật thuộc về Tòa án mà
ở đó thể hiện tính quyền lực tối cao của Toà án cấp cao trong việc giám đốc hoạt
động xét xử.
Thứ sáu là: thủ tục giải quyết
Đối tượng của giám đốc thẩm là các bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp
luật của Tòa án, chính là các bản án đã qua nhiều cấp xét xử nên pháp luật không
quy định xét xử lại vụ án về nội dung mà chỉ xem xét tính hợp pháp của bản án và
quyết định đó nên Toà án có thẩm quyền giám đốc thẩm chỉ tiến hành xem xét việc
áp dụng pháp luật của Toà án đã giải quyết vụ án trên cơ sở hồ sơ vụ án. Do đó, một

số nguyên tắc cơ bản của TTDS như: nguyên tắc xét xử công khai, quyền quyết
định, tự định đoạt của đương sự không được áp dụng trong hoạt động giám đốc
thẩm. Vì vậy, hoạt động này là một thủ tục tố tụng độc lập có nguyên tắc cũng như
quy trình độc lập. Và nó cũng không mang tính hành chính như hoạt động giám
đốc, kiểm tra khác.
Như vậy, thủ tục giám đốc thẩm chính là hoạt động “xét” lại bản án, quyết
định chứ không phải hoạt động “xử”một vụ án của Tòa án. Đối tượng của hoạt động
này chính là bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật nhưng có kháng nghị của
người có thẩm quyền, quyết định kháng nghị đó là một văn bản pháp lý làm phát
sinh trình tự xét xử đặc biệt chính là thủ tục giám đốc thẩm.
1.1.3. Khái niệm tái thẩm dân sự
Tái thẩm là thủ tục tố tụng xem xét lại bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp
luật nhưng bị kháng nghị vì có những tình tiết mới được phát hiện có thể làm thay
đổi cơ bản nội dung của bản án, quyết định mà trước đó Tòa án và các đương sự đã
không biết được. Thực chất, tái thẩm là xem xét, quyết định để đưa một vụ án xét
xử sơ thẩm lại từ đầu.
Thực tế có nhiều trường hợp sau khi bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp
luật mới phát hiện ra những tình tiết quan trọng đối với việc quyết định vụ án có thể
làm thay đổi cơ bản nội dung cũng như quyết định vụ án nhưng lúc trước đó cả Tòa

13


án và đương sự đều không biết đến. Những tình tiết đó chứng minh việc ra bản án
và quyết định của Tòa án không đúng với bản chất vốn có của sự việc, do đó việc
xem xét lại là cần thiết. Thủ tục xét lại bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật của
Tòa án trong trường hợp này chính là thủ tục tái thẩm.
Theo Từ điển Tiếng Việt xuất bản năm 2000 thì “Tái thẩm là xét lại một bản
án đã xử” [23]. Theo đó ta có thể hiểu, tái thẩm là một hoạt động của Tòa án, hoạt
động xét lại một bản án đã xử. Tuy nhiên, thủ tục phúc thẩm xử và thủ tục giám đốc

thẩm cũng là việc xét lại một bản án đã xử. Do vậy, khái niệm như trên chưa thực
sự chính xác, không thể hiện đúng bản chất cũng như nội hàm của khái niệm “thủ
tục tái thẩm” trong TTDS
Trong cuốn từ điển luật học của tập thể tác giả do Nhà xuất bản Từ điển
Bách khoa phát hành năm 1999 cho rằng: “Tái thẩm là xét lại bản án hoặc quyết
định đã có hiệu lực pháp luật, nhưng bị kháng nghị vì có những tình tiết mới được
phát hiện có thể làm thay đổi cơ bản nội dung của bản án hoặc quyết định mà Toà
án không biết được khi ra bản án hoặc quyết định đó” [60, tr.446]. Khái niệm này
không đưa ra được quan điểm của tác giả về việc xác định thủ tục tái thẩm là một
giai đoạn tố tụng hay một thủ tục tố tụng đặc biệt.
Giáo trình Luật TTDS Việt Nam của trường Đại học Luật Hà Nội đã đưa ra
khái niệm: “Tái thẩm dân sự là việc xét lại bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật
của Toà án bị kháng nghị do mới phát hiện được tình tiết quan trọng của vụ án mà Tòa
án và các đương sự đã không biết được khi Toà án giải quyết vụ án” [61, tr.352]. Khái
niệm này cho rằng đối tượng của việc xét lại theo thủ tục tái thẩm là bản án, quyết
định đã có hiệu lực pháp luật mà mới phát hiện được những tình tiết có ý nghĩa
quan trọng đối với việc giải quyết vụ án nhưng đương sự và Toà án đã không thể
biết trong khi Tòa án giải quyết vụ án. Tuy nhiên, khái niệm đã không đưa ra mức
độ ảnh hưởng như thế nào của tình tiết mới được phát hiện đó sẽ là căn cứ để kháng
nghị theo thủ tục tái thẩm.Tình tiết mới được phát hiện nhưng không ảnh hưởng lớn
đến quyết định hay bản án đã có thì có coi là căn cứ kháng nghị tái thẩm hay không.
Những tình tiết của vụ án mà trước đó các đương sự và Toà án đã không biết được

14


và làm thay đổi cơ bản nội dung của bản án, quyết định sẽ làm bản án, quyết định
đã có hiệu lực pháp luật của Toà án trở nên không phù hợp với thực tế khách quan
của vụ án, không đúng đắn.
Giáo trình Luật Tố tụng dân sự Việt Nam của khoa Luật Đại học Quốc Gia Hà

Nội thì lại cho rằng: “Tái thẩm dân sự là thủ tục tố tụng đặc biệt mà Tòa án có thẩm
quyền xét lại những bản án, quyết định dân sự đã có hiệu lực pháp luật bị kháng nghị
do mới phát hiện được tình tiết mới quan trọng của vụ án mà Tòa án và những người
tham gia tố tụng đã không biết khi Tòa án giải quyết vụ án” [63, tr.303]. Có lẽ đây là
khái niệm thể hiện đúng bản chất và mang đầy đủ nội hàm của thủ tục tái thẩm nhất.
Theo đó, đây là một thủ tục tố tụng đặc biệt và cũng xác định rõ căn cứ của thủ tục
tái thẩm là kháng nghị của những người có thẩm quyền khi phát hiện ra tình tiết mới
quan trọng có thể làm thay đổi nội dung cũng như quyết định của bản án mà trước
đó Tòa án và những người tham gia tố tụng không biết.
Trong BLTTDS năm 2004 (sửa đổi bổ sung năm 2011), quy định tính chất
của tái thẩm, đồng thời cũng chính là khái niệm pháp lý về tái thẩm: Tái thẩm là xét
lại bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật nhưng bị kháng nghị vì có những
tình tiết mới được phát hiện có thể làm thay đổi cơ bản nội dung của bản án, quyết
định mà Toà án, các đương sự không biết được khi Toà án ra bản án, quyết định
đó” [34, Điều 304].
Thủ tục tái thẩm có một số vấn đề cần được xem xét để làm rõ bản chất và
những điểm đó cũng chính là những dấu hiệu đặc trưng của tái thẩm:
Thứ nhất là: đối tượng kháng nghị tái thẩm:
Cũng như giám đốc thẩm, đối tượng của tái thẩm chính là những bản án,
quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật. Những bản án, quyết định dân sự
chưa có hiệu lực pháp luật thì không phải là đối tượng của tái thẩm. Đây là điểm
khác biệt giữa thủ tục tái thẩm với thủ tục phúc thẩm. Tại giai đoạn phúc thẩm,
những bản án, quyết định chưa có hiệu lực pháp luật, trong thời gian kháng cáo,
kháng nghị sau khi phát hiện có tình tiết mới quan trọng có thể làm thay đổi nội
dung vụ án và được đương sự trong vụ án kháng cáo, Viện kiểm sát nhân dân
(VKSND) kháng nghị thì bản án, quyết định ấy sẽ được Hội đồng xét xử (HĐXX)
phúc thẩm xem xét theo thủ tục phúc thẩm.

15



Thứ hai là: căn cứ kháng nghị tái thẩm
Căn cứ kháng nghị tái thẩm là những tình tiết mới quan trọng làm thay đổi
nội dung vụ án mà tại thời điểm giải quyết cả đương sự và Toà án đều không biết
nhưng sau đó đã phát hiện được. Đó là những sai lầm trong quá trình xử lý vụ án,
sai lầm trong quá trình chứng minh xác định sự thật của vụ án, do nguyên nhân
khách quan đã dẫn đến những sai lầm đó làm ảnh hưởng đến việc nhận thức của
những người tiến hành tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án.
Thứ ba là: thời hạn kháng nghị
Căn cứ kháng nghị tái thẩm là phát hiện được những tình tiết mới quan trọng
làm thay đổi nội dung vụ án mà tại thời điểm giải quyết cả đương sự và Toà án đều
không biết được nên thời hạn kháng nghị không căn cứ vào ngày quyết định, bản án
có hiệu lực pháp luật mà lấy mốc là ngày căn cứ kháng nghị tái thẩm phát sinh, có
nghĩa là bất cứ khi nào phát hiện tình tiết mới làm thay đổi nội dung vụ án đều có
thể kháng nghị tái thẩm.
Cùng là thủ tục tố tụng đặc biệt giám đốc thẩm và tái thẩm có mối liên hệ
mật thiết với nhau. Cả hai đều là thủ tục nhằm xét lại bản án, quyết định của Tòa án
có hiệu lực pháp luật nhưng có sai lầm nghiêm trọng hoặc có tình tiết mới làm thay
đổi cơ bản nội dung vụ án, bị kháng nghị theo quy định của pháp luật. Mục đích của
cả hai thủ tục này đều nhằm xem xét, kiểm tra tính hợp pháp và tính có căn cứ của
các bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án để khắc phục sai lầm của
các bản án, quyết định do lỗi chủ quan hay khách quan của những người tiến hành
tố tụng và của những người tham gia tố tụng đảm bảo cho vụ án đúng pháp luật và
đúng sự thật khách quan, đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp cho các đương sự.
Theo pháp luật TTDS Việt Nam, căn cứ kháng nghị theo thủ tục tái thẩm và căn cứ
kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm chỉ khác nhau về việc đánh giá các căn cứ
phát sinh chủ quan hay khách quan nhưng đều là nguyên nhân dẫn đến việc giải
quyết vụ án không đúng, gây ra những thiệt hại về quyền và lợi ích hợp pháp của
đương sự bên này hay bên kia. Thẩm quyền của Hội đồng xét xử giám đốc thẩm và
tái thẩm là giữ nguyên bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật của tòa án; huỷ một

phần hoặc hủy toàn bộ các bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật, giao hồ sơ

16


×