Tải bản đầy đủ (.pdf) (83 trang)

LVTS 2015 phạm nhiều tội trong luật hình sự việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1014.93 KB, 83 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

LÊ THỊ THÚY

Ph¹m nhiÒu téi
trong LuËt h×nh sù ViÖt Nam

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI - 2015


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

LÊ THỊ THÚY

Ph¹m nhiÒu téi
trong LuËt h×nh sù ViÖt Nam
Chuyên ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự
Mã số: 60 38 01 04

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Cán bộ hướng dẫn khoa học: PGS. TS. TRẦN VĂN ĐỘ

HÀ NỘI - 2015


LỜI CAM ĐOAN


Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của
riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong
bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong
Luận văn bảo đảm tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã
hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ
tài chính theo quy định của Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để
tôi có thể bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƯỜI CAM ĐOAN

Lê Thị Thúy


MỤC LỤC

Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các từ viết tắt
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ PHẠM
NHIỀU TỘI TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM .................. 5
1.1.

Khái niệm phạm nhiều tội............................................................... 5

1.2.


Bản chất pháp lý, đặc điểm và chính sách xử lý đối với
trường hợp phạm nhiều tội ........................................................... 10

1.2.1.

Bản chất pháp lý của phạm nhiều tội............................................... 10

1.2.2.

Đặc điểm của phạm nhiều tội .......................................................... 13

1.2.3.

Chính sách xử lý đối với trường hợp phạm nhiều tội ...................... 14

1.3.

Nhận thức chung về quyết định hình phạt trong trường
hợp phạm nhiều tội ........................................................................ 17

1.4.

Pháp luật hình sự một số nước về phạm nhiều tội ..................... 19

Chương 2: QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
VỀ PHẠM NHIỀU TỘI VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG .............. 22
2.1.

Khái quát Luật Hình sự Việt Nam về phạm nhiều tội giai
đoạn từ năm 1945 đến năm 1999.................................................. 22


2.1.1.

Giai đoạn từ năm 1945 đến năm 1985 ............................................. 22

2.1.2.

Theo Bộ luật hình sự 1985............................................................... 25

2.2.

Quy định của Bộ luật hình sự Việt Nam năm 1999 về phạm
nhiều tội ........................................................................................... 27


2.3.

Thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự hiện hành về phạm
nhiều tội – những bất cập, vướng mắc và nguyên nhân ............ 33

2.3.1.

Thực tiễn áp dụng quy định của Bộ luật hình sự về phạm
nhiều tội ........................................................................................... 33

2.3.2.

Những bất cập, vướng mắc và nguyên nhân ................................... 46

Chương 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHẠM NHIỀU

TỘI VÀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ ÁP DỤNG TRONG
THỰC TIỄN ................................................................................... 57
3.1.

Dự báo về tình hình phạm nhiều tội ............................................ 57

3.2.

Cải cách tư pháp và yêu cầu hoàn thiện phạm nhiều tội .............. 60

3.3.

Các giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng phạm nhiều tội ............ 63

3.3.1.

Hoàn thiện quy định của Bộ luật hình sự về phạm nhiều tội .......... 63

3.3.2.

Các giải pháp khác ........................................................................... 70

KẾT LUẬN .................................................................................................... 73
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 75


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

BLHS


Bộ luật hình sự

CNXH

Chủ nghĩa xã hội

CTTP

Cấu thành tội phạm

HĐXX

Hội đồng xét xử

TAND

Tòa án nhân dân

TANDTC

Tòa án nhân dân tối cao

TNHS

Trách nhiệm hình sự

VKSNDTC

Viện kiểm sát nhân dân tối cao


XHCN

Xã hội chủ nghĩa


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong giai đoạn xây dựng nhà nước pháp quyền hiện nay, việc nghiên
cứu để làm sáng tỏ về mặt lý luận chế định nhiều tội phạm của Luật hình sự
Việt Nam có ý nghĩa khoa học, thực tiễn. Chế định phạm nhiều tội với tính
chất là một dạng của chế định nhiều (đa) tội phạm. Từ trước đến nay, vấn đề
này vẫn chưa bao giờ nhận được sự điểu chỉnh chính thức bằng một quy phạm
riêng biệt nào trong phần chung của Bộ luật hình sự Việt Nam, mà thuật ngữ
“phạm nhiểu tội ” chỉ được đề cập đến trong tên gọi của một điều luật “Quyết
định hình phạt trong trường hợp phạm nhiều tội” tại BLHS 1985 trước đây và
Điều 50 BLHS năm 1999 hiện hành. Chính vì vậy, việc nghiên cứu để đảm
bảo nhận thức thống nhất và đúng đắn trong khoa học và thực tiễn bản chất
pháp lý của chế định này và từ đó xác định đường lối xử lý phù hợp có tác
dụng tích cực trong công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm. Trên thực tế
hiện nay, người thực hiện hành vi phạm tội thường phạm từ hai tội trở có
nhiều dạng khác nhau. Vì vậy, khi quyết định hình phạt cần thiết áp dụng một
hình phạt nghiêm minh nhưng cũng cần tính đến các dạng phạm nhiều tội
khác nhau thể hiện được các nguyên tắc của luật hình sự, đường lối xử lý và
yêu cầu phòng chống tội phạm. Đi sâu nghiên cứu vấn đề này mới có thể áp
dụng chính xác pháp luật hình sự, giúp cho việc đánh giá tính chất vụ án, tính
chất và mức độ nguy hiểm của hành vi và người phạm tội được khách quan,
trên cơ sở đó mới có thể quyết định loại và mức hình phạt công bằng, có căn
cứ và đúng pháp luật.
Với mong muốn nghiên cứu làm sáng tỏ về mặt khoa học chế định
phạm nhiều tội và việc áp dụng chúng trong thực tiễn, đồng thời đưa ra những

giải pháp hoàn thiện để góp phần nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật hình sự

1


về phạm nhiều tội trong bối cảnh xây dựng nhà nước pháp quyền và cải cách
tư pháp hiện nay ở Việt Nam. Đây chính là lý do tác giả quyết định chọn đề
tài “Phạm nhiều tội theo Luật hình sự Việt Nam”.
2. Tình hình nghiên cứu của đề tài
Trong khoa học luật hình sự, hiện đã có nhiều công trình nghiên cứu đề
cập đến vấn đề phạm nhiều tội như Luận án Tiến sĩ luật học “Chế định nhiều
tội phạm trong Luật hình sự Việt Nam” của nghiên cứu sinh Lê Văn Đệ; Luận
văn Thạc sĩ luật học “Chế định phạm nhiều tội trong Luật hình sự Việt Nam –
Một số vấn đề lý luận và thực tiễn trên đại bàn tỉnh Vĩnh Phúc” của tác giả
Đặng Phú Lâm; Luận văn Thạc sĩ luật học “Quyết định hình phạt trong
những trường hợp đặc biệt” của tác giả Hoàng Chí Kiên và các bài viết: Các
trường hợp phạm nhiều luật trong luật hình sự của tác giả Nguyễn Ngọc Hòa;
Quyết định hình phạt trong trường hợp phạm nhiều tội của tác giả Dương
Tuyết Miên; Tổng hợp hình phạt trong trường hợp phạm nhiều tội và bị đưa
ra xét xử cùng một lần của tác giả Phạm Văn Thiệu; Về áp dụng tình tiết
phạm tội nhiều lần của tác giả Nông Trường Sinh… Những công trình nghiên
cứu và bài viết này dù ở mức độ, phạm vi nghiên cứu khác nhau nhưng đã thể
hiện tương đối rõ nét khái niệm cũng như các trường hợp được coi là phạm
nhiều tội. Những đề xuất trong các công trình, bài viết đó rất có ý nghĩa đối
với việc nghiên cứu và áp dụng trên thực tiễn. Tuy nhiên, cho đến nay vẫn
chưa có công trình nào nghiên cứu một cách sâu sắc, toàn diện về chế định
phạm nhiều tội trong luật hình sự.
3. Mục đích, nhiệm vụ của đề tài
- Mục đích nghiên cứu đề tài là trên cơ sở nghiên cứu những vấn đề lý
luận về phạm nhiều tội, phân tích các quy định của BLHS, đánh giá thực tiễn,

làm sáng tỏ những bất cập, vướng mắc để có kiến nghị hoàn thiện các quy

2


định của pháp luật về phạm nhiều tội và một số giải pháp khác nâng cao hiệu
quả áp dụng chế định này trên thực tế.
- Từ mục đích trên, nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài là:
+ Nghiên cứu, hệ thống những vấn đề lý luận về phạm nhiều tội;
+ Phân tích các quy định của pháp luật hình sự nước ta về phạm nhiều tội;
+ Đánh giá thực tiễn về phạm nhiều tội, làm sáng tỏ những bất cập, hạn
chế và nguyên nhân;
+ Đưa ra kiến nghị hoàn thiện quy định của pháp luật về phạm nhiều tội
và một số giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng các quy định đó trên thực tế.
4. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu của đề tài
Tác giả luận văn tập trung nghiên cứu những quy định của pháp luật
hình sự Việt Nam về chế định phạm nhiều tội, nhất là các trường hợp cụ thể
và có sự so sánh với quy định pháp luật của một số quốc gia khác trên thế
giới. Ngoài ra, tác giả cũng nghiên cứu hoạt động thực tiễn của các cơ quan
tiến hành tố tụng cũng như các cơ quan khác có thẩm quyền trong việc giải
quyết quyết các trường hợp phạm nhiều tội để đưa ra được thực trạng
cũngựng giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật.
5. Phương pháp nghiên cứu
Cơ sở phương pháp luận của việc nghiên cứu là Chủ nghĩa MacLênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh và các quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về
chính sách hình sự, về Nhà nước pháp quyền và Cải cách tư pháp.
Trong quá trình nghiên cứu Đề tài, tác giả Luận văn sử dụng các
phương pháp cụ thể và đặc thù của khoa học luật hình sự như: phương pháp
phân tích và tổng hợp; phương pháp so sánh, đối chiếu; phương pháp diễn
dịch; phương pháp quy nạp; phương pháp thống kê, khảo sát thực tiễn giải
quyết các vấn đề được đưa ra nghiên cứu trong Luận văn.


3


6. Những điểm mới và đóng góp của luận văn
Kết quả nghiên cứu của luận văn có ý nghĩa quan trọng về phương
diện lý luận và thực tiễn, vì đây là công trình đầu tiên nghiên cứu chuyên sâu
có hệ thống ở cấp độ một luận văn thạc sĩ luật học về chế định phạm nhiều
tội. Những điểm mới cơ bản thể hiện trong mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu
của luận văn.
7. Ý nghĩa của luận văn
Việc nghiên cứu đề tài “Chế định phạm nhiều tội theo Luật hình sự
Việt Nam” có ý nghĩa quan trọng cả về lý luận và thực tiễn.
- Luận văn góp thêm ý kiến vào việc nhận định các trường hợp được
coi là phạm nhiều tội;
- Luận văn góp phần nâng cao nhận thức của những người tiến hành tố
tụng cũng như các chủ thể khác về chế định phạm nhiều tội;
- Luận văn góp phần hoàn thiện pháp luật hình sự và tăng cường hiệu
quả hoạt động của các cơ quan có thẩm quyền giải quyết vụ án hình sự trên
thực tế.
- Luận văn có thể được sử dụng như tài liệu phục vụ cho việc nghiên
cứu cũng như áp dụng trên thực tiễn các quy định của luật hình sự về chế định
người bào chữa.
8. Kết cấu luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
của Luận văn gồm 03 chương:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận chung về chế định phạm nhiều tội
theo Luật hình sự Việt Nam;
Chương 2: Quy định của pháp luật hình sự nước ta về chế định phạm
nhiều tội và thực tiễn áp dụng;

Chương 3: Một số giải pháp hoàn thiện chế định phạm nhiều tội và
nâng cao hiệu quả áp dụng trong thực tiễn.

4


Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ PHẠM
NHIỀU TỘI TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
1.1. Khái niệm phạm nhiều tội
Luật hình sự là ngành luật trong hệ thống pháp luật có đối tượng và
phương pháp điều chỉnh riêng, tuân theo các nguyên tắc và có các nhiệm
vụ riêng. Với tính chất là ngành luật, luật hình sự được hiểu là hệ thống các
quy phạm pháp luật xác định những hành vi nguy hiểm cho xã hội bị coi là
tội phạm và quy định hình phạt áp dụng đối với người đã thực hiện các tội
phạm đó [34, tr.9].
Với hai nội dung như vậy mà ngành luật này có tên gọi gắn với một
trong hai nội dung đó - tội phạm hoặc hình phạt. Tội phạm được quy định
trong BLHS Việt Nam là tội phạm riêng lẻ và các tội phạm được thực hiện có
thể mang tính chất độc lập hoặc có thể liên quan đến nhau. Thực tế cho thấy
rằng, trường hợp phạm nhiều tội xảy ra rất nhiều trên thực tế với tính chất,
mức độ nguy hiểm cao hơn so với trường hợp phạm tội đơn lẻ. Do sự khác
nhau về tính chất, mức độ nguy hiểm dẫn đến sự khác nhau về trách nhiệm
hình sự giữa trường hợp phạm nhiều tội và phạm tội đơn lẻ mà không chỉ đơn
thuần là phép cộng hình phạt thông thường. Chính vì vậy, BLHS năm 1985 và
BLHS năm 1999 (được sửa đổi, bổ sung năm 2009) đều đề cập và quy định
khá cụ thể về quyết định hình phạt trong trường hợp phạm nhiều tội. Tuy
nhiên cả hai BLHS này đều chưa đưa ra được khái niệm “phạm nhiều tội”. Do
đó, trong quá trình cơ quan tiến hành tố tụng giải quyết vụ án hình sự chưa có
sự đồng nhất trong việc áp dụng pháp luật về trường hợp này.

Trong lý luận cũng như thực tiễn áp dụng, trường hợp phạm nhiều tội
còn bị nhầm lẫn với phạm tội nhiều lần, phạm tội có tính chất chuyên nghiệp

5


hay tái phạm. Các trường hợp này đều có những điểm chung nhưng vẫn có sự
khác biệt rõ rệt về bản chất pháp lý.
Trước hết để phân biệt phạm tội nhiều lần với phạm nhiều tội ta cần
hiểu được khái niệm phạm tội nhiều lần. Cũng như phạm nhiều tội, BLHS
chưa đưa ra khái niệm về trường hợp này, nhưng từ thực tiễn xét xử và quan
điểm của các học giả nghiên cứu thì có thể hiểu: Phạm tội nhiều lần là có từ
hai lần trở lên phạm cùng một loại tội, trong đó mỗi lần đều đã có đủ yếu tố
cấu thành tội phạm, chưa bị truy cứu trách nhiệm hình sự, nay các lần phạm
tội đó được xét xử trong cùng một vụ án. Hành vi phạm tội trong trường hợp
này là sự lặp lại tội đã phạm trước đó nên có mức độ nguy hiểm cao hơn
trường hợp bình thường. Từ khái niệm trên, có thể phân biệt về hai trường
hợp này như sau:
Thứ nhất, phạm tội nhiều lần là một tình tiết tăng nặng TNHS được
quy định tại điểm g khoản 1 Điều 48 BLHS năm 1999. Trường hợp này, chủ
thể thực hiện hành vi phạm tội từ hai lần trở lên mà mỗi lần có đầy đủ các
dấu hiệu của CTTP cơ bản nhưng lần thứ nhất chưa bị phát hiện, chưa bị
truy cứu TNHS, đến lần sau thì bị phát hiện và bị truy cứu TNHS theo mức
độ tương ứng với CTTP cơ bản hay tăng nặng. Đối với phạm tội nhiều lần
thì những hành vi phạm tội chỉ cấu thành một tội còn với trường hợp phạm
nhiều tội thì có thể là một hành vi hoặc nhiều hành vi nhưng cấu thành từ hai
tội trở lên và các khách thể trực tiếp bị xâm hại không phải là một khách thể
như phạm tội nhiều lần. Đây là đặc điểm rõ ràng nhất để có thể phân biệt hai
trường hợp này [18, tr.14].
Thứ hai, trong trường hợp phạm tội nhiều lần, người thực hiện tội phạm

chỉ xâm hại đến một khách thể (một quan hệ xã hội), mặc dù đối tượng bị
xâm hại có thể khác nhau. Còn đối với trường hợp phạm nhiều tội, người thực
hiện tội phạm xâm hại đến các khách thể khác nhau. Ví dụ, Nguyễn Văn A

6


biết Trần Văn B có hành vi trộm cắp tài sản là 01 chiếc xe máy Honda SH trị
giá tài sản là 85.000.000 đồng của nhà ông C nhưng không trình báo với cơ
quan công an mà còn che giấu tội phạm giúp B, đồng thời tiêu thụ rất nhiều
tài sản mà B trộm cắp được. Trường hợp này, A bị đưa ra xét xử về hai tội: tội
che giấu tội phạm (Điều 313 BLHS) và tội tiêu thụ tài sản do người khác
phạm tội mà có (Điều 250 BLHS).
Thứ ba, khi định tội danh và quyết định hình phạt trường hợp phạm tội
nhiều lần, BLHS quy định phạm tội nhiều lần được coi là tình tiết tăng nặng
khi đưa ra xét xử cùng một lúc (cùng một vụ án), nếu khi truy tố và xét xử ở
các thời điểm khác nhau thì khi định tội danh và quyết định hình phạt không
áp dụng tình tiết tăng nặng là phạm tội nhiều lần mà phải theo nguyên tắc
tổng hợp hình phạt của nhiều bản án theo quy định tại Điều 51 BLHS.
Trong trường hợp phạm nhiều tội thì được đưa ra xét xử trong cùng
một vụ án, Hội đồng xét xử xem xét định tội danh và quyết định hình phạt đối
với từng tội sau đó tổng hợp hình phạt của tất cả các tội. Thực tế xét xử cũng
cần phân tích hành vi phạm tội của từng tội, xem có thuộc trường hợp phạm
tội nhiều lần hay không, nếu có thì áp dụng tình tiết tăng nặng cho tội đó (có
thể áp dụng điểm g khoản 1 Điều 48 BLHS hoặc những tình tiết đã là yếu tố
định tội hoặc định khung hình phạt thì khung được coi là tình tiết tăng nặng),
sau đó quyết định hình phạt chung cho các tội đối với bị cáo.
Ngoài ra cần chú ý phân biệt phạm tội nhiều lần với phạm tội liên tục.
Phạm tội liên tục là do một loạt hành vi phạm tội cùng loại, xảy ra kế tiếp
nhau về mặt thời gian nhằm đạt tới mục đích của tội phạm. Trong một loạt

hành vi ấy, có hành vi đã thỏa mãn cấu thành tội phạm, có hành vi chưa thỏa
mãn nhưng đều là tội phạm thống nhất. Ví dụ, với tội hành hạ người khác, có
trường hợp bị cáo phạm tội liên tục do hàng loạt hành vi đối xử tàn ác với

7


người lệ thuộc mình nhưng trong đó có những hành vi chưa cấu thành tội
phạm mà phải tổng hợp các hành vi đó mới cấu thành tội phạm.
Trường hợp phạm nhiều tội cũng giống trường hợp tái phạm, tái phạm
nguy hiểm ở chỗ người phạm tội đều có hơn một lần thực hiện các tội phạm
nhưng lại có những điểm khác biệt như: Thứ nhất, trường hợp tái phạm, tái
phạm nguy hiểm vừa là tình tiết tăng nặng TNHS chung, vừa là tình tiết tăng
nặng định khung thì phạm nhiều tội là trường hợp được đặt ra để cơ quan xét
xử tổng hợp hình phạt đối với nhiều tội mà người phạm tội gây ra; Thứ hai,
nếu như ở trường hợp phạm nhiều tội, người phạm tội có thể thực hiện nhiều
hành vi phạm tội cụ thể, cũng có thể là một hành vi nhưng các hành vi đó có
dấu hiệu của nhiều tội phạm thì ở tái phạm, tái phạm nguy hiểm, người phạm
tội phải luôn thực hiện nhiều hành vi phạm tội trong những thời gian khác
nhau. Thứ ba, người phạm tội trong trường hợp tái phạm, tái phạm nguy hiểm
đã bị kết án về tội phạm trước, chưa được xóa án tích lại phạm tội mới còn ở
trường hợp phạm nhiều tội thì người phạm tội chưa bị xét xử về tội nào trong
các tội phạm mà họ gây ra. Thứ tư, trong trường hợp tái phạm, tái phạm nguy
hiểm đặt ra dấu hiệu hình thức lỗi của người phạm tội còn phạm nhiều tội thì
không đặt ra dấu hiệu này [18, tr.16, 17].
Trường hợp phạm tội có tính chất chuyên nghiệp cũng không được quy
định trong BLHS, cũng không được nhà làm luật giải thích cụ thể, không có khái
niệm. Tuy nhiên theo hướng dẫn của Hội đồng Thẩm phán TANDTC tại Nghị
quyết số 01/2006/NQ-HĐTP ngày 12/5/2006 thì Tòa án sẽ áp dụng tình tiết
phạm tội có tính chất chuyên nghiệp khi có đầy đủ các điều kiện sau đây: Cố ý

phạm tội từ năm lần trở lên về cùng một tội phạm không phân biệt đã bị truy cứu
TNHS hay chưa bị truy cứu TNHS, nếu chưa hết thời hiệu truy cứu TNHS hoặc
chưa được xóa án tích; Người phạm tội đều lấy các lần phạm tội làm nghề sinh
sống và lấy kết quả của việc phạm tội làm nguồn sinh sống chính.

8


Người phạm tội có tình tiết phạm tội có tính chất chuyên nghiệp sẽ bị
phạt với mức án nghiêm khắc hơn người phạm tội không có tình tiết này vì
khi quyết định hình phạt, Tòa án sẽ áp dụng thêm tình tiết tăng nặng TNHS
quy định tại điểm b khoản 1 Điều 48 BLHS. Ví dụ, A là một người không
nghề nghiệp, chuyên sống bằng nguồn thu nhập từ việc phạm tội. Trong một
thời gian, A liên tiếp thực hiện năm vụ trộm cắp tài sản (tài sản chiếm đoạt
được trong mỗi vụ có giá trị từ hai triệu đồng trở lên). Trong trường hợp này,
A bị truy cứu TNHS và phải bị áp dụng tình tiết định khung hình phạt “phạm
tội có tính chất chuyên nghiệp”.
Đối với trường hợp phạm tội từ năm lần trở lên mà trong đó có lần
phạm tội đã bị kết án, chưa được xóa án tích thì tùy từng trường hợp cụ thể
mà người phạm tội có thể bị áp dụng cả ba tình tiết là phạm tội nhiều lần, tái
phạm hoặc tái phạm nguy hiểm và phạm tội có tính chất chuyên nghiệp. Ví
dụ, B đã bị kết án về tội trộm cắp tài sản nhưng chưa chấp hành hình phạt
hoặc sau khi chấp hành xong hình phạt một thời gian, B lại liên tiếp thực hiện
bốn vụ trộm cắp tài sản, tài sản chiếm đoạt được trong mỗi vụ có giá trị từ hai
triệu đồng trở lên. Trong trường hợp này, B phải bị truy cứu TNHS và phải bị
áp dụng ba tình tiết tăng nặng là phạm tội nhiều lần, tái phạm hoặc tái phạm
nguy hiểm và phạm tội có tính chất chuyên nghiệp.
Qua nghiên cứu và thực tiễn đã có tổng kết về khái niệm phạm nhiều
tội. “Phạm nhiều tội” gồm hai khái niệm “phạm tội” và “nhiều”, trong đó
“phạm tội” là hành vi thỏa mãn cấu thành tội phạm được mô tả trong các quy

định của BLHS, còn “nhiều” được hiểu là từ hai trở lên. Theo định nghĩa này,
Từ điển luật học đã xây dựng khái niệm phạm nhiều tội như sau: “Chủ thể có
nhiều hành vi phạm tội độc lập hoặc chỉ có một hành vi mà hành vi đã thực
hiện đó thỏa mãn nhiều cấu thành tội phạm khác nhau thì phạm nhiều tội”.

9


Trong BLHS hiện hành, phạm nhiều tội chỉ gắn với chế định quyết định
hình phạt và là một trường hợp đặc biệt của quyết định hình phạt. Đây chính
là nội dung quy định tại Điều 50 BLHS về quyết định hình phạt trong trường
hợp phạm nhiều tội. Và Điều 51 BLHS quy định về tổng hợp hình phạt của
nhiều bản án thì thời điểm đưa ra xét xử của các tội danh này khác nhau còn
theo Điều 50 khi đưa ra xét xử cùng một lần người phạm nhiều tội, do đó cần
phải chú ý áp dụng đúng quy định của BLHS để quyết định hình phạt trong
trường hợp phạm nhiều tội.
Tác giả đồng tình với quan điểm về phạm nhiều tội mà Giáo trình
Luật hình sự Việt Nam (Tập 1) của Trường Đại học Luật Hà Nội đưa ra,
“phạm nhiều tội là trường hợp người có nhiều hành vi phạm tội hoặc chỉ có
một hành vi phạm tội nhưng đã thỏa mãn nhiều cấu thành tội phạm khác
nhau và bị đưa ra xét xử cùng một lần về các tội phạm đó”. Và có thể hiểu
quyết định hình phạt trong trường hợp phạm nhiều tội là xác định loại và
mức hình phạt cụ thể (kể cả hình phạt bổ sung nếu có) trong phạm vi luật
cho phép để áp dụng đối với người phạm nhiều tội và bị đưa ra xét xử cùng
một lần về các tội phạm đó [34, tr.285].
1.2. Bản chất pháp lý, đặc điểm và chính sách xử lý đối với trường
hợp phạm nhiều tội
1.2.1. Bản chất pháp lý của phạm nhiều tội
Khoa học luật hình sự cũng như trong thực tiễn xét xử khi xem xét việc
quyết định hình phạt trong trường hợp phạm nhiều tội đã ghi nhận hai trường

hợp của phạm nhiều tội, đó là: người phạm tội có nhiều hành vi phạm tội khác
nhau và mỗi hành vi này cấu thành một tội riêng. Những hành vi này có thể
có mối liên quan với nhau hoặc không, người phạm tội có một hành vi phạm
tội nhưng hành vi này lại cấu thành nhiều tội khác nhau. Thực tiễn đã chỉ ra
rằng, không phải cứ có nhiều hành vi phạm tội thì bị coi là phạm nhiều tội và
không phải cứ có một hành vi phạm tội thì chỉ bị coi là phạm một tội.

10


- Trường hợp người phạm tội thực hiện một hành vi phạm tội nhưng
hành vi phạm tội đó lại cấu thành hai hay nhiều tội phạm khác nhau.
Người phạm tội ở đây bị coi là phạm nhiều tội khi không có tội phạm
nào loại trừ được tội phạm còn lại do tội còn lại này được coi là không đáng
kể so với tội phạm đó. Trong trường hợp này có thể xảy ra các khả năng sau:
Một là, hành vi phạm tội thỏa mãn nhiều cấu thành tội phạm khác nhau.
Ví dụ, Lê Văn H đã gài mìn vào nhà anh P với mục đích giết cả gia đình anh
P để trả thù. Hành vi đó của H cấu thành hai tội cụ thể là tội giết người và hủy
hoại tài sản vì tội phạm A muốn thực hiện là tội giết người nhưng sử dụng
công cụ phạm tội là mìn (có tính sát thương và phá hủy trên phạm vi rộng)
nên đã gây thêm thiệt hại về vật chất do gia đình anh P. Do đó có thể xác định
đây là trường hợp một hành vi cấu thành nhiều tội.
Hai là, hành vi phạm tội thỏa mãn cấu thành tội phạm của hành vi đồng
phạm của hai tội khác nhau. Ví dụ, một người cố ý cho người khác mượn
súng mà mình biết rõ dùng súng đó để đi giết người cướp tài sản. Trong
trường hợp này, hành vi phạm tội của người cho mượn súng đồng thời thỏa
mãn dấu hiệu của hành vi đồng phạm giết người (theo Điều 93 trong mối liên
hệ với Điều 20 BLHS) và đồng phạm tội cướp tài sản (Điều 133 trong mối
liên hệ với Điều 20 BLHS).
Ba là, hành vi phạm tội thỏa mãn cấu thành tội phạm của một tội phạm

cụ thể và thỏa mãn cấu thành tội phạm của hành vi đồng phạm của một tội
phạm khác. Ví dụ, nhân viên hải quan đã nhận lợi ích vật chất của người khác
rồi cho họ đưa hàng hóa quan biên giới một cách trái phép. Trong trường hợp
này, hành vi phạm tội vừa thỏa mãn dấu hiệu cấu thành tội nhận hối lộ theo
Điều 279, vừa thỏa mãn dấu hiệu đồng phạm tội buôn lậu (Điều 153 trong
mối liên hệ với Điều 20 BLHS).
Một điểm cần chú ý ở đây là có thể có những cặp CTTP có quan hệ đặc

11


biệt với nhau mà một khi hành vi phạm tội đã thỏa mãn một CTTP thì cũng
đồng thời thỏa mãn CTTP kia. Do vậy, trong trường hợp này, hành vi phạm
tội tuy thỏa mãn nhiều CTTP nhưng không thể áp dụng tất cả các điều luật
quy định CTTP đó mà chỉ được phép chọn một trong số đó để áp dụng. Đây
là trường hợp thỏa mãn nhiều CTTP về hình thức đã được nêu ở phần trên.
Quan hệ đặc biệt của những cặp CTTP trong trường hợp này như quan hệ
giữa trường hợp bình thường với trường hợp tăng nặng hoặc giảm nhẹ. Ví dụ,
quan hệ quan hệ giữa tội giết người quy định tại Điều 93 với tội giết con mới
đẻ quy định tại Điều 94; quan hệ giữa trường hợp chung với trường hợp riêng,
ví dụ, giữa tội vô ý làm chết người quy định tại Điều 98 với tội vi phạm quy
định về điều khiển phương tiện giao thông quy định tại Điều 202 (trong
trường hợp làm chết người). Đây là quan hệ giữa tội vô ý làm chết người
trong trường hợp chung với tội vô ý làm chết người trong trường hợp cụ thể
(trong lĩnh vực an toàn giao thông đường bộ). Hoặc có trường hợp là quan hệ
thu hút, ví dụ, quan hệ giữa tội đe dọa giết người quy định tại Điều 103 với tội
cướp tài sản quy định tại Điều 133, đây là quan hệ giữa cấu thành tội phạm bị
thu hút và cấu thành tội phạm thu hút. Trong trường hợp này, khi hành vi thỏa
mãn cấu thành tội cướp tài sản, nếu đe dọa dùng vũ lực tước đoạt tính mạng
thì cũng đồng thời thỏa mãn cấu thành tội giết người nhưng chỉ được chọn

cấu thành tội cướp tài sản (cấu thành tội phạm thu hút) để áp dụng.
- Trường hợp nhiều hành vi phạm tội độc lập thỏa mãn nhiều cấu
thành tội phạm khác nhau.
Ví dụ, người phạm tội sau khi lấy trộm tài sản đã đốt nhà để phi tang.
Đây là trường hợp có nhiều hành vi phạm tội, hành vi lấy trộm tài sản cấu
thành tội trộm cắp tài sản còn hành vi đốt nhà thỏa mãn cấu thành tội hủy
hoại tài sản.
Điều cần chú ý ở đây là không phải cứ có nhiều hành vi phạm tội

12


khác nhau là thuộc trường hợp phạm nhiều tội mà có khi các hành vi đó chỉ
được coi là thỏa mãn một cấu thành tội phạm. Ví dụ, trường hợp chiếm
đoạt chiếc xe máy của người đi đường bằng cách đã dọa đâm chết họ là
trường hợp người phạm tội thực hiện hai hành vi cụ thể, nhưng những hành
vi đó đều thuộc cấu thành tội cướp tài sản nên đây vẫn là trường hợp có
một hành vi phạm tội. Trường hợp này khác với trường hợp người phạm tội
thực hiện nhiều hành vi nhưng những hành vi đó là không thuộc cùng một
cấu thành tội phạm.
Như vậy, trong trường hợp phạm nhiều tội, hành vi của người phạm tội
có thể đồng thời là những hành vi thực hành của hai tội khác nhau hoặc có thể
là hành vi thực hành của tội phạm này và là hành vi đồng phạm của tội phạm
khác hoặc có thể đồng thời là hành vi đồng phạm của hai tội khác nhau.
Trên thực tế, một hành vi phạm tội còn có thể vừa thỏa mãn một cấu
thành tội phạm cụ thể, vừa thỏa mãn tình tiết định khung tăng nặng của một
tội phạm khác. Ví dụ, hành vi hành hung để tẩu thoát sau khi trộm cắp tài
sản đã gây thương tích cho chủ tài sản. Trường hợp này, hành vi hành hung
vừa thỏa mãn dấu hiệu của tội cố ý gây thương tích quy định tại Điều 104,
vừa thỏa mãn dấu hiệu định khung tăng nặng tội trộm cắp tài sản (khoản 2

Điều 138 BLHS).
- Trường hợp nhiều hành vi phạm tội độc lập nhưng có liên quan với
nhau thỏa mãn nhiều cấu thành tội phạm khác nhau. Đây là dạng phạm nhiều
tội mà chủ thể thực hiện nhiều hành vi nguy hiểm cho xã hội thỏa mãn nhiều
CTTP nhưng các hành vi đó không có quan hệ với nhau. Ví dụ, một người có
hành vi trộm cắp tài sản và hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản, các hành vi
này được xét xử trong cùng một lần. Trường hợp này người phạm tội đã phạm
hai tội là tội trộm cắp tài sản và tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản.
1.2.2. Đặc điểm của phạm nhiều tội

13


Phạm nhiều tội là một dạng đặc biệt của hành vi phạm tội, thể hiện rõ
ở tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi. Mức độ nguy hiểm
cho xã hội được hiểu là chuẩn đánh giá so sánh tính nguy hiểm cho xã hội
giữa các trường hợp phạm tội cụ thể đã thực hiện thuộc khung hình phạt
của cùng tội phạm. Mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội cụ thể đều
được thể hiện qua sự thống nhất của hai yếu tố là mức độ phủ định khách
quan của tội phạm (mức độ gây thiệt hại) và mức độ phủ định chủ quan của
tội phạm (mức độ lỗi).
Thứ nhất, về mức độ gây thiệt hại của tội phạm thì trong trường hợp
này, người phạm tội phạm nhiều tội tức là từ hai tội trở lên, mỗi tội phạm đều
có đối tượng bị xâm hại, tác động riêng. Do đó, khi xét về mức độ thiệt hại thì
phạm nhiều tội thường gây ra thiệt hại lớn hơn so với trường hợp phạm tội
đơn lẻ. Điều này dẫn đến hậu quả pháp lý mà người đó phải chịu cũng nghiêm
khắc hơn rất nhiều.
Thứ hai, về mức độ lỗi của tội phạm. Ý chí quyết tâm phạm tội của chủ
thể trong trường hợp phạm nhiều tội bao giờ cũng cao hơn trường hợp phạm
tội đơn lẻ, đồng thời xét về khả năng nhận thức tính nguy hiểm của hành vi

phạm tội thì trong trường hợp này, chủ thể cũng thấy được tính nguy hiểm
cho xã hội của hành vi cao hơn vì hành vi phạm tội của họ cùng một lúc xâm
hại đến nhiều khách thể khác nhau.
1.2.3. Chính sách xử lý đối với trường hợp phạm nhiều tội
Là bộ phận cấu thành quan trọng của chính sách hình sự, chính sách xử
lý tội phạm bao gồm chính sách xử lý chung cho tất cả các loại tội phạm và
chính sách xử lý đối với nhóm tội hoặc loại tội phạm cụ thể. Trong đó chính
sách xử lý chung có tính ổn định tương đối còn chính sách xử lý những nhóm
tội hoặc loại tội phạm cụ thể có tính linh hoạt hơn, có thể thay đổi theo tình

14


hình kinh tế - xã hội cũng như tình hình tội phạm. Chính sách xử lý tội phạm
tuy giữ vị trí quan trọng trong chính sách hình sự nhưng nó chỉ có ý nghĩa
thực tiễn một cách đầy đủ khi được thực hiện trong sự thống nhất với các bộ
phận khác của chính sách hình sự. Chính sách xử lý tội phạm phải được đặt
trong sự thống nhất với chính sách đấu tranh phòng chống tội phạm nói chung
cũng như với các chính sách kinh tế - xã hội với ý nghĩa là các biện pháp
phòng ngừa tội phạm nói riêng.
Như đã phân tích, phạm nhiều tội được thể hiện ở nhiều dạng khác
nhau, có tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội khác nhau, và vì vậy, mặc
dù người phạm tội bị xử lý về nhiều tội nhưng chính sách xử lý cần được
phân biệt trong từng dạng đảm bảo chính sách phân hóa TNHS và cá thể hóa
hình phạt ở cả mức độ định tội danh và mức độ quyết định hình phạt.
Điều 3 BLHS đã thể hiện được một cách khái quát chính sách xử lý
chung đối với mọi tội phạm cũng như với trường hợp phạm tội này:
1. Mọi hành vi phạm tội phải được phát hiện kịp thời, xử lý
nhanh chóng, công minh theo đúng pháp luật.
2. Mọi người phạm tội đều bình đẳng trước pháp luật,

không phân biệt nam, nữ, dân tộc, tín ngưỡng, tôn giáo, thành
phần, địa vị xã hội.
3. Nghiêm trị người chủ mưu, cầm đầu, chỉ huy, ngoan cố
chống đối, lưu manh, côn đồ, tái phạm nguy hiểm, lợi dụng chức
vụ, quyền hạn để phạm tội; người phạm tội dùng thủ đoạn xảo
quyệt, có tổ chức, có tính chất chuyên nghiệp, cố ý gây hậu quả
nghiêm trọng.
4. Khoan hồng đối với người tự thú, thành khẩn khai báo, tố
giác người đồng phạm, lập công chuộc tội, ăn năn hối cải, tự

15


nguyện sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại gây ra… [24, Điều 3].
Nội dung điều luật đã thể hiện rõ bốn yêu cầu của chính sách xử lý đối
với trường hợp phạm nhiều tội, đó là xử lý tội phạm phải tuân thủ pháp chế,
đảm bảo sự bình đẳng, phải có sự phân hóa và thể hiện được tính giáo dục,
tính nhân đạo.
Xử lý tội phạm đúng luật bao gồm xác định đúng các tội danh khi phạm
nhiều tội, xác định đúng người đã thực hiện hành vi đó và xác định đúng mức
độ TNHS của người phạm tội. Để làm được việc này thì yêu cầu đặt ra là luật
thực định phải cụ thể, rõ ràng, việc giải thích phải được thực hiện kịp thời,
khắc phục được những hạn chế của luật; chủ thể áp dụng pháp luật để xử lý
tội phạm phải có đủ trình độ chuyên môn, có bản lĩnh chính trị, có trách
nhiệm công tác và phẩm chất đạo đức nghề nghiệp.
Việc xử lý người phạm tội hoàn toàn không bị chi phối bởi giới tính,
dân tộc, tôn giáo, địa vị xã hội… Mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật
cũng có nghĩa bình đẳng trong việc phải gánh chịu TNHS về hành vi phạm tội
đã thực hiện của mình.
Nguyên tắc mọi người phạm tội đều bình đẳng trước pháp luật không

loại trừ việc xử lý tội phạm phải có sự phân hóa vì các trường hợp phạm tội
đều có sự khác nhau ở nhiều khía cạnh. Đây chính là nguyên tắc phân hóa
TNHS, thể hiện ở chỗ phải có sự phân biệt trong xử lý đối với những đối
tượng phạm tội khác nhau, có đối tượng cần phải nghiêm trị và có đối tượng
cần phải được khoan hồng.
Ngoài ra, khi xử lý người phạm tội thuộc trường hợp này phải thể
hiện được mục đích giáo dục và tính nhân đạo. Để có thể đạt được mục
đích giáo dục chung đòi hỏi phải phát hiện kịp thời mọi hành vi phạm tội
và xử lý nghiêm minh, tức là phải xử lý đúng luật, bao gồm định tội danh

16


đúng luật, xác định khung hình phạt đúng luật và xác định hình phạt cụ thể
đúng luật. Theo đó việc xử lý tội phạm đòi hỏi hình phạt được tuyên phải
tương xứng với tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm
tội và phù hợp với nhân thân người phạm tội mà trước hết là phù hợp với
khả năng giáo dục của họ.
Mục đích giáo dục của việc xử lý người phạm nhiều tội cũng đòi hỏi
phải có tính nhân đạo. Tính nhân đạo này trước hết phải được thể hiện trong
luật, ở nội dung, phạm vi và điều kiện áp dụng các loại hình phạt trong hệ
thống hình phạt cũng như ở nội dung các quy định về quyết định hình phạt, về
việc chấp hàn hình phạt. Đồng thời tính nhân đạo cũng đòi hỏi các cơ quan áp
dụng pháp luật để xử lý tội phạm cũng như các cơ quan thực hiện việc thi
hành án cũng phải xuất phát và dựa trên tư tưởng nhân đạo.
1.3 .Nhận thức chung về quyết định hình phạt trong trường hợp
phạm nhiều tội
Quyết định hình phạt là sự lựa chọn loại hình phạt và xác định mức
hình phạt cụ thể trong phạm vi luật định để áp dụng đối với người phạm tội
cụ thể. Cùng với định tội, quyết định hình phạt là sự thể hiện cao nhất, tập

trung nhất việc áp dụng pháp luật hình sự vào đấu tranh chống tội phạm.
Mặt khác, quyết định hình phạt tạo cơ sở quan trọng để đạt được mục đích
của hình phạt.
Khi quyết định hình phạt đối với bị cáo phạm nhiều tội, về nguyên tắc,
HĐXX quyết định hình phạt đối với từng tội trong bản án, việc quyết định
này có ý nghĩa quan trọng, việc quyết định hình phạt đối với từng tội là tiền
đề, điều kiện bắt buộc để tiến hành các bước sau – quyết định hình phạt chung
cho các tội phạm mà bị cáo đã phạm. Những hình phạt đó có thể là hình phạt
cùng loại (cùng là hình phạt tiền hoặc tù có thời hạn) nhưng cũng có thể là

17


hình phạt khác loại (ví dụ, tội thứ nhất tuyên hình phạt tù có thời hạn, tội thứ
hai tuyên hình phạt tù chung thân).
Phương pháp thu hút hình phạt là một trong những phương pháp tổng
hợp hình phạt trong trường hợp phạm nhiều tội, thực hiện bằng cách thu hút
hình phạt nhẹ vào hình phạt nặng. Thực tiễn xét xử cho thấy phương pháp này
được áp dụng trong những trường hợp sau: khi các tội đã thực hiện có tính
chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội rất khác nhau thể hiện ở mức hình phạt
tuyên cho từng tội mà chúng không thể chuyển đổi thành cùng loại thì cũng
không thể chấp hành đồng thời được. Nguyên tắc này được áp dụng khi hình
phạt nặng nhất trong số các hình phạt đã tuyên là tử hình thì hình phạt chung
sẽ là tử hình, nếu hình phạt nặng nhất trong số các hình phạt đã tuyên là tù
chung thân thì hình phạt chung sẽ là tù chung thân.
Phương pháp cộng hình phạt được áp dụng khi có thể cộng được hình
phạt của các tội miễn là hình phạt chung không được vượt quá giới hạn luật
quy định. Nguyên tắc này được áp dụng khi các hình phạt đó cùng loại hoặc
có thể quy về cùng loại. So với nguyên tắc thu hút hình phạt thì nguyên tắc
cộng hình phạt thể hiện rõ nét hơn trách nhiệm hình sự của bị cáo đối với từng

tội mà bị cáo đã phạm.
Đối với hình phạt bổ sung cùng loại thì HĐXX quyết định hình phạt
chung trong giới hạn do BLHS quy định đối với hình phạt đó. Khi tổng hợp,
Tòa án cộng các hình phạt đó lại, hình phạt chung không được vượt quá giới
hạn mà BLHS quy định đối với hình phạt đó. Ví dụ, mức phạt tiến không thấp
hơn một triệu đồng; thời hạn cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc
làm công việc nhất định, cấm cư trú, quản chế không quá ba năm.
Đối với hình phạt bổ sung là hình phạt tiền thì khi tổng hợp hình phạt,
HĐXX quyết định cộng toàn bộ các khoản tiền phạt và buộc bị cáo phải chấp

18


hành hình phạt chung bằng tổng số tiền phạt đó.
Nếu hình phạt bổ sung đã tuyên là khác loại thì người bị kết án phải
chấp hành tất cả các hình phạt đã tuyên.
1.4. Pháp luật hình sự một số nước về phạm nhiều tội
Nghiên cứu Luật hình sự của một số nước trên thế giới như Cộng hòa
liên bang Nga, Nhật Bản, Cộng hòa nhân dân Trung Hoa… cho thấy ở mỗi
nước lại có quy định khác nhau về chế định phạm nhiều tội cũng như nhiều
tội phạm.
- BLHS của Nhật Bản có quy định rất cụ thể về phạm nhiều tội tại một
chương (Chương XI) với mười điều luật. Tại Điều 45 có đưa ra khái niệm về
trường hợp phạm nhiều tội như sau:
Phạm nhiều tội là trường hợp một người thực hiện hai hoặc
nhiều tội phạm mà đối với các tội đó chưa có bản án có hiệu lực
pháp luật của Tòa án; khi bản án phạt tù không có lao động bắt
buộc hoặc hình phạt nặng hơn của Tòa án được tuyên đối với một
tội phạm có hiệu lực pháp luật thì chỉ có tội phạm đó và những tội
phạm khác được thực hiện trước khi bản án nói trên có hiệu lực

pháp luật mới tạo thành trường hợp phạm nhiều tội [12, Điều 45].
Luật hình sự Nhật Bản cũng đề cập đến một hình thức biểu hiện của
phạm nhiều tội, được quy định:
Khi một hành vi cấu thành hai hoặc nhiều tội phạm riêng biệt
hoặc khi một hành vi là phương tiện để thực hiện một tội phạm
hoặc hành vi gây hậu quả của tội phạm đó cấu thành một tội phạm
riêng biệt khác thì hình phạt nặng nhất trong số các hình phạt được
quy định đối với các tội phạm đó sẽ được áp dụng [12, Điều 54]
Như vậy, Luật hình sự Nhật Bản quy định rất rõ các dạng phạm nhiều

19


×