ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
ĐÀO THỊ MAI PHƢƠNG
BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƢỜI TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ
ĐỐI VỚI NGƢỜI BỊ TẠM GIỮ, TẠM GIAM
(cơ sở nghiên cứu thực tiễn địa bàn thành phố Hà Nội)
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
HÀ NỘI - 2015
1
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
ĐÀO THỊ MAI PHƢƠNG
BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƢỜI TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ
ĐỐI VỚI NGƢỜI BỊ TẠM GIỮ, TẠM GIAM
(cơ sở nghiên cứu thực tiễn địa bàn thành phố Hà Nội)
Chuyên ngành : Luật hình sự và tố tụng hình sự
Mã số
: 60 38 01 04
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Người hướng dẫn khoa học: TS. Phạm Mạnh Hùng
HÀ NỘI - 2015
2
Lời cam đoan
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên
cứu khoa học của riêng tôi. Các số liệu, ví dụ và
trích dẫn trong luận văn đảm bảo độ tin cậy, chính
xác và trung thực. Những kết luận khoa học của
luận văn ch-a từng đ-ợc ai công bố trong bất kỳ
công trình nào khác.
Tác giả luận văn
Đào Thị Mai Ph-ơng
3
MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các từ viết tắt
Danh mục các bảng
1
MỞ ĐẦU
Chương 1:
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ
8
BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƢỜI TRONG TỐ TỤNG
HÌNH SỰ ĐỐI VỚI NGƢỜI BỊ TẠM GIỮ, TẠM GIAM
1.1.
Khái niệm chung quyền con người
8
1.2.
Khái niệm quyền con người và bảo đảm quyền con người
10
trong tố tụng hình sự đối với người bị tạm giữ, tam giam
1.2.1. Khái niệm người bị tạm giữ, tạm giam và quyền con người
10
trong tố tụng hình sự đối với người bị tạm giữ, tạm giam
1.2.2. Bảo đảm quyền con người trong tố tụng hình sự đối với người
16
bị tạm giữ, tạm giam
1.3.
Một số quy định của luật nhân quyền quốc tế về bảo đảm
17
quyền con người đối với người bị tạm giữ, tạm giam
1.4.
Quy định về vấn đề bảo đảm quyền con người đối với người bị
19
tạm giữ, tạm giam trong pháp luật tố tụng hình sự một số nước
1.4.1. Quy định về vấn đề bảo đảm quyền con người đối với người
19
bị tạm giữ, tạm giam trong pháp luật tố tụng hình sự Liên
bang Nga
1.4.2. Quy định về vấn đề bảo đảm quyền con người đối với người bị
tạm giữ, tạm giam trong pháp luật tố tụng hình sự Trung Quốc
4
24
1.5.
Các quy định về bảo đảm quyền con người đối với người bị
27
tạm giữ, tạm giam trong pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam
từ sau Cách mạng tháng 8 năm 1945 đến trước khi có Bộ luật
tố tụng hình sự năm 2003
1.5.1. Giai đoạn từ sau Cách mạng tháng Tám năm 1945 cho đến
27
trước khi có Bộ luật tố tụng hình sự năm 1988
1.5.2. Giai đoạn từ khi ban hành Bộ luật tố tụng hình sự Việt Nam
30
năm 1988 cho đến trước khi có Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003
Chương 2:
CÁC QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ
37
NĂM 2003 VỀ BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƢỜI ĐỐI
VỚI NGƢỜI BỊ TẠM GIỮ TẠM GIAM VÀ THỰC TIỄN
ÁP DỤNG TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HÀ NỘI
2.1.
Các quy định của bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 về bảo
37
đảm quyền con người đối với người bị tạm giữ, tạm giam
2.1.1. Quy định bảo đảm quyền không bị bắt, giam giữ tùy tiện
37
2.1.2. Quy định bảo đảm quyền không phân biệt đối xử và đối xử
41
bình đẳng
2.1.3. Quy định bảo đảm quyền không bị tra tấn, đối xử hoặc trừng
45
phạt tàn bạo, vô nhân đạo hoặc hạ nhục
2.1.4. Quy định bảo đảm quyền không bị coi là có tội khi chưa có
46
bản án kết tội đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án
2.1.5. Quy định bảo đảm quyền bào chữa
48
2.2.
57
Thực tiễn việc bảo đảm quyền con người trong tố tụng hình sự
đối với người bị tạm giữ, tạm giam trên địa bàn thành phố Hà Nội
2.2.1. Những kết quả đạt được trong việc bảo đảm quyền con người
59
trong tố tụng hình sự đối với người bị tạm giữ, tạm giam trên
địa bàn thành phố Hà Nội và nguyên nhân
2.2.2. Những bất cập, hạn chế trong việc bảo đảm quyền con người
trong tố tụng hình sự đối với người bị tạm giữ, tạm giam trên
địa bàn thành phố Hà Nội và nguyên nhân 71
5
66
Chương 3:
MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ
84
CỦA VIỆC BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƢỜI TRONG
TỐ TỤNG HÌNH SỰ ĐỐI VỚI NGƢỜI BỊ TẠM GIỮ,
TẠM GIAM
3.1.
Hoàn thiện một số quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm
84
2003 về bảo đảm quyền con người đối với người bị tạm giữ,
tạm giam
3.1.1. Hoàn thiện một số nguyên tắc cơ bản trong tố tụng hình sự
84
3.1.2. Hoàn thiện các quy định về quyền và nghĩa vụ tố tụng của
90
người bị tạm giữ (Điều 48 Bộ luật tố tụng hình sự), bị can
(Điều 49 Bộ luật tố tụng hình sự), bị cáo (Điều 50 Bộ luật tố
tụng hình sự)
3.1.3. Hoàn thiện các quy định về người bào chữa
92
3.1.4. Hoàn thiện các quy định về biện pháp ngăn chặn
94
3.2.
Công tác hướng dẫn áp dụng Bộ luật tố tụng hình sự
104
3.3.
Nâng cao chất lượng kiểm sát công tác tạm giữ, tạm giam
105
3.4.
Tăng cường xây dựng cơ sở vật chất cho nhà tạm giữ, trại tạm
106
giam, các phương tiện thông tin, liên lạc phục vụ cho công tác
tạm giữ, tạm giam
3.5.
Nâng cao nhận thức, trình độ, trách nhiệm của Điều tra viên,
106
Kiểm sát viên, Thẩm phán và Hội thẩm
3.6.
Tăng cường hợp tác quốc tế về công tác tạm giữ, tạm giam
107
KẾT LUẬN
108
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
110
6
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
BLHS
: Bộ luật hình sự
BLTTHS
: Bộ luật Tố tụng hình sự
CQĐT
: Cơ quan điều tra
HĐXX
: Hội đồng xét xử
QCN
: Quyền con người
TAND
: Tòa án nhân dân
TANDTC
: Tòa án nhân dân tối cao
TTHS
: Tố tụng hình sự
VKS
: Viện kiểm sát
VKSND
: Viện kiểm sát nhân dân
VKSNDTC
: Viện kiểm sát nhân dân tối cao
7
DANH MỤC CÁC BẢNG
Số hiệu
Tên bảng
Trang
2.1
Thống kê tình hình bắt giữ và phân loại từ năm 2010-2014
59
2.2
Thống kê tình hình giải quyết người bị tạm giữ từ năm
60
bảng
2010-2014
2.3
Thống kê tình hình giải quyết người bị tạm giam từ năm
62
2010-2014
2.4
Số quá hạn tạm giữ từ năm 2010 đến năm 2014
68
2.5
Số người bị tạm giữ, tạm giam chết từ năm 2010 đến
75
năm 2014
8
MỞ ĐẦU
1. 1. Tính cấp thiết của đề tài
Con người là vốn quý của tự nhiên và của xã hội. Bảo vệ quyền con
người (QCN) là mục tiêu của các thiết chế Nhà nước dân chủ và tiến bộ. Ngày
nay, đất nước ta đang trên đà phát triển về mọi mặt. Song song, với việc phát
triển kinh tế, Đảng và Nhà nước cũng chăm lo xây dựng một Nhà nước pháp
quyền của dân, do dân và vì dân, xây dựng một hệ thống pháp luật bảo đảm
cho việc phát triển các quyền tự do dân chủ của công dân là những quan điểm
cơ bản được thể hiện trong các văn bản của Đảng và Nhà nước ta. Nghị quyết số
49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị "Về chiến lược cải cách tư pháp
đến năm 2020" khẳng định:
Đòi hỏi của công dân và xã hội đối với cơ quan tư pháp
ngày càng cao; các cơ quan tư pháp phải thật sự là chỗ dựa của
nhân dân trong việc bảo vệ công lý, quyền con người, đồng thời
phải là công cụ hữu hiệu bảo vệ pháp luật và pháp chế xã hội chủ
nghĩa, đấu tranh có hiệu quả với các loại tội phạm và vi phạm [15].
Văn kiện Đại hội X của Đảng cũng đặt ra nhiệm vụ "Xây dựng nền tư
pháp trong sạch, vững mạnh, dân chủ, nghiêm minh, bảo vệ công lý, quyền
con người" [16]. Văn kiện Đại hội XI của Đảng mới đây cũng tiếp tục đặt ra
nhiệm vụ: "Đẩy mạnh xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, trong
đó đẩy mạnh việc thực hiện chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, xây
dựng hệ thống tư pháp trong sạch vững mạnh, bảo vệ công lý, tôn trọng và
bảo vệ quyền con người" [17].
Hoạt động tố tụng hình sự (TTHS) liên quan chặt chẽ đến QCN. Hoạt
động TTHS là nơi các biện pháp cưỡng chế Nhà nước được áp dụng phổ biến
nhất; và vì vậy là nơi QCN của các chủ thể tố tụng, đặc biệt, quyền của người bị
tạm giữ, tạm giam dễ bị lạm dụng, vi phạm. Việc tạm giữ, tạm giam người
9
thường được áp dụng trong đấu tranh chống tội phạm. Thực tiễn điều tra, truy tố,
xét xử trong những năm qua cho thấy rằng cũng có nhiều trường hợp vi phạm
QCN đối với người bị tạm giữ, tạm giam trong quá trình tiến hành tố tụng. Những
vi phạm đó xảy ra do nhiều nguyên nhân, trong đó có bất cập, hạn chế của pháp
luật, cơ chế, nhận thức, thái độ của người tiến hành tố tụng, các quy định về chế
độ trách nhiệm của cơ quan, người tiến hành tố tụng đối với công dân… Có thể
nói, vấn đề bảo đảm QCN đang là yêu cầu cấp thiết trên cả phương diện lý luận
cũng như trong hoạt động thực tiễn. Do đó, để góp phần bảo đảm hơn nữa về
QCN nói chung và bảo đảm QCN trong TTHS đối với người bị tạm giữ, tạm giam
nói riêng, tác giả chọn đề tài: "Bảo đảm quyền con người trong tố tụng hình sự
đối với người bị tạm giữ, tạm giam (cơ sở nghiên cứu thực tiễn địa bàn thành
phố Hà Nội)" làm đề tài luận văn. Trên cơ sở nghiên cứu, đánh giá toàn diện các
quy định về bảo đảm QCN đối với người bị tạm giữ, tạm giam và thực tiễn áp
dụng trên địa bàn thành phố Hà Nội, tác giả đưa ra một số phương hướng để
hoàn thiện pháp luật về bảo đảm quyền của người bị tạm giữ, tạm giam và một
số giải pháp để thực thi một cách hiệu quả bảo đảm quyền này trong thực tiễn.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Trong khoa học pháp lý nước ta cũng như quốc tế, vấn đề bảo đảm
QCN nói chung, QCN trong hoạt động tư pháp cũng như QCN trong TTHS
đã được nhiều độc giả nghiên cứu từ các góc độ và với các mức độ khác nhau.
+ Từ góc độ nghiên cứu về bảo đảm QCN nói chung trong Nhà nước
pháp quyền có các công trình của các tác giả sau: Đỗ Trung Hiếu, "Một số suy
nghĩ về xây dựng nền dân chủ ở Việt Nam hiện nay", Nhà xuất bản Chính trị
quốc gia, 2004; Trần Ngọc Đường, "Quyền con người, quyền công dân trong
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam", Nhà xuất bản Chính trị
quốc gia, 2004; Đinh Văn Mậu, "Quyền lực Nhà nước và quyền con người",
Nhà xuất bản Tư pháp, 2003; Tường Duy Kiên, "Nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa Việt Nam với việc bảo đảm quyền con người", Nhà xuất bản Nghề
10
luật, 2004; Hoàng Văn Thảo và Phạm Ích Khiêm, "Quyền con người trong thế
giới hiện đại", Viện Thông tin khoa học xã hội, 1995;… Trong các công trình
này, các tác giả đã nghiên cứu khái niệm và các đặc điểm Nhà nước pháp
quyền nói chung, Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa nói riêng; nghiên
cứu về mối quan hệ giữa QCN và quyền công dân; nghiên cứu vấn đề bảo
đảm QCN từ góc độ triết học, xã hội học hoặc lí luận chung về Nhà nước và
pháp luật. Tuy có cách nhìn không hoàn toàn giống nhau và nghiên cứu ở các
mức độ khác nhau nhưng các tác giả đều đưa ra các cơ chế bảo đảm QCN
trong Nhà nước pháp quyền.
+ Từ góc độ pháp luật chuyên ngành, cũng đã có nhiều công trình về
bảo vệ QCN trong lĩnh vực tư pháp hoặc tư pháp hình sự được công bố cụ thể:
"Bảo đảm quyền con người trong hoạt động tư pháp ở Việt Nam hiện nay", của
Nguyễn Huy Hoàng, Luận án tiến sĩ Luật học, Hà Nội, 2005; "Những vấn đề lí
luận về bảo vệ quyền con người bằng pháp luật hình sự và pháp luật tố tụng
hình sự trong giai đoạn xây dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam" do GS.TSKH
Lê Văn Cảm, PGS.TS Nguyễn Ngọc Chí, PGS.TS Trịnh Quốc Toản đồng chủ
biên, Đề tài khoa học cấp Đại học Quốc gia, Hà Nội, 2006; "Luật tố tụng hình sự
Việt Nam với việc bảo vệ quyền con người" - đề tài nghiên cứu khoa học, chủ trì
TS. Nguyễn Ngọc Chí - Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội, 2011; "Bảo vệ
các nhóm dễ bị tổn thương trong tố tụng hình sự" của Trung tâm nghiên cứu
quyền con người - quyền công dân và Trung tâm nghiên cứu tội phạm học và tư
pháp hình sự trực thuộc Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội, Nhà xuất bản
Đại học Quốc gia Hà Nội, 2011; "Luật quốc tế về quyền của các nhóm người dễ
bị tổn thương" do Trung tâm nghiên cứu quyền con người và quyền công dân
trực thuộc Khoa Luật - Đại học quốc gia Hà Nội, Nhà xuất bản lao động - xã hội,
2010; Báo cáo tại Hội thảo về QCN trong TTHS (do Viện kiểm sát nhân dân tối
cao (VKSNDTC) và Ủy ban nhân quyền Australia tổ chức năm 2010) của
PGS.TS Nguyễn Thái Phúc; "Bảo vệ quyền con người trong tố tụng hình sự
11
Việt Nam", của Nguyễn Quang Hiền, Luận án tiến sĩ Luật học, Hà Nội, 2008;
"Bảo vệ quyền con người trong luật hình sự, luật tố tụng hình sự Việt Nam",
sách chuyên khảo của TS Trần Quang Tiệp, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia,
2004; "Thực hiện dân chủ trong tố tụng hình sự trong bối cảnh cải cách tư
pháp ở nước ta hiện nay" của PGS.TS Nguyễn Mạnh Kháng, Tạp chí Nhà
nước và pháp luật, 2007; "Nguyên tắc suy đoán vô tội", của Nguyễn Thành
Long, Luận án tiến sĩ Luật học, Khoa Luật - Đại học quốc gia Hà Nội,
2010,… Trong các công trình này, các tác giả nghiên cứu việc bảo vệ QCN
trong hoạt động tư pháp nói chung, kể cả hình sự, dân sự. Một số công trình
nghiên cứu vấn đề từ góc độ tư pháp hình sự, bao gồm cả luật hình sự và luật
TTHS. Số công trình khác thì nghiên cứu từ góc độ TTHS. Do phạm vi quá
rộng, cho nên các tác giả chỉ nghiên cứu sơ lược các nội dung mà chưa đi sâu
nghiên cứu thật đầy đủ, toàn diện, hệ thống trong TTHS đối với những đối tượng
khác nhau. QCN của người bị tạm giữ, tạm giam được nghiên cứu tương đối sơ
lược. Phạm vi nghiên cứu chủ yếu xuất phát từ phân tích quyền và nghĩa vụ tố
tụng của người tham gia tố tụng mà chưa đi sâu nghiên cứu các chế định liên
quan khác nhau như các nguyên tắc TTHS, các thủ tục TTHS, các biện pháp
cưỡng chế tố tụng liên quan đến QCN của người bị tạm giữ, tạm giam…
+ Trên thế giới cũng có một số tác giả nghiên cứu về QCN và việc bắt
giữ, tạm giam trước xét xử. Có thể kể đến các công trình sau: Human rights:
Judicial system (Bảo đảm quyền con người trong hệ thống tư pháp của Saudi
Arabia), 2000; "The guarantee for accused persons under Article 6 of the
European Convention on Human Rights" (Bảo đảm quyền con người của
người bị buộc tội của Stephanos Stavros), Nhà xuất bản Martinas Ni, 1992…
Như vậy, đã có một số công trình nghiên cứu cơ bản về bảo đảm QCN.
Tuy nhiên, chưa có một công trình nghiên cứu khoa học nào mang tính toàn
diện, hệ thống và đồng bộ về vấn đề bảo đảm QCN, nhất là của người bị tạm
giữ, tạm giam.
12
Do vậy, việc nghiên cứu đề tài "Bảo đảm quyền con người trong tố tụng
hình sự đối với người bị tạm giữ, tạm giam (cơ sở nghiên cứu thực tiễn địa
bàn thành phố Hà Nội)" là cần thiết về cả lí luận và thực tiễn.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở làm rõ những vấn đề lí luận và thực tiễn về bảo đảm QCN
trong TTHS đối với người bị tạm giữ, tạm giam theo các quy định của Bộ luật
tố tụng hình sự (BLTTHS) luận văn nhằm làm sáng tỏ những vướng mắc hạn
chế, đưa ra được những giải pháp nâng cao hiệu quả việc bảo đảm QCN của
người bị tạm giữ, tạm giam trong TTHS Việt Nam. Thông qua đó, góp phần
hoàn thiện các quy định của BLTTHS.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
+ Làm rõ những vấn đề lý luận về QCN và bảo đảm QCN của người
bị tạm giữ, tạm giam.
+ Phân tích các quy định của BLTTHS và các văn bản khác liên quan
đến bảo đảm QCN của người bị tạm giữ, tạm giam; tìm ra những hạn chế và
bất cập về bảo đảm QCN của người bị tạm giữ, tạmg giam.
+ Nghiên cứu kinh nghiệm pháp luật một số nước về bảo đảm QCN
trong TTHS.
+ Nghiên cứu làm rõ tình hình thực tế việc bảo đảm QCN trong TTHS
đối với người bị tạm giữ, tạm giam trên địa bàn thành phố Hà Nội.
+ Đánh giá thực tiễn việc bảo đảm QCN trong TTHS đối với người bị
tạm giữ, tạm giam trên địa bàn thành phố Hà Nội.
+ Đề xuất một số giải pháp góp phần nâng cao hiệu quả việc bảo đảm
QCN trong TTHS đối với người bị tạm giữ, tạm giam.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu và giải quyết những vấn đề bảo đảm QCN trong
TTHS đối với người bị tạm giữ, tạm giam kết hợp với việc nghiên cứu đánh
giá tình hình áp dụng các quy định về bảo đảm QCN đối với người bị tạm giữ,
13
tạm giam. Từ đó tìm ra những nguyên nhân của những tồn tại, hạn chế để kiến
nghị những giải pháp hoàn thiện luật thực định và nâng cao hiệu quả việc bảo
đảm QCN của người bị tạm giữ tạm, tạm giam.
Luận văn cũng nghiên cứu vấn đề bảo đảm QCN nói chung và quyền
của người bị tạm giữ, tạm giam nói riêng trong pháp luật TTHS của một số nước.
Về không gian và thời gian: Luận văn nghiên cứu thực tiễn áp dụng
các quy định về bảo đảm QCN trong TTHS đối với người bị tạm giữ, tạm
giam trên địa bàn thành phố Hà Nội trong 5 năm (2010- 2014).
5. Cơ sở phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu
Đề tài được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận chủ nghĩa duy vật
lịch sử và chủ nghĩa duy vật biện chứng mác-xít, tư tưởng Hồ Chí Minh về
Nhà nước và pháp luật, quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về xây dựng Nhà
nước pháp quyền, về chính sách Hình sự, về vấn đề cải cách tư pháp được thể
hiện trong các Nghị quyết Đại hội Đảng khóa VIII, khóa IX, khóa X và các
Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02/01/2002, Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày
26/5/2005 về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 của Bộ Chính trị.
Trong quá trình nghiên cứu đề tài, tác giả luận văn đã sử dụng các
phương pháp cụ thể và đặc thù của khoa học luật TTHS như: phương pháp
phân tích và tổng hợp; phương pháp so sánh, đối chiếu; phương pháp diễn
dịch; phương pháp quy nạp; phương pháp thống kê, điều tra xã hội học để
tổng hợp các tri thức khoa học về luật TTHS và luận chứng các vấn đề tương
ứng được nghiên cứu trong luận văn.
6. Kết quả và ý nghĩa nghiên cứu
Kết quả nghiên cứu của luận văn có ý nghĩa quan trọng về phương
diện lý luận và thực tiễn, vì đây là công trình nghiên cứu đầu tiên và có hệ
thống ở cấp độ một luận văn thạc sĩ luật học về bảo đảm QCN trong TTHS
đối với người bị tạm giữ, tạm giam, trong đó giải quyết nhiều vấn đề quan
trọng về lý luận và thực tiễn liên quan tới bảo đảm QCN trong TTHS đối với
người bị tạm giữ, tạm giam. Những kết quả cụ thể là:
14
+ Tổng hợp các quan điểm khoa học về QCN nói chung, QCN và bảo
đảm QCN trong TTHS Việt Nam nói riêng và có cái nhìn tổng quan về người
bị tạm giữ, tạm giam. Đồng thời nghiên cứu pháp luật của một số nước trên
thế giới về bảo đảm QCN đối với người bị tạm giữ, tạm giam.
+ Nghiên cứu chỉ ra quy định của pháp luật Việt Nam về bảo đảm
QCN đối với người bị tạm giữ, tạm giam từ sau Cách mạng tháng 8 năm 1945
đến trước khi BLTTHS 2003 ra đời.
+ Nghiên cứu các quy định của pháp luận hiện hành về bảo đảm QCN
trong TTHS đối với người bị tạm giữ, tạm giam. Đánh giá làm sáng tỏ bức
tranh về tình hình áp dụng các quy định về bảo đảm QCN trong TTHS đối với
người bị tạm giữ, tạm giam của các cơ quan tiến hành tố tụng; những tồn tại,
hạn chế của thực tiễn áp dụng pháp luật trên địa bàn thành phố Hà Nội.
- Trên cơ sở kết quả nghiên cứu lý luận và thực tiễn, luận văn đã đề
xuất các định hướng và giải pháp hoàn thiện pháp luật thực định và nâng cao
hiệu quả áp dụng pháp luật trong giai đoạn xây dựng Nhà nước pháp quyền và
cải cách tư pháp hiện nay ở Việt Nam.
Bên cạnh đó, luận văn sẽ là một tài liệu tham khảo trong học tập và
nghiên cứu về TTHS.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận chung về bảo đảm quyền con người
trong tố tụng hình sự đối với người bị tạm giữ, tạm giam.
Chương 2: Các quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 về bảo
đảm quyền con đối với người bị tạm giữ, tạm giam và thực tiễn áp dụng trên
địa bàn thành phố Hà Nội.
Chương 3: Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả việc bảo đảm
quyền con người trong tố tụng hình sự đối người bị tạm giữ, tạm giam.
15
Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG
VỀ BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƢỜI TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ
ĐỐI VỚI NGƢỜI BỊ TẠM GIỮ, TẠM GIAM
1.1. KHÁI NIỆM CHUNG QUYỀN CON NGƢỜI
Quyền con người là vấn đề có tính lịch sử lâu đời cả về phương diện
thực tiễn cũng như lý luận, đó luôn là mối quan tâm của nhân loại ở mỗi thời
kỳ phát triển nó.
Mặc dù "quyền con người" mãi sau này (thế kỷ 18) mới được khẳng
định, nhưng những ý tưởng về nó lại ra đời từ rất sớm cùng với sự phân chia giai
cấp trong xã hội và hình thành Nhà nước. Khi mà trong các Nhà nước chiếm
hữu nô lệ, con người bị coi là những "công cụ biết nói" thì những tiếng kêu
cứu đòi quyền được sống được tự do, được quyền làm người…cũng xuất hiện.
Quyền con người, ngay từ đầu là một thuộc tính bản chất tự nhiên, là
"đặc quyền". Cho nên, khi các "đặc quyền" đó bị vi phạm, bị chà đạp thô bạo
trong các Nhà nước cổ đại thì đã có những cuộc khởi nghĩa của tầng lớp bị trị
nổ ra đòi lại những đặc quyền vốn sơ khai đó.
Xã hội loài người ngày càng phát triển, các trường phái triết học, pháp
luật dần hình thành, lớn mạnh. Các trường phái này đi vào nghiên cứu giải
thích các vấn đề tự nhiên, xã hội, con người. Đáng chú ý là thế kỷ 17 - 18 đã
mở ra một trạng thái mới cho sự phát triển tư tưởng bảo vệ quyền cá nhân
chống lại sự vi phạm từ phía quyền lực, tức là bảo vệ các quyền hiển nhiên,
có sẵn của con người, không phải quyền do Nhà nước, pháp luật ban phát. Tư
tưởng này góp phần thắng lợi vào cách mạng tư sản lật đổ chế độ phong kiến
tàn bạo, thiết lập Nhà nước mà ở đó con người với những giá trị đích thực của
nó được nâng lên một bước - công dân của xã hội Nhà nước chứ không phải
thần dân của ông vua.
16
Trong các thời đại cổ đại và phong kiến, tư tưởng về QCN đã được đề
cập đến nhưng còn rời rạc. Khi cách mạng tư sản nổ ra thắng lợi với những
tiền đề tư tưởng và thành tựu của khoa học tự nhiên thì vấn đề QCN mới được
đặt ra như một học thuyết, hay nói cách khác, QCN bắt đầu được chính thức
công khai thừa nhận. Có thể nói rằng, sự kiện này được đánh dấu bằng Tuyên
ngôn độc lập của Hợp chủng quốc Hoa Kỳ 1776 và sau đó là Tuyên ngôn
Nhân quyền và Dân quyền của Pháp 1789. "Lần đầu tiên trong lịch sử nhân
loại, quyền con người chuyển từ phạm vi thỉnh cầu, yêu sách sang phạm vi
thực hiện, từ lĩnh vực triết học sang lĩnh vực pháp lý thực tiễn" [21, tr. 40].
Sau chiến tranh Thế giới thứ hai, cộng đồng quốc tế thông qua Liên
hợp quốc tuyên bố chính thức về các quyền và tự do của con người bằng Hiến
chương Liên hợp quốc 1945 và Tuyên ngôn toàn thế giới về nhân quyền năm
1948. Cụ thể hóa QCN trong các văn bản trên, năm 1966, Liên hợp quốc
thông qua Công ước quốc tế về các quyền kinh tế, xã hội và văn hóa (ngày
24/9/1982 Việt Nam gia nhập hai Công ước này). Ở Việt Nam, Tuyên ngôn
độc lập năm 1945 đánh dấu bước ngoặt quan trọng cho thời kỳ phát triển mới
về QCN trên đất nước ta.
Quyền con người là một trong những giá trị xã hội cao quý nhất đồng
thời là vấn đề rộng lớn, phức tạp, được nhiều chuyên ngành khoa học nghiên
cứu, do đó có nhiều quan điểm, định nghĩa khác nhau về QCN. Song trước hết,
QCN được hiểu là những đặc quyền mà con người sinh ra là tự nhiên có. Đó
là những đặc quyền mang tính tự nhiên mà nổi bật là quyền được sống, được
bảo vệ, được tự do phát triển. Mặc dù, những đặc quyền đó có trước, song
chừng nào chưa được công nhận thì chúng không thể được đưa ra áp dụng.
Do đó, để đạt được cái gọi là quyền cần phải có sự ghi nhận mà cụ thể là bằng
pháp luật. Các đặc quyền được pháp luật ghi nhận, điều chỉnh thì mới chính
thức trở thành quyền của con người.
17
Quyền con người là những quyền vốn có tự nhiên mà chỉ con người
mới được hưởng trong những điều kiện chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội nhất
định và được pháp luật đảm bảo. Quyền con người vừa mang tính tự nhiên
vừa mang tính xã hội; mang tính phố biến nhưng lại mang tính đặc thù; mang
tính giai cấp, đồng thời mang tính nhân loại.
1.2. KHÁI NIỆM QUYỀN CON NGƢỜI VÀ BẢO ĐẢM QUYỀN CON
NGƢỜI TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ ĐỐI VỚI NGƢỜI BỊ TẠM GIỮ, TẠM GIAM
1.2.1. Khái niệm ngƣời bị tạm giữ, tạm giam và quyền con ngƣời
trong tố tụng hình sự đối với ngƣời bị tạm giữ, tạm giam
1.2.1.1. Khái niệm người bị tạm giữ, tạm giam
* Khái niệm người bị tạm giữ
Trong TTHS Việt Nam, người bị tạm giữ là người tham gia tố tụng có
quyền và nghĩa vụ pháp lý liên quan đến vụ án. BLTTHS 2003 đưa ra khái niệm
về người bị tạm giữ như sau: "Người bị tạm giữ là người bị bắt trong trường
hợp khẩn cấp, phạm tội quả tang, người bị bắt theo quyết định truy nã hoặc
người phạm tội tự thú, đầu thú và đối với họ đã có quyết định tạm giữ" [42].
Người bị tạm giữ có thể là người chưa bị khởi tố về hình sự, đó là những người
bị bắt trong trường hợp khẩn cấp, phạm tội quả tang, trường hợp phạm tội tự thú
trước khi hành vi phạm tội bị phát hiện và khởi tố, và đối với họ đã có quyết
định tạm giữ. Mặc dù, họ chưa bị khởi tố về hình sự nhưng trên thực tế họ vẫn
phải chịu sự cưỡng chế của cơ quan đã tạm giữ họ. Họ bị hạn chế một số
quyền tự do, bị buộc phải khai báo hoặc trả lời các câu hỏi của cán bộ điều tra.
Người bị tạm giữ cũng có thể là người đã bị khởi tố về hình sự bao
gồm: bị can, bị cáo, người đã bị kết án nhưng bỏ trốn, người đang chấp hành
án bỏ trốn nhưng bị bắt theo quyết định truy nã hoặc người phạm tội ra đầu
thú và đã có quyết định tạm giữ đối với họ. Do đó, pháp luật coi người bị tạm
giữ là người tham gia TTHS, có các quyền và nghĩa vụ của người bị tạm giữ
theo quy định của pháp luật.
18
Có thể đưa ra khái niệm khoa học về người bị tạm giữ như sau: Người
bị tạm giữ là người bị bắt trong trường hợp khẩn cấp, phạm tội quả tang,
người bị bắt theo quyết định truy nã hoặc người phạm tội tự thú, đầu thú và
đối với họ đã có quyết định tạm giữ của người có thẩm quyền tố tụng; có
quyền và nghĩa vụ nhất định theo quy định của pháp luật.
* Khái niệm người bị tạm giam
Tạm giam là một trọng các biện pháp ngăn chặn của TTHS áp dụng
đối với bị can, bị cáo trong quá trình giải quyết vụ án hình sự. Giáo trình Luật
TTHS Việt Nam của Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội đưa ra định nghĩa
về biện pháp tạm giam như sau:
Tạm giam là biện pháp ngăn chặn trong TTHS do cơ quan
tiến hành tố tụng áp dụng đối với bị can, bị cáo phạm tội trong
trường hợp phạm tội đặc biệt nghiêm trọng, tội rất nghiêm trọng
hoặc tội nghiêm trọng, ít nghiêm trọng mà Bộ luật hình sự quy định
hình phạt trên hai năm tù và có những căn cứ để cho rằng người đó
có thể trốn hoặc cản trở việc điều tra, truy tố, xét xử hoặc có thể
tiếp tục phạm tội [9, tr. 216].
Theo định nghĩa trên thì biện pháp tạm giam có mục đích ngăn chặn tội
phạm và tạo điều kiện thuận lợi cho việc giải quyết vụ án của các cơ quan tiến
hành tố tụng. BLTTHS quy định căn cứ, thẩm quyền, thủ tục áp dụng biện pháp
ngăn chặn này. Tạm giam là một biện pháp ngăn chặn có tính chất cưỡng chế
cao, thể hiện: Thứ nhất, tạm giam là sự cưỡng chế của Nhà nước, tước quyền tự
do thân thể của bị can, bị cáo nhằm ngăn chặn việc người đó trốn, cản trở điều
tra truy tố xét xử hoặc tiếp tục phạm tội mới cũng như nhằm đảm bảo thi hành án;
thứ hai, tạm giam được thực hiện bởi sức mạnh cưỡng chế của Nhà nước bắt
buộc người bị áp dụng phải chấp hành. Nhà nước ban hành các quy định về tạm
giam và đảm bảo cho các quy phạm đó được thực hiện; thứ ba, tạm giam chỉ
được áp dụng với bị can, bị cáo trong các trường hợp nhất định; thứ tư, tạm giam
hạn chế một số quyền của công dân đối với người bị áp dụng như: quyền bất
19
khả xâm phạm về thân thể, quyền tự do đi lại, quyền bầu cử, ứng cử… Như
vậy, có thể thấy rằng tạm giam là biện pháp ngăn chặn nghiêm khắc nhất so với
các biện pháp ngăn chặn khác. Nhưng tạm giam khác với hình phạt. Hình phạt
do Tòa án quyết định áp dụng đối với người phạm tội được tuyên trong bản án,
đây là biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc nhất nhằm tước bỏ, hạn chế quyền của
người phạm tội, trừng trị giáo dục họ góp phần đấu tranh phòng chống tội phạm,
bảo vệ chế độ trật tự xã hội cũng như các quyền lợi hợp pháp của công dân.
Người phải chịu hình phạt là người có tội, hậu quả của việc áp dụng hình phạt
là người phạm tội phải mang án tích. Dù có cùng tính chất như tạm giữ nhưng
tạm giam nghiêm khắc hơn. Đối tượng bị áp dụng biện pháp này chỉ có thể là
bị can bị cáo, thời hạn tạm giam tương đối dài có thể vài tháng thậm chí hàng
năm. Tạm giữ chỉ có thể được áp dụng đối với người bị bắt trong trường hợp
khẩn cấp hoặc phạm tội quả tang với thời gian ngắn, tối đa không quá 9 ngày.
Theo quy định của Khoản 1, Điều 88 BLTTHS 2003 thì tạm giam có
thể được áp dụng đối với bị can, bị cáo trong trường hợp sau đây:
- Bị can, bị cáo phạm tội rất nghiêm trọng, tội đặc biệt
nghiêm trọng.
- Bị can, bị cáo phạm tội ít nghiêm trọng, nghiêm trọng mà
Bộ luật quy định hình phạt đối với tội đó là trên 2 năm tù và có căn
cứ để cho rằng người đó có thể trốn hoặc cản trở điều tra, truy tố,
xét xử hoặc tiếp tục phạm tội [42, Điều 88, Khoản 1].
Như vậy, người có thể bị tạm giam phải là bị can, bị cáo (người đã bị
khởi tố hình sự, người bị truy tố, người bị quyết định đưa ra xét xử tại tòa án).
Những người chưa bị khởi tố hình sự thì không được áp dụng biện pháp ngăn
chặn này đối với họ. Ngoài ra, theo quy định của BLTTHS biện pháp ngăn
chặn tạm giam còn có thể được áp dụng đối với người bị bắt khi đang bị truy
nã, đây có thể là bị can, bị cáo cũng có thể là người đang chấp hành hình phạt
nhưng bỏ trốn, lúc này tạm giam sẽ được áp dụng khi CQĐT nhận được
người bị truy nã cho đến khi cơ quan ra lệnh truy nã đến nhận.
20
Biện pháp ngăn chặn tạm giam được áp dụng đối với bị can, bị cáo,
nhưng không phải bị can, bị cáo nào cũng bị áp dụng biện pháp pháp ngăn
chặn này mà chỉ khi họ phạm tội rất nghiêm trọng, tội đặc biệt nghiêm trọng
hoặc các tội phạm khác mà luật hình sự quy định trên 2 năm tù và có căn cứ
để cho rằng người đó có thể trốn hoặc cản trở điều tra, truy tố, xét xử hoặc
tiếp tục phạm tội.
Đối với một số trường hợp đặc biệt, tuy bị can, bị cáo có đủ căn cứ nêu
trên trên nhưng không áp dụng tạm giam đối với họ do pháp luật TTHS thể hiện
tính nhân đạo. Theo quy định của BLTTHS 2003 thì các đối tượng đó là: phụ nữ
có thai hoặc đang nuôi con dưới 36 tháng tuổi, người già yếu (người già yếu là
người trên 70 tuổi hoặc trên 60 tuổi và thường xuyên ốm đau), người bị bệnh
nặng (người bị bệnh nặng là người đang mắc bệnh hiểm nghèo làm cho người đó
bị suy kiệt nặng mà không được cứu chữa kịp thời thì sẽ có thể nguy hiểm tới
tính mạng), những người này phải có nơi cư trú rõ ràng. Chỉ tạm giam những
người này trong trường hợp đặc biệt như họ phạm tội xâm phạm an ninh quốc
gia họ là đối tượng lưu manh côn đồ và trong các vụ án phức tạp nếu để họ tại
ngoại thì không thể điều tra truy tố, xét xử được [42, Điều 88, Khoản 2].
Đối với bị can bị cáo là người chưa thành niên thì người từ đủ 14 tuổi
đến dưới 16 tuổi, họ chỉ có thể bị tạm giam khi họ phạm tội rất nghiêm trọng
do cố ý hoặc tội đặc biệt nghiêm trọng. Người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi
chỉ có thể bị tạm giam khi họ phạm tội nghiêm trọng do cố ý, tội rất nghiêm
trọng, tội đặc biệt nghiêm trọng [42, Điều 273, Khoản 2]. Vấn đề đặt ra đối
với việc áp dụng biện pháp tạm giam đối với các trường hợp đặc biệt này là
phải kiểm tra kỹ sức khỏe, xác định đúng tuổi chịu trách nhiệm của họ.
Bị can, bị cáo bị tạm giam có các quyền và nghĩa vụ tố tụng do BLTTHS
quy định nhằm bảo đảm để họ chấp hành nghiêm chỉnh quy định của pháp
luật trong quá trình giải quyết vụ án, đồng thời để họ thực hiện các quyền khi
bảo vệ các lợi hợp pháp của mình trước các cơ quan tiến hành tố tụng.
21
Bộ luật tố tụng hình sự quy định biện pháp ngăn chặn tạm giam và
những bị can, bị cáo bị áp dụng biện pháp này được gọi là "người bị tạm
giam" chứ không phải là "người bị giam", do biện pháp này được áp dụng khi
bị can, bị cáo chưa phải là người phạm tội theo quy định của pháp luật. Nếu ở
giai đoạn xét xử tòa tuyên bị cáo không phạm tội thì họ được coi là người bị
oan và được bồi thường thiệt hại về những hậu quả do bị áp dụng biện pháp
tạm giam. Trong trường hợp bị can, bị cáo bị tòa án kết án thì số ngày bị tạm
giam được khấu trừ vào thời hạn chấp hành hình phạt với nguyên tắc 1 ngày
bị tạm giam bằng 1 ngày tù và 3 ngày đối với hình phạt cải tạo không giam
giữ [42, Điều 33].
Từ sự phân tích trên có thể đưa ra khái niệm về người bị tạm giam
trong TTHS như sau: Người bị tạm giam là bị can, bị cáo phạm tội rất nghiêm
trọng, đặc biệt nghiêm trọng hoặc tội phạm khác mà luật hình sự quy định
hình phạt trên hai năm tù và có căn cứ để cho rằng người đó có thể trốn hoặc
cản trở điều tra, truy tố, xét xử hoặc tiếp tục phạm tội bị các cơ quan tiến
hành TTHS có thẩm quyền quyết định áp dụng biện pháp tạm giam theo trình
tự, thủ tục của luật TTHS; có quyền và nghĩa vụ theo quy định của pháp luật.
1.2.1.2. Khái niệm quyền con người trong tố tụng hình sự đối với
người bị tạm giữ, tạm giam
Người bị tạm giữ, tạm giam được pháp luật quy định cho họ những
quyền với mục đích bảo đảm quyền con người của họ trong quá trình giải
quyết vụ án hình sự. Quyền con người đối với người bị tạm giữ, tạm giam
trong TTHS là quyền của nhóm người dễ bị tổn thương trong xã hội. Người bị
tạm giữ, tạm giam khi tham gia vào các hoạt động TTHS, với tư cách là người
bị buộc tội thì họ vẫn được pháp luật bảo vệ và tôn trọng những quyền cơ bản
thiết thân của con người. Khi bình luận về quyền của nhóm người yếu thế trong
đó có người bị tạm giữ, tạm giam, giáo trình Luật TTHS Việt Nam của Khoa
Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội có nhận xét:
22
Mặc dù họ là những đối tượng bị hoặc có khả năng bị áp
dụng trách nhiệm pháp lý nghiêm khắc nhất là trách nhiệm hình sự
nhưng những quyền cơ bản, thiết thân nhất như: quyền được tôn
trọng về nhân phẩm, quyền không bị tra tấn, đánh đập khi bị giam
giữ, bị chấp hành án phạt tù… và những quyền tư pháp để được xét
xử công bằng, để được điều tra khách quan trong quá trình tố
tụng…vẫn phải được tôn trọng và bảo đảm [9, tr.25].
Quyền con người của người bị tạm giữ, tạm giam được ghi nhận trong
các văn bản pháp luật là tiền đề để QCN được bảo đảm thực thi trong đời sống.
Thông qua các quy định của Luật TTHS, Nhà nước trao cho cho người bị tạm
giữ, tạm giam những phương tiện cần thiết để bảo vệ các quyền của mình và
thiết lập các cơ chế để giải quyết cũng như đảm bảo các quyền của người bị tạm
giữ, tạm giam. Các quyền này, khi được pháp luật TTHS quy định, tức là đã
được Nhà nước chính thức thừa nhận người bị tạm giữ, tạm giam có các quyền
tố tụng nhất định mà bất kỳ ai trong xã hội cũng đều phải tôn trọng. Người bị
tạm giữ, tạm giam khi thực hiện quyền của mình đồng thời cũng phải có nghĩa
vụ tuân thủ pháp luật, tôn trọng và không được vi phạm các thủ tục tố tụng.
Quyền con người đối với người bị tạm giữ, tạm giam được quy định
trong pháp luật TTHS bởi một mặt pháp luật TTHS là công cụ hữu hiệu của
Nhà nước trong việc thực hiện, bảo vệ QCN, quyền công dân trong các hoạt
động TTHS, đồng thời nó còn chi phối hoạt động của các cơ quan tiến hành
tố tụng, người tiến hành tố tụng trong việc bảo đảm các QCN đối với người
bị tạm giữ, tạm giam. QCN được ghi nhận trong các văn bản pháp luật của
nhà nước tạo thành hệ thống các quy phạm pháp luật, một mặt phản ánh nội
dung các QCN và thủ tục thực hiện các quyền đó, đồng thời cũng là cơ chế
pháp lý bảo đảm QCN trong hoạt động TTHS.
Quyền con người đối với người bị tạm giữ, tạm giam trong TTHS là
tập hợp các quyền thuộc nhóm quyền dân sự, chính trị nhằm mục đích khẳng
23
định danh dự nhân phẩm của con người trong mọi hoàn cảnh, bảo vệ các cá
nhân khỏi sự tùy tiện và sự lạm quyền của các cơ quan và nhân viên nhà nước
trong các hoạt động TTHS. Theo các văn bản pháp lý quốc tế về quyền con
người thì quyền con người của người bị tạm giữ, tạm giam về cơ bản là quyền
an toàn thân thể, danh dự, nhân phẩm… của cá nhân khi họ tham gia tố tụng
với tư cách người bị tạm giữ, tạm giam.
Từ những phân tích trên, khái niệm QCN trong tố tụng hình sự đối với
người bị tạm giữ, tạm giam có thể hiểu như sau: Quyền con người trong tố
tụng hình sự đối với người bị tạm giữ, tạm giam là tổng hợp các quyền thuộc
nhóm quyền dân sự, chính trị nhằm mục đích khẳng định việc bảo vệ tính mạng,
sức khỏe, tôn trọng danh dự nhân phẩm của con người trong mọi hoàn cảnh.
1.2.2. Bảo đảm quyền con ngƣời trong tố tụng hình sự đối với
ngƣời bị tạm giữ, tạm giam
Bảo đảm quyền con người trong tố tụng hình sự đối với
người bị tạm giữ, tạm giam là đảm bảo cho những người đó có địa
vị pháp lý phù hợp để bảo vệ mình trước việc bị nghi thực hiện tội
phạm, bị buộc tội và những điều kiện pháp lý cũng như thực tế để
họ thực hiện quyền và nghĩa vụ tố tụng được quy định [47, tr. 44].
Người bị tạm giữ, tạm giam là người bị nghi thực hiện tội phạm. Bảo
đảm QCN đối với người bị tạm giữ, tạm giam trong tố tụng hình sự từ góc độ
này là xây dựng cơ sở pháp lý và tạo điều kiện trên thực tế để: 1. Những
người đó có khả năng chứng minh bác bỏ sự nghi ngờ phạm tội từ phía người
và cơ quan có thẩm quyền, bác bỏ sự nghi ngờ phạm tội từ phía người và cơ
quan có thẩm quyền, bác bỏ sự buộc tội của cơ quan có thẩm quyền và làm
giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với tội phạm mà người đó thực hiện; 2. Những
người có thẩm quyền tiến hành tố tụng xác định chính xác, khách quan tội
phạm, người phạm tội và áp dụng đứng đắn các quy định của pháp luật (kể cả
BLHS và BLTTHS) để giải quyết vụ án.
24
Và như vậy, trên cơ sở các QCN đối với người bị tạm giữ, tạm giam
thì việc bảo đảm QCN trong tố tụng hình sự đối với họ được tập trung vào các
nội dung sau:
Một là, quy định đứng đắn, hợp lý về nội dung và thực hiện các
nguyên tắc tố tụng hình sự;
Hai là, quy định hợp lý địa vị tố tụng của người bị tạm giữ, tạm giam;
quy định cụ thể, rõ ràng quyền hạn, trách nhiệm của cơ quan, người tiến hành
tố tụng;
Ba là, quy định cụ thể, hợp lý điều kiện và thủ tục áp dụng các biện
pháp tạm giữ, tạm giam;
Bốn là, quy định các thủ tục tố tụng hình sự cụ thể, dân chủ, công khai;
Năm là, quy định cụ thể chế độ tạm giữ, tạm giam đối với người bị
tạm giữ, tạm giam …
1.3. MỘT SỐ QUY ĐỊNH CỦA LUẬT NHÂN QUYỀN QUỐC TẾ VỀ BẢO
ĐẢM QUYỀN CON NGƢỜI ĐỐI VỚI NGƢỜI BỊ TẠM GIỮ, TẠM GIAM
Quyền con người và bảo đảm QCN là mối quan tâm hàng đầu hiện
nay của mỗi quốc gia. Bảo đảm QCN nói chung, QCN của người bị tạm giữ,
tạm giam nói riêng trong tố tụng hình sự là xu thế tất yếu trong việc xây dựng
Nhà nước pháp quyền hiện nay trên thế giới. Vấn đề bảo đảm QCN của người
bị tạm giữ, tạm giam được quy định trong các văn bản pháp lý quốc tế cũng
như trong luật tố tụng hình sự quốc gia.
Từ góc độ các văn bản pháp luật quốc tế, QCN và bảo đảm QCN nói
chung đã được quy định tương đối sớm trong các văn bản pháp lý khi Nhà
nước tư sản mới hình thành. Nhưng có lẽ tập trung nhất, cụ thể nhất về bảo
đảm QCN của người bị buộc tội được quy định rõ ràng, cụ thể trong các văn
bản như: Tuyên ngôn thế giới về nhân quyền, 1948 (UDHR) và Công ước
quốc tế về quyền dân dự và chính trị, 1966 (ICCPR) làm nòng cốt; các văn
kiện quốc tế cơ bản về QCN trong hoạt động tư pháp khác như: Công ước
25