Tải bản đầy đủ (.docx) (58 trang)

Phân tích tình hình thu chi Ngân sách nhà nước giai đoạn 2013 2016

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (4.34 MB, 58 trang )

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài:
Ngân sách Nhà nước (NSNN) đảm bảo điều kiện vật chất cho sự tồn tại, hoạt động của
hệ thống các cơ quan Nhà nước, cung cấp kinh phí cho các dự án Quốc gia. Đặc biệt trong
nền kinh tế thị trường, với rất nhiều khiếm khuyết đòi hỏi phải có sự can thiệp của Chính
phủ vào nền kinh tế và Ngân sách Nhà nước đã đóng góp một vai trò to lớn giúp Chính
phủ điều tiết vĩ mô nền minh tế.
Đại hội Đảng lần VI năm 1986 đã đánh dấu mốc quan trọng trong lịch sử phát triển
kinh tế của nước ta, Đảng và Nhà nước đã chủ trương chuyển đổi từ nền kinh tế bao cấp
tập trung sang cơ chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Đặc biệt từ năm
1991 trở đi nền kinh tế nước ta đã thực sự bắt nhịp được theo cơ chế kinh tế mới, đất
nước cũng đã có nhiều sự thay đổi và phát triển trên nhiều phương diện, nhất là vai trò
quản lý và điều tiết vĩ mô nền kinh tế – xã hội của Nhà nước được đề cao hơn bao giờ
hết. Và cho đến nay, kinh tế Việt Nam đã có những bước ngoặc thay đổi đáng kể. Để hoàn
thành tốt được vai trò này, Nhà nước cần có những biện pháp và công cụ hữu hiệu để can
thiệp vào hoạt động kinh tế. Một trong những công cụ quan trọng để Nhà nước can thiệp
đúng lúc và kịp thời một cách toàn diện vào nền kinh tế chính là NSNN.
Song song với việc phát triển và tăng trưởng kinh tế từ khi đổi mới cho đến nay,
NSNN đã thể hiện những vai trò nhất định và không thể phủ nhận những đóng góp tích
cực cho việc ổn định nền kinh tế nhằm thực hiện “can thiệp vào những thất bại của thị
trường” cũng như thực hiện chức năng “tái phân phối thu nhập” của mình một cách có
hiệu quả nhất. Tuy nhiên, với sự bùng phát về mặt kinh tế của Việt Nam như hiện nay,
tình hình thu, chi NSNN trở nên quan trọng và cấp bách hơn bao giờ hết trong việc kiểm
soát và kiểm tra theo đúng quy trình và kỷ luật tài chính tổng thể nhằm tránh việc đem lại
những hậu quả nghiêm trọng trong việc chi vượt quá thu, ảnh hưởng đến mức độ tín
nhiệm của Việt Nam, tình hình thâm hụt NSNN so với GDP cần được kiểm soát ở mức
cho phép là điều không thể không nhắc đến.
Chính vì vậy, tác giả quyết định thực hiện đề tài “Phân tích tình hình thu, chi
Ngân sách Nhà nước Việt Nam trong giai đoạn 2013 – 2016”, thông qua đề tài,
tác giả cho thấy được cơ cấu tổ chức của NSNN, cơ cấu thu chi của NSNN và các
Trang 1




giải pháp cần thiết trong việc giảm thiểu thâm hụt NSNN trong thời gian tới.
2. Mục tiêu nghiên cứu:
Đề tài thực hiện việc phân tích tình hình thu chi của Ngân sách Nhà nước giai đoạn
2013 – 2016, thông qua việc phân tích cụ thể chi tiết các khoản thu, chi, cơ cấu thu, chi
của Ngân sách Nhà nước. Từ đó, tác giả đề xuất các giải pháp cần thiết nhằm giảm thiểu
thâm hụt Ngân sách Nhà nước trong thời gian tới.
Cụ thể, đề tài thực hiện những nhiệm vụ như:
- Những vấn đề chung về Ngân sách Nhà nước, thu, chi Ngân sách Nhà nước.
- Phân tích tình hình thu, chi Ngân sách Nhà nước giai đoạn 2013 – 2016.
- Trên cơ sở đó, đề xuất những giải pháp cần thiết nhằm giảm thiểu tình hình
thâm hụt Ngân sách Nhà nước trong thời gian tới.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:
Đối tượng nghiên cứu: Tình hình thu, chi Ngân sách Nhà nước.
Phạm vi nghiên cứu:
- Phạm vi không gian: Đề tài thực hiện việc phân tích dữ liệu thu, chi Ngân sách Nhà
nước Việt Nam .
- Phạm vi thời gian: Dữ liệu phục vụ nghiên cứu từ năm 2013 – 2016.
4. Phương pháp nghiên cứu:
Để thực hiện nghiên cứu đề tài, tác giả thực hiện việc kết hợp giữa các vấn đề lý
thuyết về Ngân sách Nhà nước, thu chi Ngân sách Nhà nước cùng với việc kết hợp và sử
dụng các phương pháp phân tích định lượng (thống kê, so sánh) nhằm phân tích tình thu,
chi Ngân sách Nhà Nước giai đoạn 2013 – 2016.

5. Ý nghĩa của đề tài:
Trang 2


Với đề tài Phân tích tình hình thu chi Ngân sách Nhà nước Việt Nam giai đoạn

2013 – 2016, tác giả sẽ để lại những kết quả nhất định từ nghiên cứu của mình, các kết
quả đó có ý nghĩa cả về mặt học thuật lẫn thực tiễn.
5.1. Ý nghĩa của nghiên cứu về mặt học thuật:
Các ý nghĩa về mặt học thuật mà đề tài đã gặt hái được đó là:
 Các vấn đề lý thuyết, lý luận cơ bản về Ngân sách Nhà nước.
 Cơ cấu, hệ thống tổ chức Ngân sách Nhà nước.
 Trình bày cụ thể cơ cấu thu, chi của Ngân sách Nhà nước.

5.2. Ý nghĩa của nghiên cứu về mặt thực tiễn:
 Tình hình thu, chi Ngân sách Nhà nước giai đoạn 2013 – 2016.
 Cơ cấu, tỷ trọng của các thành phần trong cơ cấu thu, chi Ngân sách Nhà nước.
 Cho thấy mức độ thâm hụt Ngân sách Nhà nước so với GDP qua các năm 2013 – 2016.

6. Cấu trúc đề tài:
Đề tài được chia thành 3 chương chính
Chương 1: Những vấn đề chung về Ngân sách Nhà nước. Trong chương này tác
giả sẽ trình bày tổng quát các lý thuyết Ngân sách Nhà nước, cơ cấu tổ chức của
Ngân sách Nhà nước và các thành phần chính của cơ cấu thu, chi Ngân sách Nhà
nước.
Chương 2: Tình hình thu, chi Ngân sách Nhà nước Việt Nam giai đoạn 2013 –
2016. Trong chương này, tác giả tiến hành phân tích cụ thể cơ cấu, tỷ trọng về thu,
chi Ngân sách Nhà Nước giai đoạn 2013 – 2016.
Chương 3: Đề xuất các giải pháp cần thiết trong việc giảm thiểu thâm hụt Ngân
sách Nhà nước trong thời gian tới.

Chương 1: Những vấn đề chung về Ngân sách Nhà nước
1.1. Tổng quan về Ngân sách Nhà nước
Trang 3



1.1.1. Khái niệm Ngân sách Nhà nước
Trong hệ thống tài chính thống nhất, Ngân sách Nhà nước (NSNN) là khâu tài chính
tập trung giữ vị trí chủ đạo. NSNN cũng là khâu tài chính được hình thành sớm nhất, nó
ra đời, tồn tại và phát triển gắn liền với sự ra đời của hệ thống quản lý nhà nước và sự
phát triển của kinh tế hàng hoá, tiền tệ.
Cho đến nay, thuật ngữ NSNN được sử dụng rộng rãi trong đời sống kinh tế, xã hội ở
nhiều quốc gia, tuy nhiên, quan niệm về NSNN thì lại chưa thống nhất. Trên thực tế,
người ta đã đưa ra nhiều định nghĩa về NSNN không giống nhau tuỳ theo quan điểm của
người định nghĩa thuộc các trường phái kinh tế khác nhau, hoặc tuỳ theo mục đích
nghiên cứu khác nhau.
Theo quan điểm của những nhà nghiên cứu kinh tế cổ điển, NSNN là một văn kiện tài
chính, mô tả các khoản thu chi của chính phủ, được thiết lập hàng năm.
Các nhà kinh tế học hiện đại cũng đưa ra nhiều định nghĩa khác nhau về NSNN. Các
nhà kinh tế Nga cho rằng “NSNN là bảng liệt kê các khoản thu, chi bằng tiền trong một
giai đoạn nhất định của nhà nước”.
Tại Việt Nam, theo Luật Ngân sách Nhà nước ban hành ngày 25/06/2015 có quy định
rõ: “Ngân sách nhà nước là toàn bộ các khoản thu, chi của Nhà nước được dự toán và
thực hiện trong một khoảng thời gian nhất định do cơ quan nhà nước có thẩm quyền
quyết định để bảo đảm thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của Nhà nước”.
Trong một chừng mực nào đó, các định nghĩa trên đây có những sự khác biệt nhất
định. Tuy nhiên, nhìn chung, chúng đều thể hiện bản chất của NSNN là:
+ Xét về phương diện pháp lý: NSNN là một đạo luật dự trù các khoản thu, chi bằng
tiền của Nhà nước trong một thời gian nhất định, thường là 1 năm. Đạo luật này được cơ
quan lập pháp của quốc gia đó ban hành.
+ Xét về bản chất kinh tế: Mọi hoạt động của NSNN đều là hoạt động phân phối các
nguồn tài nguyên quốc gia (phân phối lần đầu và tái phân phối). Và vì vậy về nội dung
kinh tế, NSNN thể hiện các mối quan hệ kinh tế trong phân phối. Đó là hệ thống các
quan hệ kinh tế giữa một bên là nhà nước với một bên là các tổ chức kinh tế, xã hội,
các tầng lớp dân cư
+ Xét về tính chất xã hội: NSNN luôn luôn là một công cụ kinh tế của Nhà nước,

Trang 4


nhằm phục vụ cho việc thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của Nhà nước.
1.1.2. Đặc điểm Ngân sách Nhà nước
Nhìn chung về mặt tổng thể, NSNN có những đặc điểm cơ bản sau đây:
 Là quỹ tiền tệ tập trung lớn nhất của nhà nước, thuộc quyền quản lý của nhà nước, chịu

sự giám sát của nhân dân và phuc vụ cho quyền lợi của nhân dân.
 Phần lớn các khoản thu thuộc về ngân sách có tính chất bắt buộc, trong đó khoản thu lớn
nhất là thuế.
 Phần lớn các khoản chi mang tính chất cấp phát không hoàn lại.
 Các hoạt động tạo lập và sử dụng quỹ NSNN gắn chặt với quyền lực kinh tế, chính trị của
nhà nước và việc thực hiện các chức năng của nhà nước. Nói một cách cụ thể hơn, quyền
lực của nhà nước và các chức năng của nó là những nhân tố quyết định mức thu, mức chi,
nội dung và cơ cấu thu chi của NSNN.
 Các hoạt động thu, chi NSNN đều được tiến hành trên cơ sở những luật lệ nhất định. Đó
là các Luật thuế, các chế độ thu, chế độ, tiêu chuẩn định mức chi tiêu…do Nhà nước ban
hành. Việc dựa trên cơ sở pháp luật để tổ chức các hoạt động thu, chi của NSNN là một
yếu tố có tính khách quan, bắt nguồn từ phạm vi hoạt động của NSNN được tiến hành
trên mọi lĩnh vực và có tác động tới mọi chủ thể kinh tế, xã hội.
 Nguồn tài chính chủ yếu hình thành nên NSNN, quỹ tiền tệ tập trung lớn nhất của nhà

nước là từ giá trị sản phẩm thặng dư của xã hội và được hình thành chủ yếu qua quá
trình phân phối lại mà trong đó thuế là hình thức thu phổ biến. Sau các hoạt động thu, chi
NSNN là việc xử lý các mối quan hệ kinh tế, quan hệ lợi ích trong xã hội khi nhà nước
tham gia phân phối các nguồn tài chính quốc gia.
Xuất phát từ đặc điểm trên, ngân sách nhà nước nổi lên 2 đặc trưng cơ bản đó là:
+ Một là, tính cưỡng chế, tức là các khoản thu có tính bắt buộc được quy định bởi pháp
luật (trừ các khoản thu ngoài thuế và phí), các khoản chi chịu sự giám sát của pháp luật.

+ Hai là, tính không hoàn lại, tức là Nhà nước không mắc nợ khi thu và không được
hoàn trả khi chi (trừ các khoản ngân sách cho vay).
1.1.3. Tổ chức hệ thống Ngân sách Nhà nước
1.1.3.1. Hệ thống Ngân sách Nhà nước
Hệ thống NSNN là tổng thể các cấp ngân sách có quan hệ hữu cơ với nhau trong quá
trình thực hiện huy động, quản lý các nguồn thu và nhiệm vụ chi của mỗi cấp ngân sách.
Hầu hết các quốc gia trên thế giới, hệ thống NSNN đều được tổ chức phù hợp với hệ
Trang 5


thống tổ chức bộ máy quản lý hành chính nhà nước nhằm tạo cho các cấp quản lý
được nguồn lực tài chính để chủ động trong việc thực hiện nhiệm vụ chức năng của mình.
Ở nước ta với mô hình nhà nước thống nhất nên hệ thống ngân sách được tổ chức theo
hai cấp: ngân sách trung ương và ngân sách của các cấp chính quyền địa phương. Trong
đó, ngân sách địa phương bao gồm các cấp ngân sách: ngân sách thành phố (hay tỉnh),
ngân sách quận (huyện), ngân sách xã (phường).
Cơ cấu hệ thống NSNN được mô tả theo sơ đồ sau:
Sơ đồ 1.1: Cơ cấu hệ thống Ngân sách Nhà nước
HỆ THỐNG NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC

Ngân sách Trung ương

Ngân sách địa phương

Ngân sách cấp tỉnh
(Ngân sách Thành phố trực thuộc Trung ương)

Ngân sách thành phố thuộc
Ngân
tỉnhsách Thị xã

Ngân sách cấp Huyện

Ngân sách ThịNgân
trấn sách cấp xã, phường

Quan hệ giữa các cấp ngân sách được thực hiện theo nguyên tắc:
 Ngân sách trung ương và ngân sách mỗi cấp chính quyền được phân cấp nguồn thu và

nhiệm vụ chi cụ thể.
 Nhiệm vụ chi thuộc cấp ngân sách nào do cấp ngân sách đó cân đối. Trong trường hợp
cần ban hành chính sách, chế độ mới làm tăng chi ngân sách thì phải có giải pháp bảo
đảm nguồn tài chính phù hợp với khả năng cân đối của ngân sách từng cấp.
Trang 6


 Trường hợp cơ quan quản lý nhà nước cấp trên uỷ quyền cho cơ quan nhà nước cấp

dưới thực hiện nhiệm vụ chi thuộc chức năng của mình thì phải chuyển kinh phí từ ngân
sách cấp trên cho cấp dưới để thực hiện nhiệm vụ đó.
 Thực hiện phân chia theo tỷ lệ phần trăm đối với các khoản thu phân chia giữa các cấp và
bổ sung từ ngân sách cấp trên cho ngân sách cấp dưới để đảm bảo công bằng, phát triển
cân đối giữa các vùng, các địa phương. Tỷ lệ phần trăm phân chia các khoản thu và số bổ
sung cân đối từ ngân sách cấp trên cho ngân sách cấp dưới được ổn định từ 3 đến 5 năm.
Số bổ sung từ ngân sách cấp trên được coi là khoản thu của ngân sách cấp dưới.
 Ngoài cơ chế bổ sung nguồn thu và cơ chế uỷ quyền không được dùng ngân sách của
cấp này để chi cho các nhiệm vụ của cấp khác.
1.1.3.2. Nguyên tắc quản lý hệ thống Ngân sách Nhà nước
NSNN được quản lý thống nhất theo nguyên tắc tập trung dân chủ, công khai, minh
bạch, có phân công, phân cấp quản lý, gắn quyền hạn với trách nhiệm.
Hệ thống NSNN Việt Nam được tổ chức và quản lý thống nhất theo nguyên tắc thống

nhất, tập trung và dân chủ, thể hiện cụ thể như sau:
 Tính thống nhất: đòi hỏi các khâu trong hệ thống ngân sách phải hợp thành một thể

thống nhất, biểu hiện các cấp ngân sách có cùng nguồn thu, cùng định mức chi tiêu và
cùng thực hiện.
 Tính tập trung: thể hiện ngân sách trung ương giữ vai trò chủ đạo, tập trung các nguồn
thu lớn và các nhiệm vụ chi quan trọng. Ngân sách cấp dưới chịu sự chi phối của ngân
sách cấp trên và được trợ cấp từ ngân sách cấp trên nhằm đảm bảo cân đối của ngân sách
cấp mình.
 Tính dân chủ: dự toán và quyết toán ngân sách phải được tổng hợp từ ngân sách cấp

dưới, đồng thời mỗi cấp chính quyền có một ngân sách và được quyền chi phối ngân
sách cấp mình.
1.1.3.3. Phân cấp quản lý Ngân sách Nhà nước
Phân cấp quản lý ngân sách là xác định quyền hạn, nhiệm vụ của các cấp chính
quyền nhà nước trong việc quản lý và điều hành hoạt động của NSNN. Do hệ thống
NSNN gồm nhiều cấp ngân sách nên tất yếu cần phải phân định quyền hạn, nghĩa vụ, lợi
ích của các cấp chính quyền đối với các vấn đề liên quan đến NSNN. Chính vì vậy nên
nội dung phân cấp ngân sách bao gồm:
Trang 7


 Phân cấp về quyền lực ban hành các chính sách, chế độ, tiêu chuẩn định mức tài chính.
 Phân cấp về vật chất (xác định các khoản thu và chi cho các cấp ngân sách).
 Phân cấp về chu trình ngân sách (quan hệ về quản lý trong chu trình vận động của

NSNN).
Với những nội dung phân cấp ngân sách nêu trên thì phân cấp về vật chất hay là xác
định các mối quan hệ của chính quyền nhà nước các cấp trong việc phân giao nhiệm vụ
chi và nguồn thu trong cân đối ngân sách thường là những quan hệ phức tạp và khó khăn

trong quá trình thực hiện phân cấp ngân sách. Do đó phải xác định rõ nhiệm vụ kinh tế
chính trị của mỗi cấp chính quyền, khả năng tạo ra nguồn thu trên địa bàn mà chính
quyền đó quản lý, đồng thời nghiên cứu sử dụng các phương pháp điều hoà thích hợp.
Phân cấp nhiệm vụ chi, nguồn thu cho từng cấp ngân sách luôn luôn phải ổn định và đảm
bảo cho ngân sách trung ương giữ vai trò chủ đạo, tập trung những nguồn thu lớn để thực
hiện những nhiệm vụ quan trọng trên phạm vi cả nước, đồng thời những nhiệm vụ nào ổn
định mang tính thường xuyên, có tính xã hội rộng phân cấp cho chính quyền địa phương.
Dưới đây là việc phân cấp nguồn thu, chi của các cấp ngân sách:
a. Phân cấp thu của các cấp ngân sách
Bản chất của việc phân định thu đó là đảm bảo cho các chính quyền có đủ nguồn lực
tài chính thực hiện tốt cung cấp dịch vụ công trong phạm vi địa phương.
 Các khoản thu 100%
 Ngân sách trung ương và ngân sách địa phương đều có các khoản thu được hưởng trọn

100%, đó là các khoản thu về thuế, phí, lệ phí, các khoản viện trợ và vay nợ. Nguyên tắc
cơ bản để xác định nguồn thu 100% phân định cho các cấp ngân sách là dựa vào sự phân
cấp quản lý kinh tế giữa chính quyền trung ương và chính quyền địa phương. Những
nguồn thu gắn liền với những hoạt động kinh tế do chính quyền địa phương quản lý thì
ngân sách địa phương hưởng trọn 100%.
 Các khoản thu được phân chia theo tỉ lệ phần trăm giữa ngân sách trung ương và ngân
sách địa phương. Các khoản thu này bao gồm một số khoản thuế, phí và lệ phí phát sinh
trên diện rộng được phân chia giữa ngân sách trung ương và ngân sách địa phương theo
một tỉ lệ trên tổng số thu và được ổn định trong thời gian từ 3 – 5 năm. Tỷ lệ phân chia
này Quốc hội quy định dựa vào cơ sở tổng nguồn thu và nhu cầu chi tiêu của từng địa
phương.
b. Phân cấp chi của các cấp ngân sách
Trang 8


Phân công quản lý nhà nước về kinh tế xã hội giữa các cấp chính quyền là cơ sở để

phân định chi giữa các cấp ngân sách. Trong cơ chế thị trường, nhà nước sử dụng NSNN
làm công cụ quản lý và điều tiết vĩ mô nền kinh tế thì phân cấp quản lý chi giữa các cấp
ngân sách được thực hiện theo các nguyên tắc:
 Ngân sách trung ương đảm nhận nhiệm vụ chi theo các chương trình quốc gia hoặc các

dự án phát triển nhằm hình thành thế cân đối cho nền kinh tế và tạo môi trường thuận
lợi kích thích quá trình tích tụ và đầu tư vốn cho sản xuất kinh doanh của các doanh
nghiệp và dân cư.
 Ngân sách địa phương thực hiện các khoản chi gắn với việc thực hiện chức năng, nhiệm
vụ của chính quyền địa phương.
Yếu tố cơ bản nhất để có được sự thành công của một hệ thống phân cấp là đảm
bảo nhiệm vụ chi được xây dựng phù hợp với trách nhiệm cung cấp các dịch vụ được
giao.
Các tiêu thức sử dụng để giao chức năng, nhiệm vụ chi cho các cấp chính quyền là:
+ Hiệu quả kinh tế: Phải đủ lớn để đạt hiệu quả kinh tế theo quy mô và đủ nhỏ để
không làm mất hiệu quả kinh tế; các cấp chính quyền có thể cung cấp các dịch vụ với
giá cả và chất lượng chấp nhận được; đảm bảo có thể điều chỉnh chính sách giá đối với
các dịch vụ khi cần thiết.
+ Công bằng về tài chính: Phải đủ lớn để có thể tạo ra lợi ích trong quá trình thực thi
chức năng, nhiệm vụ hoặc có thể bù đắp cho các khu vực khác khi có những yếu tố ngoại
ứng; trên cơ sở các cấp chính quyền có đủ tiềm lực tài chính để trang trải cho nhiệm vụ
cung cấp dịch vụ và có thể giúp thực hiện các biện pháp để đạt được sự công bằng về
tài chính giữa các cấp chính quyền trong quá trình thực thi chức năng, nhiệm vụ.
+ Trách nhiệm về chính trị: Đảm bảo cho các cấp chính quyền dễ tiếp cận, có thể
kiểm soát và có trách nhiệm đối với người dân trong quá trình thực hiện nhiệm vụ; phải
tạo cơ hội và điều kiện để người dân có thể tham gia một cách năng động và hiệu quả
vào công việc của chính quyền.
+ Hiệu lực hành chính quản lý: Phải đảm bảo để mỗi cấp có trách nhiệm trong
việc thực hiện các chức năng, nhiệm vụ khác nhau và có thể dung hoà được các xung
đột về lợi ích.

1.2. Tổng quan về thu, chi Ngân sách Nhà nước
1.2.1. Thu Ngân sách Nhà nước
a. Khái niệm thu Ngân sách Nhà nước
Trang 9


Thu NSNN là quá trình tạo lập nguồn thu của nhà nước thông qua quan hệ phân
phối giữa nhà nước với các thành viên khác của xã hội bằng những công cụ thích hợp.
b. Phân loại thu Ngân sách Nhà nước
Việc phân loại thu NSNN được căn cứ theo phạm vị, tính chất và nội dung của các
khoản thu, cụ thể phân loại như sau:
+ Căn cứ theo phạm vi
• Thu trong nước: thu từ các thành phần kinh tế trong nước, thu từ các hoạt động sự
nghiệp, thu khác…
• Thu ngoài nước: các khoản thu về vay, viện trợ, ủng hộ của chính phủ các nước, các tổ
chức quốc tế, các tổ chức phi chính phủ…
+ Căn cứ vào tính chất của khoản thu: thu cân đối NSNN (nhằm bù đắp thâm hụt
ngân sách).
+ Căn cứ vào nội dung
Thu thuế, phí, lệ phí
Thu từ hoạt động kinh tế
Vay nợ và viện trợ





c. Nội dung thu Ngân sách Nhà nước
Thu NSNN được hình thành từ các nguồn sau:



Thuế
Thuế là hình thức động viên bắt buộc một phần thu nhập của cá nhân, doanh nghiệp
cho Nhà nước nhằm đảm bảo nhu cầu chi tiêu của Nhà nước.
Thuế có những đặc trưng sau:


Là hình thức động viên một phần thu nhập của các cá nhân, doanh nghiệp cho
Nhà nước. Các cá nhân, doanh nghiệp là người được hưởng các lợi ích từ chi
tiêu NSNN và họ có thu nhập nên phải có nghĩa vụ trích một phần thu nhập
nộp cho ngân sách Nhà nước, có thể bằng hình thức trực tiếp (thuế đánh vào

thu nhập) hoặc gián tiếp (thuế VAT, thuế xuất nhập khẩu…).
• Là khoản đóng góp mang tính bắt buộc vì thuế là nguồn thu chủ yếu của
NSNN cho nhu cầu chi tiêu cho Nhà nước nhưng do tính chất không hoàn trả
trực tiếp nên người chịu thuế không tự giác nộp.
• Không hoàn trả trực tiếp mà hoàn trả gián tiếp và không tương đương dưới
hình thức người chịu thuế được hưởng các hàng hoá, dịch vụ Nhà nước cung
cấp không mất tiền hoặc với giá thấp và không phân biệt giữa người nộp thuế
Trang 10


nhiều hay ít.


Lệ phí
Lệ phí là khoản thu do Nhà nước quy định để nhà nước phục vụ công việc quản lý
hành chính nhà nước theo yêu cầu hoặc theo quy định của pháp luật.
Việt nam có khoảng 15 loại lệ phí như lệ phí trước bạ, lệ phí đăng ký kinh doanh, lệ
phí chứng thư, công chứng, lệ phí cấp quota.




Phí
Phí là khoản thu do nhà quy định nhằm bù đắp một phần chi phí của NSNN mà nhà
nước đã dùng để:



Đầu tư, xây dựng, mua sắm, bảo dưỡng và quản lý tài sản, tài nguyên hoặc chủ quyền

quốc gia.
• Tài trợ cho các tổ chức, cá nhân hoạt động sự nghiệp, hoạt động công cộng hoặc lợi ích
công cộng theo yêu cầu, không mang tính kinh doanh.
Như vậy, phí là một khoản thu mang tính chất bù đắp và bắt buộc đối với các thể nhân
và pháp nhân do được hưởng một lợi ích hoặc được sử dụng một dịch vụ (công cộng) nào
đó do Nhà nước cung cấp, phí có tính hoàn trả trực tiếp.


Các khoản thu từ hoạt động kinh tế của Nhà nước



Thu lợi tức từ hoạt động góp vốn liên doanh, cổ phần của Nhà nước vào các cơ sở kinh tế
như lãi từ cổ phần Nhà nước giữ lại tại các doanh nghiệp Nhà nước được cổ phần hoá.



Thu tiền sử dụng vốn ngân sách Nhà nước từ các doanh nghiệp Nhà nước. Khoản thu này
trích từ lợi nhuận của doanh nghiệp theo tỷ lệ từ 0,2% – 0,5% vốn NSNN cấp/tháng. Vốn

NSNN cấp gồm có vốn do ngân sách nhà nước cấp và vốn có nguồn gốc từ ngân sách
(như viện trợ trực tiếp cho doanh nghiệp, các khoản lợi nhuận phải nộp ngân sách được
phép giữ lại bổ sung vốn).
• Tiền thu hồi vốn của Nhà nước tại các cơ sở kinh tế, ví dụ tiền thu từ việc bán cổ
phần tại các doanh nghiệp Nhà nước được cổ phần hoá, bán doanh nghiệp Nhà


nước làm ăn yếu kém mà không cần thiết giữ lại.
Thu hồi tiền cho vay của Nhà nước (cả gốc và lãi) từ các các tổ chức, cá nhân
trong nước vay qua Tổng cụ đầu tư phát triển hoặc qua hệ thống ngân hàng (ngân
hàng hưởng phí dịch vụ) và từ chính phủ nước ngoài, các tổ chức quốc tế.



Thu từ hoạt động sự nghiệp
Trang 11




Các khoản thu do bán sản phẩm của các đơn vị sự nghiệp như thu tiền bán sản
phẩm sản xuất thử cuả các đơn vị nghiên cứu khoa học, bán sách do trường tự in
ấn… Các đơn vị sự nghiệp có cơ chế tài chính là dự toán ngân sách nên toàn bộ



các khoản thu phải nộp vào ngân sách.
Khoản chênh lệch giữa thu và chi của các đơn vị hoạt động sự nghiệp có thu,
sau khi đơn vị đã trích lập vào các quỹ theo chế độ (quỹ đầu tư phát triển, dự trữ
tài chính, khen thưởng, phúc lợi). Đơn vị sự nghiệp có thu là đơn vị cung cấp

dịch vụ công cộng theo giá Nhà nước quy định, nhưng thu nhập không phụ
thuộc nhiều vào chi phí phát sinh. Vì vậy để khuyến khích các đơn vị này tích
cực thu nên đã áp dụng cơ chế tài chính gắn thu bù chi. Đơn vị sự nghiệp có thu
là một dạng của doanh nghiệp Nhà nước hoạt động công ích.
 Tiền bán hoặc cho thuê tài sản không dùng (thuộc sở hữu Nhà

nước) tại các đơn vị hành chính, sự nghiệp.
 Thu tiền bán hàng hoá, vật tư từ quỹ dự trữ Nhà nước.
 Tiền thu sử dụng đất khi Nhà nước giao quyền sử dụng đất, tiền

thuê mặt đất, mặt nước.
 Các khoản huy động đóng góp của các tổ chức, cá nhân bổ sung cho vốn đầu tư xây

dựng các công trình kết cấu hạ tầng tại địa phương (cấp xã, thị trấn). Do khả năng chi của
ngân sách địa phương có hạn và người dân muốn đóng góp để xây dựng các công trình
phục vụ trực tiếp cho họ.
 Các khoản đóng góp tự nguyện của các tổ chức cá nhân ở trong

và ngoài nước như đóng góp cho quỹ an ninh, quỹ phòng chống
thiên tai, ủng hộ đồng bào bão lụt…
 Các khoản viện trợ không hoàn lại của Chính phủ các nước, của

các tổ chức, cá nhân ở nước ngoài cho Chính phủ hoặc trực tiếp
cho các cơ quan, doanh nghiệp Nhà nước.
 Các khoản vay trong nước, vay nước ngoài của Chính phủ để

bù đắp bội chi cho đầu tư phát triển và khoản vay của chính
quyền tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương cho đầu tư xây
dựng công trình kết cấu hạ tầng.
Trang 12



Vay trong nước được tiến hành dưới hình thức phát hành trái phiếu nhà nước, gồm:
Trái phiếu chính phủ, có 3 loại: tín phiếu kho bạc (có thời hạn dưới 1 năm), trái



phiếu kho bạc (có thời hạn từ 1 năm trở lên) và trái phiếu công trình. Vay trái
phiếu công trình do cơ quan chính phủ quản lí và sử dụng cho đầu tư một công
trình nhất định. Trái phiếu, tín phiếu có thể phát hành qua hệ thống Ngân hàng
Nhà nước hoặc kho bạc Nhà nước.
• Trái phiếu chính quyền địa phương: dùng để đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng
thuộc phần trách nhiệm của địa phương. Nước nào có mức độ phân cấp quản lý
ngân sách cao thì trái phiếu địa phương phát triển hơn.
• Công trái: nhà nước phát hành khi đất nước gặp khó khăn do chiến tranh,
khủng hoảng kinh tế… nên cần sự ủng hộ của người dân để vượt qua. Công
trái có lãi suất thấp hơn thị trường và thời hạn vay dài.
Vay nước ngoài dưới các hình thức sau:


Vay vốn ODA của chính phủ nước ngoài (song phương), của các tổ chức tài
chính tiền tệ quốc tế (đa phương). Viện trợ phát triển chính thức (ODA)
thường gồm một phần không hoàn lại, phần còn lại là vay ưu đãi. Phần vay

ưu đãi được tính vào khoản vay nước ngoài để theo dõi và có kế hoạch trả nợ.
• Phát hành trái phiếu chính phủ quốc tế (tại các thị trường vốn quốc tế).
• Vay của các thương nhân, tổ chức tài chính, tín dụng nước ngoài.
 Các khoản thu khác như: khoản tiền phạt, tài sản tịch thu, di sản

Nhà nước được hưởng…

1.2.2. Chi Ngân sách Nhà nước
a. Khái niệm chi Ngân sách Nhà nước
Chi NSNN là việc phân phối và sử dụng quỹ NSNN nhằm đảm bảo thực hiện các chức
năng của nhà nước theo những nguyên tắc nhất định.
b. Phân loại chi Ngân sách Nhà nước
 Căn cứ vào tính chất khoản chi:
• Chi thường xuyên: là các khoản chi cho tiêu dùng xã hội gắn liền với chức năng quản lý

xã hội của nhà nước. Khoản chi này được phân thành hai bộ phận: một bộ phận vốn được
sử dụng để đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của dân cư về phát triển văn hoá xã hội, và một bộ
phận phục vụ cho nhu cầu quản lý kinh tế xã hội chung của nhà nước.
• Chi đầu tư phát triển: là những khoản chi mang tính chất tích luỹ phục vụ cho quá trình
Trang 13


tái sản xuất mở rộng gắn với việc xây dựng cơ sở hạ tầng nhằm tạo ra môi trường và
điều kiện thuận lợi cho việc bỏ vốn đầu tư của các doanh nghiệp vào các lĩnh vực cần
thiết, phù hợp với mục tiêu của nền kinh tế. Nói cách khác, việc chi cho đầu tư phát triển
của NSNN nhằm mục đích tạo ra một sự khởi động ban đầu, kích thích quá trình vận
động các nguồn vốn trong xã hội để hướng tới sự tăng trưởng.
 Căn cứ vào nội dung khoản chi:
• Chi đầu tư và phát triển: là khoản chi nhằm hoàn thiện và mở rộng nền sản xuất hàng


hoá.
Chi văn hoá xã hội: là các khoản chi cho y tế, giáo dục, phúc lợi xã hội, văn học nghệ

thuật…
• Chi quản lý hành chính: là khoản chi nhằm duy trì hoạt động của các cơ quan quản lý
nhà nước thuộc chính quyền các cấp, Quốc hội, Hội đồng nhân dân, Viện kiểm soát

nhân dân, Toà án nhân dân…
• Chi an ninh quốc phòng: là khoản chi dành cho các lực lượng vũ trang và công tác bảo


vệ trị an trong cả nước.
Chi dự trữ và trả nợ: là khoản chi dành cho các mục đích dự trữ quốc gia và trả nợ của
chính phủ.
c. Nội dung chi Ngân sách Nhà nước

 Chi thường xuyên: Chi thường xuyên của NSNN là các khoản chi gắn liền với việc thực

hiện chức năng quản lý kinh tế - xã hội của nhà nước, phần lớn nhằm mục đích tiêu dùng.
Chi thường xuyên mang những đặc điểm sau đây:
+ Phần lớn các khoản chi thường xuyên đều có thời hạn tác động ngắn, mang tính
chất thường xuyên và có tính chất chu kỳ.
+ Các khoản chi thường xuyên phần lớn nhằm mục đích tiêu dùng, trang trải cho các
nhu cầu về quản lý hành chính, về an ninh quốc phòng, các hoạt động sự nghiệp, xã
hội và các hoạt động này hầu như không tạo ra của cải vật chất.
+ Chi thường xuyên gắn liền với việc thực hiện chức năng quản lý xã hội của nhà
nước trong từng thời kỳ.


Chi sự nghiệp: Bao gồm những khoản chi cho các dịch vụ và hoạt động xã hội phục vụ
nhu cầu phát triển kinh tế xã hội và nâng cao dân trí của dân cư. Đây là các khoản chi
quan trọng, nhu cầu chi rất lớn nhằm đảm bảo quá trình tái sản xuất kết hợp với sức lao
động có chất lượng cao.
Trang 14


Chi sự nghiệp có ý nghĩa như:

- Tác động tới quá trình tái sản xuất mở rộng và quá trình tạo ra thu nhập quốc dân,
nâng cao trình độ văn hoá, kỹ thuật và sức khoẻ của người lao động, phát triển sản xuất
và là cơ sở nâng cao năng suất lao động và hiệu suất công tác.
- Chi sự nghiệp từ NSNN cho những mục đích nhất định góp phần nâng cao mức
sống và thu nhập thực tế của các tầng lớp dân cư. Bên cạnh các khoản thu nhập từ lao
động, mỗi dân cư đứng về phía là thành viên của xã hội họ còn nhận được thu nhập do
các hoạt động phúc lợi và dịch vụ cho dân cư mang lại. Chính các khoản thu nhập phúc
lợi này đã giảm bớt sự chênh lệch về trình độ dân trí cũng như thu nhập giữa các thành
viên trong xã hội.
• Chi sự nghiệp kinh tế: Chi sự nghiệp kinh tế liên quan hầu hết đến các ngành kinh tế và
không mang tính chất kinh doanh, lợi nhuận, bao gồm các khoản chi: sự nghiệp địa
chính (điều tra đo đạc địa giới hành chính, đo vẽ bản đồ…) sự nghiệp giao thông, sự
nghiệp nông nghiệp, sự nghiệp thuỷ lợi, sự nghiệp ngư nghiệp, sự nghiệp lâm nghiệp và

-

một số hoạt động sự nghiệp khác.
+ Nội dung chi sự nghiệp kinh tế:
Chi về lương và phụ cấp lương cho viên chức đơn vị sự nghiệp
Chi mua nguyên vật liệu dùng cho nghiên cứu sản xuất thử nghiệm
Chi mua sắm, sửa chữa phương tiện, dụng cụ dùng trong hoạt động sự nghiệp và một số

-

các khoản chi khác
+ Ý nghĩa chi sự nghiệp kinh tế:
Đảm bảo điều kiện vật chất để duy trì và phát triển các hoạt động sự nghiệp kinh tế như:

-


sự nghiệp giao thông, sự nghiệp nông lâm ngư nghiệp, sự nghiệp công cộng…
Góp phần thúc đẩy sản xuất kinh doanh phát triển, nền kinh tế vận hành một cách trôi



chảy, lành mạnh, ổn định và phát triển.
Chi sự nghiệp giáo dục, đào tạo: Đây là khoản chi mà tầm quan trọng của nó là nhằm
nâng cao dân trí, trình độ chuyên môn kỹ thuật của mọi người dân trong xã hội góp
phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
+ Nội dung chi sự nghiệp giáo dục, đào tạo:

-

Chi về giáo dục phổ thông
Chi về đào tạo sau đại học, đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp, đào tạo nghề

-

và các hình thức đào tạo bồi dưỡng khác
Chi cho các chương trình quốc gia về giáo dục và đào tạo (chương trình phổ cập giáo dục

-

tiểu học)
Các khoản chi sự nghiệp giáo dục và đào tạo khác
Trang 15


+ Ý nghĩa chi sự nghiệp giáo dục, đào tạo:
-


Đào tạo con người lao động toàn diện: có sức khoẻ, có trí tuệ, có trình độ học vấn cao,

nắm vững khoa học kỹ thuật nhằm nâng cao năng suất và chất lượng lao động.
- Phát triển lực lượng sản xuất làm tiền đề cho sự phát triển kinh tế.
• Chi sự nghiệp y tế: Chi sự nghiệp y tế là khoản chi phục vụ công tác phòng bệnh và chữa
bệnh nhằm nâng cao mức sống cho mọi người dân trong xã hội.
+ Nội dung chi sự nghiệp y tế:
-

Các khoản chi nhằm duy trì sự hoạt động của hệ thống các bệnh viện, bệnh xá, các

-

viện nghiên cứu, phòng khám chuyên khoa.
Chi cho các chương trình quốc gia về y tế: chương trình phòng chống bướu cổ, phòng
chống sốt rét, dân số và kế hoạch hoá gia đình…
+ Ý nghĩa chi sự nghiệp y tế:
-

Chăm lo đời sống sức khoẻ toàn dân của chính phủ cũng chính là đầu tư

-

cho sự phát triển nguồn vốn con người, nguồn lực quý nhất của xã hội.
Đảm bảo sự công bằng và hiệu quả trong việc chăm sóc sức khoẻ của
nhân dân, cung cấp những dịch vụ y tế cần thiết cho tất cả mọi người.
• Chi sự nghiệp văn hoá, nghệ thuật, thể thao: Là các khoản chi cho
các hoạt động văn hoá, nghệ thuật, thể thao, nhằm nâng cao tri thức và
thẩm mỹ cho mọi tầng lớp dân cư. Các mục tiêu của các hoạt động này

cho phép mỗi công dân phát triển toàn diện về chính trị, tư tưởng và
đạo đức.

+ Nội dung chi sự nghiệp văn hóa, nghệ thuật, thể thao:
-

Các khoản chi cho hệ thống thư viện, bảo tàng, nhà văn hoá, hệ thống

-

phát nhanh, truyền hình
Chi cho sự nghiệp thể dục thể thao
Chi cho các chương trình quốc gia về văn hoá, nghệ thuật, thể dục thể
thao…

+ Ý nghĩa chi sự nghiệp văn hóa, nghệ thuật, thể thao:


Góp phần nâng cao trí thức và thẩm mỹ cho tầng lớp dân cư.
Góp phần phát triển toàn diện về chính trị, tư tưởng và đạo đức của mỗi

người dân, tạo nên những con người.
Chi sự nghiệp xã hội: Là các khoản chi nhằm bảo đảm đời sống của người lao động khi
gặp khó khăn, tai nạn, già yếu, những người không có khả năng lao động đồng thời giải
Trang 16


quyết những vấn đề xã hội nhất định.
+ Nội dung chi sự nghiệp xã hội:
-


Chi sự nghiệp những chính sách đối với thương binh, gia đình liệt sĩ, gia

-

đình có công với cách mạng.
Chi để giúp đỡ đời sống nhân dân ở những vùng xảy ra thiên tai và những

-

sự cố bất ngờ
Chi cho các trại xã hội: trại trẻ mồ côi, trại nuôi dưỡng người già, các trại

-

cải tạo
Các khoản chi khác về xã hội…

+ Ý nghĩa chi sự nghiệp xã hội:
-

Là các khoản chi nhằm đảm bảo đời sống của người lao động khi gặp

-

khó khăn, tai nạn, già yếu, những người không có khả năng lao động.
Thể hiện sự biết ơn, sự ưu tiên về đời sống vật chất văn hoá tinh thần

đối với những cá nhân gia đình có công lao với đất nước.
• Chi quản lý nhà nước (quản lý hành chính): Chi quản lý nhà nước bắt

nguồn từ sự tồn tại và việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ của nhà nước.
Đây là khoản chi nhằm đảm bảo sự hoạt động của hệ thống các cơ quan
quản lý nhà nước từ trung ương đến địa phương, hoạt động của Đảng Cộng
sản Việt Nam và hoạt động của các tổ chức chính trị xã hội.
Chi quản lý nhà nước/hành chính bao gồm các khoản chi như sau:
Chi lương và phụ cấp lương
Chi về nghiệp vụ
Chi về văn phòng phí
Các khoản chi khác về quản trị nội bộ
Trong các khoản chi trên thì chi về tiền lương và phụ cấp lương là quan trọng nhất,
-

chiếm tỷ trọng trên 50% khoản chi quản lý nhà nước. Tuy nhiên hiệu suất hoạt động
của các cơ quan nhà nước vẫn chưa cao. Do đó để thực hiện yêu cầu hiệu quả và tiết
kiệm trong chi quản lý nhà nước cần tiến hành đồng bộ hoá các biện pháp:
- Hoàn thiện bộ máy quản lý nhà nước cho phù hợp với chức năng, nhiệm
-

vụ của nhà nước trong cơ chế thị trường.
Nâng cao chất lượng cán bộ quản lý: tiêu chuẩn hoá cán bộ, công chức,
viên chức để bố trí nhân sự cho phù hợp với khả năng công tác và yêu cầu

-

quản lý của bộ máy hành chính.
Ứng dụng khoa học kỹ thuật vào công tác quản lý hành chính.
Trang 17





Chi an ninh quốc phòng: An ninh và quốc phòng thuộc lĩnh vực tiêu
dùng xã hội, là những hoạt động bảo đảm sự tồn tại của nhà nước và cần
thiết phải cấp phát tài chính cho các hoạt động này từ NSNN.

Chi an ninh quốc phòng bao gồm các khoản chi như sau:
-

Chi về tiền lương và phụ cấp lương cho toàn quân và lực lượng công

-

an nhân dân.
Chi về đào tạo huấn luyện cho bộ máy quốc phòng, an ninh và chi

-

phí nghiên cứu khoa học trong lĩnh vực quốc phòng, an ninh.
Chi mua sắm trang thiết bị, vũ khí và các phương tiện quân sự cho

-

toàn quân và lực lượng công an.
Chi đầu tư xây dựng các công trình kỹ thuật phục vụ cho mục

-

đích quốc phòng và an ninh.
Các khoản chi khác…


Chi về an ninh quốc phòng phải căn cứ vào tình hình thực tế của đất nước trong từng
thời kỳ. Hàng năm nhà nước phải dành ra một phần kinh phí đáng kể từ ngân sách để
duy trì, củng cố lực lượng an ninh quốc phòng. Nếu khoản chi này quá lớn thì sẽ hạn
chế tăng trưởng kinh tế, ngược lại nếu quá ít sẽ không đảm bảo được sự tồn tại của
nhà nước và trật tự an toàn xã hội. Do đó, bố trí ngân sách an ninh quốc phòng một mặt
phải đảm bảo những chi phí cẩn thiết cho phòng thủ và giữ gìn an ninh của đất nước
trên cơ sở đó ổn định về kinh tế xã hội, mặt khác phải thực hiện tiết kiệm và có hiệu quả
trong chi tiêu.
 Chi đầu tư phát triển: Chi đầu tư phát triển của NSNN là những khoản chi

mang tính chất tích luỹ phục vụ cho quá trình tái sản xuất mở rộng gắn với
việc xây dựng cơ sở hạ tầng nhằm tạo ra môi trường và điều kiện thuận lợi
cho việc bỏ vốn đầu tư của các doanh nghiệp vào các lĩnh vực cần thiết,
phù hợp với mục tiêu của nền kinh tế. Nói cách khác, việc chi cho đầu tư
phát triển của NSNN nhằm mục đích tạo ra một sự khởi động ban đầu, kích
thích quá trình vận động các nguồn vốn trong xã hội để hướng tới sự tăng
trưởng.
Chi đầu tư phát triển được cấp phát chủ yếu từ ngân sách trung ương và một bộ
phận đáng kể của ngân sách địa phương và bao gồm các khoản chi cơ bản sau:
Trang 18




Chi đầu tư xây dựng cơ bản: Là khoản chi tài chính nhà nước được đầu tư
cho các công trình thuộc kết cấu hạ tầng (cầu cống, bến cảng, sân bay, hệ
thống thuỷ lợi, năng lượng, viễn thông…) các công trình kinh tế có tính chất
chiến lược, các công trình và dự án phát triển văn hoá xã hội trọng điểm, phúc
lợi công cộng nhằm hình thành thế cân đối cho nền kinh tế, tạo ra tiền đề kích
thích quá trình vận động vốn của doanh nghiệp và tư nhân nhằm mục đích

tăng trưởng kinh tế và nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho người dân.

Chi đầu tư xây dựng cơ bản có tầm quan trọng trong việc tạo ra cơ sở vật chất kỹ
thuật cho nền kinh tế và xã hội, góp phần hình thành cơ cấu kinh tế hợp lý theo định
hướng của nhà nước, tạo điều kiện thúc đẩy sản xuất phát triển và nâng cao năng suất
lao động xã hội.


Chi đầu tư và hỗ trợ vốn cho doanh nghiệp nhà nước:

Là khoản chi gắn

với sự can thiệp của nhà nước vào lĩnh vực kinh tế. Với khoản chi này một
mặt nhà nước bảo đảm đầu tư vào một số lĩnh vực sản xuất kinh doanh cần
thiết tạo điều kiện cho sự phát triển kinh tế xã hội, mặt khác nhằm hình thành
một cơ cấu kinh tế hợp lý.
Trong nền kinh tế thị trường, các tổng công ty và doanh nghiệp nhà nước được hình
thành và tồn tại trong các ngành, các lĩnh vực then chốt như: khai thác tài nguyên thiên
nhiên, năng lượng, các ngành công nghiệp cơ bản, an ninh quốc phòng, các ngành
phục vụ lợi ích công cộng… Với sự hoạt động của loại hình doanh nghiệp nhà nước đòi
hỏi NSNN phải cấp vốn đầu tư ban đầu, và hỗ trợ vốn cho doanh nghiệp nhà nước,
khoản chi này hình thành nên vốn cố định và vốn lưu động của doanh nghiệp nhà nước.
• Chi góp vốn cổ phần, vốn liên doanh vào các doanh nghiệp
Chi góp vốn cổ phần, vốn liên doanh vào các doanh nghiệp thuộc các lĩnh vực cần
thiết có sự tham gia của nhà nước. Trong nền kinh tế thị trường, các công ty cổ phần
được hình thành thông qua quá trình cổ phần hoá doanh nghiệp quốc doanh hoặc
thành lập mới. Các doanh nghiệp liên doanh được thành lập trên cơ sở liên doanh liên
kết giữa các tổ chức kinh tế với nhau. Các doanh nghiệp này tham gia vào nhiều lĩnh
vực hoạt động kinh tế kể cả ở những lĩnh vực có vị trí trọng yếu ảnh hưởng lớn đến nền
kinh tế.

Trong điều kiện đó đỏi hỏi nhà nước với vai trò quản lý và điều tiết vĩ mô nền kinh
Trang 19


tế phải tham gia vào các lĩnh vực thiết yếu đó bằng việc mua cổ phần của các công ty
hoặc góp vốn liên doanh theo một tỷ lệ nhất định, tuỳ theo tính chất quan trọng của
từng lĩnh vực sản xuất kinh doanh đối với nền kinh tế nhằm thực hiện hướng dẫn,
kiểm soát hoặc khống chế hoạt động của các doanh nghiệp này đi theo hướng phát triển
có lợi cho nền kinh tế.
• Chi cho các quỹ hỗ trợ đầu tư quốc gia và các quỹ hỗ trợ phát triển
Quỹ hỗ trợ đầu tư quốc gia và các quỹ hỗ trợ phát triển quốc gia là những tổ chức
tài chính có tư cách pháp nhân, thực hiện chức năng huy động vốn và tiếp nhận các
nguồn vốn từ NSNN để cho vay đối với các chương trình, dự án phát triển các ngành
nghề thuộc diện ưu đãi và các vùng khó khăn theo quy định của chính phủ (chương
trình đánh bắt xa bờ, chương trình phát triển kinh tế biển, phát triển rừng…). Trong
quá trình hình thành và hoạt động của các quỹ này được NSNN cấp vốn điều lệ ban
đầu và bổ sung vốn hàng năm để thực hiện các nhiệm vụ được giao.
• Chi dự trữ nhà nước
Dự trữ quốc gia cho phép duy trì sự cân đối và ổn định trong phát triển kinh tế,
giải quyết các vấn đề kinh tế phát sinh trong quá trình hoạt động của nền kinh tế và
trong những trường hợp nhất định cho phép ngăn chặn, bù đắp các tổn thất bất ngờ xảy
ra đối với nền kinh tế, xã hội. Trong nền kinh tế thị trường, hoạt động của các quy luật
kinh tế có thể dẫn đến những biến động phức tạp không có lợi cho nền kinh tế hoặc
xảy ra thiên tai đòi hỏi phải có một khoản dự trữ giúp nhà nước điều tiết thị trường,
khắc phục hậu quả. Khoản dự trữ này được hình thành bằng nguồn tài chính được cấp
phát từ NSNN hàng năm.
Dự trữ quốc gia được sử dụng cho hai mục đích:
- Điều chỉnh hoạt động của thị trường, điều hoà cung cầu về tiền, ngoại tệ và
một số mặt hàng thiết yếu: gạo, xăng, dầu… trên cơ sở đó đảm bảo ổn định
-


cho nền kinh tế.
Giải quyết hậu quả các trường hợp rủi ro bất ngờ xảy ra làm ảnh hưởng đến
sản xuất và đời sống.

1.3. Kinh nghiệm quản lý Ngân sách của các nước trên thế giới:
Ở các nước có nền kinh tế phát triển thường áp dụng các phương thức quản lý ngân
sách nhà nước (NSNN) như sau:
Trang 20


Thứ nhất, quản lý chi tiêu NSNN theo kết quả đầu ra.
Với phương thức này, việc xây dựng và phân bổ dự toán ngân sách phải có mối liên hệ
chặt chẽ giữa mức dự toán ngân sách dự kiến sẽ cấp với việc thực hiện mục tiêu, qua đó
sẽ đạt được một kết quả đầu ra. Phương thức quản lý này cũng đòi hỏi những thay đổi
trong khuôn khổ luật pháp, thể chế, cách thức xây dựng và điều hành kế hoạch ngân sách
cũng như văn hóa quản lý theo hướng đảm bảo trách nhiệm giải trình về kết quả hoạt
động. Điển hình như:
- Cộng hòa Liên bang Đức, từ năm 2000, thông qua Ủy ban Ngân sách của Quốc hội
Liên bang, nước này đã thí điểm thực hiện. Dự án thử nghiệm độ tin cậy và tác dụng của
ngân sách dựa trên sản phẩm đầu ra như là một công cụ điều hành định hướng đầu ra.
Ngân sách dựa trên đầu ra được coi như một phụ lục cho kế hoạch ngân sách và nó có
tác dụng cung cấp cho các nhà quản lý, các nghị sĩ những thông tin định hướng đầu ra.
Việc điều hành ngân sách theo định hướng kết quả đầu ra được xây dựng trên các điều
luật nguyên tắc cơ bản, điều luật ngân sách Liên bang, quy định điều hành ngân sách
thông qua kết quả được định nghĩa cả về số lượng và chất lượng.
Tham gia dự án thí điểm này có 6 cơ quan của Liên bang Đức: Cục Thông tin báo chí,
Trường Cao đẳng quản lý công, Cục Thống kê, Cục Giao thông đường bộ, Cục Đường
sắt, Phòng Hải quan và Thuế tiêu thụ trực thuộc Cục Thuế Hamburg. Ở cấp bang, phương
thức điều hành mới trên được thí điểm tại bang Hessen với cơ chế khoán chi dựa trên kết

quả, trong đó bao gồm: Phân cấp và gắn trách nhiệm chuyên môn với trách nhiệm tài
chính, định hướng theo mục tiêu và hoạt động của cơ quan hành chính, cải cách ngân sách
và kế toán…
Các đơn vị được giao nhiệm vụ xác định rõ ràng về trách nhiệm, kinh phí và thẩm
quyền để thực hiện theo một hệ thống phân cấp trách nhiệm cho đơn vị đó trong khuôn
khổ tài chính của mình và với khối lượng kết quả quy định trước tự quyết định việc sử
dụng kinh phí phù hợp nhu cầu về thời gian, bản chất và về nguyên tắc không vượt quá
khuôn khổ tài chính cho phép.
Trang 21


Khi lập kế hoạch gắn với đầu ra, kế hoạch ngân sách bao gồm kế hoạch công việc, kế
hoạch kết quả và kế hoạch tài chính. Quyết toán ngân sách được thực hiện trên cơ sở chế
độ kế toán kép có tính toán chi phí và hiệu quả thông qua quyết toán kết quả, tài sản và tài
chính được bổ sung trên báo cáo về công việc.
- NewZeland, Chính phủ nước này đã tập trung vào vấn đề hiệu quả hoạt động của các
tổ chức công từ cuối thập kỷ 80, với việc xác định rõ hơn trách nhiệm đối với chi phí và
kết quả hoạt động cuối cùng.
Kinh nghiệm của NewZealand gắn việc phân bổ ngân sách với việc xác định cụ thể
các nhóm đầu ra tương đồng về cấp độ, trong đó các đầu ra thuộc cùng một nhóm phải
tương đồng về bản chất hoặc đồng nhất; có đầy đủ thông tin về chất lượng, số lượng, thời
gian, chi phí cho đầu ra để đủ phục vụ việc ra quyết định; có sự ràng buộc trách nhiệm
giữa người cung cấp với các nhà quản lý và giữa nhà quản lý với người thực hiện hoạt
động mua và các cơ quan, người dân có trách nhiệm giám sát.
Trước khi Quốc hội phê duyệt ban hành ngân sách, Chính phủ đưa ra những tuyên bố
về chính sách bao gồm những mục tiêu cho ngân sách năm tới và ít nhất 3 năm tiếp theo.
Đây là căn cứ để các bộ xây dựng các chương trình ngân sách, trong đó các chương trình
mới được cân nhắc và thông qua, công bố rõ ràng trong báo cáo cập nhật kinh tế và tài
khóa ngân sách.
Báo cáo đưa ra kế hoạch thu - chi tổng thể để thực hiện chiến lược. Cùng với đó,

Chính phủ phải thông báo chiến lược tài khóa của mình, báo cáo về sự thống nhất giữa
các quyết định ngân sách so với chiến lược chính sách, báo cáo chiến lược tài khóa phải
đưa ra dự báo tài khóa về khoản thu - chi ngân sách trong 10 năm tới.
Thứ hai, quản lý ngân sách theo kế hoạch chi tiêu trung hạn.
Đây là một công cụ nhằm liên kết giữa chính sách, kế hoạch và ngân sách trong một
khoản thời gian trung hạn (3-5 năm) tại cấp độ chính quyền Trung ương.
Công cụ này hướng đến 6 mục tiêu cụ thể như: Tăng cường kỷ luật tài chính bằng việc
Trang 22


ước tính số dư thực chất hơn đối với kinh tế vĩ mô; tích hợp thứ tự ưu tiên chính sách
khác nhau vào ngân sách năm, để đảm bảo tính thích hợp; giúp phân bổ nguồn lực giữa
các ngành khác nhau và giữa các đơn vị trong cùng ngành; dự toán ngân sách dài hơi hơn
cho từng ngành bằng việc cung cấp tầm nhìn từ 3-5 năm; thúc đẩy hiệu quả cho quá trình
hoạt động và làm cho chất lượng tăng cùng chi phí giảm; nhấn mạnh đến trách nhiệm giải
trình đối với các khoản chi tiêu công.
- Điển hình là tại Na Uy, nước này đã thiết lập mô hình quản lý ngân sách dựa trên kết
quả hoạt động, qua đó hướng đến việc thực hiện một cách nghiêm túc, mang tính kỷ luật
tài chính cao liên quan đến khuôn mẫu kinh tế vĩ mô. Dựa vào cơ cấu tổ chức của các cơ
quan thuộc chính phủ, Na Uy đã vận dụng mô hình quản lý ngân sách dựa trên kết quả
hoạt động cũng như mô hình quản lý ngân sách theo kế hoạch chi tiêu trung hạn vào quá
trình quản lý NSNN và phản ánh trong hệ thống kế toán của các đơn vị công với 6 công
việc chính.
Hình thành các mục tiêu về hoạt động của các tổ chức công có thể đo lường được; sử
dụng quy trình lập dự toán ngân sách theo hướng từ trên xuống; phân cấp thực hiện ngân
sách các đơn vị; phân cấp việc quản trị nguồn nhân lực và chính sách quản lý số lượng,
chất lượng nhân sự…
Từ phương thức quản lý ngân sách của một số nước, có thể thấy rằng: Quản lý NSNN
theo kết quả đầu ra và quản lý ngân sách theo kế hoạch chi tiêu trung hạn là những
phương thức quản lý mới đang được nhiều nước tiếp cận, trong đó có cả những quốc gia

có nền kinh tế phát triển, nguồn lực ngân sách dồi dào và những nước đang phát triển.
Thực tế này xuất phát từ yêu cầu phát triển của mỗi quốc gia luôn cao hơn nguồn lực ngân
sách và đòi hỏi ngân sách phải được sử dụng hiệu quả và minh bạch, công khai.
Quản lý ngân sách theo kết quả đầu ra chính là để giải quyết nhu cầu trên, bằng cách
lượng hóa được hiệu quả sử dụng ngân sách thông qua những kết quả đầu ra cụ thể để
mọi người dân đều có thể đánh giá, c được.
Quản lý ngân sách theo kế hoạch chi tiêu trung hạn là một cơ chế giúp phân bổ các
Trang 23


nguồn lực công giữa các ngành và các hoạt động của một ngành trong phạm vi mức trần
ngân sách xác định trước.
Nói cách khác, quản lý ngân sách theo kế hoạch chi tiêu trung hạn giúp phân bổ nguồn
tài chính công hạn chế phù hợp với chính sách và các ưu tiên chiến lược của chính phủ
trong một không gian tài khóa nhiều năm, có xét đến chi phí cơ hội của các quyết định.
Ưu điểm nổi bật của công cụ này là kế hoạch luôn được bổ sung, cập nhật hàng năm, làm
cho kế hoạch sống động, mang tính khả thi hơn.
Đối với Việt Nam, đây là những phương thức mới, để đo lường hiệu quả quản lý ngân
sách bằng những kết quả đầu ra thì theo giới chuyên gia, thời gian tới nước ta cần có hệ
thống khuôn khổ pháp lý đầy đủ, hạ tầng công nghệ thông tin, đội ngũ cán bộ quản lý với
tư duy và trình độ đủ để tiếp cận với phương thức mới. Trong bối cảnh nước ta đã quen áp
dụng phương thức quản lý ngân sách truyền thống dựa trên yếu tố đầu vào, ngân sách vốn
đã có quy mô nhỏ lại phải dàn trải và sử dụng kém hiệu quả.
Trước mắt, cần tăng cường khoán chi và trao quyền tự chủ, chịu trách nhiệm về biên
chế, kinh phí và sản phẩm, dịch vụ cho đơn vị sử dụng ngân sách, thực hiện rà soát, đánh
giá nghiêm túc kết quả thực hiện; Từng bước nghiên cứu việc áp dụng thí điểm phương
thức quản lý ngân sách dựa trên kết quả đầu ra ở một số bộ, ngành khi đủ điều kiện.
Việc kết hợp sử dụng tổng hợp các công cụ trên cho phép giải quyết mối quan hệ giữa
ngân sách hạn chế với yêu cầu cao về kết quả đầu ra, thể hiện bằng các chương trình, dự
án, các kết quả đầu ra phù hợp và nằm trong khuôn khổ trung hạn để tăng cường hiệu quả,

hiệu lực trong quản lý chi ngân sách nhà nước.

Tóm tắt chương 1:
Trong chương 1, tác giả trình bày khái quát tổng quan về các vấn đề cơ bản nhất về
Ngân sách Nhà nước (cơ cấu tổ chức, các nguyên tắc hoạt động của NSNN,…), các vấn
đề về thu, chi NSNN (cơ cấu thu, chi NSS; nội dung, ý nghĩa các khoản thu, chi NSNN,…)
cũng như kinh nghiệm quản lý Ngân sách Nhà nước của các nước trên Thế giới.
Trang 24


Chương 2: Tình hình thu, chi Ngân sách Nhà nước Việt Nam
giai đoạn 2013 – 2016
2.1. Tình hình thu, chi Ngân sách Nhà nước giai đoạn 2013 – 2016
2.1.1. Tổng quan tình hình thu, chi Ngân sách Nhà nước giai đoạn 2013 – 2016:
Tình hình thu, chi NSNN có sự gia tăng trong giai đoạn 2013 – 2016, nâng mức tổng
thu từ 816 nghìn tỷ đồng lên mức 1.014,5 nghìn tỷ đồng (đạt mức tỷ lệ gia tăng là
24,33%); và mức chi NSNN từ mức 978 nghìn tỷ đồng lên mức 1.273,2 nghìn tỷ đồng
(đạt mức tỷ lệ gia tăng là 30,18%). Tình hình thu NSNN vượt 32,85% so với dự toán vào
năm 2013 và vượt 44,45% so với dự toán vào năm 2014. Cùng với đó, tình hình chi
NSNN vượt 30,65% so với dự toán vào năm 2013 và vượt 33,06% so với dự toán năm
2014 và tình hình thu, chi NSNN tiếp tục có sự vượt so với dự toán vào các năm 2015,
2016.
Bảng 2.1: Tình hình thu, chi NSNN giai đoạn 2013 – 2016 (tỷ đồng)
STT
1
2

Nội dung
Tổng thu NSNN
Tổng thu NSNN


2013
816.000
978.000

2014
782.700
1.006.700

2015
911.100
1.147.100

2016
1.014.500
1.273.200

Nguồn: Số liệu thu, chi NSNN qua các năm (Bộ tài chính)
Tỷ lệ tăng thu NSNN trung bình giai đoạn 2013 – 2016 là 7,89%, tỷ lệ tăng cao nhất
vào năm 2015 đạt mức 16,4% và thấp nhất vào năm 2014 là -4,08% (tức tình hình thu
NSNN năm 2014 có sự sụt giảm so với năm 2013).
Hình 2.1: Tỷ lệ tăng thu, chi NSNN giai đoạn 2013 – 2016 (%)

Trang 25


×