Tải bản đầy đủ (.doc) (35 trang)

Thảo luận môn phân tích thị trường tài chính phân tích các yếu tố tác động đến thị trường vốn (cổ phiếu, trái phiếu, chứng chỉ quỹ)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (285.62 KB, 35 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ KỸ THUẬT CÔNG NGHIỆP
BÀI THẢO LUẬN
Phân tích thị trường tài chính
NHÓM 1 & 2 CA 1
Danh sách nhóm 1:
STT Họ và tên
1
Trịnh Thị Phương Anh
2
3
4
5
6
7
8
9
STT
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11
12

Nguyễn Hải Hà


Nguyễn Thanh Hương
Nguyễn Xuân Hiệp
Phùng Thị Mai Huyền
Hà Bảo Khánh
Đoàn Việt Linh
Lê Thị Ngọc Mai
Phạm Trần Việt Linh

Ghi chú
Tổng hợp và
làm pp
Trái phiếu
Trái phiếu
Trái phiếu
Cổ phiếu
Cổ phiếu
Trái phiếu
Trái phiếu
Trái phiếu

Danh sách nhóm 2:
Họ và tên
Ghi chú
Nguyễn Thị Hoàn
Cổ phiếu
Nguyễn Thị Châm
Cổ phiếu
NguyễnNgọc Khiêm
Cổ phiếu
Phí Thị Nam

Cổ phiếu
Lê Văn Chính
CC quĩ
Nguyễn Văn Định
CC quĩ
Nguyễn Thị Hoan
CC quĩ
Nguyễn Ngọc Hải
CC quĩ
Nguyễn Thị MinhHương CC quĩ
Đặng Thị Lĩnh
CC quĩ
Lê Thị Sao Mai
CC quĩ
Đặng Viết Hưng
CC quĩ

Hoàn thành
9/10
9/10
9/10
6/10
9/10
9/10
6/10
8/10
9/10
Hoàn thành

1



Câu hỏi thảo luận
Phân tích các yếu tố tác động đến thị trường vốn (cổ phiếu, trái
phiếu, chứng chỉ quỹ)

Nội dung thảo luận:
A.Phân tích các yếu tố tác động đến thị trường cổ phiếu
B. Phân tích các yếu tố tác động đến thị trường trái phiếu
C. Phân tích các yếu tố tác động đến chứng chỉ quĩ.

A.Các yếu tố ảnh hưởng đến thị trường cổ phiếu
Có rất nhiều yếu tố tác động đến thị trường chứng khoán nói chung và thị trường cổ
phiếu nói riêng, nhưng vế cơ bản có thể chia chúng thành hai nhóm yếu tố là yếu tố
kinh tế và yếu tố phi kinh tế:
I. Các yếu tố kinh tế
1) Tăng trưởng kinh tế
Khi nền kinh tế tăng trưởng thì hầu như các ngành các lĩnh vực đều bị ảnh hưởng. Và
thị trường cổ phiếu cũng nằm trong số đó.
Thông thường, giá cổ phiếu có xu hướng tăng khi nền kinh tế phát triển. Bởi khi đó,
khả năng về kinh doanh có triển vọng tốt đẹp, nguồn lực tài chính tăng lên, nhu cầu
cho đầu tư lớn hơn nhiều so với nhu cầu tích lũy, và như vậy, nhiều người sẽ đầu tư
vào cổ phiếu. Ngược lại, khi nền kinh tế có xu hướng yếu đi thì giá cổ phiếu có xu
hướng giảm.
Tuy nhiên không phải thị trường cổ phiếu nào cũng tăng mà nó còn phụ thuộc vào
nhiều nhân tố khác nữa. Việc giữ vững tốc độ tăng trưởng cao của nền kinh tế trong
nhiều năm liền có tác dụng giữ cho thị trường vốn ổn định, tăng cường niềm tin của
nhà đầu tư cả trong và ngoài nước. Tuy nhiên, để có thể trông chờ vào một sự khởi sắc
của thị trường thì chỉ có thể vào cuối năm khi các nhà đầu tư có thể dự đoán kết quả
kinh doanh của từng doanh nghiệp.

VD rõ nét là khi nền kinh tế thế giới lâm vào khủng hoảng năm 2008 giá cổ phiếu của
hầu hết các TTCK trên thế giới đều giảm mạnh xuống đáy.
Các chuyên gia kinh tế cho rằng TTCK thường diễn biến tăng giảm trước nền kinh tế
khủng hoảng chừng vài tháng

2


2) Quan hệ cung cầu
Trong kinh doanh, quy luật cung cầu luôn có ảnh hưởng rất lớn đến giá thành sản
phẩm, và đầu tư chứng khoán cũng không phải là một ngoại lệ. Thị trường cổ phiếu
cũng chịu tác động từ quy luật cung cầu.
William J. Oneil – một nhà đầu tư chứng khoán thành công tại Mỹ, là cha đẻ của
phương pháp phân tích và lựa chọn cổ phiếu hiệu quả CAN SLIM, cho rằng cổ phiếu
của các công ty đại chúng, có quy mô lớn, sản phẩm chất lượng không phải lúc nào
cũng đáng để mua, bởi lượng cầu của những cổ phiếu này khá lớn, trong khi nguồn
cung lại ít nên giá thường bị đẩy lên cao giả tạo, không phản ánh đúng giá trị thực tế
của cổ phiếu cũng như rất khó sinh lợi nhuận lớn.Chính những cổ phiếu có số lượng
lưu hành thấp trên thị trường mới có nhiều triển vọng và có khả năng tăng giá hơn so
với các cổ phiếu có số lượng lưu hành lớn. Từ đó suy ra, cổ phiếu được các nhà quản
trị hàng đầu nắm giữ với tỷ lệ lớn thường là những cổ phiếu có độ an toàn cao.
Các nhà đầu tư nên so sánh tỷ số này ở công ty mình dự định đầu tư với tỷ số nợ bình
quân ở các công ty trong cùng ngành, đồng thời phân tích thêm khả năng thanh toán
để có đánh giá xác thực hơn về mức độ nợ của công ty.
Về nguồn cung, thị trường cổ phiếu có thể bị ảnh hưởng bởi những yếu tố sau:
Thị trường tập trung ít nhiều sẽ bị ảnh hưởng từ việc phát hành cổ phiếu ra công
chúng lần đầu (các đợt IPO). Các nhà đầu tư có nhiều cơ hội để lựa chọn những cổ
phiếu tốt, các blue- chips trên sàn niêm yết không còn là yếu tố lựa chọn duy nhất. Thị
trường cổ phiếu có thể sẽ có nhiều biến động. Cổ phiếu doanh nghiệp nhỏ sẽ có sự
phân loại, chỉ có doanh nghiệp nào có kết quả kinh doanh tốt mới được quan tâm.

Về phía cầu, thị trường cổ phiếu sẽ bị ảnh hưởng bởi một số nhân tố sau:
Sự "ấm" lên của thị trường bất động sản đã làm giảm lượng vốn đầu tư vào thị trường
chứng khoán và thậm chí nó còn hút một phần vốn từ thị trường chứng khoán chuyển
sang. Các nhà đầu tư có nhiều cơ hội để lựa chọn giữa hai thị trường này.
Diễn biến thị trường cổ phiếu hiện bị tác động chủ yếu bởi quy luật cung cầu. Tuy
nhiên, cầu cũng có loại thật và ảo. Cầu ảo dễ dàng được tạo ra bởi những nhà đầu tư
nắm trong tay khối lượng cổ phiếu lớn hoặc tài khoản đầy tiền. Cầu ảo được tạo ra
bằng những lệnh mua mà người đặt biết chắc chắn rằng lệnh đó không được khớp
hoặc có khớp thì cũng chỉ được một khối lượng rất thấp. Với quy trình khớp lệnh định
kỳ, lệnh nhập phải thông qua công đoạn thủ công tại sàn và trình tự ưu tiên khớp theo
thời gian đặt lệnh. Nhà đầu tư có ý định tạo cầu ảo căn cứ vào diễn biến giao dịch để
đặt lệnh sát giờ khớp, thường là trong đợt giao dịch thứ ba, đủ để lệnh được vào hệ
thống nhưng không được khớp. Như vậy, khối lượng này sẽ trở thành dư mua nhưng
lại không phản ánh đúng nhu cầu thị trường mà mang tính chất đổ thêm dầu vào lửa.
Nhà đầu tư ít kinh nghiệm chỉ biết căn cứ vào khối lượng dư mua thông báo lên tới
hàng trăm ngàn cổ phiếu để cho rằng cầu đang rất lớn nghĩa là giá sẽ còn tăng. Mánh
này đặc biệt phát huy tác dụng trong thời điểm lượng bán quá ít và giá liên tục khớp
mức trần."Anh ơi bao nhiêu thì mua được"? Đó là câu hỏi rất thường thấy tại các sàn
3


giao dịch vì phần đông nhà đầu tư mới tham gia rất ít kinh nghiệm, thậm chí còn chưa
đọc thông bảng giao dịch điện tử. Kỹ thuật “rải đinh" tung hoả mù trên bảng giao dịch
đã được nhiều nhà đầu tư lão luyện "bật mí" từ lâu và không còn là bí mật, thậm chí
người nước ngoài cũng học được và sử dụng. Điểm cân bằng của thị trường sẽ phụ
thuộc nhiều vào cung cầu. Cung hiện ra sao? Nguồn cung đang tăng lên (IPO các
doanh nghiệp tầm cỡ), nhưng điểm rơi của nguồn cung dường như chưa đúng lúc.
3) Hoạt động sản xuất kinh doanh và thu nhập của các doanh nghiệp
Thị trường cổ phiếu phụ thuộc vào kết quả hoạt động kinh doanh hay sức khỏe của
doanh nghiệp. Khi doanh nghiệp hoạt động ổn định mà không gặp phải những biến cố

bất ngờ dẫn đến phải thanh lý hay phá sản thì dòng tiền mà người nắm giữ cổ phiếu
nhận được là cổ tức được chia hàng năm. Con số này có sự dao động và đôi khi cũng
có những khoản bất thường nào đó, nhưng nhìn chung bình quân trong dài hạn nó
chính là lợi nhuận từ hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Về bản chất, giá cổ
phiếu do dòng tiền này và sự biến động của nó quyết định và sự nóng lên của thị
trường là do sự tăng giá của các cổ phiếu gây ra.
Thông thường nếu doanh nghiệp làm ăn có lãi thì giá cổ phiếu tăng, và ngược lại, nếu
làm ăn không hiệu quả, gặp thua lỗ thì cầu về cổ phiếu của doanh nghiệp giảm, và vì
thế giá cổ phiếu giảm. tuy nhiên, giá cổ phiếu không phải lúc nào cũng có mối quan hệ
chặt chẽ với thu nhập. có những thời điểm giá cổ phiếu tăng nhanh hơn thu nhập, có
những thời điểm nó lại bị tụt sau thu nhập
4) Cổ tức
Mua cổ phiếu cũng chính là một cách đầu tư. Mục đích cuối cùng là nhằm thu được
lợi nhuận cao. Cổ đông sẽ được hưởng cổ tức và phần chênh lệch giữa giá bán và giá
mua cổ phiếu. Họ mong đợi vào mức chênh lệch hơn là cổ tức được hưởng. Tuy
nhiên, cổ tức cũng được đánh giá là nhân tố cơ bản tác động đến giá cổ phiếu. Trong
tất cả các nhân tố sử dụng để giải thích về sự biến động hàng ngày của từng cổ phiếu,
các thông tin về cổ tức luôn được xếp ở vị trí quan trọng gần đầu. Cổ tức là khoản tiền
mà các công ty trích ra từ lợi nhuận để trả cho cổ đông. Người ta thường tính cổ tức
trên một cổ phiếu. Khi mua cổ phiếu, các nhà đầu tư thường chọn mua cổ phiếu có cổ
tức cao hơn.
Các tổ chức phát hành vẫn giữ lại được nguồn vốn bên trong để đầu tư phát triển,
đồng thời tăng thêm cổ phiếu cho các cổ đông, nguồn cung cấp cổ phiếu cho thị
trường tăng, do đó làm giảm biến động giá cả thị trường, bảo vệ lợi ích chính đáng của
nhà đầu tư.
5) lạm phát
kết quả nghiên cứu thực chứng cho thấy mức độ lạm phát có mối quan hệ tỷ lệ nghịch
với hệ số định gía cổ phiếu
4



lạm phát tăng thường là dấu hiệu cho thấy, sự tăng trưởng của nền kinh tế sẽ không
bền vững, lãi suất sẽ tăng lên, khả năng thu lợi nhuận của doanh nghiệp bị hạ thấp
khiến giá cổ phiếu giảm. lạm phát càng thấp thì càng có nhiều khả năng cổ phiếu sẽ
tăng giá và ngược lại
vì : Lãi suất có xu hướng giảm khi lạm phát giảm và lạm phát giảm khiến giá cổ phiếu
tăng cao hơn. Ngược lại, lạm phát tăng cùng với lãi suất, giá cổ phiếu sẽ giảm.
6) Lãi suất
Mối quan hệ giữa lãi suất và giá cổ phiếu là gián tiếp và luôn thay đổi. Nguyên nhân
là do luồng thu nhập từ cổ phiếu có thể thay đổi theo lãi suất và chúng ta không thể
chắc chắn liệu sự thay đổi của luồng thu nhập này có làm tăng hay bù đắp cho mức
biến động về lãi suất hay không.
Lãi suất tăng sẽ rất có khả năng làm giảm giá các loại cổ phiếu trên thị trường. Người
mua cổ phiếu của công ty mới niêm yết thường trông chờ cổ tức thấp thôi. Nhưng đổi
lại, họ mong giá cổ phiếu sẽ tăng trên thị trường chứng khoán. Tuy nhiên, khi lãi suất
tăng kéo theo lãi suất trái phiếu tăng chắc chắn người ta sẽ trông đợi lợi nhuận có
được từ việc mua cổ phiếu sẽ phải cao hơn đề bù vào những rủi ro của cổ phiếu so với
trái phiếu. Trước mắt giá cổ phiếu phải giảm để nâng mức lợi nhuận này.
Để giải thích rõ chiều hưởng ảnh hưởng của lãi suất tới thị trường cổ phiếu cần phải
xem xét các khả năng có thể xảy ra khi tỷ lệ lạm phát tăng, cụ thể như sau:
♦ Lãi suất tăng do tỷ lệ lạm phát tăng làm cho chi phí đầu tư vào và giá cả hàng hóa
bán ra đều tăng nên thu nhập công ty theo đó cũng tăng vì công ty có thể tăng giá cho
phù hợp với mức tăng của chi phí. Trong trường hợp này, giá cổ phiếu có thể khá ổn
định vì ảnh hưởng tiêu cực của việc tăng tỷ suất lợi nhuận đã được đền bù một phần
hay toàn bộ bởi phần tăng của tỷ lệ tăng trưởng thu nhập và cổ tức. Khi đó thị trường
cổ phiếu khá ổn định. Nhưng nếu do tăng giá hàng bán dẫn đến thu nhập của công ty
tăng cao hơn chi phí đầu vào sẽ làm tăng lợi nhuận cho công ty và giá cổ phiếu lại
tăng lên
♦ Lãi suất tăng, nhưng luồng thu nhập dự tính thay đổi rất ít do công ty không có khả
năng tăng giá để phù hợp với chi phí tăng. Do vậy, giá cổ phiếu giảm. Tỷ suất lợi

nhuận quy định có thể tăng nhưng tỷ lệ tăng trưởng của cổ tức là không đổi, nên mức
chênh lệch giữa hai nhân tố này càng lớn.Thị trường cổ phiếu sẽ đi xuống.
♦ Lãi suất tăng trong khi luồng thu nhập giảm vì các nguyên nhân làm tăng lãi suất lại
gây tác động xấu tới thu nhập của công ty. Cụ thể là khi xảy ra lạm phát thì chi phí sản
xuất tăng, nhưng nhiều công ty không thể tăng giá, dẫn tới biên độ lợi nhuận giảm.
Tác động của một loạt các sự kiện này là rất xấu đến giá cổ phiếu. Trong những
trường hợp này, giá cổ phiếu sẽ sụt nghiêm trọng vì tỷ suất lợi nhuận giảm khi cổ tức
giảm, dẫn tới chênh lệch giữa lãi suất và giá cổ phiếu càng lớn.
5


Ngược lại, lãi suất giảm có tác động tốt cho doanh nghiệp vì chi phí cho vay mượn
xuống thấp, và giá cổ phiếu thường tăng lên…
Một lý do nữa là khi lãi suất tăng, giá trái phiếu giảm thì người đầu tư có xu hướng
chuyển từ đầu từ cổ phiếu sang trái phiếu khiến cho giá cổ phiếu giảm và ngược lại.
Mối quan hệ giữa lạm phát, lãi suất và giá cổ phiếu là một vấn đề đòi hỏi phải có kinh
nghiệm vì ảnh hưởng của chúng thay đổi theo từng thời kỳ. Do vậy, mặc dù mối quan
hệ giữa lạm phát, lãi suất và thu nhập từ cổ phiếu là tiêu cực, nhưng điều này không
phải lúc nào cũng đúng. Hơn nữa, ngay cả khi điều này là đúng trên toàn bộ thị
trường, thì vẫn tồn tại một số ngành nhất định có thể có thu nhập và cổ tức tạo ảnh
hưởng tích cực từ những biến động về lạm phát và lãi suất. Trong trường hợp này, giá
cổ phiếu có mối quan hệ tốt với lạm phát và lái suất.
7) tỷ giá hối đoái
khi NĐT nhận định rằng đồng nội tệ có thể bị phá giá trong thời gian tới thì NĐT đó
sẽ quyết định không đầu tư vào cổ phiếu hoặc sẽ tìm cách thay thế cổ phiếu bằng tài
sản ngoại tệ vì cổ phiếu chính là tiền, nếu tiền mất giá trị thì giá trị cổ phiếu sẽ bị giảm
khi NHNN tăng tỷ giá việc này sẽ tác động đến tâm lý nhà đầu tư khi dấy lên những lo
ngại về dự trữ ngoại hối của Việt Nam và những vấn đề liên quan như “nhập khẩu”
lạm phát, nợ quốc gia. Trong trung hạn, đây vẫn là yếu tố có thể tác động mạnh đến
diễn biến thị trường cổ phiếu, đặc biệt là trong những tháng cuối năm khi sức ép tỷ giá

tăng lên theo tính mùa vụ.
Tuy nhiên, khi tìm hiểu tác động của việc thay đổi về tỷ giá đối với thị trường cổ
phiếu thì cần phải đặt trong một bức tranh tổng thể bao gồm các yếu tố kinh tế vĩ mô
khác. Nếu chủ trương điều chỉnh giảm mặt bằng lãi suất được thực hiện có hiệu quả,
lạm phát được kiểm soát tốt thì những tác động của việc điều chỉnh giảm giá VND mang tính chủ động nhằm cân bằng cung cầu ngoại tệ và thu hẹp khoảng cách giữa thị
trường ngoại hối chính thức và thị trường tự do - sẽ được giảm thiểu
Về lý thuyết, các doanh nghiệp xuất khẩu sẽ được hưởng lợi. Những ảnh hưởng tích
cực ở đây không chỉ được nhìn nhận theo chiều hướng làm tăng giá giao dịch của cổ
phiếu trên thị trường mà có thể chỉ là giúp giá cổ phiếu không bị điều chỉnh sâu trong
một chu kỳ giảm chung của thị trường.
Ngược lại, những doanh nghiệp nhập khẩu nhìn chung sẽ chịu thiệt thòi. Những doanh
nghiệp nhập khẩu để phục vụ tái xuất khẩu hoặc những doanh nghiệp có khả năng
điều chỉnh giá sản phẩm đầu ra để bù cho phần trội thêm của chi phí đầu vào sẽ có thể
giảm thiểu những tác động tiêu cực. Như vậy, diễn biến giá cổ phiếu của những doanh
nghiệp này cũng sẽ tùy thuộc vào các đặc điểm riêng

6


8) Giá vàng và cổ phiếu
Giá vàng tăng sẽ thu hút dòng tiền đầu tư sang vàng tăng giảm dòng tiền đầu tư vào
chứng khoán. Và ngược lại khi giá vàng giảm sẽ làm tăng dòng tiền đầu tư vào chứng
khoán
Giá vàng làm áp lực của lạm phát tăng lên và gây tác động xấu tới TTCK nói chung
và cổ phiếu nói riêng
9) chính sách thuế của Nhà nước đối với thu nhập từ chứng khoán
nếu khoản thuế đánh vào thu nhập từ chứng khoán tăng lên sẽ làm cho số người đầu tư
giảm xuống. từ đó, làm cho giá chứng khoán giảm
10) thâm hụt ngân sách
bất kì sự thâm hụt ngân sách nào đều phải được bù đắp bằng các khoản vay của Chính

phủ. Giá trị của các khoản vay của Chính phủ càng lớn sẽ càng có tác động để làm
tăng lãi suất chuẩn. các khoản vay của chính phủ quá lớn sẽ cản trở việc vay nợ và đầu
tư của cá nhân do tăng lãi suất và bóp nghẹt việc đầu tư kinh doanh.
11) Các cơ hội đầu tư thay thế:
Các công ty phải cạnh tranh tìm kiếm sự đầu tư tiền vào cổ phiếu công ty mình với
các lớp tài sản khác trong bối cảnh đầu tư tòan cầu. Các cơ hội đầu tư thay thế như trái
phiếu doanh nghiệp, trái phiếu chính phủ, bất động sản, cổ phiếu của doanh nghiệp
nước ngòai… có thể là một nguyên nhân gây nên sự thay đổi trong cung- cầu đối với
cổ phiếu trong nước. do đó dẫn tới sự thay đổi về giá cổ phiếu
12) Những giao dịch phát sinh
Những giao dịch phát sinh là những giao dịch mua bán cổ phiếu với động lực là một
lý do nào đó nằm ngòai yếu tố giá trị nội tại của cổ phiếu. Một ví dụ khác là các nhà
đầu tư có tổ chức mua hoặc bán chứng khoán nhằm phòng ngừa rủi ro cho các khoản
đầu tư khác. Mặc dù những giao dịch này không chính thức nói lên việc” ủng hộ” hay
“ chống lại” cổ phiếu, nhưng chúng cũng đã thật sự ảnh hưởng đến mức cung và cầu
và do đó có thể ảnh hưởng đến sự di chuyển giá của cổ phiếu.

7


II. Yếu tố phi kinh tế
1) Yếu tố chính trị
Kinh tế không thể tách rời khỏi chính trị. Điều kiện chính trị là một trong những yếu
tố vĩ mô quan trọng, làm nền tảng cho sự biến động của thị trường chứng khoán nói
riêng. Do đó, khi đề cập đến các nhân tố tác động tới xu thế của thị trường chứng
khoán, chúng ta không thể bỏ qua những yếu tố trong môi trường chính trị hay sự biến
động của tình hình chính trị.
Lấy ví dụ như, sau vụ bắn thử tên lửa của cộng hoà dân chủ nhân dân Triều Tiên vào
giữa năm 2006, do quan ngại về những bất ổn chính trị và sự giảm sút lòng tin của
giới đầu tư, thị trường tài chính tiền tệ châu Á đã trải qua nhiều biến động lớn: giá cổ

phiếu và tiền tệ giảm mạnh trong khi giá trái phiếu và vàng bạc tăng vọt. Cụ thể, chỉ
số chứng khoán Nikkei trung bình giảm 0,6% xuống còn 15,546.78, chỉ số chứng
khoán KOSPI của Hàn Quốc giảm tới 2%, chỉ số chuẩn của Đài Loan (TWII) giảm
0,4%. Điều này là hoàn toàn dễ hiểu bởi các nhà đầu tư đều thấy rõ mối nguy hiểm
với tài sản tích trữ trong bối cảnh xáo trộn hay bất ổn chính trị.
Tuy nhiên, trong điều kiện chính trị ổn định hiện nay của Việt Nam (không có chiến
tranh, không có các thay đổi chế độ chính trị…) đồng thời vào thời điểm này khi thị
trường chứng khoán non trẻ của Việt Nam chưa thực sự hoà nhập với biến động của
thị trường chứng khoán thế giới, yếu tố này hầu như tác động rất ít tới sự biến động thị
trường vốn.
2) Yếu tố văn hoá
Nhắc đến văn hoá ở đây không có nghĩa chỉ là văn hoá xã hội truyền thống hay yếu tố
dân gian, dân tộc. Mỗi một lĩnh vực từ đời sống, xã hội hay kinh tế, kĩ thuật đều tồn
tại một thứ văn hoá của riêng lĩnh vực ấy, ví như văn hoá công ty, văn hoá ngành…
Cũng như vậy, thị trường cổ phiếu cũng có những nét văn hoá riêng đặc trưng, phần
nào tác động tới xu thế thị trường vốn.
Mặt khác, sự thay đổi về công nghệ, sự khác nhau trong phương thức giao dịch, hệ
thống giao dịch cũng gây ảnh hưởng tới giá chứng khoán. Gần đây có hiện tượng một
số cổ phiếu khi chuyển sàn lại tăng giá mạnh.
3) Yếu tố thị trường
a) yếu tố tâm lý nhà đầu tư
Những người theo thuyết lòng tin cho rằng thị trường không thể nào phản ứng với
những dữ liệu thống kê và kinh tế với một độ chính xác cao. Khi có một nhóm người
(vừa đủ) lạc quan về thị trường họ sẽ mua cổ phiếu khiến giá cổ phiếu được đẩy lên
cao. Ngược lại, khi họ bắt đầu bi quan thì họ sẽ bán ra, bất chấp những điều kiện cơ
bản lúc đó thế nào. Lúc đó, họ có thể làm cho giá cổ phiếu đi xuống.
Vào bất cứ thời điểm nào, trên thị trường cũng xuất hiện hai nhóm người. Số lượng
giữa hai bên hiếm khi cân bằng. Khi số tiền do người lạc quan về thị trường đầu tư
8



chiếm nhiều hơn, thị trường sẽ tăng giá, và khi số tiền bán ra của người bi quan về thị
trường nhiều hơn, thị trường sẽ hạ giá.
Tỷ lệ giữa hai nhóm người này sẽ thay đổi tuỳ theo cách diễn giải của họ về thông tin,
cả về chính trị lẫn kinh doanh, cũng như những đánh giá của họ về nền kinh tế nói
chung và thị trường chứng khoán nói riêng.
Chính vì thế, cùng một loại chứng khoán, có người cho rằng xấu quá cần phải bán đi,
nhưng ngược lại có người cho rằng tương lai của nó rất sáng lạn cần phải mua vào. Do
đó, thị trường chứng khoán lúc nào cũng có người mua, người bán.
Như vậy, nếu một cổ phiếu nào đó được xem như hấp dẫn ở một mức giá đặc biệt nào
đó, nhu cầu mua có thể vượt xa số cung của những người muốn bán. Kết quả là giá sẽ
tăng cho đến khi các cổ đông hiện hữu, trong số họ có nhiều hơn, bị cám dỗ muốn bán
cổ phần và sẽ có giao dịch đồng đều hơn giữa người mua và người bán. Điều ngược
lại sẽ xảy ra nếu một loại cổ phiếu được xem như quá “đắt đỏ” ở một mức giá đặc biệt
nào đó và người bán sẽ là đa số, buộc giá rớt cho đến khi có người mua xuất hiện.
Thời điểm giá cổ phiếu bắt đầu tăng lên, có nhiều người mua hơn số người bán và
ngày càng có nhiều người chú ý và cũng mua theo. >> tạo ra một giá cao hơn, cho đến
lúc một số người nắm giữ cổ phiếu đó nghĩ rằng nó không thể tiếp tục tăng nữa và
quyết định bán ra (nhiều người cũng sẽ nghĩ như vậy và bán ra theo). Cuối cùng số
lượng người bán tăng lên làm giá cổ phiếu đổi hướng và bắt đầu giảm. Và rồi chu kỳ
lại lặp lại khi một số người bắt đầu nghĩ rằng tình trạng sụt giá đã đến lúc chấm dứt và
bắt đầu mua vào.
b. các yếu tố về nhân khẩu học :
một vài nghiên cứu cho thấy :
trong khi các nhà đầu tư trẻ đến trung niên là những nhà đầu tư rất háo hức kiếm tiền,
họ có khuynh hướng thích đầu tư vào cổ phiếu bởi vì đây được xem là mảnh đất màu
mỡ thì các nhà đầu tư lớn tuổi hơn lại có khuynh hướng rút khỏi thị trường cổ phiếu,
tìm kiếm những cơ hội đầu tư an toàn hơn nhằm phục vụ cho kế hoạch hưu trí. Lý
thuyết trên cũng cho biết khi tỷ lệ các nhà đầu tư trẻ đến trung niên chiếm tỷ lệ lớn
hơn trong dân chúng đầu tư thì mức cầu cổ phiếu cũng gia tăng và hệ số nhân giá trị

cũng cao hơn
c.đường xu hướng của ngành
thông thường các cổ phiếu sẽ di chuyển theo đường xu hướng ngắn hạn. . Cổ phiếu
các công ty có khuynh hướng đi cùng với thị trường và cùng với các doanh nghiệp
ngang sức với nó.
Khi hàng loạt các cổ phiếu cùng ngành trên thị trường bị mất giá, thì giá cổ phiếu của
công ty mà bạn lựa chọn chắc chắn cũng sẽ sụt giảm theo. Ngược lại, nếu giá cổ phiếu
9


của các công ty này tăng theo sự phát triển của thị trường thì cổ phiếu bạn mua vào
cũng được “ăn theo” những chỉ số tích cực đó.
Do đó, chúng ta nên để ý đến tầm quan trọng của việc nghiên cứu, xử lý các đồ thị
biến động giá cổ phiếu theo ngày, theo tuần và theo tháng trước mỗi quyết định đầu
tư cổ phiếu.
Điều đáng nói là những xu thế này chỉ trở nên rõ ràng khi nhìn lại những gì dã qua,
còn trên thực tế khó có thể xác định được những xu thế đó
Ngoài ra còn có các yếu tố khác như :
VD : thay đổi thời tiết, tiến bộ về khoa học công nghệ, các hành động lũng đoạn, tung
tin đồn nhảm, các biện pháp kỹ thuật của nhà điều hành thị trường, ý kiến của các nhà
phân tích... cũng có thể khiến thị giá cổ phiếu biến động.
Hay những yếu tố nội tại gắn liền với nhà phát hành như :
Yếu tố về kỹ thuật sản xuất bao gồm : trang thiết bị máy móc, công nghệ, tiềm năng
nghiên cứu phát triển…
Yếu tố về thị trường tiêu thụ : khả năng về cạnh tranh và mở rộng thị trường…
Yếu tố về con người : chất lượng ban lãnh đạo , trình độ nghề nghiệp của công nhân…
Các yếu tố tác động đến thị trường trái phiếu? Đưa ví dụ thực tiễn? Đưa ra các yếu tố
quyết định nếu các bạn có tiền thì các bạn sẽ đầu tư thị trường nào?

10



B. Các yếu tố tác động đến Thị trường Trái phiếu
1.
Trái phiếu là một loại chứng khoán quy định nghĩa vụ của người phát hành
(người vay tiền) phải trả cho người nắm giữ chứng khoán (người cho vay) một khoản
tiền xác định, thường là trong những khoảng thời gian cụ thể, và phải hoàn trả khoản
cho vay ban đầu khi nó đáo hạn.
2. Đặc điểm
a. Một trái phiếu thông thường có ba đặc trưng chính
+ Mệnh giá.
+ Lãi suất định kỳ (coupon).
+ Thời hạn.
b. Trái phiếu thể hiện quan hệ chủ nợ – con nợ giữa người phát hành và người
đầu tư
Phát hành trái phiếu là đi vay vốn. Mua trái phiếu là cho người phát hành vay vốn
và như vậy, trái chủ là chủ nợ của người phát hành. Là chủ nợ, người nắm giữ trái
phiếu (trái chủ) có quyền đòi các khoản thanh toán theo cam kết về khối lượng và
thời hạn, song không có quyền tham gia vào những vấn đề của bên phát hành.
c. Lãi suất của các trái phiếu rất khác nhau, được quy định bởi các yếu tố:
+ Cung cầu vốn trên thị trường tín dụng. Lượng cung cầu vốn đó lại tuỳ thuộc vào
chu kỳ kinh tế, động thái chính sách của ngân hàng trung ương, mức độ thâm hụt
ngân sách của chính phủ và phương thức tài trợ thâm hụt đó.
+ Mức rủi ro của mỗi nhà phát hành và của từng đợt phát hành. Cấu trúc rủi ro của
lãi suất sẽ quy định lãi suất của mỗi trái phiếu. Rủi ro càng lớn, lãi suất càng cao.
+ Thời gian đáo hạn của trái phiếu. Nếu các trái phiếu có mức rủi ro như nhau,
nhìn chung thời gian đáo hạn càng dài thì lãi suất càng cao.
3. Phân loại trái phiếu
3.1. Căn cứ vào việc có ghi danh hay không
- Trái phiếu vô danh: là trái phiếu không mang tên trái chủ, cả trên chứng chỉ

cũng như trên sổ sách của người phát hành. Những phiếu trả lãi đính theo tờ
chứng chỉ, và khi đến hạn trả lãi, người giữ trái phiếu chỉ việc xé ra và mang tới
ngân hàng nhận lãi. Khi trái phiếu đáo hạn, người nắm giữ nó mang chứng chỉ tới
ngân hàng để nhận lại khoản cho vay.
11


- Trái phiếu ghi danh: là loại trái phiếu có ghi tên và địa chỉ của trái chủ, trên
chứng chỉ và trên sổ của người phát hành. Hình thức ghi danh có thể chỉ thực hiện
cho phần vốn gốc, cũng có thể là ghi danh toàn bộ, cả gốc lẫn lãi. Dạng ghi danh
toàn bộ mà đang ngày càng phổ biến là hình thức ghi sổ. Trái phiếu ghi sổ hoàn
toàn không có dạng vật chất, quyền sở hữu được xác nhận bằng việc lưu giữ tên
và địa chỉ của chủ sở hữu trên máy tính.
3.2. Căn cứ vào đối tượng phát hành trái phiếu
- Trái phiếu chính phủ: là những trái phiếu do chính phủ phát hành nhằm mục
đích bù đắp thâm hụt ngân sách, tài trợ cho các công trình công ích, hoặc làm
công cụ điều tiết tiền tệ.Trái phiếu chính phủ là loại chứng khoán không có rủi ro
thanh toán và cũng là loại trái phiếu có tính thanh khoản cao. Do đặc điểm đó, lãi
suất của trái phiếu chính phủ được xem là lãi suất chuẩn để làm căn cứ ấn định lãi
suất của các công cụ nợ khác có cùng kỳ hạn.
- Trái phiếu công trình: là loại trái phiếu được phát hành để huy động vốn cho
những mục đích cụ thể, thường là để xây dung những công trình cơ sở hạ tầng hay
công trình phúc lợi công cộng. Trái phiếu này có thể do chính phủ trung ương
hoặc chính quyền địa phương phát hành.
- Trái phiếu công ty: là các trái phiếu do các công ty phát hành để vay vốn dài
hạn. Trái phiếu công ty có đặc điểm chung sau: Trái chủ được trả lãi định kỳ và trả
gốc khi đáo hạn, song không được tham dự vào các quyết định của công ty.
Nhưng cũng có loại trái phiếu không được trả lãi định kỳ, người mua được mua
dưới mệnh giá và khi đáo hạn được nhận lại mệnh giá. Khi công ty giải thể hoặc
thanh lý, trái phiếu được ưu tiên thanh toán trước các cổ phiếu. Có những điều

kiện cụ thể kèm theo, hoặc nhiều hình thức đảm bảo cho khoản vay.
Trái phiếu công ty bao gồm những loại sau:
+ Trái phiếu có đảm bảo: là trái phiếu được đảm bảo bằng những tài sản thế chấp
cụ thể, thường là bất động sản và các thiết bị. Người nắm giữ trái phiếu này được
bảo vệ ở một mức độ cao trong trường hợp công ty phá sản, vì họ có quyền đòi nợ
đối với một tài sản cụ thể.
+ Trái phiếu không bảo đảm: Trái phiếu tín chấp không được đảm bảo bằng tài
sản mà được đảm bảo bằng tín chấp của công ty. Nếu công ty bị phá sản, những
12


trái chủ của trái phiếu này được giải quyết quyền lợi sau các trái chủ có bảo đảm,
nhưng trước cổ động. Các trái phiếu tín chấp có thể chuyển đổi cho phép trái chủ
được quyền chuyển trái phiếu thành cổ phiếu thường của công ty phát hành. Tuỳ
theo quy định, việc chuyển đổi có thể được tiến hành vào bất cứ thời điểm nào,
hoặc chỉ vào những thời điểm cụ thể xác định.
Ngoài những đặc điểm trên, mỗi đợt trái phiếu được phát hành có thể được gắn
kèm theo những đặc tính riêng khác nữa nhằm đáp ứng nhu cầu cụ thể của một
bên nào đó. Cụ thể là:
+ Trái phiếu có thể mua lại cho phép người phát hành mua lại chứng khoán
trước khi đáo hạn khi thấy cần thiết. Đặc tính này có lợi cho người phát hành song
lại bất lợi cho người đầu tư, nên loại trái phiếu này có thể có lãi suất cao hơn so
với những trái phiếu khác có cùng thời hạn.
+ Trái phiếu có thể bán lại cho phép người nắm giữ trái phiếu được quyền bán
lại trái phiếu cho bên phát hành trước khi trái phiếu đáo hạn. Quyền chủ động
trong trường hợp này thuộc về nhà đầu tư, do đó lãi suất của trái phiếu này có thể
thấp hơn so với những trái phiếu khác có cùng thời hạn.
+ Trái phiếu có thể chuyển đổi cho phép người nắm giữ nó có thể chuyển đổi
trái phiếu thành cổ phiếu thường, tức là thay đổi tư cách từ người chủ nợ trở thành
người chủ sở hữu của công ty. Loại trái phiếu này thuộc vào nhóm hàng hoá

chứng khoán có thể chuyển đổi được đề cập tới dưới đây.

Thị trường trái phiếu như thế nào?
Thị trường trái phiếu (còn được gọi là tín dụng, thị trường thu nhập cố định)
là một thị trường tài chính mà những người tham gia có thể phát hành nợ mới,
được gọi là thị trường cơ sở, hoặc mua và bán chứng khoán nợ, được biết đến là
thị trường thứ cấp, thường là dưới hình thức trái phiếu . Mục tiêu chính của thị
trường trái phiếu là để cung cấp một cơ chế tài trợ lâu dài của chi tiêu công và tư
nhân.
Với những thay đổi về kinh tế như hiện nay, thì thị trường trái phiếu phải chịu
rất nhiều các tác động từ các nhân tố bên ngoài. Các nhân tố này ảnh hưởng và
tác động mạnh mẽ lên trái phiếu, làm cho thị trường trái phiếu biến động không
ngừng. Cụ thể:
13


Các yếu tố tác động đến thị trường trái phiếu?
 Lạm Phát
Trong kinh tế học, lạm phát là sự tăng mức giá chung của hàng hóa và dịch vụ
trong nền kinh tế trong một thời kỳ. Khi giá tăng, mỗi đơn vị tiền tệ sẽ mua được
ít hàng hóa và dịch vụ hơn; do đó, tỷ lệ lạm phát hàng năm làm giảm sức mua của
đồng tiền – sự giảm giá trị thực tế của vật trung gian để trao đổi trong nội địa và
đơn vị tính toán trong nền kinh tế. Một phương pháp chính để xác định lạm phát
giá cả là tỷ lệ lạm phát, sự thay đổi tỷ lệ % hàng năm trong chỉ số giả cả chung
(thường là Chỉ số giá tiêu dùng) theo thời gian.
Lạm phát là một trong những chỉ báo kinh tế vĩ mô quan trọng nhất và thường
xuyên được sử dụng trong phân tích kinh tế. Tác động của lạm phát diễn ra rất
rộng đối với nhiều lĩnh vực và thị trường trái phiếu cũng không phải là ngoại lệ.

Lạm phát là kẻ thù của nhà đầu tư trái phiếu bởi nó ăn mòn giá trị đồng tiền. Lạm

phát càng cao, lãi suất thực của trái phiếu (bằng lãi suất danh nghĩa của trái phiếu
trừ lạm phát) càng giảm, do vậy làm mất giá trị của trái phiếu. Nếu một trái phiếu
trả lãi 7%/năm, lạm phát bình quân 5% thì lãi suất thực của trái phiếu là 2%. Nếu
lạm phát giảm xuống còn 3% thì lãi suất thực sẽ là 4%
Khi lạm phát tăng có mức độ trong bối cảnh cung tiền tăng mạnh và mở rộng chi
tiêu Chính phủ thì thị trường chứng khoán tăng trưởng nóng; khi lạm phát tăng
quá cao vượt quá tầm kiểm soát trong bối cảnh thắt chặt tiền tệ thì thị trường trái
phiếu suy giảm nhanh. Ở trạng thái ngược lại, khi lạm phát giảm trong bối cảnh
thực thi chính sách tiền tệ và tài khoá nới lỏng thì thị trường chứng khoán tăng
trưởng trở lại. Cuối cùng, ở trạng thái trung tính, khi lạm phát tăng có mức độ
nhưng không đến mức quá cao và trong môi trường thu hẹp tiền tệ thì thị trường
trái phiếu sẽ “lưỡng lự” và cũng trong xu thế thu hẹp.
Thật vậy, phân tích chứng khoán nói chung không thể thiếu những phân tích về
ảnh hưởng của lạm phát đến cung - cầu phát hành và giao dịch chứng khoán, nhất
là chứng khoán có thu nhập cố định. Đồng thời, giá trị các khoản đầu tư chứng
khoán luôn bị ảnh hưởng trực tiếp bởi diễn biến của lạm phát và đây là một trong
những rủi ro cơ bản trong đầu tư chứng khoán nói chung. Hoạt động sản xuất kinh
doanh của các doanh nghiệp niêm yết – xương sống của thị trường chứng khoán –
cũng chịu tác động trực tiếp và gián tiếp ở các mức độ khác nhau bởi lạm phát; và
điều này đến lượt nó sẽ gây ra biến động giá trái phiếu trên thị trường.
Có 3 cơ chế khiến cho lạm phát có thể ảnh hưởng mạnh đến cung cầu và hành vi
giao dịch chứng khoán trên thị trường:
14


_Thứ nhất, lạm phát ảnh hưởng gián tiếp đến thị trường chứng khoán thông qua
tác động đến tình hình sản xuất hàng hoá, dịch vụ của các doanh nghiệp nói chung
và các doanh nghiệp niêm yết nói riêng. Ví dụ, lạm phát khiến chi phí lãi vay của
doanh nghiệp đắt đỏ hơn bởi vì các tổ chức cho vay như ngân hàng thương mại đã
phải nâng lãi suất huy động lên để đảm bảo lãi suất thực dương cho người gửi

tiền. Khi chi phí sản xuất tăng cao, giá thành các sản phẩm, dịch vụ của doanh
nghiệp sẽ phải tăng theo để đảm bảo sản xuất – kinh doanh hoặc có lợi nhuận. Tuy
nhiên, sức tiêu thụ sản phẩm-dịch vụ của doanh nghiệp sẽ sụt giảm do giá bán cao,
đặc biệt trong ngắn hạn và khi người tiêu dùng tìm tới các sản phẩm thay thế.
Điều này khiến cho lợi nhuận mục tiêu của doanh nghiệp khó được đảm bảo và
thậm chí sụt giảm, dẫn tới lợi nhuận kỳ vọng của doanh nghiệp trong tương lai bị
định giá thấp. Kết quả là giá cổ phiếu của doanh nghiệp niêm yết trên thị trường bị
ảnh hưởng theo hướng suy giảm với các mức độ khác nhau. Nếu lạm phát càng
tăng mạnh thì hệ quả này diễn ra càng nhanh và giá cổ phiếu càng bị ảnh hưởng
mạnh.
_Thứ hai, lạm phát có thể tác động trực tiếp đến tâm lý nhà đầu tư và giá trị của
các khoản đầu tư trên thị trường chứng khoán. Lạm phát tăng là một trong những
biểu hiện bất ổn của nền kinh tế. Do vậy, lạm phát tăng cao có thể dẫn tới nguy cơ
khủng hoảng niềm tin vào nền kinh tế, nhất là khi Chính phủ tỏ ra bất lực trong
việc kiềm chế lạm phát leo thang. Do vậy mà, các nhà đầu tư cũng thận trọng hơn
trong việc đầu tư vào thị trường trái phiếu.
_Thứ ba, lạm phát tăng cao sẽ ảnh hưởng đến thị trường chứng khoán thông qua
con đường thực thi chính sách tiền tệ thắt chặt nhằm kiềm chế lạm phát. Khi cơ
quan quản lý triển khai chính sách tiền tệ thắt chặt trong môi trường lạm phát,
mức lãi suất chung trên thị trường có xu hướng tăng. Điều này dẫn tới yêu cầu và
thực tế lợi suất khi đáo hạn (YTM) của trái phiếu tăng theo. Do quan hệ nghịch
biến giữa giá và lợi suất trái phiếu, giá trái phiếu trên thị trường sẽ giảm xuống và
để tránh rủi ro này, nhà đầu tư nắm giữ trái phiếu có xu hướng bán ra trái phiếu
hoặc cơ cấu lại danh mục đầu tư. Hệ quả là thị trường trái phiếu diễn ra tình trạng
bán tháo trái phiếu và gây ảnh hưởng tiêu cực tới thị trường đấu thầu và huy động
vốn trái phiếu.
• Như vậy thị trường trái phiếu. Để có thể xác định được một cách chính xác nhất
ảnh hưởng của lạm phát đến thị trường chứng khoán như thế nào, cần phải có
những nghiên cứu nhằm xây dựng các mô hình kinh tế lượng để có thể đo lường
mức độ ảnh hưởng của lạm phát cùng với các biến số độc lập khác đến giao dịch

chứng khoán trên thị trường.
 Lãi suất
15


_Mối đe dọa kinh tế lớn nhất đối với thị trường trái phiếu là sự gia tăng lãi
suất. Nếu bạn sở hữu một trái phiếu và lãi suất tăng lên, giá trị trái phiếu trên thị
trường mở sẽ đi xuống.
_Tất nhiên, nếu bạn có kế hoạch để giữ trái phiếu đến ngày đáo hạn giá trị của trái
phiếu của bạn không thay đổi bởi nếu lãi suất thay đổi. Bạn vẫn sẽ nhận được số
tiền lời hứa khi bạn mua trái phiếu.
_Tuy nhiên, nếu bạn có kế hoạch sở hữu trái phiếu cho các mục đích đầu tư - có
nghĩa là bạn mua và bán trái phiếu theo bạn sẽ cổ phiếu - sau đó lãi suất là rất
quan trọng.
_Trên thị trường trái phiếu hay, Giá trái phiếu chuyển nghịch lãi suất. Khi lãi suất
tăng lên, giá trái phiếu đi xuống và khi lãi suất đi xuống, giá trái phiếu đi lên.
Thông thường, có hai cách để giải thích mối quan hệ giữa lãi suất và giá trái
phiếu. Cách thứ nhất, dựa trên nguyên lý định giá trái phiếu. Giá trái phiếu được
tính bằng tổng giá trị hiện tại của các khoản tiền thanh toán cho người sở hữu trái
phiếu. Để xác định được giá trái phiếu chúng ta phải chiết khấu toàn bộ dòng tiền
sẽ thanh toán cho người sở hữu trái phiếu tại thời điểm định giá. Giả sử một trái
phiếu được phát hành với thời gian đáo hạn là N năm và các khoản tiền được
thanh toán bao gồm tiền lãi (R) định kỳ hàng năm và tiền gốc (FV) ở thời điểm
đáo hạn. Với lãi suất bình quân thị trường là i, khi đó giá trị hiện tại của tổng dòng
tiền thanh toán trong tương lai (hay giá của trái phiếu) được xác định như sau:

Từ công thức trên ta thấy khi lãi suất thị trường tăng lên thì giá trái phiếu
sẽ giảm xuống.
Ví dụ, doanh nghiệp A phát hành trái phiếu mệnh giá 1.000 đồng với thơi
hạn một năm, lãi suất trái phiếu là 10%/năm và trong điều kiện lãi suất thị trường

là 11%/năm. Giá trái phiếu được tính như sau:

16


Như vậy, trái phiếu của doanh nghiệp A sẽ được bán tại thời điểm hiện tại
với giá 991 đồng.
Nếu lãi suất thị trường tăng lên 12%/năm thì giá của trái phiếu được xác
định lại như sau:

So với thời điểm lãi suất thị trường là 11%/năm thì giá trái phiếu của
doanh nghiệp A đã giảm xuống còn 982 đồng.
_Các nhà đầu tư thì luôn quan tâm đến lãi suất của trái phiếu, họ sẽ đầu tư
vào loại trái phiếu có mức lãi suất hấp dẫn
_Biến động của lãi suất trên thị trường tiền tệ tuy có tác động gián tiếp
nhưng rất nhạy cảm đến thị trường chứng khoán. Lãi suất tăng sẽ thu hút nhu cầu
gửi tiền vào hệ thống ngân hàng vì mức sinh lời khi gửi tiền tăng, khiến cho dòng
tiền đổ vào thị trường chứng khoán bị ảnh hưởng. Lãi suất tăng cũng khiến cho lợi
suất kỳ vọng trên thị trường chứng khoán phải tăng (nhà đầu tư đòi hỏi lợi suất
đầu tư chứng khoán cao hơn). Trong bối cảnh này, giá thị trường của trái phiếu sẽ
bị sụt giảm.
_Trong tháng 3/2011 có 3 đợt phát hành trái phiếu chính phủ (TPCP) thì cả 3 đợt
đều không thành công. Đợt 1 bán được 145/6.000 tỷ đồng, đợt 2 được 139/6.000
tỷ đồng, đợt 3 được 30/3.000 tỷ đồng. Số trái phiếu ít ỏi bán được trong đợt 3
thuộc kỳ hạn 10 năm, lãi suất 11,5%/năm (mức trần cao nhất của trái phiếu được
Bộ Tài chính ấn định trong suốt 18 tháng qua). Những đợt phát hành không thành
công TPCP gần đây là điều các thành viên thị trường đã dự đoán trước. Nguyên
nhân chính từ phía nguồn cung là do Bộ Tài chính không chịu áp lực phát hành
khi đã phát hành thành công hơn 40% kế hoạch của năm 2011 chỉ trong 2 tháng
đầu năm, nên Bộ này đã không tăng lãi suất trần.

Về phía cầu, thanh khoản của hệ thống ngân hàng tương đối tốt, các ngân hàng
lớn, dồi dào vốn đã bắt đầu cân nhắc việc mua vào trái phiếu khi mặt bằng lợi suất
đang ở mức cao và hy vọng có thể thu lời trong trung hạn khi lợi suất dự đoán sẽ
giảm theo tốc độ giảm của CPI trong quý III. Trong đợt phát hành hồi trung tuần
tháng 3, các ngân hàng đã đặt thầu với số lượng khá lớn, đặc biệt với trái phiếu kỳ
hạn 3 - 5 năm; tỷ lệ đặt thầu cho trái phiếu ở 2 kỳ hạn trên lần lượt là 65% và
42%. Tuy nhiên, do lãi suất trần không như kỳ vọng của NĐT nên đợt đấu thầu
17


TPCP thất bại. Lãi suất đặt thầu đối với trái phiếu kỳ hạn 5 năm nằm trong khoảng
12,5 - 13%/năm, cao hơn ít nhất 110 điểm cơ bản (1,1%) so với lãi suất trần.
Dự báo về các phiên đấu thầu TPCP sắp tới, Bản tin thị trường trái phiếu số 11 của
CTCK Bảo Việt cho rằng, thị trường sơ cấp sẽ tiếp tục ảm đạm như thời gian qua.
Trên thị trường thứ cấp cũng không sáng sủa hơn khi thanh khoản của hệ thống
ngân hàng đã ít nhiều được cải thiện. Các ngân hàng có nhu cầu đầu tư trái phiếu
trong thời điểm này ưa thích giao dịch trên thị trường thứ cấp hơn, do lãi suất trên
thị trường sơ cấp thấp hơn. Tuy nhiên, lợi suất trên thị trường thứ cấp vẫn thấp
hơn kỳ vọng của NĐT, nên rất ít giao dịch outright (mua đứt bán đoạn, phân biệt
với repo - giao dịch có kỳ hạn) được thực hiện.
• Như vậy, lãi suất tác động khá mạnh mẽ tới thị trường trái phiếu, bởi lãi suất và
giá trái phiếu chuyển nghịch lẫn nhau. Hơn nữa lãi suất cũng giống như lạm phát,
nó có tác động lơn đối với các nhà đầu tư trên thị trường trái phiếu.

 Tâm lý nhà đầu tư
.
_Lợi nhuận so sánh thường là mục tiêu số một khi NĐT đưa ra quyết định giải
ngân vào bất kỳ thị trường trái phiếu nào. Ngoài yếu tố này, điều NĐT quan tâm
và so sánh khi lựa chọn thị trường đầu tư là mức độ an toàn xét trên góc độ xếp
hạng tín nhiệm, mức độ phát triển của thị trường về quy mô giao dịch, khả năng

thanh khoản, cơ sở hạ tầng giao dịch, hệ thống pháp lý và chi phí kinh doanh có
cạnh tranh không… Vì vậy, muốn tăng khả năng cạnh tranh để thu hút NĐT thì
cùng với nỗ lực thực hiện các giải pháp ổn định kinh tế vĩ mô, đưa nền kinh tế
phát triển đi vào chiều sâu, chúng ta cần nghiên cứu xây dựng một chiến lược phát
triển thị trường trái phiếu tổng thể với lộ trình và mục tiêu ưu tiên cụ thể trên các
mặt vừa nêu.
• Do đó, yêu tố tâm lý của các nhà đầu tư có vai trò quan trọng trong việc lựa
chọn các danh mục đầu tư trong thị trường trái phiếu.Làm tăng sự thành công
trong thị trường này.
 Khủng hoảng kinh tế

18


_Khủng hoảng tài chính toàn cầu đã ảnh hưởng đến lãi suất tín dụng cho vay giữa
các ngân hàng (Libor và Sibor, tức London Inter Bank offer rate, Singapore Inter
Bank Offer rate, thường được dùng làm lãi suất cơ sở để cho các xí nghiệp và
ngân hàng Việt Nam vay).
_Ngoài ra đầu tư trực tiếp (FDI) của Việt Nam cũng bị ảnh hưởng vì FDI vào Việt
Nam phần lớn là vốn vay chứ không phải vốn tự có, nên nếu các nhà đầu tư không
dàn xếp được khoản vay sẽ khó giải ngân được. Do vậy mà, đối với thị trường
chứng khoán, có khả năng nhà đầu tư nước ngoài phải thu hồi nguồn vốn và bán
chứng khoán. Điều này tác động đến thị trường trái phiêu và giá cả của trái phiếu
trên thị trường chứng khoán. Nhà đầu tư nước ngoài bán ra nhiều hơn mua vào sẽ
làm giảm giá chứng khoán của Việt Nam.
_Khủng hoảng kinh tế xảy ra, khiến cho các doanh nghiệp trong nước cũng như
nước ngoài, gặp khó khăn rất lớn trong việc huy động vốn thông qua thị trường
trái phiếu, điều này khiến cho không khí trên thị trường trái phiếu trở nên rất ảm
đạm.



Thời tiết

Động đất ở Nhật Bản dẫn đến nước này có ít nhu cầu về trái phiếu chính phủ
Mỹ?
Nếu là một ngày bình thường, thì thảm kịch ở Nhật Bản sẽ làm các nhà đầu tư
toàn cầu tìm đến sự an toàn trong trái phiếu chính phủ Mỹ. Tuy nhiên, lãi suất trái
phiếu này lại tăng lên vào ngày thứ Sáu, và dù có rất nhiều lời giải thích, thì một
vài người vẫn lo lắng rằng Nhật Bản và Trung Quốc có lẽ sẽ không có nhiều tiền
để mua trái phiếu chính phủ Mỹ nữa.
Ông Quincy Krosby – nhà chiến lược thị trường tại Prudential Financial, Newark,
New Jersey cho biết: “Câu hỏi đang được đặt ra bây giờ là liệu Nhật Bản có thể
tiếp tục mua trái phiếu chính phủ Mỹ hay không.Vì họ còn phải dùng tiền của
mình để tái thiết đất nước nữa”.
Tính đến cuối năm 2010, Nhật Bản nắm giữ 882 tỷ USD trái phiếu chính phủ Mỹ
- con số này đã tăng đều đặn kể từ tháng 6/2010. Trung Quốc vẫn dẫn đầu danh
sách chủ nợ của Mỹ với 1,16 nghìn tỷ USD trong ngân khố
C.CHỨNG CHỈ QUỸ ĐẦU TƯ
19


I. Tìm hiểu chung
- Chứng chỉ quỹ là loại chứng khoán xác nhận quyền sở hữu của nhà đầu tư đối
với một phần vốn góp trong quỹ đại chúng.
- Quỹ đại chúng là quỹ đầu tư chứng khoán hình thành từ vốn góp của nhà đầu tư
với mục đích kiếm lợi nhuận từ việc đa dạng hóa đầu tư vào chứng khoán hoặc
các dạng tài sản đầu tư khác nhau nhằm phân tán rủi ro, trong đó nhà đầu tư không
có quyền kiểm soát hàng ngày đối với việc ra quyết định đầu tư của quỹ.
- Khi muốn thành lập quỹ thì các công ty quản lý quỹ phải phát hành chứng chỉ
quỹ, nhà đầu tư mua chứng chỉ quỹ tức là đã xác nhận sự góp vốn của mình vào

quỹ chung đó. Về bản chất chứng khoán quỹ cũng giống như cổ phiếu của một
công ty: là bằng chứng xác nhận quyền sở hữu, hưởng lợi nhuận trên phần vốn
góp, và đặc biệt được niêm yết trên thị trường chứng khoán để mua bán giữa các
nhà đầu tư. Tuy nhiên có ba điểm khác nhau giữa chúng: cổ phiếu là phương tiện
huy động vốn của một công ty kinh doanh một vài ngành nghề cụ thể còn chứng
chỉ quỹ là phương tiện để thành lập quỹ của một quỹ đầu tư chứng khoán mà
ngành nghề hoạt động chính là "chơi chứng khoán". Thứ hai, nếu người sở hữu cổ
phiếu phổ thông có quyền biểu quyết hay quản lý công ty thì nhà đầu tư sở hữu
chứng khoán quỹ không có quyền tương tự, mọi quyền hành đều do công ty quản
lý quỹ quyết định.
+ Đặc điểm của quỹ đầu tư chứng khoán:
Thứ nhất, quỹ đầu tư chứng khoán luôn dành đa số vốn đầu tư của Quỹ để đầu tư
vào chứng khoán. Đặc điểm này phân biệt quỹ đầu tư chứng khoán với các loại
quỹ đầu tư khác. Quỹ có thể xây dựng danh mục đầu tư đa dạng và hợp lý theo
quyết định của các nhà đầu tư nhằm tối đa hoá lợi nhuận và giảm thiểu rủi ro.
Ngoài việc chủ yếu đầu tư vào chứng khoán, quỹ đầu tư chứng khoán cũng có thể
tiến hành đầu tư vào những lĩnh vực khác như góp vốn, kinh doanh bất động sản
v.v..
+Thứ hai, quỹ đầu tư chứng khoán được quản lý và đầu tư một cách chuyên
nghiệp bởi công ty quản lý quỹ đầu tư chứng khoán. Nói một cách khác, các nhà
đầu tư đã uỷ thác cho công ty quản lý quỹ đầu tư chứng khoán việc quản lý quỹ và
tiến hành hoạt động đầu tư chứng khoán từ số vốn của quỹ. Công ty quản lý quỹ
có thể cử ra một cá nhân chịu trách nhiệm thực hiện việc quản lý quỹ gọi là nhà
quản trị quỹ. Nhà quản trị được chọn thường phải là người có thành tích và được
sự ủng hộ của đa số nhà đầu tư. Để đảm bảo công ty quản lý quỹ đầu tư chứng
khoán tiến hành hoạt động đúng như mong muốn của các nhà đầu tư, quỹ đầu tư
chứng khoán cần phải có một ngân hàng giám sát. Ngân hàng này sẽ thay mặt các
nhà đầu tư để giám sát cũng như giúp đỡ quỹ đầu tư chứng khoán hoạt động đúng
20



mục tiêu mà các nhà đầu tư đã đề ra, tránh tình trạng công ty quản lý quỹ tiến
hành các hoạt động đi ngược lại lợi ích của nhà đầu tư.
+ Thứ ba, quỹ đầu tư chứng khoán có tài sản độc lập với tài sản của công ty quản
lý quỹ và các quỹ khác do công ty này quản lý. Đặc điểm này đảm bảo việc đầu tư
của quỹ đầu tư chứng khoán tuân thủ đúng mục đích đầu tư, không bị chi phối bởi
lợi ích khác của công ty quản lý quỹ. Sự tách bạch về tài sản giữa công ty quản lý
quỹ và quỹ đầu tư chứng khoán nhằm đảm bảo công ty quản lý quỹ hoạt động
quản lý vì lợi ích của các nhà đầu tư vào quỹ chứ không vì mục đích của riêng
mình. Từ yêu cầu tách bạch về tài sản đã chi phối rất lớn đến nội dung những quy
định pháp luật về quyền và nghĩa vụ của công ty quản lý quỹ.
+ Vai trò của Qũy ĐT CK
- Đối với nhà đầu tư:
Lợi ích lớn nhất của vốn đầu tư là đa dạng hóa đầu tư, phân tán rủi ro. Với quỹ
đầu tư chứng khoán, ngay cả khi một cá nhân có lượng vốn nhỏ vẫn có thể đa
dạng hóa đầu tư vào nhiều loại chứng khoán khác nhau người đầu tư thu được lợi
nhuận từ việc đầu tư chuyên nghiệp với hiệu quả cao, chi phí thấp, người đầu tư
sở hữu chứng chỉ quỹ đầu tư có tính thanh khoản cao, có thể rút vốn nhanh chóng
bằng việc bán lại các chứng chỉ trên TTCK.
-Đối với nhà quản lí vốn:
Những nhà quản lí là những người có trình độ chuyên môn kiến thức về trình độ
dự toán và phân tích thông tin nên họ được ủy thác đầu tư, thông qua hoạt động
này họ nhận được các khoản hoa hồng, thưởng, chia thêm…
-Đối với nền kinh tế:
Góp phần huy động vốn cho việc phát triển kinh tế nói chung và sự phát triển thị
trường sơ cấp nói riêng. Trên thị trường sơ cấp, quỹ đầu tư đóng vai trò tích cực
trong việc tham gia, thúc đẩy hoạt động bảo lãnh phát hành, phân phôi chứng
khoán giúp các chủ thể, phát hành huy động vốn một cách hiệu quả, tạo thêm hàng
hóa cho thị trường
Góp phần ổn định thị trường thứ cấp. Trên thị trường thứ cấp với những kí năng

phân tích đầu tư chuyên môn và nguồn vốn lớn, dài hạn người đầu tư có thể tiến
hành kiểm soát sự biến động giá chứng khoán do sự mất cân đối cung cầu. Tạo sự
ổn định cần thiết cho thị trường thứ cấp.
21


Góp phần phổ cập đầu tư chứng khoán, phát huy nội lực.
+Phân loại chứng chỉ quỹ đầu tư CK
Quỹ đầu tư chứng khoán có thể được thành lập theo nhiều loại khác nhau nhằm
đáp ứng nhu cầu của các nhà đầu tư. Sự phát triển các loại hình quỹ đầu tư
chứng khoán trên thế giới đã dẫn đến có nhiều tiêu chí để phân loại quỹ đầu tư
chứng khoán.
1.Phân loại theo phương thức huy động vốn và quyền quản lý:
Nếu phân loại theo phương thức huy động vốn thì quỹ đầu tư chứng khoán có hai
loại là quỹ đại chúng (trước đây gọi là quỹ công chúng) và quỹ thành viên.
-Quỹ đại chúng
Quỹ đại chúng là loại quỹ đầu tư chứng khoán được chào bán chứng chỉ quỹ ra
công chúng. Quỹ đại chúng thường không bị pháp luật giới hạn về số lượng nhà
đầu tư tối đa vào quỹ. Tuy nhiên, do số lượng các nhà đầu tư lớn nên quỹ đại
chúng có nhiều giới hạn đầu tư do pháp luật quy định nhằm đảm bảo an toàn cho
nguồn vốn các nhà đầu tư vào quỹ. Trên thế giới, quỹ đại chúng có nhiều dạng
khác nhau. Cách phân loại phổ biến dựa vào tiêu chí nghĩa vụ của quỹ đối với nhà
đầu tư, theo đó, quỹ đại chúng có hai loại là quỹ dạng đóng và quỹ dạng mở.
Quỹ đại chúng dạng đóng là loại quỹ mà theo đó, quỹ không có nghĩa vụ mua lại
chứng chỉ quỹ đầu tư được phát hành ra công chúng theo yêu cầu của nhà đầu tư.
Do vậy, nhà đầu tư chỉ có thể thu hồi số vốn đầu tư bằng cách chuyển nhượng
chứng chỉ quỹ đầu tư cho nhà đầu tư khác trên thị trường chứng khoán.
Quỹ đại chúng dạng mở là loại quỹ mà theo đó, quỹ có nghĩa vụ mua lại chứng
chỉ quỹ đầu tư theo yêu cầu của nhà đầu tư. Loại quỹ này có số vốn và số thành
viên luôn biến động, nên thường chỉ xuất hiện ở những quốc gia có nền kinh tế và

thị trường chứng khoán phát triển như Mỹ, Canada, Anh, Đức, Nhật Bản v.v..

22


Pháp luật chứng khoán ở một số quốc gia quy định, quỹ đại chúng dạng đóng chỉ
được phép phát hành chứng chỉ quỹ một lần duy nhất khi thành lập quỹ, còn quỹ
đại chúng dạng mở có thể phát hành chứng chỉ quỹ nhiều lần.
Ưu điểm của quỹ đại chúng
- Thứ nhất, quỹ đại chúng có khả năng huy động vốn rộng rãi thông qua việc chào
bán chứng khoán ra công chúng. Điều này cho phép quỹ có thể được niêm yết trên
thị trường giao dịch tập trung và như vậy, khả năng thu hút các nhà đầu tư và làm
gia tăng giá trị cho chứng chỉ quỹ. Bên cạnh đó, các nhà đầu tư còn ưa thích loại
quỹ này ở khả năng thanh khoản cao của chứng chỉ quỹ.
- Thứ hai, quỹ đại chúng có khả năng thu hút được những nhà đầu tư nhỏ và
không chuyên nghiệp. Mặc dù từng nhà đầu tư không chuyên nghiệp có thể không
có nhiều vốn, nhưng thực tế đã cho thấy lượng vốn do những chủ thể này nắm giữ
trong nền kinh tế là rất đáng kể. Nếu quỹ thu hút được nguồn vốn này, sức mạnh
tài chính của quỹ sẽ tăng lên rất nhiều.
- Thứ ba, đối với công ty quản lý quỹ, quỹ đại chúng chính là mô hình đầu tư mà
công ty có cơ hội thể hiện hết khả năng quản lý của mình, do được các nhà đầu tư
trao quyền điều hành quỹ hàng ngày. Chính vì vậy, chiến lược đầu tư của công ty
quản lý được thực thi một cách dễ dàng hơn, thuận lợi hơn so với mô hình quỹ
thành viên.
23


Nhược điểm của quỹ đại chúng
- Thứ nhất, quỹ đại chúng có số lượng nhà đầu tư tham gia lớn nên có thể gây ảnh
hưởng đến giá trị của quỹ vì hai nguyên nhân:

(i) Việc mua bán chứng chỉ quỹ diễn ra liên tục và do đó, có thể làm ảnh hưởng tốt
hoặc xấu đến hình ảnh của quỹ.
(ii) Đối với quỹ đại chúng dạng mở, việc số lượng nhà đầu tư và giá trị ròng của
quỹ luôn biến đổi có thể làm sai lệch các biện pháp đầu tư hoặc vi phạm các giới
hạn tài chính do pháp luật quy định
- Thứ hai, quỹ đại chúng thường chịu sự giám sát khá chặt chẽ của cơ quan quản
lý nhà nước trên quan điểm bảo vệ quyền lợi của các nhà đầu tư, đặc biệt là những
nhà đầu tư nhỏ. Pháp luật thường có những yêu cầu đối với quỹ đại chúng cao hơn
so với quỹ thành viên.
-Quỹ thành viên
Quỹ thành viên là quỹ đầu tư chứng khoán được lập bằng vốn góp của một số nhà
đầu tư nhất định và không phát hành chứng chỉ quỹ ra công chúng. Nhà đầu tư
vào quỹ thành viên được gọi là thành viên góp vốn hay thành viên quỹ đầu tư.
Pháp luật thường có quy định giới hạn số lượng thành viên góp vốn của Quỹ thành
viên. Luật chứng khoán năm 2006 quy định quỹ thành viên có tối đa không quá 30
thành viên và tất cả thành viên phải là pháp nhân. Thành viên của quỹ thông
thường là những nhà đầu tư chuyên nghiệp và có năng lực tài chính mạnh như
công ty tài chính, ngân hàng hoặc doanh nghiệp bảo hiểm. Các thành viên góp vốn
có quyền tham gia quản lý quỹ nhiều hơn so với nhà đầu tư trong quỹ đại chúng,
đồng thời khả năng chịu đựng rủi ro cũng tốt hơn nên quỹ thành viên không chịu
nhiều hạn chế đầu tư như quỹ công chúng.
Ưu điểm của quỹ thành viên
- Thứ nhất, quỹ thành viên thường đưa ra những quyết định quan trọng một cách
nhanh chóng do số thành viên ít nên dễ nhóm họp hơn. Bên cạnh đó, tính chuyên
nghiệp của những thành viên và kiến thức chuyên môn của họ là một nhân tố
quyết định đến sự thành công của quỹ.
- Thứ hai, thành viên của quỹ có quyền năng cao hơn trong điều hành quỹ so với
quỹ đại chúng. Pháp luật cũng không có những đòi hỏi khắt khe đối với quỹ trong
hoạt động đầu tư chứng khoán như đối với quỹ đại chúng.
24



Nhược điểm của quỹ thành viên
- Thứ nhất, quỹ thành viên thường không dành cơ hội cho những nhà đầu tư nhỏ
tham gia. Những nhà đầu tư nhỏ không thể có đủ khả năng góp những khoản vốn
lớn để đảm bảo nguồn vốn của quỹ.
- Thứ hai, quỹ thành viên không bắt buộc phải có ngân hàng giám sát, do đó, nếu
cơ chế quản lý lỏng lẻo, có thể sẽ không kiểm soát được một cách tốt nhất những
rủi ro trong đầu tư hay ngăn chặn những hành vi gian lận từ công ty quản lý quỹ
hoặc của nhân viên.
2.Phân loại theo tư cách chủ thể của quỹ
Phân loại theo tư cách chủ thể của quỹ thì Quỹ đầu tư chứng khoán có hai loại là
quỹ không có tư cách chủ thể và quỹ có tư cách chủ thể.
Quỹ không có tư cách chủ thể(Quỹ đầu tư dạng hợp đồng) là loại quỹ do công
ty quản lý quỹ thành lập và không phải là một chủ thể pháp luật. Mọi hoạt động
của quỹ đều do công ty quản lý quỹ thực hiện trên cơ sở thoả thuận với các nhà
đầu tư vào quỹ. Bản chất của quỹ đầu tư chứng khoán không có tư cách chủ thể là
một quỹ tài chính, chứ không phải là một công ty. Tuy nhiên, nguồn vốn của quỹ
lại không phải là nguồn vốn của công ty quản lý quỹ. Nó được quản lý một cách
độc lập với nguồn vốn các quỹ khác và nguồn vốn của công ty quản lý quỹ.
Quỹ có tư cách chủ thể (Quỹ đầu tư dạng công ty) là một loại quỹ được thành
lập dưới dạng công ty, gọi là công ty đầu tư hoặc công ty đầu tư chứng khoán
(investment company). Công ty đầu tư chứng khoán là công ty cổ phần được
thành lập theo sự cho phép của Uỷ ban Chứng khoán Nhà nước, có hoạt động đầu
tư chủ yếu vào chứng khoán.
3.Phân loại theo mục tiêu đầu tư của quỹ
Nếu phân loại theo mục tiêu đầu tư, quỹ đầu tư chứng khoán rất đa dạng về loại
hình. Sau đây xin được nêu một số loại quỹ đầu tư phổ biến trên thị trường chứng
khoán ở các nước có nền kinh tế phát triển:
Quỹ đầu tư trái phiếu

Đây là loại quỹ đầu tư mà chứng khoán do nó nắm giữ là các loại trái phiếu, bao
gồm trái phiếu chính phủ và trái phiếu công ty. Đầu tư vào trái phiếu được coi là
giải pháp đầu tư khá an toàn, vì nó luôn bao hàm khả năng được hoàn trả từ phía
25


×