I HC QUC GIA H NI
KHOA LUT
HONG TH THOA
VAI TRò CủA THẩM PHáN TòA áN NHÂN DÂN
CấP QUậN, HUYệN TRONG XéT Xử CáC Vụ áN HìNH Sự
(TRÊN CƠ Sở Số LIệU THựC TIễN ĐịA BàN THàNH PHố Hà NộI,
GIAI ĐOạN 2009 - 2013)
Chuyờn ngnh: Lut hỡnh s v t tng hỡnh s
Mó s: 60 38 01 04
LUN VN THC S LUT HC
Cỏn b hng dn khoa hc: PGS. TS. TRNH QUC TON
H NI - 2014
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của
riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong
bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong
Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã
hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ
tài chính theo quy định của Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để
tôi có thể bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Tác giả luận văn
Hoàng Thị Thoa
MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các từ viết tắt
Danh mục bảng
MỞ ĐẦU 1
Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ VAI TRÒ CỦA THẨM
PHÁN TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP QUẬN, HUYỆN TRONG
XÉT XỬ CÁC VỤ ÁN HÌNH SỰ 8
1.1. Khái niệm Thẩm phán và vai trò của Thẩm phán Tòa án
nhân dân cấp quận, huyện trong xét xử các vụ án hình sự 8
1.1.1. Khái niệm Thẩm phán 8
1.1.2. Vai trò của Thẩm phán nhân dân cấp quận, huyện trong xét xử
vụ án hình sự 12
1.2. Mối quan hệ pháp luật giữa Thẩm phán Tòa án nhân dân cấp
quận, huyện với các chức danh tư pháp khác trong xét xử các
vụ án hình sự 14
1.2.1. Mối quan hệ bên trong Tòa án 15
1.2.2. Quan hệ bên ngoài Tòa án 19
1.3. Một số nguyên tắc cơ bản của hoạt động xét xử các vụ án
hình sự và sự tác động của chúng tới vai trò của Thẩm phán
Tòa án nhân dân cấp quận, huyện trong xét xử vụ án hình sự 23
1.3.1. Nguyên tắc suy đoán vô tội 23
1.3.2. Nguyên tắc độc lập xét xử 24
1.3.3. Nguyên tắc Tòa án xét xử tập thể và quyết định theo đa số 27
Chương 2: NHỮNG QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT TỐ TỤNG
HÌNH SỰ VỀ VAI TRÒ CỦA THẨM PHÁN TÒA ÁN NHÂN
DÂN CẤP CẤP, HUYỆN TRONG XÉT XỬ VỤ ÁN HÌNH SỰ
VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG 28
2.1. Những quy định của pháp luật về vai trò của Thẩm phán
Tòa án nhân dân cấp quận, huyện trong xét xử các vụ án
hình sự 28
2.1.1. Khái quát những quy định của pháp luật tố tụng hình sự về vai
trò của Thẩm phán Tòa án nhân dân cấp quận, huyện ở Việt Nam
từ Cách mạng Tháng tám năm 1945 đến trước khi ban hành Bộ
luật tố tụng hình sự năm 2003 28
2.1.2. Các quy định của pháp luật hiện hành về vai trò của Thẩm phán
Tòa án nhân dân cấp quận, huyện trong xét xử các vụ án hình sự 37
2.2. Vai trò Thẩm phán của các Tòa án nhân dân cấp quận,
huyện thành phố Hà Nội trong thực tiễn xét xử trên cơ sở dữ
liệu địa bàn Thành phố Hà Nội giai đoạn 2009 - 2013 43
2.2.1. Khái quát tình hình xét xử các vụ án hình sự của Tòa án nhân
dân cấp quận, huyện ở Hà Nội trong giai đoạn 2009 - 2013 43
2.2.2. Thẩm phán với việc thực hiện các nguyên tắc cơ bản của tố tụng
hình sự 48
2.2.3. Thẩm phán với việc thực hiện các quyền và nghĩa vụ theo quy
định của pháp luật tố tụng hình sự 59
2.2.4. Nguyên nhân của những tồn tại, hạn chế 66
Chương 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VÀ
TĂNG CƯỜNG VAI TRÒ CỦA THẨM PHÁN NHÂN DÂN
CẤP QUẬN, HUYỆN TRONG XÉT XỬ VỤ ÁN HÌNH SỰ 69
3.1. Mục đích, yêu cầu và phương hướng hoàn thiện pháp luật và
tăng cường vai trò của Thẩm phán Tòa án nhân dân cấp
quận, huyện trong xét xử vụ án hình sự 69
3.1.1. Mục đích, yêu cầu 69
3.1.2. Phương hướng hoàn thiện 72
3.2. Giải pháp hoàn thiện pháp luật 74
3.3. Một số giải pháp khác tăng cường vai trò Thẩm phán của Tòa án
nhân dân cấp quận, huyện trong xét xử các vụ án hình sự 80
3.3.1. Giải pháp đổi mới cơ chế tuyển chọn, bổ nhiệm Thẩm phán của
Tòa án nhân dân cấp quận, huyện 80
3.3.2. Giải pháp nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác đào tạo, bồi
dưỡng Thẩm phán của Tòa án nhân dân cấp quận, huyện 84
3.3.3. Giải pháp nâng cao năng lực chuyên môn, nghiệp vụ của Thẩm
phán trong công tác xét xử các vụ án hình sự cấp quận, huyện 87
3.3.4. Giải pháp nâng cao phẩm chất chính trị, đạo đức nghề nghiệp
của Thẩm phán của Tòa án nhân dân cấp quận, huyện 89
3.3.5. Giải pháp đổi mới chế độ, chính sách đối với Thẩm phán của
Tòa án nhân dân cấp quận, huyện 96
3.3.6. Giải pháp tăng cường công tác kiểm tra, giám sát hoạt động của
Thẩm phán Tòa án nhân dân cấp quận, huyện 98
3.3.7. Giải pháp về điều kiện đảm bảo nâng cao năng lực đội ngũ Thẩm
phán Tòa án nhân dân cấp quận, huyện 100
KẾT LUẬN 105
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 107
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
BLTTHS: Bộ luật tố tụng hình sự
HĐXX: Hội đồng xét xử
TAND: Toà án nhân dân
TANDTC: Tòa án nhân dân tối cao
XHCN: Xã hội chủ nghĩa
DANH MỤC BẢNG
Số hiệu bảng
Tên bảng
Trang
Bảng 2.1:
Bảng thống kê số liệu giải quyết tất cả các vụ việc nói
chung và án hình sự nói riêng của cấp quận, huyện từ
năm 2009 đến năm 2013
46
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Ở nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, bộ máy nhà nước được
tổ chức theo nguyên tắc tập trung quyền lực có sự phân công và phối hợp chặt
chẽ giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện ba quyền: lập pháp, hành
pháp, tư pháp. Thực hiện quyền tư pháp mà chủ yếu là quyền xét xử là một
trong những chức năng rất quan trọng của Nhà nước Việt Nam và được giao
cho Toà án nhân dân (TAND). Toà án có vị trí trung tâm trong các cơ quan tư
pháp. Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị “Về Chiến
lược Cải cách tư pháp đến năm 2020” đã khẳng định: “Tổ chức các cơ quan
tư pháp và các chế định bổ trợ tư pháp hợp lý, khoa học và hiện đại về cơ cấu
tổ chức và điều kiện, phương tiện làm việc; trong đó xác định toà án có vị trí
trung tâm và xét xử là hoạt động trọng tâm” [10]. Toà án nhân dân có vai trò
quan trọng trong việc giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, tạo
môi trường ổn định cho sự phát triển kinh tế, hội nhập quốc tế, xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc. TAND là chỗ dựa của nhân dân trong việc bảo vệ công lý,
quyền con người, đồng thời là công cụ hữu hiệu bảo vệ pháp luật và pháp chế
xã hội chủ nghĩa, đấu tranh có hiệu quả với các loại tội phạm và vi phạm. Tòa
án thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình thông qua đội ngũ Thẩm phán-
những người có trách nhiệm chính trong công tác xét xử và giải quyết các vụ
án hình sự, dân sự, hôn nhân-gia đình, kinh tế, lao động, hành chính và những
vụ việc khác do luật quy định.
Thẩm phán chính là những người đại diện cho Tòa án để thực hiện các
chức năng nêu trên. Thẩm phán có vị trí, vai trò rất quan trọng, họ có nhiệm
vụ cùng với các cơ quan chức năng có liên quan góp phần làm cho xã hội hoạt
động theo các quy định của pháp luật Thẩm phán với tư cách là người đại
2
diện cho Nhà nước, họ được pháp luật quy định quyền ban hành các quyết
định công nhận, hướng dẫn, dẫn dắt và quyết định các vấn đề có liên quan đến
quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, cơ quan tổ chức. Đặc biệt trong các vụ
án hình sự, vai trò của Thẩm phán xét xử được thể hiện rõ nét nhất. Thẩm
phán là người điều khiển, dẫn dắt việc tranh tụng để việc tranh tụng diễn ra
một cách tôn nghiêm, có trật tự, đi đúng vào trọng tâm của vụ án. Để từ đó,
các chứng cứ, các sự thật khách quan của vụ án đều được đưa ra làm rõ tại
phiên tòa. Trên cơ sở tranh tụng khách quan, hội đồng xét xử (HĐXX) sẽ áp
dụng pháp luật một cách đúng đắn để đưa ra một bản án với các quyết định
hợp tình, hợp lý.
Từ khi được hình thành và phát triển đến nay, đội ngũ Thẩm phán nước
ta đã cơ bản hoàn thành tốt nhiệm vụ chính trị của mình. Trong đó, đội ngũ
Thẩm phán TAND cấp quận, huyện có ảnh hưởng rất lớn đến nhiệm vụ chính
trị của hệ thống Tòa án nói riêng và của Bộ máy nhà nước nói chung. Hiện
nay, số lượng Thẩm phán TAND cấp quận, huyện là nhiều nhất so với số
lượng Thẩm phán cả nước và hàng năm, số lượng vụ án hình sự họ tham gia
làm chủ tọa phiên tòa là rất lớn. Mặt khác, cấp sơ thẩm là nơi tiếp cận đầu tiên
của một quá trình tố tụng nên có ảnh hưởng quan trọng đến những giai đoạn
tố tụng tiếp theo của một vụ án. Do đó, vị trí, vai trò của Thẩm phán TAND
cấp huyện trong xét xử các vụ án hình sự cũng là một nội dung rất quan trọng
không thể thiếu trong công cuộc cải cách tư pháp hiện nay như Nghị quyết số
49 của Bộ chính trị đã “xác định rõ hơn vị trí, quyền hạn, vai trò của người
tiến hành tố tụng”. Do vậy, việc nghiên cứu vị trí, vai trò của Thẩm phán cấp
huyện trong quá trình xét xử các vụ án hình sự là một việc làm cần thiết góp
phần thực hiện thành công cuộc cải cách tư pháp ở nước ta.
Mặt khác, theo Nghị quyết 49 của Bộ chính trị thì “Công tác tư pháp
nước ta còn bộc lộ nhiều hạn chế. Đội ngũ Thẩm phán xét xử còn thiếu, nhất
3
là ở các toà án cấp huyện; một số không ít các Thẩm phán chưa nêu cao tinh
thần trách nhiệm trong công tác, thiếu thận trọng, tỉ mỉ thậm chí còn cẩu thả
nên dẫn đến tình trạng có nhiều sai sót trong thực tiễn xét xử. Có không ít
trường hợp do tắc trách không kiểm tra dẫn đến việc nhầm lẫn, sai sót trong
các văn bản do Tòa án ban hành, đặc biệt là trong các bản án, quyết định của
Tòa án. Mặt khác, năng lực chuyên môn nghiệp vụ, kiến thức pháp luật và
kinh nghiệm thực tế trong công tác của đội ngũ Thẩm phán hiện còn chưa
đồng đều, nhất là đối với các Thẩm phán ở những địa phương vùng sâu, vùng
xa. Một số Thẩm phán chưa tích cực học tập, nghiên cứu các văn bản pháp
luật để củng cố kiến thức, trình độ nghiệp vụ chuyên môn. Nhiều cán bộ bằng
lòng với kiến thức đã có, không thường xuyên cập nhật kiến thức mới, nhất là
trong thời đại kinh tế trí thức hiện nay, nên đã phạm sai lầm khi giải quyết các
vụ án. Tại báo cáo tổng kết công tác năm 2012 TANDTC cũng đã khẳng định:
Một số Thẩm phán, cán bộ chưa nêu cao tinh thần trách
nhiệm trong công tác, chưa tích cực học tập để nâng cao năng lực,
trình độ chuyên môn, nghiệp vụ nên nhiều vấn đề đã được quy định
trong pháp luật đã được hướng dẫn cụ thể nhưng chưa nắm được để
áp dụng trong công tác xét xử [35].
Trước tình hình trên và trong bối cảnh Việt Nam từng bước đi vào quỹ
đạo toàn cầu hóa, hội nhập với thế giới, nhất là đang thực hiện cải cách tư
pháp theo tinh thần Nghị quyết số 08 ngày 2/1/2002 của Bộ Chính trị về một
số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới; Nghị quyết số 49
ngày 2/6/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020
và xây dựng Nhà nước pháp quyền và xã hội dân sự ở Việt Nam, cũng như
hàng loạt vấn đề lý luận và thực tiễn liên quan đến Tòa án và Thẩm phán ở
nước ta vẫn tiếp tục đặt ra và cần giải đáp. Bởi vậy, việc tiếp tục nghiên cứu
lý luận, thực tiễn để làm sáng tỏ về mặt khoa học và đưa ra những giải pháp
4
quan trọng nâng cao năng lực đội ngũ Thẩm phán của các Tòa án các cấp là
đòi hỏi khách quan, cấp thiết, vừa có tính lý luận vừa có tính thực tiễn.
Việc xác định đúng vị trí, vai trò của Thẩm phán trong tố tụng tại Tòa
án là một vấn đề quan trọng. Xây dựng được Nhà nước pháp quyền XHCN
đòi hỏi nhiều biện pháp đồng bộ, trong đó việc làm sao cho mọi người nhận
thức một cách đúng đắn vị trí vai trò của Thẩm phán, hoàn thiện hệ thống
pháp luật, hoàn thiện những mô hình tố tụng, tổ chức bộ máy, các chế độ
chính sách đãi ngộ đối với Thẩm phán, nhằm tạo điều kiện cho đội ngũ Thẩm
phán thực hiện tốt vai trò của mình là một nhiệm vụ vô cùng cần thiết. Vì vậy,
việc nghiên cứu đề tài “Vai trò của Thẩm phán TAND cấp quận, huyện trong
xét xử các vụ án hình sự (trên cơ sở số liệu thực tiễn địa bàn Thành phố Hà
Nội, giai đoạn 2009 - 2013)” là cần thiết và mang tính khách quan.
2. Tình hình nghiên cứu của đề tài
Từ khi có chủ trương đổi mới của Đảng và Nhà nước, Việt Nam đã có
một số công trình nghiên cứu đề tài về cải cách tư pháp và vị trí, vai trò của
đội ngũ Thẩm phán. Cụ thể có thể kể đến một số công trình khoa học như:
Cải cách hệ thống tư pháp ở Việt Nam, đề tài cấp nhà nước độc lập, mã số:
92-98-353 do ông Nguyễn Văn Yểu làm Chủ nhiệm đề tài,1993; Người
Thẩm phán nhân dân của Thông tin Khoa học pháp lý Viện Khoa học pháp
lý, Bộ tư pháp, 2002; Chuyên đề Cải cách tư pháp của Tạp chí Nghiên cứu
lập pháp; Hệ thống tư pháp và cải cách tư pháp ở Việt Nam hiện nay do GS.
TSKH Đào Trí Úc chủ biên , Nhà xuất ba
̉
n Khoa ho
̣
c xa
̃
hội , 2002; Cải cách
tư pháp trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền do PGS.TSKH Lê
Cảm, và TS Nguyễn Ngọc Chí chủ biên, Nxb ĐHQGHN, 2004; Thể chế tư
pháp trong Nhà nước pháp quyền của tập thể tác giả do PGS.TS.Nguyễn
Đăng Dung chủ biên. Nxb Tư pháp, Hà Nội, 2005; Đổi mới tổ chức và hoạt
động của các cơ quan tư pháp theo hướng xây dựng Nhà nước pháp quyền
5
Việt Nam, luận án tiến sỹ luật học, Đại học luật Hà Nội, 2003; Lê Thành
Dương, Đổi mới tổ chức và hoạt động của TAND ở nước ta trong giai đoạn
hiện nay, luận án tiến sĩ luật học, Viện nghiên cứu Nhà nước và Pháp luật,
Hà Nội, 2002; Những vấn đề lý luận và thực tiễn về cải cách hệ thống Tòa
án Việt Nam theo định hướng xây dựng nhà nước pháp quyền, luận án tiến
sỹ của Đỗ Thị Ngọc Tuyết, đã bảo vệ năm 2006 tại khoa Luật, ĐHQGHN.
Ngoài ra, tháng 7/2009 với sự hỗ trợ của Chính phủ Ôxtrâylia, TANDTC đã
cho ra mắt “Sổ tay Thẩm phán”. Sổ tay Thẩm phán sẽ đóng góp cho quá
trình hình thành nên một hệ thống tư pháp hiệu quả, công bằng và minh
bạch, tăng cường năng lực thể chế của hệ thống Tòa án thông qua việc nâng
cao tính chuyên nghiệp của Thẩm phán khi thực hiện các hoạt động tư pháp
của mình. Sổ tay Thẩm phán cũng đóng góp vào sự độc lập của ngành Tòa
án Việt Nam. Đặc biệt, ngày 09 tháng 07 năm 2010, Ban Chỉ đạo cải cách tư
pháp Trung ương đã xây dựng đề án đổi mới tổ chức và hoạt động của Toà
án, Viện kiểm sát và cơ quan điều tra theo Nghị quyết 49-NQ/TW của Bộ
Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020.
Ngoài ra còn có các bài viết của nhiều tác giả liên quan đến đội ngũ
Thẩm phán được công bố trên các tạp chí như: Tạp chí TAND, Tạp chí Dân
chủ và pháp luật, Tạp chí Nhà nước và pháp luật, Tạp chí Nghiên cứu lập
pháp Các nghiên cứu đã đánh giá năng lực của đội ngũ Thẩm phán và đề ra
những khuyến nghị để nâng cao.
Có thể nói, qua nghiên cứu, khảo sát nội dung các sách chuyên khảo,
các luận án, các bài báo khoa học đã công bố ở Việt nam trong thời gian qua,
nhất là từ khi có Nghị quyết 49 của Bộ chính trị về cải cách tư pháp ở Việt
Nam đến năm 2020, cho thấy hầu hết các công trình đó là những công trình
nghiên cứu cơ bản và trực diện về tổ chức và hoạt động của hệ thống Tòa án,
còn về Thẩm phán chưa được khoa học pháp lý Việt Nam quan tâm một cách
6
đúng mức. Những nghiên cứu về Thẩm phán chỉ mới dừng lại ở các công
trình nghiên cứu đơn lẻ, hoặc là chỉ đề cập đến một số vấn đề liên quan đến
địa vị pháp lý của Thẩm phán, chưa có một công trình khoa học nào nghiên
cứu có hệ thống, toàn diện và sâu sắc về vai trò của đội ngũ Thẩm phán của
các Tòa án các cấp trước yêu cầu cải cách tư pháp do Bộ Chính trị đề ra. Bên
cạnh đó, ở nước ta cũng chưa có công trình nghiên cứu chuyên sâu nào đánh
giá toàn vai trò đội ngũ Thẩm phán của các Tòa án hiện nay ở nước ta, vì vậy
những bất cập, hạn chế của đội ngũ Thẩm phán của các Tòa án các cấp hiện
nay, nhất là ở Hà Nội chưa được phân tích có hệ thống để đưa ra những kiến
nghị, giải pháp đồng bộ tăng cường vai trò đội ngũ Thẩm phán của các Tòa án
cấp huyện đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp ở Việt Nam.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
3.1. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu xây dựng cơ sở lý luận và thực tiễn cho việc nâng cao vai
trò đội ngũ Thẩm phán của Tòa án quận, huyện trong xét xử vụ án hình sự
đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp hiện nay.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Làm rõ được những vấn đề lý luận về vai trò của đội ngũ Thẩm phán
của Tòa án cấp quận, huyện trong xét xử vụ án hình sự đáp ứng với yêu cầu
cải cách tư pháp hiện nay.
- Phân tích, đánh giá đúng thực trạng đội ngũ Thẩm phán của các Tòa
án cấp quận, huyện ở Hà Nội hiện nay trong xét xử vụ án hình sự, đồng thời
chỉ ra được những tồn tại, hạn chế của đội ngũ này và những nguyên nhân của
tồn tại, hạn chế đó.
- Đề xuất được những giải pháp có tính khả thi nhằm nâng cao vai trò
đội ngũ Thẩm phán đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp hiện nay ở Hà Nội
.
7
4. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài này được nghiên cứu trên cơ sở lý luận chủ nghĩa Mác-Lenin và
thực tiễn, đồng thời sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể như: Thống
kê, phân tích, tổng hợp, đối chiếu so sánh và điều tra điển hình để làm sáng tỏ
đề tài nghiên cứu.
5. Kết cấu của Luận văn
Ngoài lời nói đầu, kết luận văn danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
luận văn gồm 3 chương:
Chương 1. Một số vấn đề chung về vai trò của Thẩm phán Tòa án
nhân dân cấp quận, huyện trong xét xử các vụ án hình sự.
Chương 2: Những quy định của pháp luật về vai trò của Thẩm phán
Tòa án nhân dân cấp quận, huyện trong xét xử các vụ án
hình sự và thực tiễn áp dụng.
Chương 3: Một số giải pháp
hoàn thiện pháp luật và tăng cường vai
trò của Thẩm phán nhân dân cấp quận, huyện trong xét xử
vụ án hình sự.
8
Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ VAI TRÒ CỦA THẨM PHÁN
TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP QUẬN, HUYỆN TRONG XÉT XỬ
CÁC VỤ ÁN HÌNH SỰ
1.1. Khái niệm Thẩm phán và vai trò của Thẩm phán Tòa án nhân
dân cấp quận, huyện trong xét xử các vụ án hình sự
1.1.1. Khái niệm Thẩm phán
Hoạt động xét xử là yêu cầu khách quan, là một trong những chức năng
của Nhà nước xuất hiện cùng với sự ra đời của nhà nước. Tuy nhiên, đội ngũ
Thẩm phán ra đời khá muộn (chỉ vào cuối chế độ phong kiến, đầu chế độ tư
bản mới xuất hiện Thẩm phán) mặc dù nhiệm vụ xét xử đã có từ rất lâu và
không thể thiếu trong bộ máy Nhà nước. Khi mà quyền lực nhà nước được
chia thành 3 quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp độc lập, kiềm chế đối
trọng nhau thì cũng đồng nghĩa với sự tách biệt của Toà án ra khỏi quyền
hành pháp và lập pháp. Từ đó một đội ngũ chuyên làm nhiệm vụ xét xử là
Thẩm phán ra đời.
Theo từ điển Luật học và Pháp lệnh Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân
năm 2002 có định nghĩa thì: “Thẩm phán là người được bổ nhiệm theo quy
định của pháp luật để làm nhiệm vụ xét xử những vụ án và giải quyết những
việc khác thuộc thẩm quyền của Toà án” [49].
Từ định nghĩa trên, ta thấy, Thẩm phán là một chức danh tư pháp, chỉ
người làm việc trong Toà án, nhân danh Nhà nước tham gia vào các hoạt
động xét xử. Hiện nay, quá trình tố tụng hình sự Việt Nam được chia thành
nhiều giai đoạn khác nhau, với nhiều cơ quan tiến hành tố tụng khác nhau, mà
trong đó vị trí, vai trò của mỗi cơ quan là khác nhau. Mỗi cơ quan tiến hành tố
tụng được xác lập quyền và nghĩa vụ thông qua các chủ thể khác nhau gọi là
9
những người tiến hành tố tụng. Những người tiến hành tố tụng này có chức
năng nhiệm vụ và quyền hạn riêng nhưng đều có trách nhiệm là phát hiện
nhanh chóng, chính xác và xử lý công minh, kịp thời mọi hành vi phạm tội,
không bỏ lọt tội phạm, không làm oan người vô tội. TAND là một trong
những cơ quan tiến hành tố tụng có vị trí và vai trò quan trọng, là cơ quan
cuối cùng kết thúc một quá trình tố tụng. Trong TAND, Thẩm phán là người
có vị trí và vai trò then chốt để thực thi nhiệm vụ tố tụng của Tòa án.
Ở nước ta, từ năm 2002, Pháp lệnh Thẩm phán và Hội thẩm TAND đã
ghi nhận Thẩm phán là một chức danh tư pháp mà trước đó về mặt pháp lý
Thẩm phán chỉ được coi là một chức vụ. Qui định này đánh dấu một bước
ngoặt về nhận thức để xây dựng đội ngũ Thẩm phán chuyên nghiệp, đáp ứng
các yêu cầu của hoạt động xét xử, nhất là xét xử các vụ án hình sự. Tuy nhiên,
cho đến nay ở nước ta chưa có văn bản pháp luật nào của Nhà nước quy định
về khái niệm chức danh tư pháp. Có quan điểm cho rằng những người nào
trực tiếp thực hiện quyền lực tư pháp thì mới là chức danh tư pháp. Do vậy
chức danh tư pháp bao gồm Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán, Thư ký
Toà án, Hội thẩm. GS. TS Võ Khánh Vinh cho rằng chức danh tư pháp bao
gồm những người thực hiện nhiệm vụ trong các cơ quan tư pháp (điều tra,
truy tố, xét xử, thi hành án) được đào tạo kỹ năng thực hành nghề và hành
nghề theo một chuyên môn nhất định, có danh xưng, được bổ nhiệm hoặc
thừa nhận theo pháp luật khi đáp đứng đầy đủ các tiêu chuẩn và điều kiện xác
định theo quy định của pháp luật [52, tr.5]. Trong các chức danh tư pháp thì
Thẩm phán được xác định là một chức danh tư pháp quan trọng và có ý nghĩa
quyết định đến việc thực hiện quyền tư pháp. Thẩm phán (hoặc cùng với Hội
thẩm) nhân danh Nhà nước để đưa ra phán quyết và khi bản án có hiệu lực
pháp luật thì tất cả cơ quan, tổ chức và mọi công dân đều phải chấp hành, kể
cả những cơ quan nhà nước. Có thể thấy, Thẩm phán là một chức danh tư
10
pháp quan trọng mang tính chuyên nghiệp của Tòa án nói riêng và trong bộ
máy nhà nước nói chung.
Dưới góc độ xã hội, Thẩm phán được xem như là một nghề theo sự phân
công của xã hội. Hoạt động xét xử là một hoạt động nghề nghiệp đặc thù so với
các nghề nghiệp khác ở chỗ hoạt động xét xử của Thẩm phán đòi hỏi một trình
độ chuyên môn cao trong các lĩnh vực pháp luật, chính trị và xã hội. Hầu hết họ
phải có kiến thức uyên thâm trên mọi lĩnh vực bởi lẽ họ là ngời đại diện cho
nền công lý, cho lẽ phải cho công bằng của toàn xã hội. Tính chuyên nghiệp
của Thẩm phán trong hoạt động xét xử là một trong những đặc tính quan trọng
không những thể hiện trình độ cao về nghề nghiệp của Thẩm phán mà còn
khẳng định vị thế của Thẩm phán trong bộ máy nhà nước và đối với xã hội.
Theo đó, hoạt động xét xử của Thẩm phán có những đặc trưng riêng. Thứ nhất
là tính đặc thù trong áp dụng pháp luật, thể hiện ở chỗ Thẩm phán với vai trò là
người đưa ra phán quyết dựa trên những chứng cứ khách quan, thực tế, không
định kiến với mục đích duy nhất là bảo vệ công lý. Tất cả mọi tranh luận tại
phiên Toà phải đảm bảo sự bình đẳng cho các bên trong vụ án. Mọi hành vi ép
buộc làm ảnh hưởng tới sự khách quan đối với phán quyết của Thẩm phán đều
trái với mục đích áp dụng pháp luật. Đặc thù này khẳng định Thẩm phán phải
là người hết sức vô tư, tôn trọng bằng chứng, xem xét đúng đắn các bằng
chứng thực tế mà mỗi bên đương sự đưa ra trong quá trình giải quyết vụ án của
mình. Thứ hai là hoạt động xét xử chính là một cuộc đấu tranh tìm ra sự thực
khách quan, hoạt động này chịu sự giám sát nghiêm ngặt của các cơ quan, tổ
chức và cá nhân. Trong quá trình xử lý vụ án, Thẩm phán phải sử dụng năng
lực và toàn bộ kiến thức cần thiết nhằm giải quyết đúng đắn vụ án trên cơ sở
bằng chứng thực tế. Đây là cả một quá trình tố tụng phức tạp đòi hỏi ngay từ
đầu người Thẩm phán phải thực sự toàn tâm toàn lực. Họ phải rất khéo léo và
nhạy bén tại phiên toà, giai đoạn tố tụng cuối cùng rất quan trọng. Để không bị
11
cám dỗ trên con đường tìm kiếm lẽ phải, cuộc đấu tranh tinh thần của ngời
Thẩm phán đòi hỏi họ phải luôn kiên quyết, vững vàng ý chí. Mục tiêu cuối
cùng mà người Thẩm phán phải đạt được và cũng là mục đích mà toàn bộ nhân
dân hướng tới sau một vụ án đó là một phán quyết thấu tình đạt lý, đảm bảo
tính đúng đắn của bản án, không bỏ lọt kẻ phạm tội. Phán quyết đó còn mang
tính giáo dục ý thức pháp luật trong toàn bộ dân chúng. Chính vì thế hoạt động
xét xử của Thẩm phán được toàn xã hội giám sát. Nguyên tắc Toà án xét xử
công khai, khi xét xử có sự tham gia của Hội thẩm nhân dân chính là sự giám
sát ở bên trong phiên toà. Khi xét xử Hội thẩm nhân dân ngang quyền với
Thẩm phán, cùng Thẩm phán đa ra quyết định đúng pháp luật.Thứ ba là hoạt
động này đòi hỏi một con người toàn diện, bản lĩnh vững vàng, phẩm chất đạo
đức trong sáng, vô tư khách quan. Đây không những là đặc thù nghề nghiệp
Thẩm phán mà còn là các tiêu chuẩn mà pháp luật đặt ra đối với ngời Thẩm
phán hiện nay. Chỉ có thể có kiến thức rộng rãi trên nhiều lĩnh vực, luôn đấu
tranh cho công bằng vô tư, một tâm hồn trong sáng và một bản lĩnh vững vàng
thì nghề Thẩm phán và người Thẩm phán mới tạo dựng được sự tin tưởng và
tôn kính. Bởi lẽ cần thiết có một chuẩn mực lý tưởng được xã hội thừa nhận,
nắm giữ cán cân công lý để điều chỉnh xã hội đi đúng hướng của nó. Người
Thẩm phán phải bênh vực cho ngời bị hại, không thiên vị hay dao động ý chí
trước bất kỳ sự việc nào. Tất cả những yêu cầu trên sẽ góp phần tạo dựng nên
hình ảnh một nghề biểu tượng cho sự khát khao công lý. Thứ tư là hoạt động
xét xử của Thẩm phán tuân theo một trình tự tố tụng chặt chẽ do pháp luật quy
định. Phán quyết của Thẩm phán có liên quan trực tiếp tới quyền lợi và nghĩa
vụ của cá nhân, tổ chức có liên quan. Để bảo đảm phán quyết đó thấu tình đạt
lý thì hoạt động xét xử phải tuân theo một trình tự tố tụng chặt chẽ là điều dễ
hiểu. Việc quy định như vậy tránh sự tuỳ tiện lạm quyền, bảo vệ quyền và lợi
ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức. Vi phạm các quy định của pháp luật tố tụng,
12
bản án dù có hiệu lực pháp luật cũng sẽ được Toà án cấp trên xem xét lại theo
thủ tục giám đốc thẩm hoặc tái thẩm. Có thể thấy, chỉ khi nào thực sự coi Thẩm
phán là một nghề, có vị trí, chức danh nhất định trong xã hội thì họ mới có cơ
sở và điều kiện pháp lý để phát huy hết năng lực, phấn đấu cho sự nghiệp của
mình.Khi thực thi quyền hạn của mình, Thẩm phán đã thực hiện công việc
thuộc nghề nghiệp của mình mà xã hội đã phân công, đó là nghề xét xử.
Như vậy, từ các phân tích trên có thể đưa ra định nghĩa khái niệm
Thẩm phán như sau: Thẩm phán là người được bổ nhiệm theo quy định của
pháp luật để làm nhiệm vụ xét xử những vụ án và giải quyết những việc khác
thuộc thẩm quyền của Toà án.
1.1.2. Vai trò của Thẩm phán nhân dân cấp quận, huyện trong xét xử
vụ án hình sự
Trong tố tụng hình sự nói chung và trong xét xử sơ thẩm các vụ án
hình sự nói riêng, Thẩm phán cấp quận, huyện đóng một vai trò vô cùng
quan trọng. Ở nước Cộng hoà XHCN Việt Nam, bộ máy nhà nước được tổ
chức theo nguyên tắc tập trung quyền lực có sự phân công và phối hợp chặt
chẽ giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện ba quyền lập pháp, hành
pháp, tư pháp. Hiến pháp 2013 quy định “Tòa án nhân dân là cơ quan xét xử
của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện quyền tư pháp”
[32, Điều 102, Khoản 1, tr.54]. Việc thực hiện quyền tư pháp mà chủ yếu là
quyền xét xử là một trong những chức năng rất quan trọng của Nhà nước Việt
Nam và được giao cho TAND. Toà án có vị trí trung tâm trong các cơ quan tư
pháp. Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02-6-2005 của Bộ Chính trị “Về Chiến
lược Cải cách tư pháp đến năm 2020” đã khẳng định: “Tổ chức các cơ quan
tư pháp và các chế định bổ trợ tư pháp hợp lý, khoa học và hiện đại về cơ cấu
tổ chức và điều kiện, phương tiện làm việc; trong đó xác định Toà án có vị trí
trung tâm và xét xử là hoạt động trọng tâm” [10].
13
Hoạt động xét xử của Toà án được thực hiện thông qua Hội đồng xét
xử (HĐXX) trong đó Thẩm phán là nhân vật trung tâm với tư cách là người
đại diện cho Nhà nước thực thi công lý. Thẩm phán là người thay mặt Nhà
nước giữ vai trò quyết định trong việc kết thúc một quá trình tố tụng, phán
quyết một hay một vài người nào đó là có tội hay không và hậu quả pháp lý
kèm theo nếu họ có tội.
Khi làm chủ toạ phiên toà, Thẩm phán là người tổ chức và điều khiển
phiên toà, xét hỏi, xem xét vật chứng, ra bản án, quyết định thay mặt HĐXX
tuyên bản án nhân danh Nước công hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Vai trò
của Thẩm phán cấp quận, huyện trong việc xét xử các vụ án Hình sự thể hiện
cụ thể như sau:
- Đối với thủ tục bắt đầu phiên toà, Thẩm phán với tư cách là chủ toạ
phiên toà có vai trò quan trọng, chỉ đạo và điều hành, tiến hành những thủ tục
cần thiết để các thủ tục xét hỏi, tranh luận, nghị án và tuyên án có được tiến
hành tiếp hay không và nếu được tiến hành thì các thủ tục đó được diễn ra
một cách thuận lợi, đúng pháp luật, đảm bảo cho việc xét xử khách quan,
đúng người, đúng tội và đảm bảo pháp chế xã hội chủ nghĩa.
- Đối với thủ tục xét hỏi tại phiên tòa, vai trò của Thẩm phán được thể
hiện một cách trực tiếp nhất. Thẩm phán là người trực tiếp xét hỏi bị cáo,
người bị thiệt hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi và
nghĩa vụ liên quan , xem xét các vật chứng, đọc biên bản, công bố lời khai,
công bố tài liệu, xem xét tại chỗ áp dụng các biện pháp được BLTTHS quy
định để xem xét, đánh giá các tình tiết của vụ án một cách khách quan, toàn
diện, nhằm xác định sự thật của vụ án, đồng thời loại bỏ những tình tiết không
liên quan đến vụ án.
- Đối với việc tranh tụng diễn ra tại phiên toà thì vai trò của Thẩm phán
được hiện một cách rõ nét đầy đủ nhất. Bởi vì cũng chính tại phiên toà là nơi
diễn ra đỉnh điểm của sự tranh tụng, nó hàm chứa đầy đủ các dấu hiệu, đặc
14
điểm của việc tranh tụng và cũng tại giai đoạn xét xử sơ thẩm vai trò của
Thẩm phán trong việc đấu tranh cũng thể hiện sự nổi bật, thông qua kết quả
tranh tụng, Thẩm phán đánh giá được đúng nội dung thực chất của vụ án, các
chứng cứ, các quan điểm lập luận của mỗi bên, trên cơ sở đó căn cứ vào quy
định của pháp luật, Thẩm phán ra các quyết định đúng đắn đúng người, đúng
tôi, đúng pháp luật.
Thông qua vai trò xét xử các vụ án hình sự, Thẩm phán nói chung và
Thẩm phán cấp quận, huyện nói riêng đã góp phần to lớn vào việc trừng trị
kịp thời những kẻ phạm tội nhằm duy trì trật tự an toàn xã hội, bảo vệ quyền
con người và bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa. Ngoài ra, Thẩm phán còn là
trụ cột, là chỗ dựa vững chắc cho công dân, tổ chức Nhà nước trong lĩnh vực
đấu tranh phòng chống tội phạm.
Đồng thời, bằng việc xét xử tại phiên toà, Thẩm phán còn góp phần vào
việc phổ biến, tuyên truyền giáo dục pháp luật đối với người phạm tội và đối
với cộng đồng xã hội. Bên cạnh đó bằng công tác áp dụng pháp luật trong
thực tiễn xét xử, bằng kinh nghiệm tích luỹ trong mỗi vụ án cụ thể, Thẩm
phán có thể rút ra những kinh nghiệm quý báu trong việc kiến nghị, sửa đổi,
bổ sung và hoàn thiện pháp luật.
Từ những phân tích trên, một lần nữa khẳng định Thẩm phán đóng vai
trò vô cùng quan trọng, không thể thiếu trong quá trình giải quyết, xét xử vụ án
hình sự sơ thẩm tại cấp quận, huyện. Qua đó góp phần bảo vệ các quyền con
người, bảo vệ trật tự an toàn xã hội, bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa, đấu
tranh phòng chống tội phạm tạo môi trường ổn định cho sự phát triển kinh tế
- xã hội, hội nhập quốc tế, xây dựng và bảo vệ tổ quốc xã hội chủ nghĩa.
1.2. Mối quan hệ pháp luật giữa Thẩm phán tòa án nhân dân cấp
quận, huyện với các chức danh tư pháp khác trong xét xử các vụ án hình sự
Thẩm phán có vị trí và vai trò đặc biệt quan trọng trong hệ thống Tòa
án, cũng như trong hệ thống các cơ quan tiến hành tố tụng. Thẩm phán, cũng
15
như Tòa án, là người giữ vị trí trung tâm trong hệ thống tư pháp, là người
quyết định cuối cùng nhằm kết thúc chặng cuối cùng của các giai đoạn tố
tụng. Tuy nhiên, nếu chỉ một mình Thẩm phán thì không thể tiến hành tố
tụng, mà việc tiến hành tố tụng của Thẩm phán phải đặt trong mối quan hệ với
những người và cơ quan tiến hành tố tụng khác. Do đó, vai trò của Thẩm phán
nói chung và Thẩm phán cấp quận, huyện trong xét xử vụ án hình sự nói riêng
được thể hiện ở các mối quan hệ bên trong (mối quan hệ nội bộ của Tòa án)
và mối quan hệ bên ngoài (với các cơ quan tiến hành tố tụng khác) trong quá
trình thực hiện nhiệm vụ của mình.
1.2.1. Mối quan hệ bên trong Tòa án
Mối quan hệ bên trong là các mối quan hệ giữa Thẩm phán với lãnh
đạo, với các Thẩm phán khác, quan hệ với Thư ký và các cán bộ khác của Toà
án. Tùy theo với từng chủ thể khác nhau, Thẩm phán có những vị trí, vai trò
khác nhau.
* Quan hệ giữa Thẩm phán với lãnh đạo Toà án:
Mối quan hệ giữa Thẩm phán và lãnh đạo Tòa án vừa thể hiện tính chất
của mối quan hệ hành chính, vừa thể hiện tính chất của mối quan hệ tố tụng.
Lãnh đạo Tòa án bao gồm Chánh án, Phó Chánh án là những người
lãnh đạo, quản lý mọi mặt của cơ quan Toà án để đảm bảo hoạt động của Tòa
án với vai trò là một cơ quan xét xử của Nhà nước. Thẩm phán là một thành
viên của cơ quan, do đó chịu sự chi phối chung của hoạt động quản lý, điều
hành của Chánh án, Phó Chánh án. Quan hệ chi phối này thể hiện trong mối
quan hệ hành chính, nghĩa là lãnh đạo Tòa án chỉ quản lý về mặt con người,
còn trong lĩnh vực xét xử Thẩm phán được độc lập về chuyên môn trong việc
áp dụng pháp luật, Chánh án và Phó Chánh án không được can thiệp vào.
Mối quan hệ tố tụng giữa lãnh đạo và Thẩm phán chỉ thể hiện trong
một số phạm vi nhất định như: Chánh án phân công Thẩm phán giải quyết,
16
xét xử vụ án hình sự; Quyết định thay đổi Thẩm phán trước khi mở phiên tòa;
Ra quyết định thi hành án, hoãn chấp hành hình phạt tù, tạm đình chỉ chấp
hành hình phạt tù, quyết định xóa án tích đối với những bản án mà Thẩm phán
đã xét xử Khi Thẩm phán được Chánh án giao hồ sơ vụ án để giải quyết,
Thẩm phán phải nghiên cứu và đề xuất những vấn đề thuộc thẩm quyền của
Chánh án để Chánh án giải quyết như việc áp dụng, thay đổi, hủy bỏ biện
pháp ngăn chặn, quyết định chuyển vụ án nếu vụ án không thuộc thẩm quyền
giải quyết… . Trong các quan hệ này, Thẩm phán buộc phải chấp hành các
quyết định của lãnh đạo Tòa án.
Trường hợp Thẩm phán đồng thời là Chánh án hoặc Phó Chánh án thì
người nay phải thực hiện đầy đủ, rạch ròi những nhiệm vụ quyền hạn nào là
của Chánh án hay Phó Chánh án và Thẩm phán mà pháp luật quy định. Chẳng
hạn, Thẩm phán đồng thời là Chánh án thì Quyết định đưa vụ án ra xét xử vẫn
ghi người ký ban hành là Thẩm phán, nhưng trong quyết định tạm giam thì
ghi người ký là Chánh án.
* Quan hệ giữa Thẩm phán với nhau:
Mối quan hệ giữa các Thẩm phán phát sinh trong hoạt động xét xử và
trong hoạt động bình thường Tòa án. Theo quy định của pháp luật hiện hành,
HĐXX xét xử vụ án hình sự ở cấp huyện gồm có 01 Thẩm phán là chủ tọa
phiên tòa. Vì vậy, mỗi quan hệ giữa các Thẩm phán Tòa án cấp huyện với
nhau chủ yếu là quan hệ phối hợp công tác, hỗ trợ lẫn nhau trong việc thực
hiện nhiệm vụ được giao. Mối quan hệ tố tụng giữa các Thẩm phán cấp huyện
với nhau chỉ thể hiện trong việc làm Thẩm phán dự khuyết cho nhau trong
một vụ án hình sự. Mối quan hệ này chỉ phát sinh từ khi có Quyết định đưa vụ
án ra xét xử và Thẩm phán dự khuyết phải có mặt tại phiên tòa kể từ khi phiên
tòa bắt đầu xét xử thì mới có thể thay thế Thẩm phán chủ tọa trong một số
trường hợp mà pháp luật quy định.
17
* Quan hệ giữa Thẩm phán với Hội thẩm nhân dân:
Hội thẩm nhân dân là những người được bầu hoặc được cử theo quy
định của pháp luật để làm nhiệm vụ xét xử những vụ án thuộc thẩm quyền của
Tòa án. Hội thẩm nhân dân là những người đại diện cho nhân dân tham gia
vào hoạt động xét xử với mục đích đảm bảo tính dân chủ. Hội thẩm nhân dân
không phải là cán bộ của Tòa án và không thuộc biên chế của Tòa án, tuy
nhiên, họ chịu sự phân công của Chánh án nơi được bầu hoặc cử tham gia
phiên tòa hình sự. Trong tố tụng hình sự nói chung, hội thẩm nhân dân cũng
có trách nhiệm nghiên cứu hồ sơ, tham gia xét xử. Khi xét xử vụ án, mọi vấn
đề phải được Thẩm phán và hội thẩm thảo luận và thông qua tại phòng nghị
án. Khi giải quyết các vấn đề phát sinh trong quá trình xét xử cũng như khi
quyết định bản án, Hội thẩm ngang quyền với Thẩm phán. Như vậy, có thể
thấy, mối quan hệ giữa Thẩm phán và Hội thẩm cũng chỉ phát sinh từ khi có
quyết định đưa vụ án ra xét xử và mối quan hệ giữa Thẩm phán và Hội thẩm
là mối quan hệ độc lập, thể hiện trên hai phương diện: độc lập với các cá nhân
khác và độc lập với chính những thành viên trong HĐXX. Điều này có nghĩa,
các thành viên của HĐXX bao gồm Thẩm phán và hội thẩm nhân dân không
chịu sự chi phối của bất kỳ cá nhân, tổ chức nào khác khi xét xử vụ án, đồng
thời, giữa từng thành viên của HĐXX lại có sự độc lập với nhau trong quá
trình xét xử cũng như quyết định bản án. Mặc dù vậy, trong hoạt động xét xử,
Thẩm phán vẫn giữ vai trò là trung tâm. Điều này thể hiện trong toàn bộ quá
trình xét xử Thẩm phán luôn giữ vai trò chủ đạo điều khiển phiên toà từ phần
thủ tục đến phần tuyên án. Trong quá trình nghị án, Hội thẩm là người nêu ý
kiến trước về việc giải quyết vụ án và biểu quyết giữa 03 thành viên HĐXX
về từng vấn đề. Tuy nhiên, nếu thấy Hội thẩm có ý kiến không đúng thì Thẩm
phán có quyền phân tích, giải thích và tiến hành biểu quyết lại bởi trên thực
tế, các hội thẩm nhân dân được bầu hoặc cử thường giữ các chức vụ kiêm
18
nhiệm và không phải là những người được đào tạo chuyên về pháp luật. Do
đó, Thẩm phán với tư cách là những người xét xử chuyên nghiệp” phải là
người giữ vị trí và vai trò trung tâm trong xét xét vụ án hình sự.
* Quan hệ giữa Thẩm phán và thư ký phiên tòa:
Thư ký phiên tòa là người tiến hành tố tụng, được Chánh án phân công
làm thư lý đối với từng vụ án cụ thể. Thư ký phiên tòa có thể là thư ký toà án
hoặc chuyên viên hoặc thẩm tra viên của Tòa án được Chánh án hoặc người
được Chánh án ủy quyền phân công làm nhiệm vụ thư ký trong từng phiên tòa
cụ thể. Tuy nhiên, ở TAND cấp quận, huyện, thư ký phiên tòa không bao gồm
chuyên viên và thẩm tra viên.
Thư ký Tòa án được hiểu là người giúp việc cho Thẩm phán khi thực
hiện nhiệm vụ quyền hạn mà pháp luật đã quy định. Thẩm phán và Thư ký
Tòa án đều là những người tiến hành tố tụng nên mối quan hệ giữa Thẩm
phán và Thư ký Tòa án là mối quan hệ được điều chỉnh bằng pháp luật tố
tụng và nó chỉ phát sinh trong quá trình giải quyết vụ án. Thẩm phán không
phải là thủ trưởng của Thư ký Tòa án và Thư ký Tòa án cũng không phải là
thư ký riêng của Thẩm phán. Thư ký Tòa án là người giúp việc cho Thẩm
phán để thực hiện những công việc trong quá trình xét xử, do đó, trong mối
quan hệ này, Thẩm phán giữ vai trò chỉ đạo nhiệm vụ cho Thư ký, giám
sát, kiểm tra, đôn đốc và hướng dẫn Thư ký thực hiện các công việc, nhiệm
vụ và quyền hạn theo quy định của pháp luật. Ví dụ như Thư ký Tòa án
giúp Thẩm phán lấy lời khai, biên bản xác minh, làm giấy triệu tập bị can,
bị cáo; thực hiện việc chuẩn bị mở phiên tòa như triệu tập phiên tòa, thông
báo cho luật sự hoặc người bào chữa… Ở phiên tòa, Thư ký phải kiểm tra
sự có mặt, vắng mặt của những người được triệu tập đến phiên tòa; phổ
biến nội quy phiên tòa; ghi biên bản phiên tòa… Sau phiên tòa, Thư ký Tòa
án giúp Thẩm phán rà soát lại bản án trước khi ký; chuyển giao bản án cho