TIỂU LUẬN VĂN HỌC
Thị hiếu thẩm mỹ
của các nhà thơ Trung Quốc, qua thơ Đường
VÕ PHÚC CHÂU
1.VÀI NÉT VỀ THỊ HIẾU THẨM MỸ:
Con người là hiện thân của cái đẹp, nhưng luôn ngạc nhiên về cái đẹp của
chính mình và xung quanh mình. Cái đẹp luôn có một sức hấp dẫn kỳ lạ, thu hút sự chú
ý của con người. Nó được cảm nhận bởi ý thức, ẩn sâu trong tiềm thức, vô thức. Mỗi
khi bắt gặp một vẻ đẹp trẻ trung, nụ cười gợi cảm, chứng kiến một hành vi cao thượng,
hay ngắm nhìn một sự sống mới tượng hình, một cảnh mùa xuân tràn đầy hương sắc,...
con người thường nảy sinh trạng thái xúc động. Tri giác và xúc động trước các khách
thể thẩm mỹ này, con người hình thành trong mình cảm xúc thẩm mỹ. Những cảm xúc
thuộc về cá nhân ấy dần dần ổn định, hợp thành một thực thể bền vững và biến thành sở
thích thẩm mỹ của người đó. Sở thích thẩm mỹ chính là biểu hiện của thị hiếu thẩm mỹ.
Thị hiếu thẩm mỹ là một thành tố cơ bản của ý thức thẩm mỹ. Nó thể hiện sự
bằng lòng và hứng thú của chủ thể khi tiếp nhận và đánh giá các đối tượng nhất định.
Nó là vấn đề ý thức được cụ thể hóa bằng hành động, bằng vật phẩm. Nó in dấu vết trên
hầu hết những gì con người tạo ra trong môi trường sống.
Thị hiếu thẩm mỹ là một hiện tượng xã hội – lịch sử, trong đó kết hợp những
yếu tố có tính nhân loại, những yếu tố thuộc về tầng lớp, giai cấp, giới tính và những
yếu tố cá nhân. Bất kỳ một sự ưa thích, một sự lựa chọn nào của cá nhân trong lĩnh vực
thẩm mỹ đều mang dấu vết xã hội. Nếu cảm xúc thẩm mỹ thiên về khía cạnh trực giác,
cảm quan và tình cảm thì trong thị hiếu thẩm mỹ đã có sự hòa hợp và cân bằng giữa cảm
tính và lý tính, giữa trực giác tức thời và sự nghiền ngẫm lâu dài. Sự khác biệt về trình
độ văn hóa, kinh nghiệm sống và đời sống đạo đức,... khiến con người khác nhau về thị
hiếu thẩm mỹ: cao quý hoặc thấp kém.
Như mọi hiện tượng xã hội khác, thị hiếu thẩm mỹ cũng mang tính qui luật.
Có ba loại qui luật thường xuyên chi phối, tác động đến sự hình thành và phát triển của
nó. Đó là quy luật xã hội học, qui luật tâm lý học và qui luật thẩm mỹ học. Qui luật xã
hội học giải thích sự phát sinh, phát triển và tiêu vong của các loại thị hiếu, các loại
“mốt”. Qui luật tâm lý thể hiện sự thích ứng giữa nhu cầu tình cảm của con người và
đối tượng bên ngoài. Nó cũng như qui luật cung cầu trên thị trường. Còn qui luật thẩm
mỹ là sự tổng hòa những qui luật xã hội học và tâm lý học. Nó đặc biệt chú ý qui luật
của cái hài hòa; qui luật chi phối, tác động lẫn nhau giữa nội dung và hình thức. Các qui
luật này là cơ sở để giải thích mọi hiện tượng thị hiếu thẩm mỹ.
Cần nói rõ, thị hiếu thẩm mỹ là một hình thái biểu hiện năng lực và nhu cầu
tinh thần của cá nhân. Nó hình thành trong một nền giáo dục, một môi trường giao tiếp
và môi trường lao động cụ thể. Đặc biệt, nó được sự định hướng hữu hiệu bởi các nghệ
sĩ sáng tạo. Qua tác phẩm nghệ thuật có giá trị, con người được nâng dần trình độ
2
thưởng thức nghệ thuật, từng bước hình thành thị hiếu nghệ thuật. Chính thị hiếu này
mới là biểu hiện tập trung nhất, là hạt nhân của thị hiếu thẩm mỹ.
Có thể nói, chính những nghệ sĩ, qua hoạt động sáng tạo và tác phẩm nghệ
thuật đích thực của mình, đã góp phần quan trọng để nâng cao thị hiếu thẩm mỹ của
công chúng. Từ đó, để tìm hiểu thị hiếu thẩm mỹ của con người trong một thời đại cụ
thể, người ta tìm hiểu trước hết thị hiếu thẩm mỹ của chính các văn nghệ sĩ. Bởi họ là
những đại diện rõ nhất, tiêu biểu nhất.
Bài viết này soi rọi lý thuyết trên bằng cách chọn và đi vào khảo sát thị hiếu
thẩm mỹ các nhà thơ. Cụ thể, đó là các nhà thơ Trung Quốc của một thời hoàng kim:
thơ Đường.
2. VÀI NÉT VỀ THƠ ĐƯỜNG VÀ CÁC NHÀ THƠ ĐỜI ĐƯỜNG:
Từ xa xưa, nền văn học Trung Quốc đã là một dòng chảy lớn, cuồn cuộn,
mãnh liệt, đổ ra bể văn hóa nhân loại. Đặc biệt, thơ ca đời Đường là một nhánh sông
hùng vĩ. Khởi nguồn và tuôn trào ngót 300 năm (617 – 904), thơ Đường đem hơi mát, vị
ngọt lành cho đời sống tinh thần người Trung Quốc nói riêng, người phương Đông nói
chung. Nó in dấu ấn một thời đại đầy biến cố lịch sử, với sự chuyển mình kinh ngạc của
văn học. Nó thực sự là thời kỳ hoàng kim của thơ ca cổ điển Trung Quốc: cách tân và
sáng tạo mạnh mẽ; nghệ thuật thơ đi vào mẫu mực; đề tài phong phú, đa dạng,... Thơ
Đường trở thành cuộc họp mặt hùng hậu của 2.300 nhà thơ tài hoa, với khoảng 50.000
bài thơ đặc sắc.
Dòng chảy thơ Đường có 4 thời kỳ, mang diện mạo và sinh khí khác nhau:
♦ Sơ Đường (618 – 713) bóng bẩy và hoa mỹ trong những vần thơ ca tụng.
♦ Thịnh Đường (713 – 766) “ Tài này, sắc ấy nghìn vàng chưa cân” (Nguyễn
Du).
♦ Trung Đường (766 – 835) bắt đầu phai sắc kém hương, với vần thơ cảm
thương, u uẩn.
♦ Vãn Đường (835 – 907) buổi chiều tà, với những vệt sáng hoàng hôn cuối cùng.
Sừng sững giữa đội ngũ 2.300 nhà thơ là những tên tuổi ngời chói. Sơ Đường có
tứ kiệt: Vương Bột, Lạc Tân Vương, Lô Chiếu Lân, Dương Quýnh,... Thịnh Đường có
thi tiên Lý Bạch, thi thánh Đỗ Phủ, thi phật Vương Duy,... Trung Đường có Bạch Cư
Dị, Liễu Tông Nguyên,... Vãn Đường có Lý Thương Ẩn, Đỗ Mục,... Mỗi nhà thơ là một
ngọn sóng tỏa dư ba khác nhau, nhưng cùng tạo nên sinh khí cuồn cuộn, tráng lệ cho thơ
ca thời này. Chúng ta xin mượn lời cụ Ngô Tất Tố để cảm nhận khái quát về thơ Đường:
“Sơ Đường phần nhiều hay về khí cốt nhưng lối dùng chữ đặt câu chưa được trau
chuốt cho lắm. Vãn Đường giỏi về từ tảo, lời đẹp, ý sâu, nhưng lại thiếu phần hùng
hồn, có khi còn bị cái tội ủy mị là khác. Duy chỉ có Thịnh Đường ở vào giữa hai thời kỳ
ấy, cho nên chẳng những không có cái dở của hai thời kỳ kia, mà còn gồm cả cái hay
của hai thời kỳ ấy nữa”.
3. GIỚI HẠN NGHIÊN CỨU:
Bài viết này không chủ ý đi tìm những đặc trưng thẩm mỹ của thơ Đường, cũng
không cao vọng phát hiện thêm những giá trị tiềm ẩn của nó. Người viết chỉ xin vận
dụng lý thuyết về thị hiếu thẩm mỹ để tìm hiểu một số tác giả tiêu biểu, thông qua
3
những bài thơ Đường đặc sắc. Tuy nhiên, do số lượng tác phẩm, tác giả quá lớn, năng
lực người viết lại hạn chế..., bài viết xin giới hạn trong một tuyển tập thơ cụ thể, với một
vài khía cạnh nổi bật củavấn đề. Cơ sở khảo sát và kết luận trong bài dựa vào tập Thơ
ca cổ điển Trung Quốc (giáo sư Lương Duy Thứ và giáo sư Nguyễn Lộc biên soạn,
Nhà xuất bản Trẻ kết hợp Hội nghiên cứu và giảng dạy Văn học thành phố Hồ Chí Minh
ấn hành, năm 1997). Tuyển tập bao gồm 49 bài thơ Đường hay nhất. Mọi số liệu thống
kê đều căn cứ vào 49 bài này.
Bài viết khảo sát thị hiếu thẩm mỹ của các nhà thơ, thông qua các khách thể thẩm
mỹ có tần số xuất hiện cao trong tác phẩm như: cảnh đêm, cảnh mùa xuân, cảnh
chiều, hình ảnh dòng sông, hình ảnh trăng. Bài viết cũng đi sâu tìm hiểu cảnh và tình
qua hai xúc cảm thẩm mỹ chính: tâm trạng buồn, chứa chan nước mắt và sự hồi
tưởng, nỗi tiếc nhớ thời gian đã qua.
4. THỊ HIẾU THẨM MỸ CỦA CÁC NHÀ THƠ ĐỜI ĐƯỜNG:
Cuộc sống đa cạnh, đa chiều, mỗi nhà thơ lại là một tài năng, một khí cốt đặc biệt.
Vì thế, họ đã chủ động tạo cho mình một phong cách thơ riêng, đặc sắc. Tuy nhiên, điều
thú vị là, qua những rung cảm tự nhiên nhất, trong những lúc ngẫu hứng chọn và khai
thác đề tài, họ đã cùng tỏ ra chú ý và thích thú một số khách thể thẩm mỹ. Tần số lặp lại
những khách thể này, trong tác phẩm, đã bộc lộ thị hiếu thẩm mỹ của họ. Nhìn chung,
các nhà thơ thường lấy cảm hứng từ thiên nhiên, cho dù đó là giờ tống biệt, là nỗi nhớ
da diết cố hương, hay là nỗi đau thương vì chiến tranh, loạn lạc. Thiên nhiên hiện lên
chỉ vài nét mờ ảo nhưng tỏa ấm linh hồn của vạn vật, của cuộc sống. Mượn thiên nhiên,
các nhà thơ muốn tạo ra một “huyền ngoại chi âm” (tiếng vang sau khi dây đàn ngừng
bặt). Người đọc phải cố lắng nghe dư âm ấy, kể cả phải biết cảm nhận được cái “cam
dư chi vị” (vị ngọt sau khi ăn quả đắng). Thiên nhiên trong thơ Đường gắn với một
không gian, thời gian nhất định. Phần nhiều, các hình ảnh cụ thể chính là nét phác của
cả vũ trụ, hay là sự cụ thể hóa một dòng thời gian chảy trôi. Những đặc điểm trên đều in
dấu vào thị hiếu thẩm mỹ của các nhà thơ.
4.1. CẢNH ĐÊM:
Cảnh thiên nhiên ban đêm được các nhà thơ tỏ ra ưa thích. Có 18/49 bài thơ nhắc
cảnh màn đêm, chiếm tỉ lệ 37%. Với 23 lần gợi tả, các nhà thơ thường tái hiện đêm qua
không gian rộng mở, tĩnh lặng. Đêm có vầng trăng lặng lẽ, có cánh hoa khẽ khàng rơi,
có tiếng chuông chùa tan thấm vào sương khuya bát ngát. Thỉnh thoảng, một tiếng cuốc
kêu, đẩy không gian như rộng hơn, xa thêm. Có lẽ, đêm là thời gian vạn vật đều ngơi
nghỉ, vũ trụ đi vào chiều sâu. Khi ấy, con người buông mình vào giấc ngủ êm đềm, mà
tâm hồn thì mở rộng, khát khao hứng lấy vẻ đẹp đất trời huyền ảo. Thiên nhiên như mở
ra cùng với chính tâm hồn con người. Những vần thơ của Trương Kế tiêu biểu nhất cho
mạch cảm xúc này:
“ Nguyệt lạc ô đề sương mãn thiên
Giang phong ngư hỏa đối sầu miên
Cô Tô thành ngoại Hàn Sơn tự
Dạ bán chung thanh đáo khách thuyền”
(Phong kiều dạ bạc)
(Quạ kêu, trăng lặn, sương rơi
Lửa chài, cây bãi, đối người nằm co
4
Chùa đâu trên núi Cô Tô,
Tiếng chuông đưa đến bến đò canh khuya)
(Đêm đỗ thuyền ở Phong Kiều Bạc – Ngô Tất Tố dịch)
Cả bài thơ bàng bạc một nỗi buồn, nhưng đó là cái buồn toát lên từ vẻ đẹp mê đắm
não nùng của trời đêm. Trong giấc ngủ, con người thấy tâm hồn mình giao hòa cùng vẻ
đẹp thiên nhiên, vũ trụ.
Tuy nhiên, đêm rộng quá, xa vắng quá, thành ra lòng người nhiều lúc rơi vào nỗi
cô đơn. Những người một mình thao thức thường cảm giác lạc lõng giữa vũ trụ, xa cách
người thân và cố hương. Thiếu bạn tri âm, vắng người thân thích, các nhà thơ thường
mượn cảnh đêm để thổ lộ lòng mình. Có 10 bài là tâm sự về nỗi cô đơn, trống vắng.
Trong thơ của họ, trăng và sương đêm nhòa lẫn vào nhau, cũng như nỗi nhớ cố hương
chảy tràn theo vầng sáng trên mặt đất (Tĩnh dạ tư – Lý Bạch). Trước cảnh hữu tình,
người buồn gặp mình với bóng (Nguyệt hạ độc chuốc – Lý Bạch). Trước cảnh lạnh lẽo,
mênh mông, người buồn quặn nhớ nhà cửa, vợ con (Nguyệt dạ – Đỗ Phủ). Nghe tiếng
chuông, gảy khúc đàn, người kỹ nữ ôm nỗi tủi hờn, chìm khuất vào đêm dài lạnh vắng
(Tì bà hành – Bạch Cư Dị)... Có lẽ, các nhà thơ xưa gặp nhau ở cảnh đêm cũng bởi
những nỗi niềm này. Họ mượn đêm làm tín hiệu gợi mở tâm trạng khắc khoải, ưu tư, cô
đơn, sầu nhớ.
Mặt khác, cảnh đêm còn được nhắc đến, khi các nhà thơ gợi ra bao nỗi nhọc nhằn,
bất trắc, khốn khổ của một đời người. Đó là bóng tối mịt mờ, là cơn gió thu ngang tàng
thổi tốc mái nhà rách nát, là trận mưa đêm lạnh lùng xối ướt em thơ (Mao ốc vi thu
phong sở phá ca – Đỗ Phủ). Đó là cơn gió nồm đêm qua, báo hiệu một mùa gặt lúa nộp
thuế, cật lực vẫn hoàn đói rách (Quan nghệ mạch – Bạch Cư Dị). Đó còn là bóng đen
giăng lưới, đồng lõa với bọn quan quân quát tháo, bắt người đi lính (Thạch hào lại – Đỗ
Phủ)... Đã có 05 bài trực tiếp tả cảnh đêm như thế.
Dường như, trong cảm thức các nhà thơ, đêm còn đồng nghĩa với bóng tối mịt
mùng, mưa gió lạnh buốt xương, cùng biết bao tai ương rình rập. Có một đêm yên ngủ,
bù lại ngày dài vắt kiệt tâm sức mình, đó là nhu cầu tối thiểu của mỗi con người. Vậy
mà, với người nghèo, nó lại là nỗi thèm ước ngoài tầm tay với. Hơn nữa, đêm vốn tĩnh
lặng, nên chỉ nghe một tiếng nấc nghẹn ngào, một tiếng kêu khản giọng,... lòng người
cũng đủ nhói đau. Những hồn thơ trắc ẩn thích mượn đêm để gởi lòng thương cảm xót
xa, phải chăng chính vì điều đó?
Có thể thấy, cảnh đêm tuy không là đề tài chính trong thơ Đường nhưng nó thường
xuyên xuất hiện. Nó chứng tỏ sự ưa thích của các nhà thơ, khi muốn diễn tả những rung
động tinh tế của lòng mình trước thiên nhiên, trước nhân tình thế thái.
4.2. CẢNH XUÂN:
Xuân vốn là mùa đẹp nhất trong năm. Ai không từng nôn nao tận hưởng vẻ đẹp
của sắc xuân, sức xuân. Ai cũng muốn có mùa xuân trong lòng mình, trong đời mình.
Các nhà thơ Đường hơn thế, họ đã mang mùa xuân vào thơ ca. Có 10/49 bài,
chiếm tỉ lệ 20%, với 15 lần gợi nhắc. Cảnh xuân hiện lên ngay ở tựa đề (Xuân hiểu –
Mạnh Hạo Nhiên; Xuân tứ – Lý Bạch; Xuân vọng – Đỗ Phủ). Nó được nhắc đến qua
thời khắc: mùa xuân, buổi sớm mùa xuân, ngày xuân, chiều xuân, đêm xuân... Nó được
tô vẽ bằng nét bút phóng khoáng và tươi tắn: cảnh xuân, trời xuân, non xuân, sông
xuân, gió xuân, áo xuân... Con người trông xuân, dạt dào tứ xuân, rủ nhau đi chơi xuân,
cùng say với chiều xuân, rồi trở về ngả mình vào giấc ngủ đêm xuân,...
5
Mùa xuân đẹp biết bao, nhưng mùa xuân lại chóng tàn. Cảnh xuân thành ra như
trêu ngươi. Giấc ngủ đêm xuân thần tiên biết bao. Nhưng tỉnh giấc xuân, lòng người
nuối tiếc vì phải để ít nhiều hoa rụng trong đêm (Xuân hiểu – Mạnh Hạo Nhiên). Ngày
xuân, nhìn cây dương liễu lộ sắc xuân, người vợ trẻ tiếc vì để chồng đi kiếm ấn phong
hầu (Khuê oán – Vương Xương Linh). Cảnh xuân càng gợi cảm, càng tình tứ, lòng
người càng tiếc nuối, vì tình yêu, hạnh phúc ngắn ngủi đã sớm trôi qua, tuổi xuân không
còn mãi với đời (Xuân tứ – Lý Bạch; Trường hận ca; Tì bà hành – Bạch Cư Dị).
Ở những bài viết về chiến tranh, cảnh mùa xuân tươi sáng gắn liền với ngày vui
chiến thắng (Văn quan quân thu Hà Nam, Hà Bắc – Đỗ Phủ). Nhưng mùa xuân cỏ cây
âm u, hoa đầm nước mắt, lại là cảnh tượng sông núi điêu linh, người người ly biệt
(Xuân vọng – Đỗ Phủ).
Thích khai thác cảnh tượng mùa xuân, các nhà thơ tỏ ra nhạy cảm với thời gian.
Thời gian trôi qua, không có cái đẹp nào vĩnh cửu, không có sự vật nào đứng yên. Bởi
vậy, cảnh xuân càng đẹp, càng sớm lụi tàn. Niềm vui xuân càng mau đến, nỗi buồn càng
đọng lại thấm thía, dài lâu. Mùa xuân trở thành biểu tượng cho giấc mộng êm đềm, tuổi
xuân phơi phới, hạnh phúc và tình yêu nồng thắm. Nhưng, như mùa xuân đất trời, tất cả
đều vụt đến, vụt đi, chỉ kịp cho con người tiếc nuối. Biết rằng bốn mùa vẫn tuần hoàn,
chẳng hiểu sao, không thấy bài thơ nào diễn tả niềm vui khi mùa xuân trở lại.
Rõ ràng, các nhà thơ Đường tỏ ra thích cảnh xuân. Nhưng mỗi khi miêu tả,
họ ít tận hưởng trọn vẹn niềm vui hiện tại. Tất cả đều cùng man mác nỗi buồn tiếc
thương tuổi trẻ, hạnh phúc và quá khứ.
4.3. CẢNH CHIỀU:
Hoàng hôn cũng là cảnh tượng đầy thi vị trong thiên nhiên. Nhiều người thích
ngắm cảnh chiều tà, bởi ánh nắng vàng nhạt, bởi ráng đỏ trời tây,... Cứ ngỡ thơ Đường
sẽ có nhiều bức tranh chiều đắm say, diễm lệ. Nhưng ngược lại, chỉ có dày đặc cảnh
chiều tối, với nỗi buồn giăng kín. Xuất hiện qua 07/49 bài, tỉ lệ 14%, cảnh chiều gợi cho
người đọc nhiều suy tư. Thiên nhiên buổi chiều đổ về hướng tây. Đó là cơn mưa ở núi
phía tây, mây lơ lửng như chuỗi ngày dằng dặc (Đằng vương các – Vương Bột), là mặt
trời lặn xuống dòng sông khói sóng mịt mù (Hoàng hạc lâu – Thôi Hiệu). Đó là cảnh
vườn Lương xơ xác mấy nếp nhà, quạ bay tới tấp (Sơn phòng xuân sự – Sầm Tham), là
mặt đất mây đùn cửa ải xa (Thu hứng I – Đỗ Phủ). Cảnh chiều luôn ở trạng thái vận
động chuyển về đêm. Các nhà thơ hầu như không dùng từ hoàng hôn, mà tập trung biểu
đạt qua từ mộ: nhật mộ (chiều tà, trời tối), mộ đầu Thạch Hào thôn (buổi tối trú ở thôn
Thạch Hào), mộ hôn thần cáo biệt (chập tối đưa dâu, sớm mai từ biệt), cấp mộ châm
(tiếng nện vải về chiều nghe càng mau), Châu liêm mộ quyển Tây sơn vũ (Tây sơn mưa
tối, cuốn rèm châu),... Nó cũng được đối chiếu với sớm mai: sớm còn như tơ xanh,
chiều đã như tuyết (Tương tiến tửu – Lý Bạch ), vợ chồng cưới chiều hôm, vắng sớm
mai (Tân hôn biệt – Đỗ Phủ), sớm lại chiều qua, nhan sắc kém sút (Tì bà hành – Bạch
Cư Dị),...
Cảnh chiều được xem như sự vận động của vũ trụ, từ dương ngả sang âm. Tả cảnh
chiều, các nhà thơ chuyển cảm xúc từ vui hóa buồn, nhận ra tâm hồn từ yên bình chuyển
sang biến động, đổi thay và bất trắc. Khi ấy, họ thường tìm chỗ dựa tinh thần –một mái
ấm gia đình, một hình ảnh quê hương khuất bóng (Hoàng hạc lâu – Thôi Hiệu). Họ bao
lần rơi nước mắt vì nỗi lòng nhớ cố hương (Thu hứng I – Đỗ Phủ). Trong sự đối chiếu
6
với sớm mai, cảnh chiều nhắc nhở qui luật tàn phai nghiệt ngã của cuộc đời. Nó chứa
đựng nỗi luyến tiếc, muốn quay về năm tháng đã qua...
Cách miêu tả trên của các nhà thơ chứng tỏ họ tìm thấy ở cảnh chiều sự chuyển
vần của thời gian, sự đồng cảm vì cách xa, ly biệt. Cảnh chiều giúp họ suy tư, chiêm
nghiệm. Vì thế, mượn cảnh chiều, họ gởi gắm được nhiều triết lý nhân sinh.
4.4. HÌNH ẢNH DÒNG SÔNG:
Những hình ảnh thiên nhiên nêu trên, phần nhiều là nét điểm xuyết cho cảnh tượng
thời gian. Tuy nhiên, cũng có những hình ảnh xuất hiện, mang ý nghĩa tương đối độc lập
và chiếm tỉ lệ khá cao trong các bài thơ. Tiêu biểu là hình ảnh dòng sông.
Nó xuất hiện qua 22/49 bài, tỉ lệ 45%, với 24 lần được nhắc. Có lúc, nó đi vào
trang thơ với tên gọi cụ thể, những cái tên đủ khiến người dân Trung Quốc tự hào:
Trường Giang, Hoàng Hà, Mịch La, Dịch Thủy, sông đất Thục, dòng nước Trường
An,... Những dòng sông ấy gắn liền tuổi tên bao con người bất tử: Lý Bạch (Thiên mạt
hoài Lý Bạch – Đỗ Phủ), Kinh Kha (Dịch thủy tống biệt – Lạc Tân Vương),... Nó gắn
liền với tình bạn cảm động, lớn lao, cao đẹp (Hoàng Hạc lâu tống Mạnh Hạo Nhiên chi
Quảng Lăng – Lý Bạch), hay gợi nhớ những miền đất một thời giàu có, phồn hoa: đất
Thục, Trường An (Lệ nhân hành – Đỗ Phủ; Trường hận ca – Bạch Cư Dị),... Tình cảm
lớn của các nhà thơ khi ấy cũng tràn trề như dòng sông lớn.
Còn những dòng sông khác lại gợi ra nỗi ám ảnh về thời gian. Đó là sông lớn
ngoài hiên luống chảy hoài (Đằng vương các – Vương Bột), là sông Hoàng Hà từ trên
trời xuống, cuồn cuộn chảy ra biển không trở lại (Tương tiến tửu – Lý Bạch). Có khi
qua sự liên tưởng: người xưa người nay như nước chảy (Bả tửu vấn nguyệt – Lý Bạch).
Lúc này, sông nước và dòng chảy triền miên của nó đã trở thành biểu tượng cho dòng
thời gian trôi đi, không bao giờ trở lại. Các nhà thơ soi bóng nước, cảm thấy niềm vui
qua nhanh, hạnh phúc không đến hai lần và tự an ủi mình tạm sống vui với hiện tại.
Có khi, dòng sông lại gợi ấn tượng về con đường đời, về thời cuộc. Lý Bạch nhìn
những người kéo thuyền trên sông, thấy nước đục không uống được mà lòng tan nát, lệ
trào như mưa (Đinh đô hộ ca). Ông nhìn sóng cuộn ngược dòng mà thấy đường xứ
Thục khó đi hơn cả lên trời xanh (Thục đạo nan). Ông chạnh nghĩ đến sông Tang Càn,
sông Thông Hà mà kinh hãi cho cảnh chiến trường phơi xương trắng (Chiến thành nam).
Đỗ Phủ, từ kinh đô về huyện Phụng Tiên, nhận ra dòng sông rộng, không thể vượt được,
có bao người khốn khổ, bao người chết trơ xương (Tự kinh phó Phụng Tiên huyện vịnh
hoài ngũ bách tự). Những dòng sông Trung Quốc đa phần hùng vĩ, sóng to, nước xiết.
Chuyện đi lại ngày xưa nhọc nhằn, cách trở đò ngang. Binh đao loạn lạc kéo dài bao thế
kỷ,... Có lẽ hoàn cảnh sống ấy khiến các nhà thơ dễ hình dung dòng sông như con
đường đời, đầy nỗi khổ đau và tai họa. Dòng sông ấy có một phần nước mắt cảm
thương tuôn chảy của những tấm lòng thơ.
Ở góc độ khác, dòng sông mênh mông khiến cho đất thêm dài, trời thêm rộng. Vũ
trụ bao la bao nhiêu, con người càng bé nhỏ, cô đơn và đau khổ bấy nhiêu. Nỗi tương tư
nát ruột gan của Lý Bạch khiến hồn bay đau khổ trên nước biếc sóng dàn (Trường
tương tư). Liễu Tông Nguyên lại vẽ ra dòng sông buốt giá cùng một nỗi cô đơn:
“ Thiên sơn điểu phi tuyệt
Vạn kinh nhân tung diệt
Cô chu thôi lạp ông
Độc điếu hàn giang tuyết ”
7