Tải bản đầy đủ (.doc) (60 trang)

đổi mới tổ chức và hoạt động của chính phủ việt nam trong giai đoạn hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (312.12 KB, 60 trang )

1
LỜI NÓI ĐẦU
Chính phủ là cơ quan cấp cao nhất của hệ thống hành chính nhà nước
thực thi chức năng thống nhất quản lý hành chính nhà nước trên phạm vi toàn
quốc, trên mọi lĩnh vực kinh tế, chính trị, xã hội. Trong giai đoạn hiện nay, cùng
với cải cách kinh tế, việc đổi mới tổ chức và hoạt động Chính phủ giữ vai trò
quan trọng trong tiến trình xây dựng đất nước. Yêu cầu đổi mới tổ chức và hoạt
động của các cơ quan trong bộ máy nhà nước nói chung, Chính phủ nói riêng
nhằm “xây dựng cơ chế vận hành của Nhà nước pháp quyền Xã hội chủ nghĩa,
bảo đảm nguyên tắc tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân; quyền lực
nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp giữa các cơ quan trong việc
thực hiện quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp”[21] được Đảng ta đề ra như
một tất yếu khách quan.
Trải qua hơn 20 năm thực hiện công cuộc đổi mới toàn diện của đất nước,
cải cách Chính phủ đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng. Tuy nhiên, thực tế
tổ chức và hoạt động của Chính phủ nước ta trong những năm qua cho thấy bên
cạnh những thành tựu rất đáng khích lệ, còn tồn tại nhiều yếu kém. Tổ chức bộ
máy còn cồng kềnh; chức năng, quyền hạn của các cơ quan còn bị chồng chéo;
trách nhiệm của tập thể Chính phủ, của cá nhân các thành viên Chính phủ không
thật rõ ràng, tình trạng trì trệ, quan liêu vẫn còn là trở ngại rất lớn khó có thể
khắc phục trong một sớm một chiều. Điều này không những gây ảnh hưởng đến
tốc độ phát triển kinh tế - xã hội của đất nước mà còn có tác động tiêu cực đến
nỗ lực xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam của chúng ta hiện nay. Chính
vì vậy, trước yêu cầu đẩy mạnh công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước, phát triển nền kinh tế thị trường định hướng Xã hội chủ nghĩa trong điều
kiện hội nhập kinh tế quốc tế cần phải tiếp tục đẩy mạnh đổi mới tổ chức và
phương thức hoạt động của Chính phủ. Để thực hiện nhiệm vụ này đòi hỏi cần
phải đẩy mạnh nghiên cứu cơ bản và có tính hệ thống những vấn đề lý luận, đúc
rút thực tiễn, qua đó đề ra những giải pháp toàn diện có tính khả thi nhằm đổi
mới tổ chức và phương thức hoạt động của Chính phủ đáp ứng yêu cầu của đất
nước trong giai đoạn hiện nay. Do vậy, em xin chọn đề tài: “Đổi mới tổ chức và


2
hoạt động của Chính phủ Việt Nam trong giai đoạn hiện nay” làm đề tài khóa
luận tốt nghiệp Đại học Luật Hà Nội.
2. Mục đích nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của khóa luận là tìm hiểu quá trình hình thành và
phát triển của Chính phủ Việt Nam, đánh giá những thành tựu và những hạn chế,
yếu kém của Chính phủ Việt Nam trong quá khứ cũng như hiện tại để xác định
các phương hướng và các giải pháp cơ bản nhằm hoàn thiện tổ chức và hoạt
động của Chính phủ trong giai đoạn hiện nay.
3. Phạm vi nghiên cứu
Với mục đích nghiên cứu trên, các vấn đề phải làm rõ trong khóa luận
được tác giả xác định như sau:
- Những vấn đề lý luận cơ bản về Chính phủ
- Quá trình hình thành và phát triển của Chính phủ Việt Nam qua các bản
Hiến pháp (1946, 1959, 1980, 1992)
- Thực trạng hoạt động của Chính phủ
- Phương hướng và giải pháp đổi mới tổ chức và hoạt động của Chính phủ
Việt Nam trong giai đoạn hiện nay
4. Phương pháp nghiên cứu
Trên cơ sở mục đích, phạm vi và đối tượng nghiên cứu, đề tài đã sử dụng
phương pháp luận của Chủ nghĩa Mác – Lênin và Tư tưởng Hồ Chí Minh, các
quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về vị trí, vai trò của Chính phủ Viêt
Nam, về đường lối đổi mới đất nước, cải cách kinh tế, đổi mới hệ thống chính
trị Đặc biệt là các quan điểm cơ bản chủ đạo công cuộc tiếp tục cải cách và
hoàn thiện Chính phủ trong giai đoạn hiện nay. Về phương pháp nghiên cứu cụ
thể, khóa luận sử dụng các phương pháp nghiên cứu phổ biến như: so sánh, phân
tích, tổng hợp, thống kê, hệ thống, phương pháp lịch sử
5. Cơ cấu khóa luận
Ngoài phần mở đầu và kết luận, khóa luận có kết cấu 3 chương:
Chương 1. Tổ chức và hoạt động của Chính phủ theo quy định của pháp

luật Việt Nam
3
Chương 2. Thực trạng tổ chức và hoạt động của Chính phủ Việt Nam
trong giai đoạn hiện nay
Chương 3. Phương hướng và giải pháp đổi mới tổ chức và hoạt động của
Chính phủ Việt Nam trong giai đoạn hiện nay
4
Chương 1:
TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA CHÍNH PHỦ THEO QUY
ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VIỆT NAM
1.1 Lịch sử hình thành và phát triển của Chính phủ trong lịch sử lập hiến
Việt Nam
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công, Chính phủ nước Việt Nam
Dân chủ Cộng hòa, nay là Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam được thành lập.
Dưới ánh sáng của tư tưởng Nhà nước pháp quyền của dân, do dân và vì
dân của Chủ tịch Hồ Chí Minh, hoạt động đối nội và đối ngoại của Chính phủ
nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa từ Ủy ban dân tộc giải phóng Việt Nam,
Chính phủ kháng chiến (11/1946) trở đi đã được hoàn thiện theo tiến trình phát
triển thắng lợi của cuộc kháng chiến. Ủy ban dân tộc giải phóng và Chính phủ
lâm thời hoạt động trên cơ sở Nghị quyết của Quốc dân đại hội Tân Trào, Chính
phủ Liên hiệp kháng chiến hoạt động theo các quyết định của Quốc hội do cuộc
Tổng tuyển cử ngày 06 tháng 01 năm 1946 bầu ra. Chính phủ kháng chiến hoạt
động trên cơ sở các quyết định của kỳ họp Quốc hội thứ hai và Hiến pháp ngày
09 tháng 11 năm 1946 của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Bản Hiến pháp
này mới chỉ quy định Chính phủ là Cơ quan hành chính cao nhất; về quyền hạn
của Chính phủ chưa được quy định rõ; về nhiệm vụ, Hiến pháp chỉ ghi: “Chính
phủ thi hành các đạo luật và quyết nghị của nghị viện, có quyền trình dự án luật
và sắc luật”.
Sang giai đoạn mới, giai đoạn thực hiện đồng thời hai nhiệm vụ chiến
lược: xây dựng và bảo vệ miền Bắc xã hội chủ nghĩa, giải phóng miền Nam,

thống nhất Tổ quốc, với tinh thần dân chủ hóa, pháp chế hóa, kế hoạch hóa, coi
trọng ứng dụng khoa học vào xây dựng cơ cấu tổ chức và cơ chế vận hành của
Chính phủ, ngày 01 tháng 01 năm 1960, Chủ tịch Hồ Chí Minh ra Sắc lệnh công
bố Hiến pháp mới đã được Quốc hội biểu quyết tán thành tại cuộc họp ngày 31
tháng 12 năm 1959. Bản Hiến pháp mới đã quy định rõ hơn về tổ chức, hoạt
5
động, quyền hạn và nhiệm vụ của Hội đồng Chính phủ, Hiến pháp mới đổi tên
Chính phủ thành Hội đồng Chính phủ, nhằm khẳng định nguyên tắc tổ chức và
hoạt động vừa theo chế độ tập thể (Hội đồng), vừa phát huy vai trò của cá nhân
phụ trách (Thủ tướng); chức năng của Chính phủ được bổ sung thêm: “Chính
phủ là cơ quan chấp hành của cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất; là cơ
quan hành chính nhà nước cao nhất của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa”;
nhiệm vụ và quyền hạn của Chính phủ cũng được quy định rõ ràng và cụ thể
hơn trong các lĩnh vực nội thương, ngoại thương, quản lý công tác văn hóa xã
hội, công tác đối ngoại, công tác dân tộc và các công tác khác theo thẩm quyền
được giao.
Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước mùa xuân năm 1975
đã mở ra thời kỳ mới cho lịch sử Việt Nam – cả nước thống nhất đi lên xây dựng
chủ nghĩa xã hội. Đất nước sau khi thống nhất, Chính phủ đã tập trung vào việc
cải tiến kế hoạch hóa, cùng với những chuyển biến tích cực trong kinh tế, các
mặt văn hóa, xã hội, giáo dục, khoa học – kỹ thuật cũng đã được Đảng và Nhà
nước quan tâm hơn. Để phù hợp với điều kiện và tình hình mới, bản Hiến pháp
mới của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã được ban hành năm
1980. Hiến pháp mới khẳng định quyền lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam
đối với đất nước; đồng thời khẳng định các quyền dân tộc cơ bản thiêng liêng.
Hiến pháp còn thể hiện đường lối xây dựng kinh tế; quyền và nghĩa vụ cơ bản
của công dân; bộ máy nhà nước và pháp chế xã hội chủ nghĩa. Hội đồng Chính
phủ được đổi tên thành Hội đồng Bộ trưởng.
Nhằm thực hiện thắng lợi đường lối đổi mới của Đại hội lần thứ VI và lần
thứ VII của Đảng, phấn đấu hoàn thành một bước quan trọng trong các mục tiêu

về Chiến lược ổn định và phát triển kinh tế - xã hội đến năm 2000, cuối tháng 11
đầu tháng 12 năm 1991, Ban Chấp hành Trung ương Đảng họp Hội nghị lần thứ
hai để bàn nhiệm vụ ổn định và phát triển kinh tế - xã hội những năm 1992 –
1995 và năm 1992, trong đó Hội nghị có đề cập đến nội dung xác định những
quan điểm cơ bản chỉ đạo việc sửa đổi Hiến pháp năm 1980, cải cách một bước
bộ máy nhà nước và đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước. Tháng 12
6
năm 1991, Quốc hội khóa VIII đã tiến hành kỳ họp thứ 10, thực hiện Nghị quyết
kỳ họp thứ 10 Quốc hội khóa VIII, sau một thời gian lấy ý kiến nhân dân cả
nước đóng góp vào bản Hiến pháp sửa đổi, Quốc hội khóa VIII kỳ họp thứ 11 đã
thảo luận và thông qua hiến pháp mới – Hiến pháp năm 1992. Hiến pháp 1992
xác định: “Chính phủ là cơ quan chấp hành của cơ quan quyền lực nhà nước
cao nhất và là cơ quan hành chính nhà nước cao nhất của nước Cộng hòa xã
hội chủ nghĩa Việt Nam”. Việc trở lại chế định này thể hiện sự khẳng định quán
triệt nguyên tắc tập quyền xã hội chủ nghĩa và trong chừng mực nhất định đã
vận dụng hạt nhân hợp lý của thuyết “phân quyền”, thừa nhận tính độc lập tương
đối của lĩnh vực hành chính nhà nước. Vì vậy, vị trí, vai trò của Chính phủ đã có
sự điều chỉnh quan trọng so với Hiến pháp 1980.
Nhìn chung, Hiến pháp của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và của
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam kể từ năm 1959 cho đến nay đang hiện
hành, đã chia hoạt động của Chính phủ ra thành hai hoạt động phân biệt giữa
chấp hành và hoạt động hành chính nhà nước cao nhất. Những bản Hiến pháp
này quy định: Chính phủ là cơ quan chấp hành của Quốc hội, cơ quan hành
chính nhà nước cao nhất của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Quy
định này về mặt ngôn ngữ, xem ra thì rất rạch ròi, phân định hoạt động hành
chính những trên thực tế quy định này lại làm cho các nhà chính trị, cũng như
các nhà điều hành rất khó hiểu. Họ không biết lúc nào thì Chính phủ trong vai
trò là người chấp hành của Quốc hội và khi nào thì Chính phủ lại trong vai trò là
cơ quan hành chính nhà nước cao nhất.
Vì những lẽ đó, mỗi lần thay đổi hay sửa đổi Hiến pháp nước Cộng hòa

xã hội chủ nghĩa Việt Nam thì việc xác định lại vị trí, vai trò của Chính phủ -
hành pháp lại nổi lên một cách gay gắt. Cuối cùng, cả 4 bản Hiến pháp của Nhà
nước ta và kể cả lần sửa đổi mới đây năm 2001, có tới 5 định nghĩa khác nhau
về Chính phủ - hành pháp, mỗi lần thay đổi Hiến pháp lại có sự thay đổi về mặt
ngôn từ.
Nhưng suy cho cùng thì định nghĩa của Hiến pháp năm 1946 – Hiến pháp
đầu tiên của Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa được thông qua dưới sự chỉ
7
đạo một cách sát sao của Chủ tịch Hồ Chí Minh là có phần đúng và cô đọng hơn
cả: “Cơ quan hành chính cao nhất của toàn quốc là Chính phủ Việt Nam dân
chủ cộng hòa”. So với các bản Hiến pháp được ban hành sau này, có thể thấy
rằng Hiến pháp năm 1946 có nhiều biểu hiện của sự phân quyền hơn cả. Bản
Hiến pháp này không quy định Chính phủ là cơ quan chấp hành của cơ quan lập
pháp. Các bản Hiến pháp sau này đều quy định Chính phủ - hành pháp là cơ
quan chấp hành của cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất – Quốc hội. Với hai
nguyên tắc: tập quyền trong tổ chức, hoạt động của nhà nước Việt Nam và sự
lãnh đạo toàn diện, tuyệt đối của Đảng cộng sản, sự chịu trách nhiệm của Chính
phủ rất khó có điều kiện trong việc thực hiện, nếu không có một sự kiên quyết
và tính dám chịu trách nhiệm của những người nắm quyền lực hành pháp.
Kể từ khi đất nước thống nhất, cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội, thực hiện
công cuộc đổi mới, hoạt động và tổ chức của Chính phủ đã quán triệt sâu sắc và
có hệ thống tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng nhà nước thật sự của dân, do
dân, vì dân. Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng nhà nước đã soi sáng cho quá
trình xây dựng và tổ chức hoạt động của Chính phủ trong suốt các giai đoạn biến
đổi của đất nước. Tổ chức bộ máy, chức năng, nhiệm vụ của các cơ quan hành
chính nhà nước đã từng bước được điều chỉnh theo yêu cầu của quá trình chuyển
từ cơ chế quản lý kế hoạch hóa, tập trung, hành chính và bao cấp sang quản lý
nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, từng bước xác định rõ chức
năng quản lý của Nhà nước, đổi mới tổ chức bộ máy và đội ngũ cán bộ, từng
bước xây dựng nền hành chính dân chủ và hiện đại theo hướng xây dựng nhà

nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân.
1.2 Vị trí, tính chất, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Chính phủ theo
pháp luật hiện hành
1.2.1 Vị trí, tính chất, chức năng của Chính phủ
Theo quy định của Hiến pháp năm 1992, cơ quan hành chính Nhà nước ở
Trung ương đổi tên từ Hội đồng Bộ trưởng thành Chính phủ, với tinh thần được
xác định lại giống như quy định trong Hiến pháp 1959: “Chính phủ là cơ quan
chấp hành của Quốc hội, cơ quan hành chính Nhà nước cao nhất của nước
8
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam” - (Điều 109 Hiến pháp 1992). Tức là
Hiến pháp 1992 xác định rõ hai tính chất: Tính chất chấp hành của Chính phủ
đối với cơ quan quyền lực Nhà nước cao nhất và tính chất cơ quan hành chính
Nhà nước cao nhất của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Chính phủ là cơ quan chấp hành của Quốc hội: Chính phủ do Quốc hội
thành lập ra tại kỳ họp thứ nhất; Thủ tướng Chính phủ là đại biểu Quốc hội, các
thành viên khác không nhất thiết phải là đại biểu Quốc hội; Nhiệm kỳ của Chính
phủ theo nhiệm kỳ của Quốc hội, trong nhiệm kỳ Chính phủ triển khai các văn
bản do Quốc hội ban hành; Chính phủ phải tôn trọng và chấp hành tất cả các
luật, nghị quyết của Quốc hội và tất cả những văn bản pháp luật do Chính phủ
ban hành phải phù hợp với văn bản pháp luật do Quốc hội ban hành; Chính phủ
chịu trách nhiệm và báo cáo công tác trước Quốc hội; Thành viên Chính phủ bị
Quốc hội bãi nhiệm, miễn nhiệm (Thủ tướng), phê chuẩn việc miễn nhiệm và
cách chức (Phó thủ tướng, Bộ trưởng và các thành viên khác).
Là cơ quan hành chính Nhà nước cao nhất có nghĩa là Chính phủ đứng
đầu hệ thống các cơ quan hành chính Nhà nước, thực hiện hoạt động thực thi
pháp luật, quản lý điều hành đất nước. Quy định này một lần nữa cho chúng ta
thấy về cơ bản Hiến pháp 1992 quy định giống mô hình Chính phủ được quy
định tại Hiến pháp 1959. Tuân theo nguyên tắc quyền lực Nhà nước là thống
nhất, bảo đảm sự phân công phối hợp giữa ba quyền lập pháp, hành pháp và tư
pháp. Quy định của Hiến pháp 1992 vừa đảm bảo sự chủ động cho Chính phủ

trong hoạt động quản lý hành chính, vừa khẳng định nguyên tắc tập trung dân
chủ trong tổ chức bộ máy nhà nước. Quy định này đồng thời khẳng định mối
quan hệ của Chính phủ với tư cách là cơ quan hành chính Nhà nước cao nhất.
Với vị trí như trên, Chính phủ có chức năng: “Thống nhất quản lý việc
thực hiện các nhiệm vụ chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh
và đối ngoại của nhà nước, đảm bảo hiệu lực của bộ máy Nhà nước từ trung
ương đến cơ sở; đảm bảo việc tôn trọng và chấp hành Hiến pháp và pháp luật,
phát huy quyền làm chủ của nhân dân trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ
9
quốc, bảo đảm ổn định và nâng cao đời sống vật chất và văn hóa của nhân
dân” (Điều 109 hiến pháp 1992).
1.2.2 Nhiệm vụ, quyền hạn của Chính phủ
Theo quy định của Hiến pháp 1992, Luật Tổ chức Chính phủ năm 2001,
nhiệm vụ, quyền hạn của Chính phủ đã được quy định theo hướng cụ thể, chi
tiết hơn so với các Hiến pháp trước, phân chia theo từng lĩnh vực và có sự phân
định rõ hơn giữa thẩm quyền của tập thể Chính phủ (Điều 112 Hiến pháp 1992)
với thẩm quyền của cá nhân Thủ tướng (Điều 114 Hiến pháp 1992). Cụ thể Luật
Tổ chức Chính phủ năm 2001 quy định nhiệm vụ, quyền hạn của Chính phủ trên
mọi lĩnh vực của đời sống kinh tế - xã hội như: Nhiệm vụ, quyền hạn của Chính
phủ trong lĩnh vực kinh tế; lĩnh vực khoa học công nghệ và môi trường; lĩnh vực
văn hóa, giáo dục, thông tin thể thao và du lịch; Lĩnh vực y tế xã hội; lĩnh vực
dân tộc và tôn giáo; Lĩnh vực quốc phòng an ninh và trật tự an toàn xã hội; Lĩnh
vực đối ngoại; Lĩnh vực tổ chức hành chính nhà nước; chỉ đạo, hướng dẫn hoạt
động của hội đồng nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương
Nghị quyết số 51/2001/QH10 ngày 25/11/2001 sửa đổi bổ sung một số
điều của Hiến pháp 1992, một trong số các quy định được sửa đổi là quy định
liên quan đến nhiệm vụ, quyền hạn của Chính phủ. Tuy nhiên, chỉ có những
nhiệm vụ, quyền hạn trong lĩnh vực đối ngoại là có sửa đổi, bổ sung. Những
nhiệm vụ, quyền hạn của Chính phủ được cụ thể hóa trong Luật tổ chức Chính
phủ 2001 lại có nhiều sự thay đổi liên quan đến tất cả các lĩnh vực hoạt động của

Chính phủ để phù hợp với những yêu cầu quản lý trong quá trình đất nước ta
xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, xây dựng một nhà
nước pháp quyền. Có thể thấy điều đó qua những quy định sửa đổi, bổ sung ở
một số lĩnh vực như:
Trong lĩnh vực kinh tế: Chính phủ được mở rộng thẩm quyền trong việc
quyết định chính sách cụ thể để phát huy tiềm năng của các thành phần kinh tế,
thúc đẩy sự hình thành, phát triển và từng bước hoàn thiện các loại thị trường
theo định hướng xã hội chủ nghĩa, quyết định chính sách cụ thể khuyến khích
doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế tham gia hoạt động kinh tế đối
10
ngoại; khuyến khích đầu tư nước ngoài và tạo điều kiện thuận lợi để người Việt
Nam định cư ở nước ngoài đầu tư về nước.
Trong lĩnh vực đối ngoại: Để thực hiện thành công hội nhập kinh tế quốc
tế, đa phương hóa, đa dạng hóa các quan hệ quốc tế của Đảng, Chính phủ có
thêm nhiệm vụ, quyền hạn mới như: “Thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự
chủ, rộng mở, đa phương hóa, đa dạng hóa các quan hệ quốc tế, chủ động hội
nhập kinh tế quốc tế trên cơ sở tôn trọng độc lập, chủ quyền, bình đẳng và cùng
có lợi”. “Quyết định chính sách cụ thể nhằm khuyến khích người Việt Nam định
cư ở nước ngoài đoàn kết cộng đồng, gìn giữ bản sắc văn hóa, truyền thống tốt
đẹp của dân tộc Việt Nam, giữ quan hệ gắn bó với gia đình quê hương, thực
hiện các biện pháp bảo hộ quyền lợi chính đáng của người Việt Nam định cư ở
nước ngoài” (Điều 15 Luật Tổ chức Chính phủ 2001).
Trong lĩnh vực tổ chức hệ thống hành chính nhà nước, Luật Tổ chức
Chính phủ năm 2001 đã bổ sung cho Chính phủ quyền hạn quyết định và chỉ đạo
thực hiện phân công, phân cấp quản lý ngành và lĩnh vực trong hệ thống hành
chính nhà nước; chỉ đạo thực hiện cải cách hành chính nhà nước, xây dựng nền
hành chính dân chủ, trong sạch, vững mạnh, chuyên nghiệp, hiện đại, hoạt động
có hiệu lực, hiệu quả; quy định về tổ chức các cơ quan chuyên môn thuộc Ủy
ban nhân dân và hướng dẫn về tổ chức một số cơ quan chuyên môn để Hội đồng
nhân dân cấp Tỉnh quyết định phù hợp với đặc điểm của địa phương; quy định

mức biên chế hành chính, sự nghiệp thuộc Ủy ban nhân dân.
Hoạt động của Chính phủ theo Hiến pháp 1992 theo xu hướng đề cao
trách nhiệm cá nhân. Vì vậy, việc Hiến pháp 1992 lần đầu tiên quy định những
nhiệm vụ, quyền hạn của Thủ tướng Chính phủ trong một điều luật riêng (Điều
114) được coi là một trong những nội dung mang ý nghĩa quan trọng nhất đối
với thiết chế Chính phủ. Như vậy, bên cạnh đổi mới thiết chế Chính phủ còn có
đổi mới về vai trò của cá nhân Thủ tướng Chính phủ. Tuy nhiên, cần được hiểu
không phải Hiến pháp giao cho Thủ tướng Chính phủ quyền hành pháp mà là
người đóng vai trò lãnh đạo công tác của Chính phủ và các thành viên khác của
Chính phủ. Quyền hạn của Thủ tướng Chính phủ là quyền lãnh đạo hoạt động
11
của cả hệ thống hành chính nhà nước đảm bảo sự tập trung thống nhất, thông
suốt từ trung ương đến cơ sở, còn quyền hành pháp vẫn thuộc về Chính phủ.
1.3 Tổ chức Chính phủ theo pháp luật hiện hành
Khắc phục những hạn chế trong quy định về Chính phủ tại Hiến pháp
1946, Hiến pháp 1959 và Hiến pháp 1980, Hiến pháp 1992 kế thừa quy định của
Hiến pháp 1959 xây dựng bộ máy nhà nước theo quan điểm quyền lực Nhà nước
tập trung thống nhất, nhưng cần phải có sự phân công, phân định chức năng trên
cơ sở có sự phối hợp giữa cơ quan lập pháp, hành pháp, tư pháp. Hiến pháp
1992 quy định: “Chính phủ là cơ quan chấp hành của Quốc hội, cơ quan hành
chính Nhà nước cao nhất của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam”. Với
quy định như vậy, Chính phủ là cơ quan hành chính Nhà nước cao nhất của Nhà
nước chứ không phải của Quốc hội, có thể hoạt động một cách độc lập tương đối
trong lĩnh vực hành chính nhà nước.
Bên cạnh đó, việc đổi tên Hội đồng Bộ trưởng (Hiến pháp 1980) thành
Chính phủ (Hiến pháp 1992) không chỉ có ý nghĩa là việc thay đổi tên gọi mà
còn phản ánh một xu hướng thay đổi chế độ trách nhiệm, chuyển dần từ chế độ
trách nhiệm tập thể chung sang đề cao trách nhiệm của cá nhân, tăng cường
quyền hạn của Thủ tướng Chính phủ, các Bộ trưởng và Thủ trưởng cơ quan
ngang bộ, đồng thời có thể kết hợp trách nhiệm tập thể.

Chính phủ do Quốc hội thành lập ra tại kỳ họp thứ nhất của mỗi khóa
Quốc hội. Theo quy định tại Điều 110 của Hiến pháp 1992, Điều 3 Luật Tổ chức
Chính phủ năm 2001 thì “Chính phủ gồm Thủ tướng, các Phó thủ tướng, các Bộ
trưởng và Thủ trưởng cơ quan ngang bộ”. Trong đó, ngoài Thủ tướng, các
thành viên khác của Chính phủ không nhất thiết là đại biểu Quốc hội. Đây cũng
là điểm rất mới so với Hiến pháp 1980 (quy định Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng
là đại biểu Quốc hội, các thành viên khác chủ yếu chọn trong số đại biểu Quốc
hội). Cách thức thành lập Chính phủ theo Hiến pháp 1992 hoàn toàn khác so với
Hiến pháp 1980. Theo Hiến pháp 1992 chỉ có Thủ tướng Chính phủ là do Quốc
hội bầu, miễn nhiệm và bãi nhiệm theo đề nghị của Chủ tịch nước, còn các Phó
thủ tướng, Bộ trưởng và các thành viên khác của Chính phủ do Quốc hội phê
12
chuẩn việc bổ nhiệm, miễn nhiệm và cách chức theo đề nghị của Thủ tướng
Chính phủ. Việc Hiến pháp trao cho Thủ tướng Chính phủ quyền được đề nghị
bổ nhiệm các thành viên khác của Chính phủ trình Quốc hội phê chuẩn, đồng
thời còn có quyền đề nghị Quốc hội miễn nhiệm, cách chức các thành viên của
Chính phủ làm nổi bật vai trò của Thủ tướng Chính phủ. Có thể nói rằng đây là
một phương pháp hữu hiệu góp phần xây dựng một cơ quan hành chính nhà
nước mạnh mẽ.
Thành viên Chính phủ không đồng thời là thành viên Ủy ban thường vụ
Quốc hội. Đây là quy định kế thừa các Hiến pháp trước, đảm bảo tính khách
quan trong hoạt động giám sát của Ủy ban thường vụ Quốc hội với Chính phủ.
Trên cơ sở quy định của Hiến pháp 1992 và Luật Tổ chức Chính phủ năm
2001, Chính phủ nhiệm kỳ Quốc hội khóa XII (2007 - 2011) bao gồm các thành
viên: Thủ tướng, 5 Phó thủ tướng, 22 Bộ trưởng và Thủ trưởng cơ quan ngang
bộ. Cơ cấu Chính phủ bao gồm 22 Bộ, trong đó có 18 Bộ và 04 cơ quan ngang
bộ.
Qua nhiệm kỳ 4 năm hoạt động (2007-2011), Chính phủ nhiệm kỳ Quốc
hội khóa XII nhận nhiệm vụ trong bối cảnh có nhiều thuận lợi, được kế thừa
những thành quả to lớn và kinh nghiệm quý báu của hơn 20 năm đổi mới, đặc

biệt là những kết quả từ nhiệm kỳ Quốc hội khóa XI. Trong nhiệm kỳ này, bộ
máy của Chính phủ đã được sắp xếp tinh gọn, trên cơ sở sáp nhập một số Bộ -
ngành theo mô hình quản lý đa ngành, đa lĩnh vực, bảo đảm thực hiện đầy đủ
chức năng quản lý Nhà nước. Cơ chế và hiệu quả phối hợp giữa các cơ quan của
Chính phủ đã có bước chuyển biến tích cực, hiệu lực, hiệu quả quản lý Nhà
nước của các Bộ và của Chính phủ được tăng cường. Đã khắc phục được tình
trạng cơ quan có chức năng quản lý Nhà nước, nhưng lại không có quyền ban
hành các văn bản quy phạm pháp luật về quản lý Nhà nước. Cùng với việc sắp
xếp lại cơ cấu tổ chức, Chính phủ khóa 12 đã chú trọng thể chế hóa trong phân
công trách nhiệm và phân cấp quản lý theo nguyên tắc quản lý thống nhất, đề
cao trách nhiệm người đứng đầu và đã khắc phục nhiều vấn đề chồng chéo,
trùng giẫm về chức năng quản lý Nhà nước giữa các Bộ - ngành.
13
Từ những thành quả cũng như những hạn chế, bất cập của Chính phủ
khóa 12, cơ cấu tổ chức Chính phủ khóa 13 (nhiệm kỳ 2011- 2016) trên cơ sở
trọng tâm là tổ chức thông suốt hiệu lực, hiệu quả, bảo đảm nguyên tắc tập trung
dân chủ để thực hiện có hiệu quả việc phát triển kinh tế - xã hội mà Nghị quyết
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ 11 đã đề ra. Theo đó, thành viên của Chính phủ
theo nhiệm kỳ Quốc hội khóa XIII bao gồm Thủ tướng, 4 Phó thủ tướng, 18 Bộ
trưởng và 4 Thủ trưởng cơ quan ngang bộ. Cơ cấu tổ chức của Chính phủ khóa
13 gồm:
18 Bộ (Quốc phòng, Công an, Ngoại giao, Nội vụ, Tư pháp, kế hoạch –
Đầu tư, Tài chính, Công thương, Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Giao
thông vận tải, Xây dựng, Tài nguyên – Môi trường, Thông tin – Truyền thông,
Lao động – Thương binh – Xã hội, Văn hóa – Thể thao – Du lịch, Khoa học –
Công nghệ, Giáo dục – Đào tạo, Y tế);
4 cơ quan ngang bộ: Ủy ban dân tộc, Ngân hàng Nhà nước, Văn phòng
Chính phủ, Thanh tra Chính phủ.
Ngoài ra còn có 8 cơ quan thuộc Chính phủ nhưng không làm chức năng
quản lý nhà nước.

Có thể thấy, so với Chính phủ khóa 12, Chính phủ khóa 13 đã giảm 1 Phó
thủ tướng và giữ nguyên cơ cấu tổ chức 22 Bộ, ngành như Chính phủ khóa 12.
1.4 Hình thức hoạt động của Chính phủ theo pháp luật hiện hành
Để thực hiện chức năng là cơ quan hành chính Nhà nước cao nhất, Điều 6
Luật Tổ chức Chính phủ 2001 quy định: “Hiệu quả hoạt động của Chính phủ
được đảm bảo bằng hiệu quả hoạt động của tập thể Chính phủ, của Thủ tướng
Chính phủ và từng thành viên của Chính phủ”. Khẳng định hiệu quả hoạt động
thực tế của Chính phủ thể hiện qua 3 hình thức: Thông qua phiên họp của Chính
phủ, thông qua hoạt động của Thủ tướng Chính phủ và thông qua hoạt động của
các thành viên Chính phủ.
1.4.1 Thông qua phiên họp Chính phủ
Các phiên họp của Chính phủ là hình thức hoạt động quan trọng của
Chính phủ, có ý nghĩa quyết định đến toàn bộ hoạt động của Chính phủ.
14
Phiên họp là nơi tập trung trí tuệ của cả tập thể Chính phủ, những người
trực tiếp nằm quyền quản lý hành chính trên phạm vi một ngành hoặc một lĩnh
vực nhất định đồng thời có sự đóng góp ý kiến của các cơ quan nhà nước, các tổ
chức đoàn thể khi tham dự phiên họp.
Theo quy định hiện hành, Chính phủ họp thường kì mỗi tháng một lần,
ngoài ra có thể họp bất thường theo quyết định của Thủ tướng Chính phủ hoặc
theo yêu cầu của ít nhất 1/3 tổng số thành viên Chính phủ.
Tham dự phiên họp gồm: thành viên Chính phủ, nếu vắng mặt trong phiên
họp thì phải được sự đồng ý của Thủ tướng, Thủ tướng có thể cho phép thành
viên vắng mặt được cử người phó của mình tham dự phiên họp Chính phủ.
Ngoài các thành viên Chính phủ, Chủ tịch nước có quyền tham dự phiên họp của
Chính phủ khi xét thấy cần thiết, Chủ tịch Hội đồng dân tộc của Quốc hôi,
Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao,
Chủ tịch Tổng liên đoàn lao động Việt Nam và người đứng đầu các tổ chức đoàn
thể khác có thể được mời tham dự các phiên họp của Chính phủ khi bàn về vấn
đề có liên quan. Khi cần thiết Chính phủ có thể mời Thủ trưởng cơ quan thuộc

Chính phủ. Chủ tịch Ủy ban nhân dân Tỉnh, Thành phố trực thuộc Trung ương
tham dự phiên họp của Chính phủ. Các đại biểu được mời dự họp không phải là
thành viên Chính phủ có quyền phát biểu ý kiến nhưng không có quyền biểu
quyết. Thủ tướng Chính phủ chủ tọa các phiên họp của Chính phủ, khi được Thủ
tướng ủy quyền, một Phó Thủ tướng có thể chủ tọa phiên họp.
Thành phần tham dự như trên giúp Chính phủ vừa tập trung được trí tuệ
tập thể các thành viên Chính phủ, ý kiến của các đại biểu được mời từ đó góp
phần làm cho quyết định của phiên họp sát với thực tế, toàn diện hơn, đồng thời
cũng đề cao trách nhiệm của thành viên Chính phủ trong quá trình biểu quyết
các vấn đề quan trọng của Chính phủ.
Tại phiên họp Chính phủ thảo luận và biểu quyết theo đa số. Danh mục
các vấn đề đưa ra thảo luận trong phiên họp gồm: Chương trình hoạt động hàng
năm của Chính phủ; Các dự án luật, pháp lệnh trình Quốc hội và Ủy ban thường
vụ Quốc hội; Dự án kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội dài hạn, năm năm, hàng
15
năm, các công trình quan trọng, dự toán ngân sách Nhà nước và phân bổ Ngân
sách Nhà nước, quyết toán Ngân sách Nhà nước hàng năm trình Quốc hội; Các
chính sách cụ thể về phát triển kinh tế - xã hội, tài chính, tiền tệ, các vấn đề quan
trọng về quốc phòng, an ninh, đối ngoại; Các đề án trình Quốc hội về việc thành
lập, sáp nhập, giải thể các Bộ, cơ quan ngang bộ, việc thành lập mới, nhập, chia,
điều chỉnh địa giới hành chính tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương; Quyết
định việc thành lập, sáp nhập, giải thể các cơ quan thuộc Chính phủ; Các báo
cáo của Chính phủ trước khi trình Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội và
Chủ tịch nước.
Khẳng định tính tập thể trong quyết định của phiên họp, pháp luật hiện
hành quy định: Nghị quyết phiên họp của Chính phủ phải được quá nửa tổng số
thành viên Chính phủ biểu quyết tán thành, trường hợp biểu quyết ngang nhau
thực hiện theo ý kiến mà Thủ tướng đã biểu quyết. Quy định này thể hiện sự kết
hợp chặt chẽ chế độ trách nhiệm cá nhân và tập thể, đề cao vai trò tập thể của
Chính phủ trong việc quyết định những vấn đề quan trọng, và đặc biệt đề cao vai

trò của Thủ tướng Chính phủ. Phiên họp Chính phủ là hình thức hoạt động tập
thể duy nhất của Chính phủ, trên cơ sở bàn bạc dân chủ công khai, nghị quyết
của phiên họp vừa thể hiện nội dung nguyên tắc tập trung dân chủ đồng thời để
cao vai trò của cá nhân Thủ tướng. Đây được xem là điểm mới phù hợp với quan
niệm xây dựng bộ máy nhà nước theo Hiến pháp 1992.
Để đảm bảo hiệu quả cho phiên họp của Chính phủ, ngoài việc hoàn thiện
các quy định pháp luật, sự cần thiết phải mở rộng thành phần phiên họp, làm tốt
công tác chuẩn bị (đặc biệt là chuẩn bị dự án và các nội dung đưa ra phiên họp),
phiên họp cần tập trung giải quyết tốt những nhiệm vụ quan trọng của Chính
phủ.
1.4.2 Thông qua hoạt động của Thủ tướng Chính phủ
Thủ tướng Chính phủ lãnh đạo, điều hành và chịu trách nhiệm về mọi
hoạt động của Chính phủ. Khắc phục những hạn chế trong quy định quyền hạn
của người đứng đầu Chính phủ mà Hiến pháp 1980 đã quy định, Hiến pháp 1992
và Luật Tổ chức Chính phủ 2001 có xu hướng đề cao vai trò, trách nhiệm của
16
Thủ tướng. Với vai trò là người đứng đầu Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ có
những quyền hạn: triệu tập, chủ tọa phiên họp Chính phủ; Quy định chế độ làm
việc của Thủ tướng với các thành viên Chính phủ, Thủ trưởng cơ quan thuộc
Chính phủ, Chủ tịch ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương;
Lãnh đạo công tác của Chính phủ, thành viên của Chính phủ, Thủ trưởng cơ
quan thuộc Chính phủ, Chủ tịch ủy ban nhân dân các cấp; Đề nghị Quốc hội
thành lập hoặc bãi bỏ các Bộ, cơ quan ngang bộ, trình Quốc hội phê chuẩn đề
nghị việc bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức, cho từ chức đối với Phó Thủ tướng,
Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ; trong thời gian Quốc hội không họp
thì Thủ tướng Chính phủ có quyền trình Chủ tịch nước quyết định tạm đình chỉ
công tác của Phó Thủ tướng, Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ; Chỉ đạo
xây dựng các dự án trình Quốc hội và Ủy ban thường vụ Quốc hội, các văn bản
quy phạm thuộc thẩm quyền của Chính phủ và Thủ tướng; Thành lập hội đồng
và ủy ban thường xuyên hoặc lâm thời khi cần thiết; Quyết định các biện pháp

cải tiến lề lối làm việc, hoàn thiện bộ máy quản lý nhà nước.
Trong lĩnh vực đảm bảo pháp chế, Thủ tướng Chính phủ có các quyền:
Đình chủ việc thi hành hoặc bãi bỏ những quyết định, chỉ thị, thông tư của Bộ
trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ, quyết định, chỉ thị của Ủy ban nhân dân
và chủ tịch ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trục thuộc Trung ương trái với Hiến
pháp, luật và các văn bản của các cơ quan nhà nước cấp trên; Đình chỉ việc thi
hành những Nghị quyết của Hội đồng nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung
ương trái với Hiến pháp, luật và các văn bản của cơ quan Nhà nước cấp trên,
đồng thời đề nghị Ủy ban thường vụ Quốc hội bãi bỏ.
Để thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình, Thủ tướng Chính phủ căn cứ
vào Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết của Ủy ban
thường vụ Quốc hội; lệnh, quyết định của Chủ tịch nước; nghị quyết, nghị định
của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ ra quyết định, chỉ thị và kiểm tra việc thực
hiện văn bản đó. Văn bản của Thủ tướng Chính phủ ban hành có hiệu lực thi
hành trong phạm vi cả nước và đồng thời Thủ tướng hướng dẫn, kiểm tra việc
thi hành các văn bản đó đối với các ngành, địa phương và cơ sở.
17
Hiến pháp 1992 có xu hướng tăng cường chế độ thủ trưởng, việc quy định
cho người đứng đầu Chính phủ có những nhiệm vụ, quyền hạn như trên mới có
thể đảm bảo được quyền lãnh đạo của mình là hoàn toàn hợp lý.
Các quy định trên cho thấy sự thay đổi trong quyền hạn của Thủ tướng
Chính phủ, đặc biệt là thẩm quyền ban hành văn bản đã có sự cải thiện đáng kể.
Hình thức văn bản được quyền ban hành, có thể phân biệt giữa văn bản của
Chính phủ với văn bản của Thủ tướng Chính phủ ban hành, tránh được sự chồng
chéo về thẩm quyền. Hơn thế, thẩm quyền của Thủ tướng Chính phủ đã quy
định rõ ràng và cụ thể tạo điều kiện thuận lợi cho Thủ tướng Chính phủ hoàn
thành tốt nhiệm vụ, quyền hạn của mình.
1.4.3 Thông qua hoạt động của Bộ trưởng và Thủ trưởng cơ quan ngang bộ
Bên cạnh hoạt động của phiên họp Chính phủ, hoạt động của Thủ tướng
cũng như Phó Thủ tướng Chính phủ, hoạt động của Bộ trưởng và Thủ trưởng cơ

quan ngang bộ đóng vai trò quan trọng, Bộ trưởng và Thủ trưởng cơ quan ngang
bộ thực hiện chức năng quản lý Nhà nước đối với ngành hoặc lĩnh vực công tác
trong phạm vi cả nước.
Bộ trưởng và Thủ trưởng cơ quan ngang bộ là thành viên Chính phủ lãnh
đạo công tác của Bộ và cơ quan ngang bộ, phụ trách một số công tác của Chính
phủ, Bộ trưởng chịu trách nhiệm trước Thủ tướng và Quốc hội về hoạt động
quản lý nhà nước trong phạm ngành, lĩnh vực được phân công.
Để thực hiện tốt chức năng của mình, Bộ trưởng hoạt động với hai tư
cách:
Vừa là thành viên Chính phủ, tham gia giải quyết những vấn đề thuộc
thẩm quyền của Chính phủ tại phiên họp. Tham gia các phiên họp Chính phủ,
các Bộ trưởng có quyền thảo luận và biểu quyết các vấn đề quan trọng của
Chính phủ; chuẩn bị các dự án luật, pháp lệnh và các dự án khác theo sự phân
công của Chính phủ; Trình bày trước Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội báo
cáo của Bộ theo yêu cầu của Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội; Trả lời chất
vấn của đại biểu Quốc hội; Thực hiện những nhiệm vụ khác do Thủ tướng
Chính phủ ủy nhiệm.
18
Vừa là người đứng đầu Bộ, lãnh đạo, quản lý điều hành Bộ theo chế độ
thủ trưởng. Với tư cách này, Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ lãnh đạo,
quyết định và chịu trách nhiệm quản lý về ngành, lĩnh vực mình phụ trách như:
Trình Chính phủ kế hoạch dài hạn, năm năm, hàng năm của ngành, lĩnh vực; tổ
chức và chỉ đạo thực hiện kế hoạch trong phạm vi cả nước; quyết định các tiêu
chuẩn, quy trình, quy phạm và các định mức kinh tế - kĩ thuật của ngành thuộc
thầm quyền; Đề nghị Thủ tướng Chính phủ bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức
Vụ trưởng, Phó Vụ trưởng và tương đương,… (Điều 23 Luật Tổ chức Chính phủ
năm 2001).
Trong phạm vi quản lý của mình, Bộ trưởng có quyền ban hành các loại
văn bản pháp luật gồm quyết định, chỉ thị, thông tư, Bộ trưởng căn cứ vào các
Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết của Ủy ban

thường vụ Quốc hội, lệnh, quyết định của Chủ tịch nước, các văn bản của Chính
phủ, Thủ tướng Chính phủ. Từ đó, ban hành các văn bản hướng dẫn thi hành các
văn bản nêu trên và kiểm tra việc thực hiện các văn bản đó.
Với việc bãi bỏ quy định về thẩm quyền được ban hành các văn bản pháp
quy của Thủ trường các cơ quan thuộc Chính phủ, Hiến pháp 1992 sửa đổi, bổ
sung năm 2001 đã nhằm mục đích tăng cường sự giám sát của Quốc hội với hoạt
động lập quy của Chính phủ, đồng thời để cao tính chịu trách nhiệm của Chính
phủ trong hoạt động này của Chính phủ trước Quốc hội. Chỉ cơ quan do Quốc
hội thành lập mới được quyền ban hành văn bản pháp quy.
Khẳng định mối quan hệ giữa Chính phủ với Quốc hội Điều 109 Hiến
pháp 1992 quy định: “Chính phủ chịu trách nhiệm trước Quốc hội và báo cáo
công tác với Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Chủ tịch nước”. Quy định
mới này cho thấy vai trò của Chính phủ. Chính phủ do Quốc hội lập ra với tính
chất là cơ quan chấp hành của Quốc hội, cơ quan hành chính nhà nước cao nhất
thì chỉ chịu trách nhiệm trước Quốc hội. Quy định Chính phủ, Thủ tướng Chính
phủ báo cáo công tác trước Ủy ban thường vụ Quốc hội và Chủ tịch nước là để
đảm bảo sự giám sát của các cơ quan này - với tính chất là những cơ quan tham
gia thực hiện quyền giám sát với bộ máy nhà nước.
19
Bên cạnh đó, Điều 117 Hiến pháp 1992 cũng quy định rõ: “Bộ trưởng và
các thành viên khác của Chính phủ chịu trách nhiệm trước Thủ tướng Chính
phủ, trước Quốc hội về lĩnh vực, ngành mình phụ trách”. Như vậy, các thành
viên Chính phủ (Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ) vừa chịu trách nhiệm
về ngành, lĩnh vực mình phụ trách (giống như quy định tại các Hiến pháp trước)
vừa phải chịu trách nhiệm trước Thủ tướng Chính phủ. Quy định như vậy của
Hiến pháp 1992 là nhằm mục đích tăng cường vai trò lãnh đạo của Thủ tướng
Chính phủ đối với các thành viên khác trong Chính phủ.
Hiến pháp 1992 đề cao trách nhiệm cá nhân của Thủ tướng Chính phủ,
các Bộ trưởng và các thành viên khác trước Quốc hội, song chú trọng về trách
nhiệm cá nhân của từng chức danh đó chứ không phải trách nhiệm tập thể chung

chung như trước đây.
20
Chương 2:
THỰC TRẠNG TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA CHÍNH PHỦ
TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY
2.1 Những thành tựu đạt được
Trong những năm gần đây, Chính phủ Việt Nam đã có rất nhiều thành tựu
trong việc thay đổi cả về nhận thức, vị trí, vai trò lẫn cách thức điều hành. Đó là
một trong những biểu hiện thành công của công cuộc đổi mới và mở cửa của đất
nước Việt Nam nói chung và của Chính phủ Việt Nam nói riêng.
Xuất phát từ nội dung, phương hướng xây dựng nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa, việc nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý, điều hành của Chính
phủ với tư cách là cơ quan hành chính nhà nước cao nhất ngày càng được quan
tâm. Chính phủ đã đổi mới phương thức hoạt động, phát huy sức mạnh tổng hợp
của bộ máy Chính phủ, làm rõ hơn chức năng, nhiệm vụ, cơ cấu tổ chức và
quyền hạn của các Bộ, nâng cao vai trò và hiệu lực chỉ đạo đối với chính quyền
địa phương, vừa bảo đảm sự điều hành, tập trung thống nhất, vừa phát huy tính
tích cực, chủ động, sáng tạo của chính quyền địa phương với sự phân cấp cần
thiết, hợp lý.
Việc điều chỉnh, sắp xếp cơ cấu tổ chức bộ máy của Chính phủ được thực
hiện theo nguyên tắc Bộ quản lý đa ngành, đa lĩnh vực. Trong vòng 8 năm, tổng
số các đầu mối của Chính phủ từ 48 cơ quan đến năm 2007 chỉ còn 30 cơ quan,
bao gồm 22 Bộ, cơ quan ngang bộ và 8 cơ quan thuộc Chính phủ. Đến năm
2007, không còn loại cơ quan thuộc Chính phủ thực hiện chức năng quản lý nhà
nước. Chức năng quản lý nhà nước đối với các ngành, lĩnh vực được tập trung
về các Bộ, cơ quan ngang bộ. Hiện nay, cơ cấu tổ chức bộ máy của Chính phủ
cũng được sắp xếp phù hợp với sự điều chỉnh chức năng quản lý nhà nước của
Chính phủ và các cơ quan hành chính nhà nước. Chính phủ có nhiều đổi mới
trong tổ chức bộ máy, hợp lý hóa và gọn nhẹ hơn qua việc sáp nhập một số Bộ
để chỉ còn 22 Bộ và cơ quan ngang bộ; giải thể một số tổ chức không cần thiết,

21
sáp nhập một số cơ quan thuộc Chính phủ và cơ cấu của các Bộ, phân cấp mạnh
hơn cho các Bộ trưởng về tổ chức và công tác cán bộ.
Cơ cấu bên trong các Bộ, cơ quan ngang bộ cũng được điều chỉnh, sắp
xếp tương đối phù hợp theo hướng xác định rõ tính chất, chức năng của từng
loại cơ cấu tổ chức trực thuộc, loại bỏ những cơ cấu trung gian, phân biệt rõ các
đơn vị giúp Bộ trưởng thực hiện chức năng quản lý nhà nước với các tổ chức sự
nghiệp cung cấp dịch vụ công.
Cơ cấu tổ chức các cơ quan chuyên môn ở địa phương cũng được đổi
mới, sắp xếp phù hợp với tổ chức ngành ở trung ương và điều kiện cụ thể của
địa phương. Chính phủ đã ban hành các Nghị định quy định về cơ cấu các cơ
quan chuyên môn thuộc UBND cấp tỉnh, cấp huyện, khẳng định mô hình tổ
chức cứng, được tổ chức nhất quán theo quy định của trung ương và đồng thời
trao quyền cho địa phương tự quyết định các loại tổ chức mềm phù hợp.
Việc điều chỉnh, sắp xếp các cơ quan trong hệ thống hành chính, nhất là
đối với các cơ quan của Chính phủ làm cho bộ máy hành chính nhà nước từ
Trung ương đến địa phương trở nên gọn nhẹ hơn, minh bạch và hoạt động có
hiệu lực, hiệu quả hơn.
Thành viên Chính phủ nhiệm kì mới trẻ hơn, được đào tạo chính quy bài
bản hơn các nhiệm kì trước. Hiện nay, thành phần của Chính phủ khóa mới
nhiều nhà chính trị hơn, nhiều đồng chí có bằng cấp, học hàm học vị cao so với
thành phần của Chính phủ các khóa trước đây.
Sau khi ổn định tổ chức các Bộ và cơ quan ngang bộ, Chính phủ đã chỉ
đạo các Bộ khẩn trương rà soát chức năng, nhiệm vụ, không để chồng chéo
trong quản lý nhà nước giữa các Bộ và không để lĩnh vực, nhiệm vụ nào không
có cơ quan quản lý, không có người chịu trách nhiệm. Chính phủ chủ trương tổ
chức việc đánh giá kết quả đạt được trong công tác cải cách hành chính và đề ra
những việc cần làm tiếp theo, trong đó đã tiến hành tập trung rà soát các thủ tục
hành chính, làm rõ những thủ tục cần loại bỏ hoặc sửa đổi nhằm tạo thuận lợi
nhất cho người dân, cho doanh nghiệp. Việc cải cách thủ tục hành chính đã tạo

thuận lợi cho sự vận hành thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
22
nghĩa, xóa bỏ nhiều quy định mang tính quan liêu, bao cấp, gây phiền hà cho
doanh nghiệp và nhân dân. Phương thức quản lý một dấu, một cửa đã được thí
điểm và vận dụng ở hầu hết các ngành và địa phương.
Những thành tựu mới của khoa học quản lý và công nghệ hiện đại đã đang
từng bước được ứng dụng vào hoạt động quản lý, điều hành của Chính phủ và
các ngành. Năng lực chuyên môn, trình độ kĩ thuật hành chính, phẩm chất và
năng lực thực thi nhiệm vụ của đội ngũ cán bộ, công chức trong bộ máy Chính
phủ đã được nâng cao một bước.
Trong công tác điều hành vĩ mô các lĩnh vực cụ thể, về phát triển kinh tế,
Chính phủ đã chú trọng đề ra các giải pháp thúc đẩy nền kinh tế phát triển
nhanh, nhưng luôn quán triệt quan điểm tăng trưởng kinh tế phải gắn kết chặt
chẽ với kiểm soát và ổn định kinh tế vĩ mô, coi ổn định kinh tế vĩ mô là điều
kiện hàng đầu để thực hiện mục tiêu tăng trưởng kinh tế cao và bền vững. Trên
tinh thần đó, Chính phủ đã phân bổ hợp lý các nguồn lực và quản lý chặt chẽ
việc sử dụng theo hướng bảo đảm các cân đối lớn của nền kinh tế, tạo cơ sở cho
việc triển khai các nhiệm vụ trọng tâm.
Công tác quản lý, điều hành giá cả, Chính phủ chỉ đạo thực hiện hệ thống
các giải pháp tạo hiệu ứng mạnh cho việc giảm áp lực tăng giá. Khống chế mức
tăng giá của một số mặt hàng thiết yếu trong biên độ nhất định, tập trung ổn định
thị trường tiền tệ, giảm bớt lượng tiền trong lưu thông, điều hành linh hoạt cơ
chế tỉ giá; chỉ đạo các giải pháp đẩy mạnh sản xuất, lưu thông, không để thiếu
hụt nguồn hàng; tăng cường chống đầu cơ, buôn lậu; giá cả phù hợp trên nguyên
tắc của nền kinh tế thị trường không mở rộng và đã có dự kiến dần chấm dứt
việc nhà nước bù lỗ về giá.
Đồng thời với chỉ đạo phát triển kinh tế, các lĩnh vực xã hội cũng được
Chính phủ chú trọng điều hành để đưa đời sống nhân dân ngày càng được nâng
cao. Với chủ trương phát triển kinh tế bền vững là lấy người nghèo làm trung
tâm: xóa đói, giảm nghèo là nâng cao kiến thức, giúp họ học nghề tự vươn lên

thoát nghèo, có chương trình, chính sách hỗ trợ các hộ nghèo, đồng bào dân tộc
miền núi, vùng sâu, vùng xa như cho các hộ nghèo vay vốn sản xuất, thu hồi đất
23
của các nông, lâm trường giao cho hộ đồng bào dân tộc nghèo; cải thiện điều
kiện đời sống, sinh hoạt, viêc làm của nhân dân vùng khó khăn, vùng lũ, vùng
lòng hồ thủy điện,…
Trong lĩnh vực giáo dục và đào tạo, Chính phủ đã chỉ đạo đẩy mạnh
chống tiêu cực và khắc phục bệnh thành tích; chỉ đạo đổi mới nâng cao chất
lượng giáo dục đại học; xây dựng và thực hiện đề án về nâng cao chất lượng đội
ngũ nhà giáo, cán bộ quản lý giáo dục, phát triển giáo dục mầm non.
Chính phủ chỉ đạo triển khai các đề án về phát triển văn hóa, thông tin,
thể dục – thể thao, các đề án phát triển du lịch vùng và địa phương nhằm khai
thác đầy đủ tiềm năng, lợi thế về du lịch của đất nước. Tăng cường chỉ đạo về an
toàn thực phẩm; thực hiện chính sách dân số và kế hoạch hóa gia đình; phòng,
chống buôn bán phụ nữ, trẻ em được quan tâm và phân cấp đầy đủ trách nhiệm
cho các cơ quan chức năng thực hiện.
Công tác phòng chống tham nhũng đã được xác định là một trong những
nhiệm vụ trọng tâm của Chính phủ và được tổ chức triển khai khẩn trương,
trước tiên là hoàn thiện về hệ thống văn bản pháp lý. Chính phủ đã có quy định
cụ thể về minh bạch hóa tài sản cá nhân, hướng dẫn thi hành một số điều của
Luật Phòng chống tham nhũng, thực hiện quy định hạn chế thanh toán bằng tiền
mặt và trả lương qua tài khoản, ban hành Quy chế về việc tặng quà, nhận quà và
nộp lại quà tặng của cơ quan, tổ chức có sử dụng ngân sách nhà nước và của cán
bộ, công chức, viên chức; quy định tiêu chuẩn, định mức, chế độ quản lý và sử
dụng phương tiện đi lại trong các cơ quan nhà nước; quy định chế độ quản lý, sử
dụng xe ô tô lễ tân nhà nước. Thông qua việc thực hiện chế độ báo cáo của các
ngành chức năng về thực hiện chương trình kế hoạch công tác về phòng, chống
tham nhũng, Thủ tướng, các Phó Thủ tướng đã trực tiếp chỉ đạo xử lý kết luận
thanh tra một số đơn vị, dự án lớn, chỉ đạo các bộ, ngành, địa phương phải thanh
tra, kiểm tra tất cả các dự án thuộc thẩm quyền và giao các cơ quan chức năng

làm rõ các vụ việc có dấu hiệu tham nhũng, tiêu cực mà báo chí và nhân dân
phản ánh.
24
Chính phủ và Thủ tướng Chính phủ đã tập trung xem xét và giải quyết dứt
điểm nhiều vụ khiếu nại, tố cáo đông người, phức tạp, kéo dài; chỉ đạo các cơ
quan chức năng đổi mới công tác tiếp dân, trọng tâm là đổi mới nhận thức, tổ
chức và hoạt động của cơ quan tiếp dân, phối hợp chặt chẽ để giải quyết kịp
thời, dứt điểm các vụ việc ngay tại địa phương, cơ sở bảo đảm tính dân chủ công
khai, minh bạch.
Các lĩnh vực quốc phòng, an ninh được tăng cường, củng cố. Chính trị, xã
hội ổn định tạo điều kiện thuận lợi cho những bước đi lên mạnh mẽ của đất
nước.
Công tác đối ngoại cũng giành được những thành tựu to lớn, thực hiện
đường lối đối ngoại rộng mở của Đảng, Nhà nước ta tích cực, chủ động thiết lập
quan hệ ngoại giao, củng cố quan hệ hữu nghị, mở rộng quan hệ hợp tác với
nhiều nước trên thế giới, không phân biệt chế độ chính trị khác nhau.
2.2 Những tồn tại, hạn chế
Những thành tựu trong việc xây dựng tổ chức, bộ máy cũng như hoạt
động chỉ đạo, điều hành của Chính phủ trong những năm gần đây là hết sức to
lớn, tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được đó, tổ chức bộ máy, hoạt động
của Chính phủ vẫn còn nhiều tồn tại, hạn chế cần khắc phục.
2.2.1 Về cơ sở pháp lý đối với tổ chức và hoạt động của Chính phủ
Hiện nay tổ chức và hoạt động của Chính phủ được điều chỉnh trong Hiến
pháp 1992, sửa đổi bổ sung năm 2001, Luật Tổ chức Chính phủ năm 2001, Quy
chế làm việc của Chính phủ; hàng loạt các Nghị định về chức năng, nhiệm vụ,
quyền hạn và cơ cấu tổ chức của các bộ, cơ quan thuộc Chính phủ và các Quyết
định của Thủ tướng Chính phủ. Những văn bản này là cơ sở pháp lý quan trọng
cho tổ chức và hoạt động của các cơ quan thuộc hệ thống hành pháp. Các văn
bản được ban hành gần đây đã thể hiện tư tưởng tăng cường hiệu quả của bộ
máy hành pháp như tinh thần cải cách hành chính, phân công và phân cấp quản

lý Nhà nước. Tuy nhiên các văn bản chủ đạo là căn cứ cho hoạt động hành chính
còn có một số hạn chế nhất định:
25
Về Hiến pháp: một số quy định của Hiến pháp 1992 được sửa đổi, bổ
sung một cách khiên cưỡng, thiếu toàn diện và thiếu sự thuyết phục dưới góc độ
khoa học. Liên quan đến Chính phủ, Điều 2 của Hiến pháp có nhắc tới “quyền
hành pháp”. Tuy nhiên, các quy định tiếp theo của Hiến pháp hoàn toàn thoát ly
với thuật ngữ nói trên. Việc sửa đổi, bổ sung Hiến pháp mới đạt mục đích là
tăng cường trách nhiệm của Chính phủ trước cơ quan cao nhất của quyền lực
Nhà nước mà chưa thể hiện được tính độc lập tương đối vốn có của “quyền
hành pháp”.
Về Luật tổ chức Chính phủ: tương tự như Nghị quyết sửa đổi, bổ sung
Hiến pháp, ngoài những điểm có tính cải cách và tiến bộ, Luật Tổ chức Chính
phủ năm 2001 còn bộc lộ rõ một số lúng túng trong cách quy định. Cụ thể:
- Về địa vị pháp lý của Chính phủ: trong mối quan hệ với Quốc hội, Hiến
pháp và Luật Tổ chức Chính phủ giữ một khuôn mẫu truyền thống là Chính phủ,
Thủ tướng Chính phủ chịu trách nhiệm trước Quốc hội, Ủy ban Thường vụ
Quốc hội. Riêng đối với Thủ tướng Chính phủ với tinh thần công khai hóa hoạt
động hành chính, Luật còn quy định trách nhiệm báo cáo trước nhân dân (Điều
20) [5]. Tuy nhiên, những vấn đề có tính lý luận về chế độ chịu trách nhiệm của
tập thể Chính phủ, của Thủ tướng Chính phủ với tư cách cá nhân và của các
thành viên Chính phủ chưa được tiên lượng hết và chưa thể hiện rõ ràng, gây
khó khăn cho việc thực hiện. Cơ chế bỏ phiếu tín nhiệm của Quốc hội đối với
người do Quốc hội bầu hoặc phê chuẩn (trong đó có các thành viên Chính phủ)
cũng còn những điểm thiếu rõ ràng và chưa toát lên vai trò, ý nghĩa cần thiết để
giải quyết mối quan hệ giữa Quốc hội và Chính phủ trong cơ chế tổ chức quyền
lực đặc thù như ở nước ta là toàn bộ hoạt động của Nhà nước đặt dưới sự lãnh
đạo của một chính đảng duy nhất là Đảng Cộng sản Việt Nam.
- Về chức năng, nhiệm vụ của Chính phủ: Chức năng, nhiệm vụ của
Chính phủ vẫn còn không ít bất cập, chậm đổi mới, điều chỉnh, nhất là chức

năng của Chính phủ trong mối quan hệ giữa Nhà nước với thị trường, giữa Nhà
nước với doanh nghiệp, giữa Nhà nước với xã hội chưa được thể chế một cách
đầy đủ, rõ ràng. Vai trò, chức năng của Chính phủ trong mối quan hệ phân công,

×