Tải bản đầy đủ (.pdf) (54 trang)

Phát triển vốn từ cho trẻ mẫu giáo lớn thông qua kể lại chuyện sáng tạo

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (876.19 KB, 54 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA GIÁO DỤC MẦM NON
======

LÊ THỊ LAN

PHÁT TRIỂN VỐN TỪ
CHO TRẺ MẪU GIÁO LỚN
THÔNG QUA KỂ LẠI CHUYỆN SÁNG TẠO
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Phương pháp phát triển ngôn ngữ

Người hướng dẫn khoa học

TS. ĐỖ THỊ THU HƯƠNG

HÀ NỘI, 2017

HÀ NỘI - 2015


LỜI CẢM ƠN
Em xin chân thành cảm ơn các thầy giáo, cô giáo trường Đại học Sư
phạm Hà Nội 2, Ban chủ nhiệm các thầy cô giáo khoa Giáo Dục Mầm Non
đã giúp đỡ, tạo điều kiện thuận lợi cho em trong suốt khóa học.
Đặc biệt em xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới cô giáo – TS. Đỗ Thị
Thu Hương – người đã tận tình hướng dẫn, chỉ bảo giúp em hoàn thành tốt
khóa luận này.
Em xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, ngày 03 tháng 5 năm 2017
Sinh viên


Lê Thị Lan


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đề tài: “Phát triển vốn từ cho trẻ mẫu giáo lớn
thông qua kể lại chuyện sáng tạo” là kết quả nghiên cứu của riêng mình tôi,
khóa luận không sao chép từ các tài liệu có sẵn nào. Đề tài chưa được công
bố trong bất cứ một công trình khoa học nào khác.

Hà Nội, ngày 03 tháng 5 năm 2017
Sinh viên
Lê Thị Lan


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ........................................................................................................... 1
1. Lí do chọn đề tài ............................................................................................ 1
2. Lịch sử nghiên cứu ........................................................................................ 2
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu................................................................. 4
4. Mục đích nghiên cứu. .................................................................................... 4
5. Nhiệm vụ nghiên cứu .................................................................................... 4
6. Phương pháp nghiên cứu............................................................................... 4
7. Cấu trúc đề tài ............................................................................................... 4
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÍ LUẬN ........................................................................ 5
1.1. Cơ sở tâm lí học. ........................................................................................ 5
1.2. Cơ sở sinh lí học ......................................................................................... 8
1.3. Cơ sở giáo dục học ..................................................................................... 9
1.4. Cơ sở ngôn ngữ học ................................................................................. 11
1.5. Một số khái niệm ...................................................................................... 13
1.5.1. Khái niệm kể lại chuyện........................................................................ 13

1.5.2. Mục đích của việc dạy trẻ kể lại chuyện ............................................... 13
1.5.3. Phân biệt kể lại truyện văn học và kể lại chuyện. ................................. 15
1.6. Đặc điểm vốn từ ....................................................................................... 16
1.6.1. Đặc điểm vốn từ của trẻ mầm non ........................................................ 16
1.6.2. Đặc điểm vốn từ của trẻ mẫu giáo lớn .................................................. 22
Tiểu kết chương 1............................................................................................ 25
CHƯƠNG 2: MỘT SỐ BIỆN PHÁP PHÁT TRIỂN VỐN TỪ CHO TRẺ
MẪU GIÁO LỚN THÔNG QUA KỂ LẠI CHUYỆN SÁNG TẠO ............. 26
2.1. Một số biện pháp phát triển vốn từ thông cho trẻ mẫu giáo lớn thông qua
kể lại chuyện sáng tạo. .................................................................................... 26


2.1.1. Biện pháp xây dựng môi trường hoạt động trong lớp học cho trẻ kể lại
chuyện sáng tạo. .............................................................................................. 26
2.1.2. Biện pháp dạy trẻ sử dụng ngôn ngữ lời kể phù hợp với nhân vật thông
qua trò chơi đóng kịch. .................................................................................... 30
2.1.3. Biện pháp lồng ghép một số hoạt động khác khi dạy trẻ kể lại chuyện
sáng tạo. ........................................................................................................... 33
Tiểu kết chương 2............................................................................................ 35
CHƯƠNG 3: GIÁO ÁN THỰC NGHIỆM .................................................... 36
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................... 49


MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Giáo dục mầm non là cấp học đầu tiên trong hệ thống giáo dục quốc
dân, đặt nền móng cho sự phát triển về thể chất, nhận thức, tình cảm xã hội
và thẩm mỹ cho trẻ em. Những kỹ năng mà trẻ được tiếp thu qua chương
trình chăm sóc giáo dục mầm non sẽ là nền tảng cho việc học tập và thành
công sau này của trẻ. Do vậy, phát triển giáo dục mầm non, tăng cường khả

năng sẵn sàng đi học cho trẻ là yếu tố quan trọng trong việc phát triển nguồn
nhân lực chất lượng cao cho đất nước.
Ngôn ngữ là một hiện tượng xã hội đặc biệt, tồn tại và phát triển theo
sự tồn tại, phát triển của xã hội loài người. Ngôn ngữ là một hệ thống tín
hiệu đặc biệt. Ngôn ngữ là phương tiện nhận thức và giao tiếp hữu hiệu nhất
của con người. Nhờ có ngôn ngữ, con người mới có phương tiện để nhận
thức và thể hiện nhận thức của mình, để giao tiếp và hợp tác với nhau… Nói
đến sự phát triển của xã hội không thể không nói đến vai trò đặc biệt quan
trọng của ngôn ngữ. Ngôn ngữ đóng một vai trò cũng đặc biệt quan trọng
trong việc phát triển tư duy, hình thành và phát triển nhân cách; là công cụ
để trẻ giao tiếp, học tập, vui chơi…
Phát triển ngôn ngữ là một trong những mục tiêu quan trọng nhất của
Giáo dục mầm non. Đặc biệt đối với trẻ mẫu giáo lớn thì nhiệm vụ phát triển
ngôn ngữ càng dần được quan tâm để trang bị cho trẻ vốn từ nhất định để trẻ
lĩnh hội kinh nghiệm, tri thức của nhân loại. Một trong những nhiệm vụ quan
trọng đặc biệt của việc phát triển ngôn ngữ cho trẻ đó là phát triển vốn từ.
Một đứa trẻ có vốn từ phong phú sẽ dễ dàng, tự tin trong giao tiếp và tiếp thu
bài học. Với vốn từ phong phú trẻ sẽ chủ động trong việc lựa chọn và sử
dụng từ. Ngược lại, nếu trẻ có vốn từ nghèo nàn sẽ gặp khó khăn trong giao
tiếp và làm ảnh hưởng đến sự phát triển của trẻ.

1


Lứa tuổi 5 – 6 tuổi là lứa tuổi cuối cùng của mẫu giáo, là bước ngoặt
lớn cho trẻ chuẩn bị bước chân tới trường phổ thông. Vì vậy, cần chuẩn bị
cho trẻ một tâm thế sẵn sàng trong đó ngôn ngữ là thành phần cốt yếu. Ở lứa
tuổi mẫu giáo lớn ngôn ngữ mang tính chất hoàn cảnh ,tình huống nghĩa là
ngôn ngữ của trẻ gắn liền với sự vật, hoàn cảnh, con người, hiện tượng đang
xảy ra trước mắt trẻ . Trẻ 5 - 6 tuổi vốn từ của trẻ không chỉ tăng lên về số

lượng mà đặc biệt khả năng tưởng tượng, sáng tạo của của trẻ cũng phát
triển mạnh hơn nhiều so với các lứa tuổi trước đó. Các câu chuyện nếu lúc
nào cũng được kể một cách dập khuôn máy móc thì sẽ không có sự hấp dẫn,
mới mẻ, dễ gây ra sự nhàm chán và đặc biệt khả năng mở rộng vốn từ bị hạn
chế. Với trẻ mầm non nói chung và trẻ mẫu giáo lớn nói riêng, chúng cần
được phát huy tối đa trí tưởng tượng, sự sáng tạo và thỏa sức thể hiện suy
nghĩ của bản thân. Chính vì vậy, chúng ta cần quan tâm tới việc dạy học kể
lại chuyện một cách sáng tạo nhằm phát triển và mở rộng vốn từ cho trẻ.
Chính vì những lí do trên, chúng tôi hiểu rõ nhiệm vụ cơ bản của việc
phát triển vốn từ cho trẻ mầm non đặc biệt là trẻ mẫu giáo lớn, cũng như vai
trò của kể chuyện sáng tạo trong việc phát triển vốn từ cho trẻ và mạnh dạn
nghiên cứu đề tài: “ Phát triển vốn từ cho trẻ mẫu giáo lớn thông qua
hoạt động kể lại chuyện sáng tạo”.
2. Lịch sử nghiên cứu
Trong cuốn “ Phương pháp phát triển ngôn ngữ cho trẻ mẫu giáo” [3],
tác giả Nguyễn Xuân Khoa đã nói về phương pháp phát triển ngôn ngữ cho
trẻ mẫu giáo rất chi tiết. Ông đã dành 12 chương sách để đề cập khái quát
những vấn đề liên quan đến nội dung này. Trong đó, tác giả đã dành chương
V, với dung lượng là 51 trang sách để trình này sơ lược về phương pháp phát
triển từ ngữ.

2


Nghiên cứu về mảng “ Phương pháp phát triển ngôn ngữ tuổi mầm
non”, tác giả Đinh Hồng Thái đã đưa ra một số phương pháp phát triển ngôn
ngữ cho trẻ mầm non trong gồm có một số biện pháp phát triển vốn từ.
Ngoài ra, tác giả cũng đưa ra một vài biện pháp thúc đẩy khả năng tiền đọc –
viết cho trẻ mầm non nhằm chuẩn bị cho trẻ những kĩ năng cần thiết để học
tiếng Việt ở lớp 1.

Tiếp theo, các tác giả cuốn “ Phương pháp phát triển ngôn ngữ cho trẻ
dưới 6 tuổi” [4], đã khẳng định quan trọng của ngôn ngữ trong việc giáo dục
toàn diện cho trẻ. Các tác giả cũng nêu sơ lược nội dung, phương pháp, biện
pháp để luyện âm, phát triển vốn từ, dạy trẻ nói đúng ngữ pháp, phát triển
ngôn ngữ mạch lạc và chuẩn bị cho trẻ đến trường phổ thông.
Nghiên cứu ở mảng tâm lý trẻ em “Tâm lý học trẻ em lứa tuổi mầm
non” [5], các tác giả đã nêu rõ các trình độ và đặc điểm phát triển tâm lý của
trẻ theo từng giai đoạn, độ tuổi. Trong đó, các tác giả đã chỉ ra rằng: trẻ độ
tuổi 5-6 tuổi không chỉ hiểu được từ ngữ và nắm vững ngữ pháp một cách
vững vàng mà còn “sáng tạo” ra những từ ngữ những cách nói chưa hề có
trong ngôn ngữ của người lớn.
Ngoài ra còn rất nhiều các công trình nghiên cứu khác như: “ Phát triển
vốn từ cho trẻ mẫu giáo lớn thông qua truyện cổ tích” của Trần Ngọc Anh –
khóa luận tốt nghiệp năm 2013, “ Một số biện pháp phát triển ngôn ngữ cho
trẻ mẫu giáo lớn (5-6 tuổi) thông qua hoạt động dạy kể chuyện sáng tạo ở
trường mầm non Ngô Quyền” của Vũ Thị Nguyên – khóa luận tốt nghiệp năn
2013, ... và một số công trình khác.
Điểm qua các công trình cho thấy phát triển vốn từ cho trẻ mẫu giáo
lớn thông qua kể lại chuyện sáng tạo chưa được nghiên cứu. Kế thừa kết quả
nói trên chúng tôi đi sâu nghiên cứu một số biện pháp phát triển vốn từ cho
trẻ mẫu giáo lớn thông qua kể lại chuyện sáng tạo.

3


3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Các biện pháp phát triển vốn từ cho trẻ 5-6 tuổi.
- Phạm vi nghiên cứu: Biện pháp phát triển vốn từ cho trẻ mẫu giáo lớn
thông hoạt động kể lại chuyện sáng tạo.
4. Mục đích nghiên cứu.

- Đề xuất một số biện pháp phát triển vốn từ cho trẻ mẫu giáo lớn thông qua
kể lại chuyện sáng tao.
5. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Tổng hợp khái quát một số vấn đề lí thyết liên quan đến đề tài.
- Đề xuất một số biện pháp phát triển vốn từ cho trẻ mẫu giáo lớn thông qua
kể lại chuyện sáng tạo.
- Thiết kế một số giáo án thực nghiệm.
6. Phương pháp nghiên cứu
Để hoàn thành khóa luận này, chúng tôi đã sử dụng các phương pháp
nghiên cứu sau:
Phương pháp phân tích - Tổng hợp
Phương pháp trực quan ( quan sát , tham quan...)
Phương pháp đàm thoại
Phương pháp thực nghiệm
7. Cấu trúc đề tài
Ngoài phần mở đầu và kết luận, nội dung của khóa luận được chia thành 3
chương:
Chương 1: Cở sở lí luận .
Chương 2: Một số biện pháp phát triển vốn từ cho trẻ mẫu giáo lớn thông
qua kể lại chuyện sáng tạo.
Chương 3: Giáo án thực nghiệm.

4


CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÍ LUẬN
1.1. Cơ sở tâm lí học.
Độ tuổi mẫu giáo lớn là giai đoạn cuối cùng của trẻ em ở lứa tuổi “mầm
non” – tức là lứa tuổi trước khi đến trường phổ thông. Ở giai đoạn này,

những cấu tạo tâm lí đặc trưng của con người đang dần được hoàn thiện.
Ngôn ngữ có ý nghĩa to với đối với con người, nó là phương tiện giao tiếp
vạn năng có thể chuyển tải được tất cả các nội dung thông tin khác nhau mà
người nói có nhu cầu (từ việc bộc lộ cảm xúc, thái độ của người nói đến
những nhu cầu tinh tế về tình cảm; đến những nhu cầu về trao đổi các kinh
nghiệm chinh phục thiên nhiên hoặc truyền bá tri thức)...; ngôn ngữ có liên
quan chặt chẽ với tư duy của con người, mối quan hệ chặt chẽ giữa ngôn ngữ
với tư duy là ở chỗ tư duy dùng ngôn ngữ làm phương tiện, công cụ.
Tư duy của trẻ thay đổi theo từng giai đoạn. Trẻ tuổi ấu nhi trẻ hoạt
động với đồ vật, chủ yếu là hành động cụ thể để xác lập những mối tương
quan . Lúc này trẻ bắt đầu giải các bài toán thực tế nhưng quá trình đó không
diễn ra trong óc mà diễn ra bằng tay theo phương thức “thử và có lỗi” ,đó là
tư duy trực quan- hành động. Nhờ có những hành động bên ngoài mà những
hành động tâm lí bên trong như trí nhớ, tưởng tượng, tư duy được hình thành.
Cuối tuổi ấu nhi, trên cơ sở tư duy trực quan- hành động đang phát triển
mạnh, bắt đầu có sự xuất hiện một số hành động tư duy được thực hiện trong
óc, không cần phép thử bên ngoài. Mặc dù mới dừng ở trực quan- hành động
nhưng tư duy của trẻ cũng đã đạt tới những khái quát ban đầu mang tính độc
đáo: bước đầu trẻ có thể nhận ra điểm giống nhau giữa các sự vật, hiện tượng
; trẻ cũng nắm được từ chỉ đồ vật mang ý nghĩa khái quát theo chức năng
hoặc từ chỉ hành động mang ý nghĩa khái quát theo mục đích chủ yếu thông
qua hoạt động với đồ vật, điều này có ý nghĩa to lớn đối với sự phát triển trí

5


tuệ. Cuối độ tuổi này, bên cạnh tư duy trực quan- hành động, có sự xuất hiện
kiểu tư duy trực quan- hình tượng, tức là giải các bài toán trong óc dựa vào
các biểu tượng đã được tích lũy. Tuy nhiên tư duy này còn hết sức đơn sơ và
chỉ xuất hiện trong trường hợp bài toán được đặt ra cho trẻ một cách hết sức

đơn giản. Cho đến khi trẻ 3-4 tuổi, tư duy của trẻ có bước ngoặt rõ rệt đó là
chuyển đổi từ tư duy trực quan- hành động sang kiểu tư duy trực quan- hình
tượng. Tuy nhiên, các hình tượng và biểu tượng trong đầu trẻ vẫn còn gắn liền
với hành động, đặc biệt là tư duy thiên về cảm xúc và ý muốn chủ quan nhiều
hơn. Ở tuổi mẫu giáo nhỡ, tư duy trực quan- hình tượng phát triển mạnh mẽ.
Ban đầu do biểu tượng nghèo nàn và tư duy mới được chuyển từ bình diện
bên ngoài vào bình diện bên trong nên trẻ mới chỉ giải được một số bài toán
hết sức đơn giản theo kiểu tư duy trực quan- hình tượng. Ở giai đoạn này, trẻ
phải giải những bài toán ngày càng phức tạp và đa dạng, đòi hỏi phải tách biệt
và sử dụng mối liên hệ giữa các sự vật, hiện tượng và hành động. Từ đó mà
trẻ bắt đầu đề ra cho mình bài toán nhận thức, tìm tòi cách giải thích những
hiện tượng mà mình nhìn thấy được. Nếu ở tuổi mẫu giáo bé, trẻ giải bài toán
bằng định hướng bên ngoài- tức là tư duy trực quan- hành động thì ở độ tuổi
mẫu giáo nhỡ đã có khả năng giải các bài toán bằng các “phép thử trong óc”.
Tuy nhiên, loại tư duy này không còn phù hợp khi trẻ bước sang giai đoạn
mẫu giáo lớn vì khả năng và nhu cầu phát triển hơn. Vì vậy, đòi hỏi phải có
một kiểu tư duy mới để đáp ứng được nhu cầu phát triển này ở trẻ, đó là loại
tư duy trực quan- logic. Nó cho phép trẻ đi sâu vào mối liên hệ phức tạp của
sự vật và mở ra khả năng nhìn thấy mặt bản chất của sự vật hiện tượng mà tư
duy trực quan- hình tượng không cho phép nhìn thấy được. Khi ngôn ngữ trở
thành phương tiện chủ yếu của tư duy, cho phép giải những bài toán trí tuệ mà
không cần sử dụng trực tiếp đến hành động và biểu tượng, cũng là lúc trẻ lĩnh
hội những niệm mà loài người đã xây dựng lên, tức là những tri thức về các

6


dấu hiệu chung và bản chất của sự vật cũng như hiện tượng trong hiện thực đã
được củng cố bằng các từ.
Chính vì vậy, để phát triển tư duy thì việc rèn luyện ngôn ngữ là điều

hết sức cần thiết.
Ngôn ngữ tham gia tích cực vào hoạt động của trí nhớ làm cho việc
ghi nhớ, giữ lại, nhớ lại của con người trở nên chủ động và có ý nghĩa. Trí
nhớ vô cùng quan trọng, nhờ có trí nhớ mới tích lũy được vốn tri thức và
kinh nghiệm. Nếu không có trí nhớ con người không thể học tập, tư duy, đặc
biệt với trẻ mầm non nó giúp trẻ tích lũy tri thức và từ đó phát triển trí tuệ.
Đối với con người nói chung và trẻ mầm non nói riêng khả năng ghi
nhớ và tập trung chú ý có mức độ biểu hiện khác nhau ở từng giai đoạn, từng
độ tuổi. Trẻ giai đoạn ấu nhi trẻ đã có khả năng ghi nhớ, tuy nhiên đó là khả
năng ghi nhớ không chủ định, không có ý thức phải nhớ một điều gì, trẻ chỉ
nhớ những gì hấp dẫn thu hút sự chú ý của trẻ. Đến năm thứ hai, trẻ đã nhớ
được khá nhiều do sự khám phá, tiếp xúc với đồ vật xung quanh. Trí nhớ của
trẻ dần tốt hơn và đã có sự liên hệ chặt chẽ với lời nói khi trẻ lên ba. Bên
cạnh ghi nhớ không chủ định thì trí nhớ có chủ định bắt đầu hình thành ở độ
tuổi mẫu giáo nhỡ và đặc biệt phát triển nhanh ở tuổi mẫu giáo lớn. Biểu
tượng của trí nhớ ở trẻ mẫu giáo lớn mang tính khái quát hơn. Trong quá
trình tưởng tượng, trẻ sử dụng các biểu tượng của trí nhớ. Quá trình tạo ra
những biểu tượng mới luôn gắn với ngôn ngữ bên trong. Không có ngôn ngữ
thì không thể tiến hành tưởng tượng, chính nhờ ngôn ngữ mà quá trình tưởng
tượng là một quá trình có ý thức được điều khiển tích cực và có chất lượng
cao. Nhờ có ngôn ngữ mà trẻ có thể chính xác hóa hình ảnh tưởng tượng
đang nảy sinh và giữ chúng lại trong trí nhớ. Trẻ 5-6 tuổi đã có khả năng
tưởng tượng cao, sự sáng tạo của trẻ được thể hiện bằng trí tưởng tượng
phong phú.

7


Như vậy, việc cho trẻ kể lại chuyện một cách sáng tạo không chỉ có ý
nghĩa trong việc kiểm tra, củng cố lại trí nhớ mà trẻ còn được tự tin, mạnh

dạn trong việc thể hiện cái “tôi” đầy cá tính, từ đó giúp trẻ phát triển trí tuệ.
1.2. Cơ sở sinh lí học
Hệ thần kinh là một hệ thống trẻ tuổi trong các hệ thống cơ quan của
con người. Là cơ quan chủ động phụ trách toàn bộ mọi hoạt động của cơ thể.
Hệ thần kinh giữ mối liên hệ giữa cơ thể với môi trường bên ngoài; điều
chỉnh các hoạt động của cơ thể và tạo mối thống nhất giữa hoạt động bên
ngoài và hoạt động bên trong của cơ thể. Trong đó, não chính là trung tâm
điều khiển của hệ thần kinh trung ương. Cho đến lúc ra đời, não bộ của trẻ
vẫn chưa được phát triển đầy đủ. Trẻ sơ sinh, não bộ có kích thước nhỏ,
trọng lượng khoảng 370- 392g (= 1/8- 1/9 trọng lượng cơ thể). Trong 9 năm
đầu trọng lượng của não bộ tăng lên mạnh mẽ. Khi trẻ sinh ra, mặt ngoài não
bộ (khe và rãnh) của trẻ sơ sinh giống như ở người lớn, tuy nhiên các khe và
các rãnh chưa biểu hiện rõ rệt, chưa sâu. Quá trình này diễn ra mạnh mẽ đặc
biệt khi trẻ được 5 tuổi.
Ở người, hai hệ thống tín hiệu thứ nhất và thứ hai có liên hệ chặt chẽ
với nhau, trong đó hệ thống tín hiệu thứ hai chiếm ưu thế. So với hệ thống
tín hiệu thứ nhất thì hệ thống tín hiệu thứ hai có đặc điểm nổi bật đó là khả
năng trừu tượng hóa, khái quát hóa các sự vật và hiện tượng xảy ra ở thế giới
bên ngoài cũng như ở bên trong cơ thể chúng ta. Vì vậy, hệ thống tín hiệu
thứ hai là cơ sở của tư duy con người. Học thuyết về hệ thống tín hiệu đã
khẳng định : ngôn ngữ là hệ thống tín hiệu thứ hai, là sự hoạt động của vỏ
bán cầu đại não. Việc phát triển ngôn ngữ cho trẻ phải liên quan mật thiết
với việc phát triển của bán cầu đại não và hệ thần kinh nói chung, bộ máy
phát âm nói riêng. Vì thế cần phải phát triển ngôn ngữ đúng lúc mới đạt kết
quả tốt.

8


Âm tiết của ngôn ngữ là đơn vị âm thanh nhỏ nhất trong lời nói không

thể phân chia thêm được nữa. Sự phát âm đúng có liên quan chặt chẽ đến sự
phối hợp nhịp nhàng giữa các cơ quan phát âm của trẻ. Phát âm của trẻ phụ
thuộc vào sự hoàn thiện của bộ máy phát âm. Chính lứa tuổi mầm non là giai
đoạn hoàn thiện dần bộ máy phát âm đó như sự xuất hiện của răng, sự vân
động linh hoạt của môi, lưỡi, hàm dưới... Tuy nhiên, trong cùng một độ tuổi
sự phát triển ngôn ngữ ở mỗi trẻ là khác nhau. Có những trẻ phát âm rõ ràng,
mạch lạc, cũng có những trẻ thường hay nói ngọng. Trẻ nói ngọng có thể là
do bộ máy phát âm có lỗi bẩm sinh như ngắn lưỡi, dài lưỡi... hay do quá
trình chăm sóc và giáo dục trẻ. Âm sắc của tiếng nói do tính chất của hòa âm
xác định và phụ thuộc vào sự cộng hưởng của phần trên của thanh quản,
họng, khoang miệng và mũi. Bộ máy phát âm của trẻ chưa phát triển đầy đủ,
các bộ phận tạo thành tiếng nói chưa liên kết chặt chẽ nên trẻ phát âm còn
chưa chuẩn, không chính xác. Do đó, việc nghiên cứu bộ máy phát âm để
tìm hiểu vốn từ của trẻ mầm non hoàn toàn có cơ sở và mang tính khoa học.
1.3. Cơ sở giáo dục học
Dạy học ở trường mẫu giáo là quá trình phát triển có hệ thống, có kế
hoạch và có mục đích các năng lực nhận thức của trẻ, trang bị cho trẻ hệ
thống tri thức sơ đẳng, hình thành các kỹ năng , kỹ xảo tương ứng và trên cơ
sở đó góp phần hình thành nhân cách cho trẻ mẫu giáo.
Dạy học ở trường mẫu giáo cũng cần một hệ thống phương pháp khác
với phổ thông. Tương ứng với trình độ phát triển tâm lý và tư duy của trẻ
mẫu giáo, các phương pháp trực quan và tổ chức trò chơi được sử dụng rộng
rãi. Việc lĩnh hội tài liệu mới phải được diễn ra trong quá trình hoạt động
của trẻ: thực hành với đồ vật, trong các trò chơi khác nhau, trong các hoạt
động tạo ra sản phẩm như vẽ, nặn, cắt dán hoặc thiết kế xây dựng phải sử

9


dụng nhiều biện pháp dạy học khác nhau, luôn thay đổi, sinh động, hấp dẫn

và phù hợp tâm lý của trẻ.
Hình thức tổ chức dạy học hiện nay cho trẻ mẫu giáo là thông qua mọi
hoạt động tự nhiên của trẻ mà không có “tiết học” nữa. Nội dung học tập
không phân bố chi tiết vào các tiết học mà theo theo các chủ đề lớn như chủ
đề giao thông, gia đình, thế giới thực vật... Mỗi chủ đề lại chứa đựng những
nội dung chi tiết hơn. Trong quá trình dạy học có nhiều hoạt động khác nhau
như: Làm quen với Văn học, Làm quen với môi trường xung quanh, Hình
thành biểu tượng toán, Tạo hình, Âm nhạc...tất cả hoạt động này nhằm mục
đích mở rộng kiến thức hiểu biết cho trẻ và bên cạnh đó còn có một nhiệm
vụ vô cùng quan trọng đó là phát triển ngôn ngữ cho trẻ.
Ngôn ngữ của trẻ được hình thành và phát triển qua việc giao tiếp với
con người và qua việc tiếp xúc với sự vật hiện tượng xung quanh. Việc học
tập của trẻ diễn ra “ mọi lúc, mọi nơi” như trẻ được quan sát sự vật, hiện
tượng xung quanh thông qua các chuyến đi dạo; trẻ có hiểu biết ban đầu về
các hình dạng, kích thước, mối quan hệ số lượng thông qua một số trò
chơi...Để củng cố, phát triển nhận thức của mình thì trẻ cần sử dụng lời nói
để gọi tên, nói lên đặc điểm , tính chất của các sự vật, hiện tượng đó. Trong
quá trình học của trẻ không thể không kể đến vai trò quan trọng của giáo
viên. Cô giáo phải đảm bảo chức năng hướng dẫn, tổ chức hoạt động học tập
của trẻ; không những vậy, giáo viên còn có nhiệm vụ dạy trẻ nói câu đầy đủ,
phát âm đúng, đảm bảo nguyên tắc giáo dục học tính khoa học, tính hệ
thống, tính vừa sức, tính tiếp thu.

10


1.4. Cơ sở ngôn ngữ học
Ngôn ngữ là sự sáng tạo kì diệu của con người. Nhờ có ngôn ngữ, con
người mới có phương tiện để nhận thức và thể hiện nhận thức của mình, để
giao tiếp và hợp tác với nhau… Nói đến sự phát triển của xã hội không thể

không nói đến vai trò đặc biệt quan trọng của ngôn ngữ. Nguyễn Thiện Giáp
đã khẳng định: “Ngôn ngữ là một hệ thống tín hiệu âm thanh đặc biệt, là
phương tiện giao tiếp cơ bản và quan trọng nhất của các thành viên trong
một cộng đồng người. Ngôn ngữ đồng thời cũng là phương tiện phát triển tư
duy, truyền đạt truyền thống văn hoá - lịch sử từ thế hệ này sang thế hệ
khác.” [ 2; 5 ]. Ngôn ngữ phục vụ xã hội với tư cách là phương tiện giao tiếp
giữa mọi người giúp cho người ta hiểu biết lẫn nhau, cùng nhau tổ chức
công tác chung trên mọi lĩnh vực hoạt động của con người. Trong tất cả các
phương tiện mà con người sử dụng để giao tiếp thì ngôn ngữ là phương tiện
duy nhất thoả mãn được tất cả nhu cầu của con người.
Ngoài ra, ngôn ngữ được sử dụng như một phương tiện của tư duy, hay
còn được hiểu ngôn ngữ là “cái vỏ” của tư duy, là phương thức biểu đạt
muốn cho người khác hiểu được những suy nghĩ, nhu cầu, mong muốn của
bản thân thông qua lời nói. Với trẻ mầm non thì ngôn ngữ chủ yếu là ngôn
ngữ nói, điều đó có nghĩa là việc trẻ cần giao lưu, trao đổi với mọi người
xung quanh trong những năm đầu đời là vô cùng quan trọng. Nếu trẻ không
được thường xuyên nói chuyện, không thường xuyên giao lưu với người
khác thì trẻ sẽ không có nhiều vốn từ ngữ, cũng như không biết cách biểu đạt
những mong muốn của bản thân mình bằng lời nói, mà chỉ bằng hành động.
Cần làm giàu vốn từ cho trẻ bằng cách củng cố vốn từ đã biết, cung cấp từ
mới làm cho vốn từ phong phú, tích cực hóa vốn từ cho trẻ. Trong công tác
giáo dục mầm non, người lớn cần phải có ý thức rèn luyện và phát triển

11


ngôn ngữ cho trẻ một cách thường xuyên liên tục, mọi lúc, mọi nơi và trong
mọi hoạt động.
Để tồn tại trong xã hội, con người cần phải giao tiếp, trong đó tiếng nói
và ngôn ngữ chính là phương tiện quan trọng để giao tiếp của con người.

Giao tiếp giúp cho con người hình thành năng lực tự ý thức và phát triển
nhận thức. Đặc biệt với trẻ lứa mầm non, là độ tuổi rất thích tìm tòi, khám
phá thế giới xung quanh. Nhờ vào hoạt động giao tiếp với người lớn, trẻ làm
quen với các sự vật, hiện tượng và hiểu những đặc điểm, tính chất, cấu tạo,
công dụng... của chúng , giúp trẻ mở rộng hiểu biết về thế giới xung quanh,
tích cực, sáng tạo trong hoạt động trí tuệ. Để có thể giao tiếp, biểu đạt ý
muốn của mình thì cần phải có vốn từ. Vốn từ của trẻ mẫu giáo có khối
lượng nhỏ hơn nhiều so với người lớn vì khối lượng tri thức của trẻ còn quá
hạn hẹp. Trẻ mẫu giáo lĩnh hội vốn chỉ là bước đầu nên không phải tất cả từ
chúng tiếp nhận và sử dụng được ngay. Có những từ ngữ tích cực, trẻ hiểu
và sử dụng trong giao tiếp ( loại này có số lượng hạn chế). Loại vốn từ thụ
động bao gồm những từ trẻ mới lĩnh hội. Do kinh nghiệm sống và tri thức
còn nghèo nàn nên trẻ chưa hiểu rõ nghĩa cuả từ nên không sử dụng được.
Vì vậy, tích cực hóa vốn từ là chuyển vốn từ thụ động sang vốn từ chủ động
cho trẻ là điều vô cùng quan trọng. Đó là quá trình giúp trẻ không những
hiểu biết từ với nhiều nghĩa khác nhau mà còn sử dụng chúng trong nhiều
hoàn cảnh giao tiếp. Cuối tuổi mẫu giáo là giai đoạn chuẩn bị cho một bước
ngoặt lớn của trẻ - chuẩn bị vào lớp 1. Vì vậy, phát triển vốn từ là nhiệm vụ
quan trọng trong phát triển ngôn ngữ cho trẻ, làm cơ sở cho việc lĩnh hội tri
thức.

12


1.5. Một số khái niệm
1.5.1. Khái niệm kể lại chuyện
Kể lại chuyện là dùng ngôn ngữ của mình để kể lại nội dung của tác
phẩm. Nghĩa là trong khi kể , cô giáo có thể thêm hoặc bớt những chi tiết
không làm ảnh hưởng đến việc hiểu nội dung của câu chuyện. ở đây, cô giáo
phải bằng nghệ thuật kể của mình để truyền đạt một cách sinh động “linh

hồn” của tác phẩm đến với trẻ.[11;30]
1.5.2. Mục đích của việc dạy trẻ kể lại chuyện
Vấn đề giáo dục nhân cách con người – là một mục tiêu cao, cho cả đời
người, cần được chuẩn bị sớm cho các thế hệ trẻ, ngay từ lúc vào đời. Vì
vậy, cần phát triển tất cả các khả năng, thiên hướng của trẻ. Trong tất cả các
khả năng thiên hướng ấy, không có cái nào quan trọng hơn và cần thiết bằng
khả năng ngôn ngữ. Vì vậy, việc phát triển ngôn ngữ có hệ thống, có phương
pháp phải được tiến hành trong tất cả các hoạt động, các môn học, đặc biệt
qua việc cho trẻ tiếp xúc với các tác phẩm văn học.
Văn học là một phương tiện hiệu quả mạnh mẽ không chỉ đối với việc
giáo dục trí tuê, đạo đức, thẩm mĩ mà còn có ảnh hưởng vô cùng to lớn đến
sự phát triển ngôn ngữ của trẻ. Ở lứa tuổi mầm non, với tâm hồn thơ ngây,
trong trắng, chưa có nhiều những trải nghiệm cá nhân, nhận thức về thế giới
xung quanh ở mức cảm tính…, nên việc tiếp xúc với cái đẹp lấp lánh của
ngôn từ và trí tưởng tượng phong phú trong tác phẩm văn học thiếu nhi sẽ là
cơ sở để các em rung động và cảm nhận được vẻ đẹp về một thế giới bao la
đầy âm thanh, màu sắc và sự huyền bí. Trong truyện cổ tích, trẻ được gặp
ông Bụt, bà Tiên tốt bụng với những phép biến hóa thần thông, những nàng
công chúa xinh đẹp, những chàng hoàng tử thông minh, can đảm… Còn
trong truyện thần thoại, các em lại được bắt gặp lối nhân hóa và sự tưởng
tượng nghệ thuật, ở đó các con vật, cỏ cây, hoa lá hiện lên một cách sinh

13


động thể hiện tình cảm gắn bó sâu sắc giữa con người với thiên nhiên. Việc
kể các câu chuyện cho trẻ nghe có tác dụng làm phong phú khả năng ngôn
ngữ, sức sáng tạo, sự tự tin đồng thời, bồi dưỡng và vun đắp cho các bé sự
thông minh về trí tuệ và cảm xúc - một yếu tố được coi là kim chỉ nam đối
với sự phát triển của trẻ. Tuy nhiên, để ngôn ngữ của trẻ phát triển một cách

tối ưu, đặc biệt về mặt vốn từ thì không chỉ dừng lại ở việc trẻ được nghe kể
mà nó còn đòi hỏi ở việc trẻ được mạnh dạn, tự tin kể lại các câu chuyện đó.
Trong phương hướng giáo dục nghệ thuật ở Pháp kế hoạch hàng đầu đưa ra
là phát triển khả năng sáng tạo cho trẻ, khích lệ nhu cầu hoạt động sáng tạo
theo quy luật của cái đẹp. Như vậy, cần phải làm thế nào để cho trẻ không
những chỉ cảm thụ văn học mà còn phải hành động, không phải chỉ biết bắt
chước mà còn phải sáng tạo. Hình thành phát triển khả năng hoạt động nghệ
thuật là hình thành phát triển những khả năng cở bản của trẻ em, việc làm
này sẽ góp phần làm giàu nhân cách trẻ.
Trẻ 5-6 tuổi đã phát triển khả năng tư duy, trí tưởng tượng, sức sáng tạo
và cá tính riêng. Kể lại chuyện sáng tạo tạo điều kiện cho trẻ có cơ hội tự do
sáng tạo, tích lũy được những kiến thức về thế giới xung quanh một cách tự
nhiên nhất, luyện phát âm, phát triển khả năng biểu đạt và đặc biệt là giúp
cho trẻ mở rộng vốn từ một cách chủ động để trình bày ý kiến, suy nghĩ, tự
tin khi kể về một sự vật hay sự kiện nào đó bằng chính ngôn ngữ của mình.
Khác với các hình thức kể chuyện khác, kể lại chuyện sáng tạo mang một
nét cá tính riêng biệt của mỗi cá nhân thể hiện, bởi nó được xây dựng trên
tâm lý tưởng tượng.
Ví dụ như truyện “Cây khế” , khi kể đến đoạn chim lạ đến ăn khế của người
em, cháu Bảo Bình kể lại như sau:
“ Mấy hôm sau có con chim lạ từ đâu bay tới đuôi dài có một bộ lông rực rỡ
bay về ăn khế. Chim mổ hết quả nọ đến quả kia.

14


Người em đuổi đi và nói: “ Chim gì mà lạ thế, to thế kia, ăn thế này chả
mấy chốc mà hết cây khế của ta chứ. Ta nghèo lắm không có gì ngoài cây
khế này đâu”.
Chim trả lời: “Ta là Phượng Hoàng ta ăn khế sẽ trả mỗi quả một cục vàng.

Ngươi chuẩn bị đi theo ta mà lấy vàng nhé ”
Hay ở đoạn chim chở người em ra biển lấy vàng, cháu đã kể lại như sau:
“ Chim đưa người em đến hòn đảo giữa biển, trên đảo đầy vàng bạc châu
báu. Người em reo lên: “Ôi! Nhiều vàng thế không biết nhưng ta không lấy
nhiều đâu, lấy nhiều sẽ bị người khác coi là tham lam đấy”
Như vậy, khi trẻ kể lại chuyện, trẻ sự kết hợp tinh tế giữa việc nhớ lại
câu chuyện đã được nghe và sử dụng trí tưởng tượng của mình để tạo nên
câu chuyện mới mẻ, hấp dẫn hơn. Công việc này đòi hỏi vốn từ phong phú,
kĩ năng tổng hợp, kĩ năng truyền đạt lại ý nghĩa của mình một cách chính
xác. Những kĩ năng này trẻ lĩnh hội được trong quá trình tiếp xúc với thế
giới xung quanh, qua quá trình học tập ở trường và việc luyện tập thường
xuyên.
1.5.3. Phân biệt kể lại truyện văn học và kể lại chuyện.
1.5.3.1. Kể lại chuyện.
Kể lại chuyện là dùng ngôn ngữ của mình để kể lại nội dung của tác
phẩm. Nghĩa là trong khi kể , cô giáo có thể thêm hoặc bớt những chi tiết
không làm ảnh hưởng đến việc hiểu nội dung của câu chuyện. Ở đây, cô giáo
phải bằng nghệ thuật kể của mình để truyền đạt một cách sinh động “linh
hồn” của tác phẩm đến với trẻ.
Các bước dạy kể lại chuyện:
Bước 1: Cô kể chuyện cho trẻ nghe
Bước 2: Cho trẻ thảo luận, đàm thoại cùng cô
Bước 3: Cho trẻ kể lại chuyện

15


1.5.3.2. Kể lại truyện văn học
Kể lại truyện văn học – đó là thuật lại một văn bản đã có sẵn: một
truyện kể dân gian, một truyện ngắn do các nhà văn học hiện đại sáng tác

phù hợp với trẻ nhỏ... Tuy nhiên, cũng có thể có đôi phần sáng tạo trong
cách kể chuyện bên cạnh yêu cầu đảm bảo tính chính xác của cốt truyện.
Các bước dạy kể lại truyện văn học như sau:
Bước 1: Cô đọc tác phẩm văn học cho trẻ nghe
Bước 2: Cho trẻ thảo luận theo câu hỏi
Bước 3: Cô đọc lại tác phẩm
Bước 4: Cho trẻ kể lại truyện
Như vậy, dạy trẻ kể lại truyện văn học, cô giáo cần phải “đọc”
nguyên văn từng chữ trong văn bản, đảm bảo số lượng từ , không được
thêm bớt, hình thức bắt đầu từ việc trẻ nghe cô đọc truyện, cuối cùng là
trẻ tự kể lại truyện. Còn dạy trẻ kể lại chuyện, cô giáo “kể” tác phẩm cho
trẻ nghe chứ không phải là đọc. Khi kể cô thoát li văn bản nhưng vẫn đảm
bảo được nội dung của văn bản, hình thức được bắt đầu từ trẻ nghe cô kể
chuyện , cuối cùng là trẻ kể lại chuyện bằng chính ngôn ngữ của mình.
Hai hình thức kể lại truyện văn học và kể lại chuyện đều giúp trẻ
nắm được cốt truyện và kể lại. Tuy nhiên, kể lại chuyện giúp trẻ có được
vốn từ phong phú, khả năng phát âm và đặc biệt là phát huy được tính
sáng tạo trong ngôn ngữ của trẻ.
1.6. Đặc điểm vốn từ
1.6.1. Đặc điểm vốn từ của trẻ mầm non
Ngôn ngữ có vai trò giúp con người giao tiếp với nhau một cách hiệu
quả. Đối với trẻ, phát triển ngôn ngữ nói trong 5 năm đầu đời là một trong
những nhiệm vụ quan trọng giúp phát triển toàn diện, đặc biệt là nhận thức,
biểu lộ cảm xúc và hình thành cơ bản quan hệ xã hội với những người xung

16


quanh. Lúc đầu, ngôn ngữ của trẻ chưa phát triển, trẻ chưa nói được câu
hoàn chỉnh. Nhưng do đặc trưng phát triển tâm lý trẻ mẫu giáo theo “cơ chế

bắt chước” những người khác nên việc trẻ được giao lưu với những người
xung quanh sẽ giúp trẻ hình thành cho mình vốn từ ngữ phong phú hơn.
Sự lĩnh hội vốn từ của trẻ mẫu giáo là một quá trình diễn ra dần dần:
Thoạt đầu, trẻ chỉ đối chiếu từ với sự vật cụ thể (không có nghĩa khái quát);
sự thâm nhập dần của trẻ vào hiện thực ( khám phá ra thuộc tính, bản chất,
khái quát theo dấu hiệu đó)... Dần dần cùng với sự phát triển tư duy, trẻ mới
nắm được nội dung khái niệm từ, việc nắm nghĩa của từ còn biến đổi trong
suốt tuổi mẫu giáo. Từ 0-6 tuổi được coi là “giai đoạn vàng” của sự phát
cảm về ngôn ngữ. Vì vậy, cần phải tận dụng tối đa cơ hội này giúp trẻ phát
triển một cách tốt nhất.
1.6.1.1. Vốn từ xét về mặt số lượng
Sự phát triển ngôn ngữ của trẻ mầm non ở mỗi giai đoạn mang đặc
trưng khác nhau. Chúng ta có thể thấy rằng quy luật tăng số lượng vốn từ
của trẻ như sau:
- Số lượng từ của trẻ tăng theo thời gian
- Sự tăng có tốc độ không đồng đều, có giai đoạn tăng nhanh, có giai
đoạn tăng chậm.
- Trong năm thứ 3 tốc độ tăng nhanh nhất
- Từ 3-6 tuổi tốc độ vốn từ giảm dần.
Trẻ sơ sinh chưa hiểu được ngôn ngữ của người lớn. Ở giai đoạn này,
trẻ mới bắt đầu cảm nhận được ngữ điệu, giọng nói của người mẹ. Điều này
thể hiện ở chỗ trẻ có thể nhận ra giọng nói và sẽ phản ứng với giọng nói của
mẹ, khi nhìn thấy khuôn mặt của mẹ, trẻ thể hiện sự vui tươi và thoải mái.
Khi trẻ được 7-8 tháng tuổi, trẻ bắt đầu biết tên của mình, thể hiện ở
việc trẻ biết ngoảnh mặt lại khi được gọi tên.

17


Đến 10-11 tháng tuổi, trẻ bắt đầu hiểu một số từ chỉ các sự vật, người

mà trẻ thường xuyên được tiếp xúc.
Ví dụ: bố, mẹ, đồng hồ, cái cốc...
Đến cuối năm thứ nhất, bên cạnh các âm bập bẹ xuất hiện các từ chủ
động đầu tiên. Đó là những từ có cấu tạo âm thanh đơn giản: gà, bà, mẹ, bé...
So với năm thứ nhất đầu năm thứ hai môi trường tiếp xúc của trẻ rộng
hơn. Trẻ không chỉ hiểu những từ chỉ vật cụ thể mà còn hiểu những từ chỉ
tính chất hành động.
Ví dụ: đi, chạy, ăn, đẹp, xấu...
Ở 18 tháng tuổi, số từ trung bình quân là 11 từ, nhiều nhất là 25 từ, trẻ
bắt chước người lớn lặp lại một số từ đơn gần gũi: mẹ, bà, bố...
Từ 19- 21 tháng tuổi, số lượng từ tăng nhanh. Đến 21 tháng tuổi trẻ đạt
tới 220 từ.
Giai đoạn 21-24 tháng tuổi, tốc độ chậm lại, chỉ đạt 234 từ vào tháng
24, sau đó lại tăng tốc: 30 tháng đạt 434 từ, 36 tháng đạt 468 từ.
+ Theo nghiên cứu của tác giả Đinh Hồng Thái, đến năm thứ ba, trẻ đã
sử dụng được trên 500 từ, phần lớn là danh từ, động từ, tính từ và các loại
khác rất ít danh từ chỉ đồ chơi, đồ dùng quen thuộc, các con vật gần gũi như
chó, mèo,chim... Động từ chỉ hoạt động gần gũi với trẻ và những người xung
quanh như ăn, uống, ngủ, đi...
Trẻ 4 tuổi có thể nắm được xấp xỉ 700 từ. Ưu thế vẫn thuộc về danh từ
và động từ. Hầu hết các loại từ đã xuất hiện trong vốn từ của trẻ.
Từ 5-6 tuổi, vốn từ của trẻ tăng bình quân đến 1033 từ; tính từ và các
loại từ khác chiếm một tỉ lệ cao hơn.
Tốc độ tăng vốn từ ở các độ tuổi khác nhau, chậm dần theo độ tuổi:
cuối 3 tuổi so với 3 tuổi đầu vốn từ tăng 107%; cuối 4 tuổi so với 4 tuổi đầu

18


vốn từ tăng 40,58%; cuối 5 tuổi so với đầu 5 tuổi vốn từ chỉ tăng 10,40%;

cuối 6 tuổi so với đầu 6 tuổi vốn từ cũng chỉ tăng 10,01%. [ 7;102]
Theo nghiên cứu của Nguyễn Xuân Khoa về ngôn ngữ của trẻ nội
thành Hà Nội thì vốn từ của trẻ mẫu giáo là:
Trẻ 4 tuổi: 1900-2000 từ
Trẻ 5 tuổi: 2500- 2600 từ
Trẻ 6 tuổi: 3000- 4000 từ [3; 49]
Các nhà ngôn ngữ học và tâm lý học có đưa ra các số liệu khác nhau về
số lượng từ của trẻ mẫu giáo:
N.D.Levitốp: 3.5 tuổi 1000 từ
YU.U.Pratuxevich: 4 tuổi 1900 từ
5 tuổi 2500 từ
M.Becgiorông: 3.5 tuổi 1222 từ [4; 48]
Mặc dù số lượng từ của trẻ mẫu giáo do các nhà tâm lí học, ngôn ngữ
học đưa ra không khớp nhau, nhưng sự chênh lệch không lớn lắm; bởi lẽ số
lượng từ của trẻ phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác nhau trong đó quan trọng
nhất là tác động của môi trường như sự tiếp xúc ngôn ngữ thường xuyên với
những người xung quanh, trình độ của bố, mẹ...
1.6.1.2. Vốn từ xét về mặt cơ cấu từ loại
Cơ cấu từ loại trong vốn từ của trẻ là một tiêu chí để đánh giá chất
lượng vốn từ. Tiếng Việt có 9 loại từ: danh từ, động từ, tính từ, số từ, đại từ,
phó từ, quan hệ từ, định từ, tình thái từ. Số lượng từ loại càng nhiều thì càng
tạo điều kiện cho trẻ diễn đạt thuận lợi bấy nhiêu. Các loại từ xuất hiện dần
dần trong vốn từ của trẻ, ban đầu chủ yếu là danh từ, sau đó là động từ và
tính từ, các loại từ khác xuất hiện muộn hơn.
Trẻ 3-4 tuổi, về cơ bản trong vốn từ của trẻ đã có đủ các loại từ. Tuy
nhiên, tỉ lệ danh từ và tính từ cao hơn nhiều so với loại từ khác:

19



+ Danh từ chiếm: 38%
+ Động từ chiếm: 32%
+ Tính từ chiếm: 6,8%
+Đại từ chiếm: 3,1%
+Phó từ chiếm: 7,8%
+Tình thái từ chiếm: 4,7%
+Số từ chiếm: 2,5%
+Quan hệ từ chiếm: 1,7%
Giai đoạn 5-6 tuổi cũng là giai đoạn hoàn thiện một bước cơ cấu từ loại
trong vốn từ của trẻ. Tỉ lệ danh từ, động từ giảm đi (chỉ còn khoảng 50%)
nhường chỗ cho tính từ và các từ loại khác tăng lên: tính từ đạt tới 15%,
quan hệ từ tăng lên đến 5,7%; còn lại là các loại từ khác. [7;103]
Theo nghiên cứu của Lưu Thị Lan, trẻ em mẫu giáo có tỷ lệ các từ loại
như tính từ, trạng từ, quan hệ từ được tăng lên, động từ giảm đi so với lứa
tuổi nhà trẻ:
- Trẻ 3 tuổi:
+Danh từ chiếm: 40,2%
+Tính từ chiếm: 7,8%
+Trạng từ chiếm: 2,4%
- Trẻ 5 tuổi:
+Danh từ chiếm: 35,52%
+Tính từ chiếm: 8,64%
Trẻ 6 tuổi:
+Danh từ giảm 34,47% xuống còn 30,97%
+Tính từ tăng lên từ 9,94% lên 11,64% [4; 50]
Trẻ mẫu giáo nói nhiều nhưng chưa phải nói hay, vì vậy cần mở rộng
các loại từ để trẻ nói hay, biết sử dụng từ gợi cảm, từ văn học. Trẻ mẫu giáo

20



×