Tải bản đầy đủ (.doc) (23 trang)

Vấn đề cắt giảm chi tiêu công của chính phủ việt nam trong tình hình hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (208.13 KB, 23 trang )

Vấn đề cắt giảm chi tiêu công của chính phủ Việt Nam trong tình hình hiện nay?
Thực hiện chính sách tài khóa thắt chặt, cắt giảm đầu tư công, giảm bội chi ngân sách Nhà
nước là một trong 6 nhóm giải pháp đã được nêu trong Nghị quyết 11 của Chính phủ về
những giải pháp chủ yếu tập trung kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô và bảo đảm
an sinh xã hội.
Từ sau khi nghị quyết nói trên được ban hành, cắt giảm đầu tư công như thế nào cho thực
sự hiệu quả là vấn đề được tranh luận
Chúng ta không thể áp đặt buộc giảm cái này hay cái kia, mà các bộ ngành, địa phương tùy
thuộc vào từng yêu cầu cụ thể để chủ động rà soát”.
Đó là nhấn mạnh của Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Võ Hồng Phúc trong cuộc trao đổi
với chúng tôi, xung quanh việc tiết giảm chi tiêu công để kiềm chế lạm phát.
Nhằm kiềm chế lạm phát, Chính phủ đặt vấn đề phải tiết giảm chi tiêu công.
Chi tiêu công bao gồm chi thường xuyên và chi đầu tư. Chính phủ chủ trương trong tình
hình hiện nay, chúng ta phải giảm chi tiêu công, trong đó có chi dùng thường xuyên. Chi
thường xuyên gồm: chi hành chính sự nghiệp, chi tiếp khách, chi mừng sự kiện này kia...
Nhưng đối với đầu tư khu vực công thì Chính phủ chưa đặt vấn đề giảm chi, nhất là khu
vực ngân sách Nhà nước. Tổng mức đầu tư ngân sách Nhà nước đã được Quốc hội thông
qua thì phải giữ tổng mức đó. Tuy nhiên, hiện nay giá cả đang leo thang, trong khi khối
lượng vốn không thay đổi và tất yếu, không thể nào hoàn thành khối lượng công việc như
ban đầu đã định ra.
Trước tình hình này, các bộ ngành, địa phương phải chủ động rà soát danh mục dự án để
cắt giảm hoặc tạm dừng đầu tư. Theo đó, những công trình chưa cấp thiết thì dừng lại
chưa triển khai, những công trình đang triển khai dở dang, hiệu quả cao thì ưu tiên dồn
vốn để đẩy nhanh tiến độ hoàn thành.
Vậy còn đầu tư từ các doanh nghiệp Nhà nước sử dụng nguồn vốn tín dụng Nhà nước thì tiết
giảm như thế nào?
Trong thời gian qua, tổng dư nợ tín dụng cho đầu tư tăng trưởng quá lớn. Thông thường,
tiền lệ tăng trưởng dư nợ nói trên chỉ nằm trong khoảng từ 26 - 30% nhưng năm 2007, đã
tăng ở mức 53,88%!
Trong quý 1/2008, Chính phủ đã đưa ra nhiều biện pháp giảm tổng dư nợ tín dụng nhưng
vẫn tăng 10,8%, trong khi bình thường như quý 2/2007 chỉ tăng 5,04%. Vì thế, Chính phủ


yêu cầu khu vực đầu tư công có liên quan đến nguồn vốn Nhà nước, phải rà soát và xem
lại, nhất là đối với đầu tư của các tập đoàn kinh tế, tổng công ty 90 – 91.
Theo đó, những đầu tư nào có hiệu quả và cần thiết cho nền kinh tế thì tiếp tục. Chẳng hạn


đầu tư dự án điện, sản xuất than, xi măng... thì không thể cắt giảm, còn đầu tư bất động
sản phải xem xét vì thời gian qua, vốn giải ngân vào khu vực này cũng nhiều.
Hay như, đầu tư vào một số khu công nghiệp Nhà nước, dự án sản xuất boxit hay dự án
bảo tàng... trong tương lai thì cần nhưng trước mắt đã cần chưa? Vì thế, các bộ ngành, địa
phương phải ngồi lại với nhau để rà soát từng dự án.
Tiêu chí để rà soát, “xem lại” và tiết giảm chi tiêu công, trong đó có đầu tư công là gì, thưa
ông?
Tiêu chí ở đây là: chúng ta không thể áp đặt buộc giảm cái này hay cái kia mà các bộ
ngành, địa phương tùy thuộc vào từng yêu cầu cụ thể để chủ động rà soát.
Ví dụ: ở miền núi thì không thể cắt giảm đầu tư đường sá, trường trạm, bệnh viện... hay
chương trình 135, xóa đói giảm nghèo mà phải đảm bảo đủ nguồn vốn để họ làm. Hoặc đối
với những tỉnh đồng bằng sông Hồng thì vấn đề thủy lợi là quan trọng và không thể cắt
giảm được.
Với tinh thần đó, Chính phủ muốn tạo ra sự chủ động từ các địa phương là chính. Bây giờ
ngân sách đã phân cấp rồi, hội đồng nhân dân các cấp phải chủ động, Chính phủ bảo đảm
không giảm tổng số vốn đã duyệt nhưng vì giá cả tăng nên khối lượng công trình phải
giảm.
Cònviệc giảm như thế nào thì địa phương phải chủ động.
Thưa Bộ trưởng, sẽ khó tránh khỏi tình trạng các bộ ngành, địa phương đều cho rằng các dự
án do mình chủ quản là “ưu tiên số 1” và không thực hiện nghiêm chỉ đạo của Thủ tướng.
Xử lý vấn đề này như thế nào?
Không được. Phải thấy là vốn đầu tư tín dụng đã giao cho ngân hàng rồi. Ngân hàng sẽ
tính toán hiệu quả cụ thể từng dự án để cho vay. Chính phủ đã yêu cầu ngân hàng không
được tăng tổng mức dư nợ cho vay đầu tư của nền kinh tế thì các ngân hàng phải tự xem
xét.

Do đó, đối với những dự án thu hồi vốn kém, đương nhiên họ sẽ tự động không giải ngân.
Mặt khác, không ai có thể khẳng định một cách chủ quan rằng, dự án của tôi là cần thiết
và phải ưu tiên trước hết. Vai trò của bộ quản lý ngành trong vấn đề này rất quan trọng.
Khá nhiều doanh nghiệp Nhà nước dồn tới 37% nguồn vốn của mình để đầu tư vào tài chính,
ngân hàng, bất động sản. Điều này có thực sự nguy hiểm khi nền kinh tế đang lạm phát và hệ
thống tài chính tiền tệ đang “có vấn đề”?
Bộ Kế hoạch và Đầu tư chưa đưa ra con số này nhưng theo tôi, đầu tư ngoài rất nguy hiểm.
Nếu lợi nhuận trước mắt cao, các tập đoàn và tổng công ty sẽ bỏ nhiệm vụ chính của họ.
Phải thấy rằng, khi Chính phủ cho phép thành lập các tập đoàn, tổng công ty này là để


kinh doanh các ngành hàng mà Chính phủ đã hoạch định từ trước.
Nếu tỷ trọng đầu tư ngoài lớn sẽ xảy ra hai hiện tượng: một là, bỏ rơi và không đảm đương
được nhiệm vụ trọng tâm mà Nhà nước đã giao cho. Hai là, đầu tư chéo nhau và đầu tư
chéo trong hệ thống ngân hàng.
Kinh nghiệm tại một số nước trong khu vực khi xảy ra khủng hoảng kinh tế 1997 - 1998
cho thấy, nếu nền kinh tế xảy ra khủng hoàng, sẽ rất khó kiểm soát đổ vỡ tài chính từ các
tập đoàn này.
Tại phiên họp ngày 24/6 của Ủy ban Kinh tế, báo cáo của Bộ Kế hoạch và Đầu tư cho biết,
việc rà soát, sắp xếp đầu tư công để tập trung vốn cho các công trình quan trọng, cấp bách,
hiệu quả được thực hiện đồng bộ trên phạm vi cả nước.
Và, 80.550 tỷ đồng là con số đã được các bộ, ngành, địa phương, tập đoàn kinh tế, tổng
công ty nhà nước công bố cắt giảm, tính đến cuối tháng 5/2011. Báo cáo cũng cho biết, số
tiền này bằng khoảng 9% tổng vốn đầu tư toàn xã hội năm nay.
Đáng chú ý, các tập đoàn, tổng công ty Nhà nước đã cắt giảm 39.212 tỷ đồng tại 907 dự án,
số vốn tín dụng kế hoạch năm 2011 giảm 10% là 3.000 tỷ đồng.
Phần hạn chế, tồn tại của bản báo cáo không nhắc đến nội dung cắt giảm đầu tư công.
tiêu chí cắt giảm và mối quan hệ là hai trở ngại rất lớn cho vấn đề này.
Thứ nhất, đối với tiêu chí cắt giảm, phân tích lợi ích - chi phí là công cụ cơ bản nhất để đưa
ra quyết định. Tuy nhiên, vấn đề phức tạp ở chỗ là hầu như không ai có thể lượng hóa được

chính xác các lợi ích và chi phí nên rất khó để có thể tính ra được một con số thuyết phục
về lợi ích ròng của dự án. Điều này dẫn đến những lập luận vì mục tiêu an sinh, an ninh
quốc phòng, ổn định xã hội trở nên phổ biến. Lúc này, quyền nằm trong tay người ra quyết
định và những áp lực liên quan.
Thứ hai, cắt của người thân hay cắt của người sơ, người có tiếng nói hay không có tiếng nói
là điều không hề đơn giản.
Về sự việc này, ông mượn câu chuyện về việc cắt giảm chi tiêu trong một gia đình để phân
tích vấn đề.
Việt Nam nên áp dụng hai tiêu chí là giới hạn chi tiêu và cắt đều ở bối cảnh trước mắt.
Đối với việc giới hạn chi tiêu công, Nhà nước nên đưa ra đưa ra mục tiêu trong 5 năm tới,
tổng chi tiêu công (cả đầu tư và chi tiêu thường xuyên) chỉ là 30% GDP thay vì từ 35-40%
GDP như hiện nay. Với giới hạn này thì tất cả các bên sẽ ngồi lại với nhau để chia cái bánh
đã được giới hạn.


Đối với việc cắt giảm trước mắt, cắt đều có lẽ là biện pháp có thể khả thi vì trong trường
hợp này tất cả các khoản chi tiêu đều được cắt một tỷ lệ như nhau. Thoạt nhìn thì có vẻ phi
lý và phản khoa học, nhưng do không có tiêu chí không rõ ràng, nên nếu áp dụng các tiêu
chí có thể sẽ dẫn đến tình trạng khoản cần thiết nhất (sữa của con) bị cắt như phân tích ở
trên. Thôi thì cứ cắt đều.
Sau một thời gian, nếu thấy những chỗ nào bất hợp lý thì có những biện pháp bổ sung
thêm trong giới hạn cứng của chi tiêu 30% nêu trên.
Đổi mới cơ chế quản lý đầu tư nhà nước
Về lâu dài, TS. Nguyễn Đình Cung, Phó Viện trưởng Viện Nghiên cứu và quản lý kinh tế
TƯ (Bộ KH-ĐT), cho rằng, đồng thời với việc rà soát, cắt giảm đầu tư như hiện nay đang
làm trong khuôn khổ thực hiện Nghị quyết số 11 của Chính phủ về kiềm chế lạm phát, ổn
định kinh tế vĩ mô, bảo đảm an sinh xã hội thì cần phải nghiên cứu và đổi mới cơ chế quản
lý đầu tư nhà nước.
Cơ chế quản lý mới, theo ông Cung, ít nhất phải đáp ứng được một số nội dung:
Một là, ban hành tiêu chí đánh giá hiệu quả kinh tế đối với đầu tư nhà nước để mức độ hiệu

quả kinh tế đối với từng dự án phải đo lường được một cách cụ thể trong đề xuất, thẩm
định, quyết định, kiểm tra, giám sát và đánh giá đầu tư.
Trên cơ sở đó, các dự án đầu tư có hiệu quả cao nhất sẽ được lựa chọn, từ đó đầu tư sẽ
được phân bổ và sử dụng một cách tập trung hơn; kiểm tra và giám sát đầu tư cũng sẽ
thuận lợi và hiệu quả hơn.
Hai là, thay đổi cơ chế phân cấp quản lý đầu tư. Các địa phương, các bộ vẫn có quyền chủ
động xây dựng và đề xuất dự án đầu tư nhưng lựa chọn dự án đầu tư cần được thực hiện
theo nguyên tắc đấu thầu công khai theo cơ chế thị trường.
Qua đó sẽ lựa chọn được các dự án đầu tư có hiệu quả kinh tế cao nhất.
Trong phân cấp, cần tính đến phát triển cơ cấu kinh tế vùng trong thẩm định lựa chọn và
quyết định đầu tư để các dự án đầu tư trong cùng một vùng không cạnh tranh nhau, loại
trừ lẫn nhau mà phải phối hợp và bổ sung lẫn nhau.
Ba là, tăng cường thẩm quyền và năng lực của cơ quan chuyên trách quản lý đầu tư nhà
nước.
Bốn là, thiết lập hệ thống thông tin toàn quốc về đầu tư nhà nước, trên cơ sở đó thực hiện
công khai hóa thông tin về toàn bộ đầu tư nhà nước nói chung và từng dự án đầu tư nhà
nước nói riêng. Về việc này, theo tôi các thông tin sau đây cần phải được công khai hóa:
- Thông tin về dự án đầu tư như: tên dự án; mục tiêu dự án; quy mô; ngành nghề; tổng
vốn, tiến độ phân bổ vốn và tiến độ thực hiện, thời hạn bắt đầu và kết thúc...


- Đơn vị hoặc cá nhân đề xuất dự án, đơn vị và cá nhân xây dựng dự án, những cơ quan và
cá nhân tham gia thẩm định dự án, những lập luận ủng hộ và phản biện về dự án, báo cáo
đánh giá tác động kinh tế - xã hội của dự án.
- Chủ đầu tư thực hiện dự án, những lý do hay tiêu chuẩn lựa chọn chủ đầu tư.
- Danh sách ứng viên nhà thầu và đơn vị được chọn thực hiện dự án, những tiêu chí đã
được sử dụng để chọn nhà thầu thực hiện dự án.
- Tiến độ thực hiện dự án, những khó khăn mới phát sinh, chênh lệch (nếu có) giữa tiến độ
thực hiện và kế hoạch, nguyên nhân, cá nhân và cơ quan chịu trách nhiệm về nhưng sai sót
hay chênh lệch so với kế hoạch.

Việc rà soát, cắt giảm, bố trí cơ cấu lại và nâng cao hiệu quả đầu tư nhà nước không phải là
việc giản đơn và chỉ thực hiện trong năm nay, mà là một công việc thường xuyên và lâu dài
trong quá trình tái cơ cấu kinh tế, đổi mới mô hình tăng trưởng. Cơ chế mới về quản lý đầu
tư nhà nước không chỉ áp dụng cho việc lựa chọn và quyết định đầu tư đối với những dự án
đầu tư mới mà còn áp dụng để rà soát, cắt giảm và cơ cấu lại danh mục các dự án đầu tư
hiện có.

Cau 1: Đánh giá hoạt động chi tiêu của Nhà nước trong lĩnh vực giáo dục đào tạo?
Cơ chế thị trường mở, nhưng cỗ xe giáo dục Việt Nam trong tình trạng ì ạch triền
miên. Mỗi một năm, nước ta có hàng trăm cuộc hội thảo, hội nghị về giáo dục từ vi mô đến
vĩ mô. Trong đó, “cộm lên” và cũng chưa ngã ngũ là vấn đề có nên chăng xem “giáo dục là
dịch vụ” và “tri thức là hàng hoá”?
Cứ hễ nhắc đến sự xuống cấp của giáo dục, những cán bộ cấp cao trong ngành vẫn
đổ thừa cho “kinh tế thị trường”, cho “thương mại hoá”, cho tính thực dụng, thậm chí cho
sự can thiệp của công nghệ thông tin… và gán cho những cụm từ ấy nhiều tiêu cực mà
quên rằng, vấn đề là ở chỗ con người ứng xử và vận dụng chúng như thế nào.
Qua rồi cái thời người đi học được thụ hưởng một nền giáo dục miễn phí. Năm
2004, Nhà nước chỉ đầu tư 17,2 % trên 150 tỉ ngân sách/ năm cho việc phát triển giáo dục
(trong khi đó, tỷ lệ này ở Thái Lan là: 21,2 %, Hàn Quốc : 28,2 %, Nhật: 18,7 %, Cuba:
30,1 % ).
Tuy nhiên những năm qua, Nhà nước đã không ngừng tăng ngân sách cho lĩnh vực
GD&ĐT với giá trị tăng tuyệt đối trong 3 năm liên tiếp gần đây (2006-2008) đều trên dưới
10.000 tỷ.


Với quan điểm “Giáo dục là quốc sách hàng đầu” mấy năm nay Chi phí cho giáo
dục ở Việt Nam vượt xa các nước phát triển cao! Có thể thấy, chi phí cho giáo dục ở Việt
Nam rất lớn. Tỷ lệ chi phí cho giáo dục trên GDP là 8,3% vượt xa các nước phát triển cao
thuộc khối OECD kể cả Mỹ, Pháp, Nhật và Hàn Quốc. Điều này thể hiện trong chính sách
của Nhà nước Việt Nam, giáo dục và đào tạo luôn được ưu tiên phát triển hàng đầu. Vì vậy,

cơ sở vật chất, cơ sở hạ tầng, trang thiết bị được đầu tư phục vụ cho giáo dục - đào tạo tại
Việt Nam luôn đáp ứng được nhu cầu của học sinh, sinh viên ….
Có người cho rằng cần phải so sánh dựa trên chi phí tính bằng tiền đô la Mỹ, và
như thế chi phí cho một học sinh ở Việt Nam rất thấp. Nhưng điều này không hợp lý vì các
nước có trình độ phát triển khác nhau. Chỉ có so sánh dựa vào khả năng chi phí của nền
kinh tế mới có giá trị phân tích: đó chính là tỷ lệ chi phí trên GDP. Bên cạnh mặt tích cực
đó, ta cũng thấy có những bất cập còn tồn tại:
Chi tiêu cho giáo dục ở VN chiếm 8,3% GDP, vượt cả Mỹ chỉ có 7,2%. Trong tổng số chi
phí cho giáo dục, hiện nay người dân ở Việt Nam phải chi trả 40% cho giáo dục, trong khi
ở các nước phát triển cao: trung bình dân chúng chỉ phải chi trả 20% cho giáo dục, phần
còn lại là từ ngân sách nhà nước. Như vậy: ta thấy 1 bất cập là tuy Việt Nam có nền kinh tế
kém phát triển, thu nhập đầu người thấp nhưng tỉ lệ đóng góp cho giáo dục mà dân chúng
phải chi trả lại chiếm 1 khoản tương đối lớn, tỉ lệ đóng góp này cao gấp đôi so với những
nước phát triển.
Hệ thống giáo dục ở Việt Nam tổ chức khá phức tạp, dẫn đến sự rối rắm trong việc
nắm vững chi phí của nền kinh tế cho giáo dục. Vì vậy, khi nhận được Ngân sách mà Nhà
nước cấp cho, Bộ GD – ĐT phải có chính sách chi tiêu sao cho hợp lý và công khai các
khoản chi phí hiện tại đã sử dụng. Để có thống kê toàn diện, ngoài thống kê do Bộ GD-ĐT
thu thập, Tổng cục Thống kê cũng phải điều tra thu thập những phần mà Bộ không thể
cung cấp.
Cau 2 hiệu quả chi tiêu công để xóa đói giảm nghèo như thế nào ?
.1 Các công cụ để XĐGN :
Ta thấy việc trợ cấp cho người nghèo không có khả năng tự đảm bảo cuộc sống của mình
là một hành động rất thiết thực, sẽ nâng cao mức sống của người dân nghèo trong cùng
một cộng đồng. Nhà nước đã ban hành rất nhiều chính sách an sinh xã hội nói chung và đối
với hộ nghèo, vùng khó khăn nói riêng.


Về mặt kinh tế : Chính sách tín dụng ưu đãi ; chính sách hỗ trợ đất sản xuất cho các hộ
dân tộc thiểu số nghèo ; các dự án nông, lâm, khuyến ngư phát triển các nghành nghề ; các

dự án hỗ trợ phát triển cơ sở hạ tầng cho các vùng đặc biệt khó khăn
Cung cấp hàng hóa công: Chính sách trợ giúp y tế ; chính sách hỗ trợ giáo dục ; chính
sách về nước sạch và nhà ở ; chính sách hỗ trợ pháp lí.
.2 Tính hiệu quả của chương trình :
Nhà nước ta sử dụng các hình thức trên để hỗ trợ cho người nghèo. Vậy hiệu quả của
chương trình được đánh giá thông qua hiệu quả của các hình thức trên như thế nào. Nếu
như thông qua các hình thức trên người nghèo có được hưởng những lợi ích đó hay không,
và đã cải thiện được đời sống của người dân như thế nào thì đó chính là hiệu quả của
chương trình Thông qua các tiêu chí như :
-

Chương trình mang lại phúc lợi gì, tỉ lệ thoát nghèo

-

Đối tượng được nhận

-

Chi phí bỏ ra là thấp nhất

.
Quản lý chi tiêu công ở VN : Nhiều bất cập


Cần gỡ thủ tục cho chi tiêu công

Hiện nay việc quản lý chi tiêu công ở VN đang bộc lộ những tồn tại yếu kém, tính minh
bạch chưa cao, chưa chuyên nghiệp và còn khá hình thức. Chính vì vậy mà đổi mới quản
trị chi tiêu công nhằm đáp ứng các yêu cầu của quản trị công hiện đại được coi là việc

không thể trì hoãn thêm nữa.
Quản trị chi tiêu công theo cách “truyền thống” - đây là nhận định của TS Trịnh Tiến
Dũng - Trợ lý GĐ quốc gia kiêm Trưởng ban Quản trị quốc gia Chương trình Phát triển
Liên Hợp Quốc tại VN khi đánh giá về thực trạng quản trị chi tiêu công ở VN hiện nay. TS
Dũng cho rằng cách quản trị này rất chính tắc nhưng ít năng động và khá hình thức. Cách
làm này đang trở nên ít phù hợp trong bối cảnh VN ngày càng hội nhập sâu vào nền kinh
tế thế giới với cả quyền lợi lẫn nghĩa vụ đầy đủ của một thành viên; do đó, cần phải đổi
mới.
Thiếu dấu ấn “người chủ”


Cũng theo TS Dũng thì thời gian qua, quản trị chi tiêu công ở VN cũng đã bộc lộ những tồn
tại yếu kém rất cơ bản, xét theo tiêu chí quản trị khu vực công hiện đại, phổ biến trên thế
giới như tính công khai minh bạch chưa cao, trách nhiệm giải trình còn hạn chế, hiệu quả
kinh tế - xã hội chưa đạt như mong muốn và đặc biệt chưa có sự tham gia đáng kể của
người chủ đích thực của đồng tiền ngân sách là nhân dân. “Bức tranh ngân sách còn phiến
diện. Hiện các khoản thu chi ngân sách nhà nước chưa được phản ánh toàn diện và đầy đủ
trong ngân sách nhà nước, làm cho bức tranh ngân sách bị méo mó, phiến diện. Theo một
số nghiên cứu, thì có tới 30 quỹ và định chế tài chính các loại chưa được đưa vào cân đối
trong ngân sách nhà nước” - TS Dũng nói.
Cùng quan điểm trên với TS Dũng - PGS TS Trần Đình Thiên - quyền Viện trưởng Viện
Kinh tế VN lại nhận định: Cách phân bổ vốn đầu tư ngân sách thời gian qua còn theo kiểu
bao cấp - chia đều, vẫn mang khá nặng dấu ấn của cơ chế xin cho. Việc chi tiêu ngân sách
chưa thực sự gắn chặt với trách nhiệm đến cùng; chỉ chịu sự ràng buộc của những hình
thức chế tài có hiệu lực không cao, kèm theo đó là năng lực bộ máy còn yếu.
Ông Đào Xuân Tuế - Phó Vụ trưởng Vụ Ngân sách nhà nước, Bộ Tài chính cũng thừa nhận
hiệu quả sử dụng ngân sách nhà nước chưa cao cả trong chi đầu tư phát triển và chi
thường xuyên. Theo ông Tuế, nguyên nhân do công tác xã hội hóa, đổi mới cơ chế hoạt
động đối với các đơn vị sự nghiệp công lập triển khai vẫn còn chậm, kết quả hạn chế dẫn
tới gánh nặng chi ngân sách nhà nước và tình trạng chi tiêu kém hiệu quả, lãng phí chưa

được khắc phục...TS Võ Trí Thành - Trưởng ban Hội nhập kinh tế quốc tế, Viện nghiên cứu
quản lý kinh tế trung ương cảnh báo rằng trong điều kiện khủng hoảng như hiện nay, việc
cứu nền kinh tế khẩn trương, quyết liệt cũng có thể làm sao nhãng bài toán hạn chế lãng
phí, thất thoát trong chi tiêu công. Người ta dễ tạm thời bỏ qua những sai sót trong quá
trình thực thi và tham nhũng, đi kèm thất thoát có thể có thêm đất nảy nở. Theo TS Thành,
phạm vi đối tượng tác động và nguồn quỹ của gói kích thích kinh tế thường khá rộng.
Chẳng hạn như gói kích thích kinh tế dự tính 143.000 tỷ đồng VN. Chính vì vậy, trong ngắn
hạn nó lại khó được giám sát đầy đủ. Chính những điều này, nếu thiếu kiểm soát, có thể
làm gia tăng căng thẳng xã hội trong điều kiện nhóm người nghèo, người dễ bị tổn thương
đang phải hứng chịu những tác động bất lợi nhất từ cuộc khủng hoảng kinh tế.
Cần điều chỉnh Luật ngân sách nhà nước
PGS TS Trần Đình Thiên cho rằng, để có thể giải quyết được những tồn tại trên, thì việc
sửa Luật ngân sách nhà nước không chỉ là cần thiết mà có thể nói là đặc biệt cấp bách bởi
hai lý do: Thứ nhất là với việc gia nhập WTO, nền kinh tế đã chuyển sang giai đoạn mới về
chất, một trình độ phát triển mới. Các thể chế kinh tế hiện hành bao gồm cả những thành
tố cơ bản nhất như Luật ngân sách nhà nước không đáp ứng được yêu cầu mới. Thứ hai là
thực tiễn những năm qua cho thấy có nhiều bất cập trong hoạt động chi tiêu ngân sách nhà
nước nhằm mục tiêu tăng trưởng nhanh và bền vững của nền kinh tế. Tình trạng tăng
trưởng nóng, đầu tư cao nhưng kém hiệu quả, dẫn tới lạm phát cao và bất ổn kinh tế vĩ mô
vài năm gần đây đi liền với xu hướng gia tăng đầu tư dàn trải, trầm trọng hơn tình trạng
lãng phí, thất thoát, tham nhũng... chứng tỏ hiệu quả thấp của hoạt động thu chi ngân sách
và nhiều vấn đề gay gắt đang tồn tại trong lĩnh vực này.


Thực tế cũng chứng tỏ căn bệnh nói trên đang khá nghiêm trọng và có nguồn gốc cơ chế
kinh tế, nằm trong chính sự không phù hợp của Luật ngân sách nhà nước với các điều
kiện, yêu cầu của nền kinh tế sau hơn 20 năm đổi mới và hội nhập quốc tế thành công.
Những vâvs đề nổi cộm trông chi tiêu công đặc biệt là chi tiêu cho bộ máy nhà nước.
Đại biểu Hồ Xuân Phương (Nghệ An) nhấn mạnh đến ý khác, chúng ta hiện đang chi cho
bộ máy hành chính quá nhiều. Năm 2006 tốc độ tăng thu lớn hơn tốc độ tăng chi tức là

6,2% thu so với tăng chi 7,2%. Tốc độ tăng chi thường xuyên, chưa kể tăng chi, mới cũng
cao hơn tốc độ chi cho đầu tư phát triển, tức là 5,4%, trong khi đó chi đầu tư phát triển chỉ
có 5,1%, nghĩa là bội chi mà QH phê chuẩn 5% GDP không được dùng để chi nhiều hơn
cho phát triển mà dùng nhiều hơn để chi cho bộ máy của hệ thống chính trị.
Đồng tình với nhận xét này, đại biểu Đồng Hữu Mạo (Thừa Thiên - Huế) cho rằng, đánh
giá về chi tiêu ngân sách chưa thực sự rõ ràng khi thời gian, định mức chi ngân sách cho
các cơ quan, nhất là khối hành chính sự nghiệp, khối Đảng, các đoàn thể chưa thật sát.
Dự ước về chi năm 2006 cho thấy, chi cho quản lý hành chính ước đạt 107,7% so với dự
toán. Trong khi đó, chi đầu tư phát triển dự ước thực hiện 105,1% so với dự toán. Nếu xét
đơn thuần thì thấy sự bất hợp lý vì chúng ta dành ưu tiên cho tốc độ tăng so với dự toán
của khối hành chính lớn quá. Còn xét thực chất về định mức chi mà ngay từ đầu, xác định
trong dự toán chưa thật sát, có phần nào rất thấp, vì vậy nó không bảo đảm cho hoạt động
của khối hành chính. Cho nên trong quá trình thực hiện là phải tăng, vì vậy đánh giá rất là
khó.
Vừa qua, Chính phủ đã cho phép các đơn vị hành chính sự nghiệp được tự chủ về tài
chính. Theo ông Mạo, việc khoán chi này rất hay, nhưng qua nhiên cứu ông thấy nếu như
định mức chi tiêu hành chính như thế này thì chủ trương của Chính phủ sẽ không thực
hiện được, tức là mức chi cho bộ máy nay vẫn sẽ lớn.
"Cần xây dựng lại chức năng, nhiệm vụ của bộ máy, trên cơ sở đã xác định được biên chế,
vì trong Nghị định của Chính phủ thì khoán luôn cả biên chế hành chính. Nếu như cơ
quan, đơn vị nào đó cứ giảm được biên chế thì cái phần dôi ra về tiền lương, các khoản
theo lương của đơn vị đó đơn vị được hưởng. Ở đây, cần xác định chức năng, nhiệm vụ của
bộ máy rõ ràng, trên cơ sở đó khoán kinh phí và thứ hai là phải xác định một mức chi tiêu
cho hợp lý để trên sở đó mà khoán. Nếu được như vậy thì rõ ràng sẽ thúc đẩy cho việc thực
hành tiết kiệm và chống lãng phí cũng như chống tham nhũng trong các cơ quan hành
chính sự nghiệp", ông Mạo đề xuất.
Dự toán chưa sát thực tế
Theo báo cáo của Chính phủ, ước thu ngân sách Nhà nước năm 2006 đạt 258.600 tỷ đồng,
tăng 8,7% so với dự toán năm và tăng 19,1% so với thực hiện của năm 2005. Với kinh
nghiệm nhiều năm đánh giá và theo dõi tình hình ngân sách, Phó Chủ nhiệm Ủy ban Ngân

sách và Kinh tế Tào Hữu Phùng cho rằng, thực tế sau khi đánh giá trình QH tại kỳ họp này
và số đánh giá vào cuối năm bao giờ nó cũng chênh lệch, mà con số này lên tới 20.000 tỷ


đồng.Do vậy, ông đề nghị Chính phủ cần đánh giá sát hơn, tránh tình trạng là ước thì thấp.
Theo ông Phùng, thu ngân sáhc năm nay có thể cao hơn 3.000-4.000 tỷ đồng nữa.
Ngoài ra, chúng ta đang thất thu một nguồn lớn từ nợ đọng thuế, gần 10.000 tỷ đồng, trong
đó có khoảng 2.000 tỷ đồng vẫn có thể thu hồi được. Hay thu từ khu vực DN ngoài quốc
doanh tuy tăng 4,6% nhưng vẫn còn tiềm năng, bởi đa số DN mới được thành lập đi vào
hoạt động và có nhiều khởi sắc.
Chính vì vậy, dự toán năm 2007 nhìn chung rất tích cực. Song, ông kiến nghị QH nên tính
vào dự toán thu dầu thô tích cực hơn với sản lượng 18 triệu tấn và giá nên tính 65
USD/thùng. Số tăng thêm này khoảng 6.000 tỷ QH không phân bổ cho bất kỳ một nhiệm vụ
chi nào mà đưa hết vào dự phòng, khi nào thu được thì QH phân bổ sau. Thu nội địa cũng
có thể tăng 2.000 tỷ đồng nếu kiên quyết thu nợ đọng thuế và từ hải quan. Số tăng thu này
đề nghị Chính phủ bổ sung cho quốc phòng, an ninh.
Trong khi đó, QH sẽ tiến tới chấm dứt bù lỗ tràn lan, như bù lỗ xăng, dầu như năm ngoái,
lỗ đến 11.000 tỷ không đưa vào dự toán, năm nay lỗ 8.700 tỷ. Việc miễn, giảm thuế cho các
DN cổ phần hoá cũng sẽ kết thúc.
Bởi theo Phó Chủ nhiệm Ủy ban đối ngoại Nguễyn Ngọc Trân, ước tính thuế thu từ DN
không dưới 2.000 tỷ đồng. CPH nếu miễn, giảm thuế cho những DN làm ăn lỗ còn có thể
hiểu được, nhưng những công ty có lợi đến hơn 90 tỷ, lợi nhuận trước thuế đó mà miễn
thuế nữa như vậy thì đây là thất thu rất lớn cho ngân sách.
Một vấn đề khác cũng được một số đại biểu đề cập, đó là nguồn thu từ sổ xố kiến thiết.
Theo Nghị quyết Đại hội Đảng X, nguồn thu này sẽ được sử dụng để đầu tư các công trình
phúc lợi về giáo dục, y tế, bỏ việc coi đây là nguồn thu thường xuyên ổn định của NSNN.
Song, đại biểu Đặng Văn Xướng (Long An) góp ý, đến khi dự toán phân bổ ngân sách TW
và địa phương năm 2007 lại ngầm xem đó như là một nguồn thu ăn chắc, dù trên thực tế
thu xổ số kiến thiết ngày càng khó khăn, nhất là năm 2006 nhiều địa phương không đạt chỉ
tiêu. Các địa phương có thu từ xổ số kiến thiết sắp tới sẽ hụt một

khoảng ngân sách rất lớn.
Những vấn đề của phí và lệ phí. Làm sao giảm lạm thu phí, lệ phí?
Chuyện phí và lệ phí đang nổi lên như một vấn đề thời sự được
nhiều người quan tâm, khi vào hạ tuần tháng 9, Ủy ban Tài chính và
Ngân sách Quốc hội cho rằng đã có tình trạng vi phạm trong việc
thu phí và lệ phí, mà hậu quả là các khoản thu này đang đè nặng
trên vai người dân.
Trước đó, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn cũng đã có văn
bản báo cáo Chính phủ về việc người nông dân hiện đang phải chịu đến 122 khoản thu có
tính cách như thuế.


Theo kết quả giám sát việc thực hiện các quy định của pháp luật về phí, lệ phí, thì việc huy
động đóng góp sức dân đang nảy sinh nhiều vấn đề nổi cộm, gây bức xúc trong nhân dân.
Mức huy động đóng góp tự nguyện của người dân đã được thực hiện tùy tiện tại các địa
phương, gây ra những bất hợp lý giữa các vùng có cùng điều kiện phát triển kinh tế - xã
hội.
Kết quả khảo sát tại 46 tỉnh, thành phố, ở 135 xã, 117 hợp tác xã nông nghiệp của Cục Hợp
tác xã và phát triển nông thôn (Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn) cho thấy đóng
góp của các hộ nông dân ở mức cao và có sự chênh lệch lớn giữa các vùng với mức từ
250.000 đồng - 800.000 đồng, cá biệt có địa phương yêu cầu đóng tới 2 triệu đồng/hộ/năm.
Điều nghịch lý là những vùng kinh tế khó khăn, thu nhập thấp thì mức đóng góp có xu
hướng cao hơn các vùng thuận lợi. Nhiều địa phương đã hành chính hóa các khoản đóng
góp có tính chất tự nguyện thông qua việc giao chỉ tiêu huy động, không phân biệt hoặc
không giải thích cụ thể những khoản đóng góp nào có tính chất bắt buộc và khoản đóng
góp tự nguyện. Thậm chí có địa phương, việc xác nhận những thủ tục hành chính liên quan
đến lợi ích của người dân - vốn là dịch vụ công - cũng phải đóng lệ

Bộ Nông nghiệp & Phát triển nông thôn đề nhị xóa bỏ 18 khoản thu


Đó là các khoản: Đăng ký khai sinh, đăng ký kết hôn, cấp mới hộ khẩu thường trú, đăng ký hộ khẩu thườn
trú, đăng ký khai tử, cấp giấy chứng minh nhân dân, cấp lại bản chính giấy khai sinh, cắt chuyển hộ khẩu,
nhận hộ khẩu, cấp đổi sổ hộ khẩu vì thay đổi địa giới hành chính, chứng thực hồ sơ đi học & đi làm, xác nh
hộ tịch, đăng ký tạm trú & tạm vắng. Đồng thời đề nghị xóa bỏ một số khoản thu khác như quỹ an ninh qu
phòng, quỹ phòng chống lụt bão, quỹ kinh tế mới, xây dựng cơ sở hạ tầng điện hạ thế, thủy lợi phí (một ph

Tổng các khoản đóng góp đề nghị xóa bỏ này ước 1.200 tỉ đồng/năm, trong đó, phí và lệ phí: 20 tỉ đồng; quỹ
ninh quốc phòng: 200 tỉ đồng; quỹ phòng chống lụt bão: 300 tỉ đồng; thủy lợi phí: 650 tỉ đồng…

(Nguồn: Báo cáo về các khoản đóng góp của nông dân và một số chính sách giảm bớt các khoản đóng góp của
nông dân, do Bộ Nông nghiệp & Phát triển nông thôn gửi Chính phủ).

phí.


Ở các đô thị, tình trạng lạm thu phí và lệ phí đang diễn ra thường xuyên và rất đáng lo
ngại. Chẳng hạn ở các trường học, theo quy định của Luật Giáo dục ban hành năm 2005
thì ngoài học phí và lệ phí tuyển sinh, người đi học và gia đình họ không phải đóng thêm
khoản tiền nào khác. Nhưng trên thực tế, dư luận nhiều năm nay vẫn than phiền về vô số
các khoản đóng góp của cha mẹ học sinh, từ xây dựng cơ sở hạ tầng, quỹ phát triển giáo
dục, tiền điện, tiền nước, tiền mua và sửa chữa máy vi tính cho nhà trường…
Điều gì đã khiến tình trạng này hàng chục năm qua chưa được điều chỉnh? Do ngân sách
thiếu hụt, do sự tùy tiện của các địa phương hay sự cố tình lạm dụng những chủ trương
đúng đắn của Nhà nước nhằm mang lại lợi ích cục bộ, thậm chí lợi ích cá nhân? Và tại sao
trong 340 loại phí và lệ phí mà Chính phủ chỉ đạo các địa phương phải bãi bỏ thì một số
nơi vẫn chưa thực hiện?
Theo đánh giá của Ủy ban Tài chính và Ngân sách Quốc hội, Chính phủ vẫn chưa bao quát
hết những khoản phát sinh từ phí và lệ phí không còn phù hợp với cơ chế thị trường. Bà
Trương Thị Mai, Chủ nhiệm Ủy ban các vấn đề xã hội của Quốc hội nhận xét: “Do ngân
sách hạn hẹp, Nhà nước không thể hoàn toàn lo nổi tất cả các vấn đề, vì vậy người dân phải

tham gia đóng góp cùng với Nhà nước.
Tuy nhiên, người dân tham gia mức độ nào, Nhà nước tham gia mức độ nào, thì phải công
khai, minh bạch. Trong thực tế điều này còn nhập nhằng. Hàng năm kinh phí dành cho
giáo dục vẫn tăng, song hiệu quả ra sao, người dân đóng góp như thế nào thì chưa làm rõ.
Trong hoạch định các chính sách sắp tới, cần thiết phải làm rõ phần nào của Nhà nước lo,
phần nào của người dân tham gia. Chính sách cũng phải phân chia theo các vùng, miền
khác nhau. Làm rõ những vấn đề đó thì người dân mới thấy được sự đóng góp của mình
cùng với Nhà nước là hữu ích”.
Để giảm bớt gánh nặng cho người dân, mới đây Ủy ban Tài chính và Ngân sách Quốc hội
đã yêu cầu Chính phủ xem xét bãi bỏ một số loại phí, lệ phí liên quan đến mọi công dân
thuộc các lĩnh vực dịch vụ công mà các cơ quan hành chính có trách nhiệm cung cấp, như
cắt chuyển, xác nhận, cấp đổi, đăng ký hộ khẩu; đăng ký tạm trú, tạm vắng; đăng ký khai
tử; chứng thực hồ sơ đi học… Ủy ban còn đề nghị Chính phủ nghiên cứu quy định chính
sách xã hội thông qua hình thức bảo hiểm y tế để người nghèo có điều kiện được chăm sóc
sức khỏe tốt hơn. Đồng thời sớm chỉ đạo phương án đổi mới chính sách học phí đối với các
cơ sở đào tạo công lập, tư thục và từng bước tính toán đầy đủ các khoản thu hợp lý vào học
phí, để chấm dứt tình trạng lạm thu trong học đường.
Hiện nay có nhiều khoản thu phí và lệ phí mà các địa phương, các ngành đặt ra nhưng
không kiểm soát nổi, cũng rất cần được bãi bỏ. Chính điều này khiến cho yêu cầu minh
bạch các khoản thu phí và lệ phí càng trở nên cần thiết, bởi cũng như trong việc đóng thuế,
người dân cần biết đồng tiền đóng góp của mình có mang lại hiệu quả gì không?
Có thể dẫn chứng trường hợp cụ thể diễn ra trong năm 2006, sau khi Chính phủ ban hành
các quy định chi tiết thi hành Pháp lệnh phí và lệ phí qua đó nhiều khoản thu phí được bãi
bỏ, vậy mà tổng thu về phí tăng, nguyên nhân là do sự phân công rạch ròi cho các địa


phương thu phí và nhiều công trình hạ tầng đã phát huy hiệu quả nhờ sự đóng góp của
người dân.
Để hạn chế việc thu phí và lệ phí tùy tiện, các địa phương cũng nên khuyến khích người
dân phát huy tinh thần dân chủ. Điều 15 Pháp lệnh về phí và lệ phí ghi rõ: Tổ chức, cá nhân

thu phí, lệ phí phải cấp chứng từ thu. Trường hợp không được cấp chứng từ, hay cấp
chứng từ không đúng qui định của Bộ Tài chính thì người dân có quyền khiếu nại, tố cáo
với cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
Trong bất cứ lĩnh vực nào, sự minh bạch đều hạn chế được tiêu cực, với phí và lệ phí thì sự
minh bạch cũng giúp làm nhẹ bớt gánh nặng đóng góp hiện nay của người dân.
Nhưng điều chỉnh của nhà nước về phí và lệ phí để hỗ trợ nhân dân.
Việc huy động đóng góp sức dân đã nảy sinh nhiều vấn đề nổi cộm, gây bức xúc trong nhân dân. Việc
mỗi hộ dân phải thường xuyên đóng góp khoảng 28 khoản/năm cho xã và hợp tác xã là quá nhiều, gây
khó khăn cho người dân, đòi hỏi phải sớm điều chỉnh.

Lệ phí đóng góp mỗi năm đang đè nặng vai người nông dân nghèo.

Tại phiên họp chiều 20/9, Ủy ban Thường vụ (UBTV) Quốc hội nghe báo cáo và thảo luận
kết quả giám sát việc chấp hành pháp luật về thực hiện một số biện pháp xử lý hành chính;
kết quả giám sát việc thực hiện các quy định của pháp luật về phí, lệ phí.
Theo kết quả giám sát việc thực hiện các quy định của pháp luật về phí, lệ phí, chính sách
huy động sức dân thông qua các khoản đóng góp tự nguyện dưới hình thức "Nhà nước và
nhân dân cùng làm" đã đáp ứng được yêu cầu thiết yếu về sản suất, đời sống của nhân dân,
góp phần giảm đáng kể ngân sách nhà nước đầu tư cho nông nghiệp, nông thôn trong điều
kiện tích lũy của nền kinh tế còn thấp.
Tuy nhiên việc huy động đóng góp sức dân đã nảy sinh nhiều vấn đề nổi cộm, gây bức xúc
trong nhân dân. Việc mỗi hộ dân phải thường xuyên đóng góp khoảng 28 khoản/năm cho
xã và hợp tác xã chiếm từ 2,5 - 5,2% mức thu nhập bình quân một hộ là quá nhiều, gây khó
khăn cho người dân, đòi hỏi phải sớm điều chỉnh.
Mức huy động đóng góp tự nguyện của người dân còn được thực hiện tùy tiện tại các địa
phương, gây ra những bất hợp lý giữa các vùng có cùng điều kiện phát triển kinh tế-xã hội.
Kết quả khảo sát tại 46 tỉnh, thành phố, ở 135 xã, 117 hợp tác xã nông nghiệp của Cục Hợp
tác xã và phát triển nông thôn ( Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn) cho thấy đóng
góp của các hộ nông dân ở mức cao và có sự chênh lệch lớn giữa các vùng với mức từ
250.000 đồng - 800.000 đồng, cá biệt có địa phương yêu cầu đóng tới 2 triệu đồng/hộ/năm.

Điều nghịch lý là những vùng kinh tế khó khăn, thu nhập thấp thì mức đóng góp có xu


hướng cao hơn các vùng thuận lợi. Nhiều địa phương đã hành chính hóa cách khoản đóng
góp có tính chất tự nguyện thông qua việc giao chỉ tiêu huy động, không phân biệt hoặc giải
thích cụ thể những khoản đóng góp nào có tính chất bắt buộc và khoản đóng góp tự
nguyện.
Thậm chí có địa phương gắn việc thực hiện các khoản đóng góp tự nguyện với việc chính
quyền xác nhận những thủ tục hành chính liên quan đến lợi ích của người dân, gây tâm lý
bức xúc trong nhân dân. Đặc biệt, việc sử dụng các khoản đóng góp của dân ở một số nơi
còn tùy tiện, không có quy chế, thiếu dân chủ, nên không phát huy được vai trò giám sát
của người dân, cộng đồng hưởng lợi ích công trình.
Ủy ban Tài chính và Ngân sách của Quốc hội cho rằng do chế tài xử lý vi phạm pháp luật
về phí, lệ phí cho đến nay chưa được ban hành hướng dẫn thực hiện, gây nên tình trạng
thiếu quy định pháp lý đủ mạnh có tính răn đe đối với các bộ, ngành, chính quyền các cấp,
các tổ chức, cá nhân trong việc chấp hành nghiêm quy định của pháp luật về phí, lệ phí.
Cần tiếp tục đổi mới công tác quản lý phí, lệ phí nhằm đảm bảo sự đồng bộ, nhất quán
trong hệ thống pháp luật về phí, lệ phí; làm rõ quan hệ giữa phí, lệ phí và giá dịch vụ. Cần
tăng cường quản lý Nhà nước đối với hoạt động thu phí, lệ phí bằng cách rà soát lại các
khoản đóng góp của nhân dân để loại bỏ những khoản thu bất hợp lý, đồng thời xác định
lại những khoản thu cần thiết phải huy động sự đóng góp của nhân dân để thực hiện
phương châm " Nhà nước và nhân dân cùng làm" nhằm tăng cường nội lực cho xây dựng
cơ sở hạ tầng, nhất là ở vùng nông thôn.
Ủy ban Tài chính và Ngân sách của Quốc hội kiến nghị Chính phủ chỉ đạo các bộ, ngành,
địa phương khẩn trương ban hành những văn bản hướng dẫn đối với một số khoản phí, lệ
phí trong danh mục có khả năng thu nhưng chưa thực hiện thu; tăng cường kiểm tra, kiểm
soát việc chấp hành quy định về chế độ thu, nộp, quản lý, sử dụng đảm bảo các khoản thu
phí, lệ phí được sử đúng mục tiêu, đúng chế độ, tiêu chuẩn...
Theo đại biểu Trần Thế Vượng, báo cáo kết quả giám sát việc thực hiện các quy định của
pháp luật về phí, lệ phí đã chỉ ra được những mặt được, chưa được trong hoạt động thu

phí, lệ phí. Để ngăn chặn tình trạng mỗi nơi, mỗi ngành đặt ra các khoản thu, mức thu
khác nhau, không kiểm soát nổi như hiện nay, cần làm tốt công tác quản lý Nhà nước đối
với hoạt động thu phí, lệ phí.
Đại biểu Đào Trọng Thi cho rằng, cần thay đổi quan điểm về dịch vụ công có chất lượng
cao đối với nhu cầu sử dụng của người dân. Khi người dân yêu cầu được sử dụng dịch vụ
công có chất lượng cao thì cần có cơ chế cho phù hợp với bối cảnh hiện nay...
TTXVN


Bắc Ninh tuy là địa phương có diện tích nhỏ (nhỏ nhất cả nước) nhưng quy mô dân số đông
với hơn 1 triệu dân, lại có vị trí địa lý cận kề thủ đô Hà Nội, tiếp giáp với nhiều đầu mối
kinh tế quan trọng. Hơn 10 năm qua, Bắc Ninh luôn là tỉnh giữ nhịp độ tăng trưởng kinh
tế- xã hội ở tốp đầu các tỉnh đồng bằng Bắc bộ.
Thực tiễn qua hoạt động phân bổ ngân sách chi thường xuyên tại tỉnh Bắc Ninh đặt ra một
số vấn đề cơ bản sau:
1. Hàng năm, cơ quan chuyên môn giúp việc UBND tỉnh (Sở Tài chính) cần rà soát, phân
tích xác định định mức chi hợp lý, mỗi khoản chi thường xuyên lệ thuộc để từ đó tham
mưu cho UBND tỉnh phân định rõ: định mức và khối lượng. Định mức có nhiều loại: Định
mức cơ sở, định mức ngành, định mức địa phương, định mức quốc gia. Định mức là cơ sở
để quản lý, (trước khi xác định mức chi thường xuyên phải rà soát để “căn chỉnh” định
mức đã có), loại bỏ những hạng mục chi không cần thiết từ đó thiết lập hệ thống định mức
mới.
Trong nhiều năm qua tỉnh Bắc Ninh đã xác lập được hàng ngàn định mức chi cho các cấp,
các nội dung cụ thể và đã điều chỉnh được 40% định mức, xây dựng mới 30% lượng định
mức đủ để làm căn cứ quản lý và xây dựng kế hoạch ngân sách.
2. Xây dựng dự toán chi thường xuyên sát thực tế và đúng quy định. Khi cân đối ngân
sách, chi thường xuyên lệ thuộc định mức phân bổ từ Trung ương, nhưng mỗi cơ sở thụ
hưởng thường viện dẫn căn cứ tính dự toán là định mức chi; nếu lấy định mức phân bổ thì
không đáp ứng hết nhu cầu thực tế, nếu lấy định mức chi thì dễ phá vỡ cơ cấu. Để làm tốt
việc xây dựng dự toán chi thường xuyên, tỉnh Bắc Ninh đồng thời giải quyết các vấn đề:

- Tinh gọn bộ máy, phân định rạch ròi chức năng, nhiệm vụ của mỗi cơ quan, đơn vị, mỗi
cấp. Việc hợp nhất, tách chia, lồng ghép nhiệm vụ để có bộ máy tinh gọn giúp cho cơ quan
xây dựng dự toán cân đối ngân sách phù hợp bảo đảm đủ nguồn để hoạt động. Giải quyết
tốt vấn đề này sẽ xác định chuẩn xác đối tượng hưởng chi ngân sách..
- Giải quyết hài hoà định mức chi trong tổng định mức phân bổ được giao yêu cầu phải
đạt được là định mức chi có căn cứ thuyết phục của từng loại công việc thuộc danh mục
tổng nguồn, tổng các cơ cấu được phân định. Chỉ xử lý một số trường hợp đặc biệt khi cơ
quan co thẩm quyền cho phép.
Với cách làm đó, dự toán chi thường xuyên của các đối tượng thụ hưởng ở Bắc Ninh đã
được hài hoà, công khai, công bằng và đảm bảo để các đơn vị hoạt động.
3. Đề cao vai trò xã hội hoá nguồn lực, sử dụng lồng ghép nguồn lực để nâng cao nguồn lực
tài chính cho chi thường xuyên. Xã hội hoá cần chỉ rõ loại gì, bao nhiêu, cơ sở pháp lý, tính


ổn định, vững chắc. Nếu có những chương trình mục tiêu, chương trình trọng điểm thì lồng
ghép để tránh trùng lặp.
4. Quản lý chặt chẽ chi tiêu trong năm kế hoạch nhằm hạn chế tối đa thất thoát, sử dụng
sai mục đích ngân sách. HĐND-UBND tỉnh Bắc Ninh yêu cầu mỗi đơn vị thụ hưởng phải
quản lý chặt chẽ quá trình thực hiện. Chẳng hạn, khi mua sắm phải tìm nguồn cung cấp,
đấu giá, đấu thầu nhằm tiết kiệm nhất, phải tuân thủ quy tắc quản lý, sử dụng tài sản
công…Hàng năm tỉnh luôn đặt ra mục tiêu tiết kiệm chi trong khuân khổ quy định, nhờ đó
100% các đơn vị dự toán không bị phá vỡ, không để nợ đọng phải thu, phải trả.
5. Đề cao trách nhiệm của người đứng đầu kết hợp với kiểm tra, thanh tra thường xuyên
nhằm chấn chỉnh, phát hiện, xử lý trong khi thực hiện dự toán chi thường xuyên. Tỉnh Bắc
Ninh yêu cầu các khối cơ quan quản lý cấp trên, các cơ quan chuyên môn phải có tối thiểu
2 cuộc kiểm tra, thanh tra/năm. Do vậy, những sai sót được phát hiện giúp các đơn vị hoạt
động đúng quỹ đạo, tránh những tổn thất không đáng có.
6. Tỉnh Bắc Ninh gắn việc chấp hành dự toán chi thường xuyên, mức độ thực hiện nhiệm
vụ chuyên môn, chính trị trong các cuộc sơ kết, tổng kết, chấm điểm thi đua hàng năm,
bình xét các tổ chức đảng, công đoàn, đoàn thanh niên theo khối. Việc làm thường xuyên nề

nếp này có tác dụng khuyến khích từng đơn vị tự xác định được mức độ thi đua và tạo lập
thói quen sử dụng hiệu quả nguồn ngân sách.
Nhiều năm qua, bằng những biện pháp đồng bộ, dự toán ngân sách nhà nước tỉnh Bắc
Ninh liên tục hoàn thành xuất sắc, chi thường xuyên được đảm bảo, kết quả tích cực đó đã
góp phần xây dựng nền tài chính lành mạnh, thúc đẩy toàn bộ sự nghiệp công nghiệp hoá,
hiện đại hoá của tỉnh tiến bộ vững chắc, tạo được dấu ấn: Tăng trưởng kinh tế bình quân 5
năm qua là 13,8%/năm, an sinh xã hội được đảm bảo, đời sống nhân dân được nâng cao rõ
rệt, từng bước phát triển kinh tế - xã hội theo hướng bền vững.

Chi tiêu của chính phủ cần phải minh bạch
Tags: Klaus Roland, chi tiêu của chính phủ, ngân hàng thế giới, giám đốc ngân hàng, được
đưa vào, chi tiêu công, ngân sách, đầu tư, minh bạch, đánh giá, hiệu quả, cần phải, VN,
tăng, quan
Trao đổi với TS
, ông Klaus Roland - Giám đốc Ngân hàng thế giới tại VN - nhận xét, nhiều
cơ quan của Chính phủ VN chưa thực sự biết được khoản chi nào được đưa
vào ngân sách và khoản nào không được đưa vào. Do vậy, khó đánh giá
được hiệu quả sau đầu tư.


- Thưa ông, tại sao cần minh bạch trong chi tiêu của Chính phủ?
- Qua bản báo cáo chi tiêu công của Chính phủ vừa công bố, chúng ta thấy được những chỉ
tiêu của VN là tương đối khả quan, và không phải tất cả những khoản chi tiêu đều được
đưa vào trong ngân sách. Khi công khai tài chính, sẽ thấy được mô hình chi tiêu hiện tại để
phân tích những điểm mạnh và điểm yếu.
Cần đưa khuôn khổ tài chính trung hạn vào trong báo cáo chi tiêu công trong 5 năm tới, và
tìm ra vấn đề nào là quan trọng để đưa vào kế hoạch chi tiêu công.
- Vậy theo ông, ngành nào cần tăng chi hoặc giảm chi trong thời gian tới?
- Khi nói đến chi tiêu công, chúng ta không thể đưa ra quyết định vội vàng, không nên nhìn
vào tổng thể mà phải nhìn vào từng ngành, từng lĩnh vực. Chúng tôi đã cung cấp nhiều con

số, sự kiện để các bạn cân nhắc tập trung đầu tư vào lĩnh vực nào và giảm chi ở lĩnh vực
nào.
Tuy nhiên, tôi thấy việc chi tiêu thường xuyên để duy trì và bảo dưỡng các công trình hiện
còn hạn chế, cần tăng cường trong thời gian tới. Khoản chi tiêu này rất quan trọng, đặc
biệt trong giao thông vận tải và thuỷ lợi.
Còn ngành giáo dục thì cần cân nhắc giảm chi tiêu thường xuyên và tăng chi tiêu đầu tư.
- Đầu tư mới nhiều công trình cũng đồng nghĩa tiềm ẩn rủi ro, liệu VN nên hạn chế rủi ro
bằng cách nào, thưa ông?
- Cho đến giờ, tôi đánh giá những dự án đầu tư vào VN có ảnh hưởng tích cực đến kinh tế
xã hội. Tuy nhiên, do một số tác động nên kết quả không được như ý muốn. Vậy, các dự án
cần cân nhắc và lựa chọn khá kỹ lưỡng để mang lại hiệu quả tốt, không chỉ là phát triển
kinh tế mà còn cho xoá đói giảm nghèo. Các bạn có thể thấy kinh nghiệm của các nước
khác để giảm thiểu lãng phí khi đầu tư là ngày càng tăng cường chất lượng đầu tư.
Để giải quyết điều đó, cần đánh giá cẩn thận dự án đầu tư. Theo tôi, một trong những tiêu
chí là cân nhắc dự án đó có đem lại lợi ích cho người dân VN hay không.
- Dư luận cho rằng, một số nhà tài trợ đầu tư theo chiều hướng có lợi cho họ hơn là hiệu quả
xã hội cho VN, ông nghĩ sao?
- Tất nhiên, các nhà đầu tư cũng phải nhìn thấy lợi ích của bản thân họ, song vấn đề đặt ra
ở đây là hài hoà lợi ích của nhà tài trợ và của VN.
Đánh giá chi tiêu công của VN năm 2004:
Xu hướng tài khoá và bền vững tài khoá: VN đã thận trọng trong chính sách tài khoá, với
mức thâm hụt tương đối nhỏ.


Tổng nợ (cả nợ nước ngoài và nợ trong nước) khá thấp và tỷ lệ chi tiêu công so với GDP
bền vững.
Cơ cấu chi tiêu công:
Tốc độ tăng chi bình quân hàng năm tăng trên 16%, cao hơn tốc độ tăng trưởng nhờ thu
ngân sách có nhiều tiến bộ.
Chi đầu tư phát triển tư nhân tăng nhanh.

Phân bổ ngân sách đã thành công trong hỗ trợ người nghèo (giảm số hộ nghèo từ 58%
năm 1993 xuống còn 26%).
10 khuyến nghị chính theo kết quả chi tiêu công:
- Xây dựng khuôn khổ tài khoá
- Động viên ngân sách và xu thế ngân sách
- Quản lý rủi ro
- Xây dựng quan hệ hợp lý giữa chi đầu tư và chi thường xuyên
- Giám sát công khai tài chính và quản lý quỹ tài chính cấp huyện và xã
- Nâng cao hệ thống tính toán bổ sung cân đối ngân sách hiện tại
- Củng cố cơ chế huy động vốn cho chính quyền địa phương
- Giao quyền tự chủ tài chính và xã hội hoá
- Cung cấp vốn ODA theo hình thức hỗ trợ ngân sách
- Chương trình thực hiện chi tiêu công.
Chi tiêu cho giáo dục: Những con số "giật mình"!
Tags: Việt Nam, Bộ GD, Hàn Quốc, tổng cục thống kê, các nước phát triển, ngân sách nhà
nước, giáo dục, chi phí, tỷ lệ, chi tiêu, dựa vào, thu nhập, tính, cao, trường
- Từ New York (Mỹ) chuyên viên thống kê cao cấp của Liên Hợp Quốc Vũ Quang Việt gửi
tới TS những phân tích thú vị về chi tiêu cho giáo dục Việt Nam rút ra qua những số liệu
tính và phương pháp tính toán của bản thân. TS xin giới thiệu những kết luận cũng như
phương pháp của tác giả, đồng thời, mong nhận được ý kiến bạn đọc về vấn đề này.
Chi tiêu cho giáo dục ở Việt Nam trong khoảng thời gian
năm 2000-2005 rất lớn so với mức thu nhập của người dân
và thu nhập của cả nước. Một vài con số sau đây thể hiện
điều đó:
Chi tiêu cho giáo dục ở VN năm 2005 chiếm 8,3% GDP, vượt
cả Mỹ chỉ có 7,2%.
Trong chi tiêu trên, dân các nước phát triển cao chi trả 20%,
Số HS tiểu học đang giảm, từ còn ở Việt Nam dân chi trả tới 40%. Phần còn lại là nhà
9,7 triệu (năm 2000) xuống nước chi trả.
7,8 triệu (năm 2004) trong

khi dân số vẫn tăng (Ảnh:
Nguyên Vũ)


Tuy nhiên, do việc quản lý tổ chức giáo dục bất hợp lý, trường phải thu thêm, trò phải học
thêm nên so với lương chính thức năm 2004 của giáo viên tính bình quân chỉ có 14 triệu
đồng, thu nhập thật gồm lương chính thức và phụ thu bình quân một giáo viên có thể đạt ít
nhất là 31 triệu đồng, tức là hơn gấp đôi lương chính thức.
Tỷ lệ chi tiêu cho giáo dục cao như thế, nhưng môt điều đáng lo lắng mà ít người để ý là số
học sinh tiểu học, cơ sở của bất cứ một nền giáo dục nào, hình như đang bỏ học hoặc không
đi học. Theo số liệu của Bộ GD-ĐT, số HS tiểu học đang giảm, từ 9,7 triệu (năm 2000)
xuống 7,8 triệu (năm 2004) trong khi dân số vẫn tăng. Tình hình này khó hiểu. Phải chăng
dân nghèo không đủ sức gửi con đến trường hay là do một lý do nào khác? Bộ GD ĐT cần
có một câu trả lời về vấn đề này.
Những kết luận trên dựa vào số liệu chính thức của Bộ GD - ĐT, của Tổng cục Thống kê và
số liệu tính theo phương pháp gián tiếp của tác giả.
Những kết quả đáng lưu ý
* Chi phí cho giáo dục ở Việt Nam vượt xa các nước phát triển cao!
Có thể thấy, chi phí cho giáo dục ở Việt Nam rất lớn (bảng 1). Tỷ lệ chi phí cho giáo dục
trên GDP là 8,3% vượt xa các nước phát triển cao thuộc khối OECD kể cả Mỹ, Pháp, Nhật
và Hàn Quốc(bảng 1 và 2). Có người cho rằng cần phải so sánh dựa trên chi phí tính bằng
tiền đô la Mỹ, và như thế chi phí cho một HS ở Việt Nam rất thấp. Nhưng điều này không
hợp lý vì các nước có trình độ phát triển khác nhau. Chỉ có so sánh dựa vào khả năng chi
phí của nền kinh tế mới có giá trị phân tích: đó chính là tỷ lệ chi phí trên GDP.
Kết quả này cũng cho ta so sánh mức trách nhiệm chi phí cho giáo dục: từ ngân sách nhà
nước và từ đóng góp của nhân dân (bảng 2). Người dân hiện nay ở Việt Nam chi trả 40%
chi phí giáo dục, trong khi ở các nước phát triển cao trung bình dân chúng chỉ chi trả 20%,
phần còn lại là từ ngân sách nhà nước.
Bảng 1.Tỷ lệ chi phí cho giáo dục ở Việt Nam 2000-2005
2000


2002

2003

2004

2005

Tổng chi cho
23,219
giáo dục (tỷ)
25,882

34,088

37,552

54,223

68,968

Tỷ lệ
5.3
chi/GDP (%)

6,4

6.1


7.6

8.3

3,8

3.7

4.6

5.0

Tỷ lệ ngân
sách cho giáo 3.2
dục /GDP

2001

5.4
3.2

(Nguồn: Bộ GD-ĐT và Ngân sách nhà nước. Tổng chi và tỷ lệ chi là do tác giả tự tính)


Bảng 2. Số liệu so sánh chi tiêu cho giáo dục ở Việt Nam và các nước
Việt
Mỹ
Nam

Pháp


Nhật

Hàn
Quốc

OCDE

Chi tiêu cho giáo
dục/GDP (%)

8.3

7.2

6.1

4.7

7.1

6.1

Từ ngân sách

5

5,3

5.7


3.5

4.2

4.9

Từ dân và các
nguồn khác

3,3

1,9

0.4

1.2

2.9

1.2

Từ ngân sách

60

74

93


74

59

80

Từ dân và các
nguồn khác

40

26

7

26

41

20

Tỷ lệ chi tiêu cho
giáo dục (%)

(Nguồn: Số liệu VN là cho năm 2005 do tác giả tính. Số liệu các nước khác là cho năm 2002
từ OECD, Education at a Glance 2005)
* Thu nhập của giáo viên: bị rơi vãi!
Dựa vào chi phí cho giáo dục ở Việt Nam như trên và dựa vào tỷ lệ 62,3% chi phí thường
xuyên cho giáo dục là để trả lương (theo tỷ lệ hiện nay ở Việt Nam), ta có thể thấy là thu
nhập của giáo viên, tính một cách bình quân có thể lên tới 31 triệu đồng một năm vào năm

2004, gấp hơn 2 lần lương nhận chính thức. Với ngân sách tăng cho giáo dục vào năm 2005,
thu nhập có thể lên tới 38,5 triệu đồng nếu như hệ thống giáo dục được tổ chức và điều
hành qui củ và hợp lý.
Vấn đề thực tế là giáo viên không nhận được thu nhập như thế, mặc dù thu nhập nhận
được cao hơn lương chính thức, vậy thì phần này rơi vãi nơi đâu? Điều này cho thấy việc
phân tích thường xuyên chi phí giáo dục là đòi hỏi cấp bách để nâng cao hiệu quả của hệ
thống giáo dục.
Bảng 3.Thu nhập và lương giáo viên:
2000
Tổng chi thường 21,367
xuyên cho giáo

2001

2002

2003

2004

2005

23,522

31,080

34,352

49,323 62,735



dục (tỷ)
Chi lương (tỷ)

13,312

14,654

19,363

21,401

Giáo viên

836,127 869,038 905,295 943,725

30,728 39,084
979,5481,014,638

Thu nhập của
15.92
giáo viên (triệu)

16.86

21.39

22.68

31.37


Lương chính thức
(triệu, NG Thống 7.38
kê)

8.70

9.40

12.19

13.97

38.52

(Nguồn: Lương chính thức là từ Niên Giám Thống Kê 2005, Nxb Thống kê, Hà Nội, 2005.
Phụ thu do tác giả tính)
* Có cần chạy đua không tưởng về số lượng SV ĐH?
Một điểm nữa cần thấy là hệ thống giáo dục Việt Nam đang nằm ở mức kỳ vọng cao, mọi
nỗ lực đều nhằm xây dựng thêm ĐH , tạo ra nhiều SV mà không để ý đầy đủ đến trường
dạy nghề, trung học và CĐ chuyên nghiệp.
Hiện nay số SV trên số dân là 1.6%. Tỷ lệ này so với Thái Lan ở mức 2% không phải là
nhỏ. Nhưng đề án tăng tỷ lệ này lên 2,0 trong 5 năm tới (2010) và 4,5% trong 15 năm tới
(2020) liệu có đúng hướng không?
Tỷ lệ trung bình ở các nước pháp triển cao OECD dựa vào nguồn số liệu về giáo dục của
OECD (Education at a Glance 2005) là 4,3% (có nước cao như Hàn Quốc là 6,7%, Mỹ
5,7%, nhưng có nước thấp như Tây Đức 2,6%, Mexico 2,1%).
Một vấn đề khác cần được nhận thức là HS Việt Nam đi học là nhằm lên ĐH kiếm bằng
cấp thay vì học nghề để đáp ứng với yêu cầu của nền kinh tế. Do đó mà ở cấp trung học, số
HS các trường chuyên nghiệp ở Việt Nam hiện nay chỉ chiếm 14% tổng số HS trung học.

Tại các nước phát triển cao OECD, tỷ lệ HS ở các trường chuyên nghiệp lên tới 45%. Phải
chăng đã đến lúc cần xét lại chính sách giáo dục một cách rốt ráo thay vì chỉ nhằm chay
đua bắt kịp các nước tiên tiến một cách không tưởng về số lượng SV ĐH?
***
Những kết luận trên dựa vào số liệu chính thức của Bộ GD - ĐT, của Tổng cục Thống kê và
số liệu tính theo phương pháp gián tiếp của tác giả.
Người đọc có thể đặt dấu hỏi về số liệu tính gián tiếp, nhưng đây là chuyện thông thường
trong nghiên cứu, nhất là khi thiếu thốn số liệu chính thức. Phương pháp thống kê ít ra là
minh bạch, khách quan, và như thế đáng tin cậy hơn là các loại suy chủ quan. Hy vọng là
dù có thiếu sót, phân tích chi tiêu này cho phép các nhà làm chính sách có được một cái


nhìn ban đầu về chi tiêu giáo dục. Cũng hy vọng là Bộ GD-ĐT, Tổng cục Thống kê thu thập
thêm số liệu và minh bạch hoá chí phí về giáo dục để làm cơ sở cho việc hình thành và theo
dõi tác động cũng như hiệu quả của chính sách.
Nắm vững chi phí của nền kinh tế cho giáo dục: Rối rắm
Hệ thống giáo dục ở Việt Nam tổ chức khá phức tạp, dẫn đến sự rối rắm trong việc nắm
vững chi phí của nền kinh tế cho giáo dục.
Hệ thống giáo dục ở Việt Nam gồm:
(a) Hoạt động của Bộ GD-ĐT và các trường trực thuộc Bộ do Bộ dựa vào ngân sách
nhà nước cấp cho Bộ; Bộ cấp lại cho trường hoặc địa phương phụ thuộc. Tuy nhiên,
Bộ lại cho phép trường thu thêm học phí, nhận thêm SV (tại chức và các loại không
được tuyển theo đường cạnh tranh chính thức).
(b) Ngoài học phí thu thêm là các dịch vụ do trường làm thêm hoặc trường nhận được
từ doanh nghiệp. Ngoài ra, các trường, kể cả Bộ, cũng đều nhận viện trợ từ nước
ngoài. Các nguồn này nằm ngoài ngân sách nhà nước. Năm 2000, nguồn ngoài ngân
sách bằng 41% nguồn từ ngân sách..
(c) Các trường độc lập với Bộ GD-ĐT, hoặc thuộc các Bộ khác và địa phương có ngân
sách do Bộ khác hoặc địa phương cấp. Đây là các chi phí mà Bộ GD-ĐT không nắm
được.

(d) Các trường tư thục mà Bộ GD-ĐT quản, Bộ cũng không biết rõ chi phí.
(e) Các chi phí cho việc học thêm tất nhiên Bộ GD-ĐT cũng không nắm được.
Để có thống kê toàn diện, ngoài thống kê do Bộ GD-ĐT thu thập, Tổng cục Thống kê cũng
phải điều tra thu thập những phần mà Bộ không thể cung cấp.
Phương pháp tính tổng chi tiêu cho giáo dục
Ngân sách Bộ GD-ĐT cho phép biết chi phí ở phần (a).
Chi phí ngoài ngân sách ở phần (b) dựa vào các tỷ lệ cơ bản mà Bộ xuất bản năm 2000 và
thống kê chi tiết do Tổng cục thống kê thu thập cho năm 2000. Tỷ lệ này được áp dụng cho
những năm sau đó, mặc dù tác giả biết rằng tỷ lệ này là thấp so với thực tế hiện nay. Một
phương pháp khác mà nhiều người dùng để ước tính chi phí thêm là dựa vào học phí thu
thêm từ HSSV được báo chí nói tới. Những con số này lớn hơn con số đưa ra trong bài này
nhưng có thể không chính xác, do đó tác giả quyết định chọn cách làm bảo thủ là dùng các
tỷ lệ điều tra của Tổng cục Thống kê trong năm 2000.
Phần (b) không tính tới 2 tỷ US chi làm sách giáo khoa trong thời kỳ 2002-2007 (theo GS
Nguyễn Xuân Hãn trong bài “Còn có thể giảm học phí!”, Tiền Phong online 29/9/2005).


Chi phí ở phần (c), (d) và (e) là dựa vào tỷ lệ điều tra về giá trị sản lượng dịch vụ giáo dục
do Tổng cục Thống kê (TCTK) tính cho năm 2000 trong bảng Cân đối Liên ngành của Việt
Nam Năm 2000, NXB Thống kê, Hà Nội 2003.
Theo nguyên tắc, chi phí cho giáo dục là tổng của giá trị sản phẩm giáo dục tính theo
TCTK và chi phí đầu tư cho giáo dục. Tuy nhiên vì thiếu số liệu, cách tính của bài này là
không tính thẳng mà dựa vào hệ số tính từ số liệu năm 2000 của TCTK.
Theo bảng cân đối liên ngành trên, giá trị sản phẩm giáo dục (tức là chi phí cho hàng hoá
và dịch vụ, thu nhập, khấu hao nhưng không kể đầu tư) theo nguyên tắc của tài khoản
quốc gia trong năm 2000 là 21.367 tỷ, trong khi đó các nguồn số liệu (a), (b) chỉ có 19.928
tỷ. Như vậy, mức chi sẽ cao hơn 7% nữa.
Tỷ lệ thêm này có thể thấp hơn thực tế vì phần này không tính trực tiếp ngân sách dành
riêng cho 2 ĐHQG Hà Nội và ĐHQG TP.HCM, chỉ bắt đầu từ năm 2002.
Chi phí cho dịch vụ giáo dục như vậy, về nguyên tắc, sẽ bằng giá trị sản lượng giáo dục

cộng thêm tích lũy.



×