Tải bản đầy đủ (.docx) (14 trang)

Chứng khoán 9 ĐIỂM: Sự tác động qua lại giữa hoạt động của các chủ thể kinh doanh chứng khoán với sự phát triển của thị trường chứng khoán ở Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (143.48 KB, 14 trang )

A. ĐẶT VẤN ĐỀ
Thị trường chứng khoán (TTCK) là một mô hình đặc trưng của nền kinh
tế phát triển, không giống như các mô hình kinh tế khác, TTCK Việt Nam ra đời
trên cơ sở có sự hỗ trợ đắc lực từ phía Nhà nước. TTCK Việt Nam có mối quan
hệ mật thiệt với quá trình cổ phần hóa của các doanh nghiệp nhà nước. Nhận
thức rõ việc xây dựng TTCK là một nhiệm vụ chiến lược có ý nghĩa đặc biệt
quan trọng đối với tiến trình xây dựng và phát triển đất nước, trước yêu cầu đổi
mới và phát triển kinh tế phù hợp với các điều kiện kinh tế - chính trị và xã hội
trong nước và xu thế hội nhập kinh tế quốc tế, TTCK Việt Nam đã ra đời và
được đánh dấu bằng việc đưa vào vận hành Trung tâm giao dịch chứng khoán
thành phố Hồ Chí Minh ngày 20/07/2000 và thực hiện phiên giao dịch đầu tiên
vào ngày 28/07/2000. Từ khi hình thành và phát triển TTCK có sự đóng góp hết
sức quan trọng trong hoạt động của các chủ thể kinh doanh chứng khoán. TTCK
đã chứng tỏ là một kênh dẫn vốn quan trọng, phục vụ đắc lực cho công cuộc
phát triển kinh tế của đất nước và đem lại nhiều lợi nhuận cho các chủ thể kinh
doanh chứng khoán. Đồng thời hoạt động của các chủ thể kinh doanh chứng
khoán cũng giúp cho TTCK Việt Nam phát triển. Để tìm hiểu kỹ hơn về mối
quan hệ này, em xin chọn đề tài: “Sự tác động qua lại giữa hoạt động của các
chủ thể kinh doanh chứng khoán với sự phát triển của thị trường chứng
khoán ở Việt Nam” cho bài tập lớn cuối kỳ.

1


I.

B. NỘI DUNG
Tìm hiều về thị trường chứng khoán và các chủ thể kinh doanh chứng
khoán

I.1. Thị trường chứng khoán


TTCK trong điều kiện của nền kinh tế hiện đại được quan niệm là nơi
diễn ra các hoạt động giao dịch mua bán chứng khoán trung và dài hạn. Việc
mua bán này được tiến hành ở thị trường sơ cấp khi người mua mua được chứng
khoán lần đầu từ những người phát hành, và ở những thị trường thứ cấp khi có
sự mua đi bán lại các chứng khoán đã được phát hành ở thị trường sơ cấp. Như
vậy về mặt hình thức, TTCK chỉ là nơi diễn ra các hoạt động trao đổi, mua bán,
chuyển nhượng các loại chứng khoán qua đó thay đổi chủ thể nắm giữ chứng
khoán.
Như vậy ta có thể thấy TTCK có vai trò đặc biệt quan trọng tại các quốc
gia có nền kinh tế thị trường, nó phản ánh rõ nét nhất các qui luật của nền kinh
tế thị trường. Các chuyên gia kinh tế đều đưa ra kết luận TTCK tạo sức cạnh
tranh và thúc đẩy sự phát triển đồng bộ của các bộ phận thị trường tài chính; là
thước đo về sự phát triển và mức độ nhận diện của nền kinh tế.
Lịch sử phát triển nền kinh tế thị trường ở các quốc gia phát triển đã
khẳng định TTCK ngày càng có vai trò quan trọng trong quá trình vận hành nền
kinh tế của mỗi quốc qua cũng như trong hệ thống kinh tế toàn cầu.
- TTCK là kênh huy động vốn trung và dài hạn hữu hiệu cho các doanh
nghiệp: TTCK là nơi thu hút mạnh mẽ các nguồn vốn vào đầu tư kinh doanh,
thu hút vốn đầu tư nước ngoài tạo thành nguồn vốn khổng lồ tài trợ cho nên kinh
tế mà các định chế tài chính khác không làm được. Thông qua cổ phiếu, trái
phiếu, các loại chứng khoán khác, TTCK cho phép các doanh nghiệp, các tổ
chức tín dụng, kể cả Chính phủ, chính quyền địa phương huy động tối đa nguồn
vốn đưa vào đầu tư phát triển.

2


-TTCK khyến khích người dân tiết kiết để đầu tư vào sản xuất kinh
doanh: với việc mua bán chứng khoán dễ dàng trên TTCK, nguồn tiền tạm thời
chưa sử dụng đến của những nhà đầu tư được sử dụng một cách linh hoạt, tạo ra

lợi nhuận, tránh tình trạng “vốn chết”. TTCK được coi là chiếc cầu nối vô hình
giữa người có vốn và người thiếu vốn, là kênh điều hòa các nguồn vốn từ nơi
thừa vốn đến nơi thiếu vốn, giải quyết linh hoạt nhu cầu về vốn giữa các vùng
kinh tế, các thành phần kinh tế.
-TTCK tạo điều kiện cho doanh nghiệp sử dụng vốn có hiệu quả hơn, đảm
bảo cho các doanh nghiệp hoạt động theo đúng trật tự của luật pháp: TTCK kích
thích các doanh nghiệp làm ăn “đàng hoàng” hơn, hiệu quả hơn bởi tâm lý
chung của các nhà đầu tư là chỉ muốn mua chứng khoán của các doanh nghiệp
làm ăn minh bạch và có lãi, do đó TTCK buộc các doanh nghiệp phải công khai
thông tin thường xuyên, tức thời theo yêu cầu của Ủy ban chứng khoán nhà
nước. Có thể nói, TTCK là thị trường thông tin, thông qua các thông tin này, nhà
đầu tư có thể đánh giá khả năng tài chính, hoạt động kinh doanh và triển vọng
của doanh nghiệp để lựa chọn đầu tư. Vì vậy, muốn tồn tại được không còn cách
nà khác là doanh nghiệp phải làm sao sử dụng vốn cho hiệu quả nhất.
I.2. Các chủ thể kinh doanh chứng khoán
Theo quy định của luật chứng khoán thì các chủ thể kinh doanh chứng
khoán gồm những chủ thể sau:
-Công ty chứng khoán
-Qũy đầu tư chứng khoán và công ty quản lý quỹ
-Các tổ chức khác như: công ty lưu ky và thanh toán bù trừ; ngân hàng
thương mại; các tổ chức trung gian tài chính khác (công ty bảo hiểm, các quỹ
hưu lương…); …
Công ty chứng khoán là doanh nghiệp kinh doanh chứng khoán với tư
cách là thành viên của sở giao dịch chứng khoán. Công ty chứng khoán là tổ
chức kinh tế có tư cách pháp nhân, được thành lập theo hình thức mà pháp luật
3


quy định; đối tượng kinh doanh chủ yếu và mang tính chất nghề nghiệp là chứng
khoán. Dấu hiệu đặc trưng của công ty chứng khoán là tư cách thành viên của

Sở giao dịch chứng khoán, với các hoạt động kinh doanh chủ yếu gồm: môi giới
chứng khoán, tự doanh, bảo lãnh phát hành, tư vấn đầu tư chứng khoán,… Trên
thực tế, hoạt động môi giới của công ty chứng khoán có vai trò rất quan trọng
trong việc mua bán chứng khoán trên thị trường giao dịch tập trung nên còn
được gọi là công ty môi giới. Theo Nghị định số 144/2003/NĐ-CP ngày
28/11/2003 của Chính Phủ về chứng khoán và thị trường chứng khoán, công ty
chứng khoán được thành lập dưới hình thức công ty cổ phần hoặc công ty trách
nhiệm hữu hạn theo giấy phép của ủy ban chứng khoán nhà nước cấp.
Qũy đầu tư là tổ chức hoạt động theo phương thức huy động vốn thông
qua phát hành cổ phần hoặc chứng chỉ của quỹ, để đầu tư vào chứng khoán và
các loại tài sản tài chính khác với mục đích làm tăng giá trị tài sản của quỹ.
Công ty quản lý quỹ là công ty thực hiện việc điều hành, quản lý các quỹ
đầu tư phù hợp với điều lệ quỹ và làm tăng giá trị tài sản quỹ. Khách hàng cảu
công ty quản lý quỹ thường là các nhà đầu tư có tổ chức như: công ty bảo hiểm,
công ty tài chính,… Chức năng của công ty quản lý quỹ là thực hiện việc đầu tư
theo sự ủy thác của khách hàng sao cho phù hợp với mục tiêu đầu tư của quỹ mà
khách hàng đã lựa chọn.
I.3. Hoạt động của các chủ thể kinh doanh chứng khoán
Hoạt động của các chủ thể kinh doanh chứng khoán là việc thực hiện
nghiệp vụ môi giới chứng khoán, tự doanh chứng khoán, bảo lãnh phát hành
chứng khoán, quản lý quỹ đầu tư chứng khoán và quản lý danh mục đầu tư
chứng khoán.
Qua khái niệm này ta thấy được hoạt động kinh doanh chứng khoán gồm
những đặc điểm:
- Kinh doanh chứng khoán là nghề thương mại đặc thù có liên quan đến
quyền lợi của nhà đầu tư và các doanh nghiệp.
4


- Đối tượng của hoạt động kinh doanh chứng khoán chính là các chứng

II.

khoán – giá trị động sản và các dịch vụ về chứng khoán.
Sự tác động qua lại giữa hoạt động của các chủ thể kinh doanh chứng
khoán với sự phát triển của thị trường chứng khoán ở Việt Nam
Lịch sử hình thành và phát triển đã chứng minh TTCK Việt Nam có mối

quan hệ mật thiết và tác động qua lại với các chủ thể kinh doanh chứng khoán
thông qua các hoạt động. Các chủ thể kinh doanh chứng khoán đã tạo điều kiện
hết sức quan trọng thúc đẩy quá trình phát triển thị trường sơ cấp cũng như hình
thành thị trường thứ cấp ở Việt Nam. Những loại chủ thể này là một trong những
nhân tố quyết định sự sôi động hoặc có thể kìm hàm TTCK. Còn TTCK là nơi
diễn ra các hoạt động kinh doanh chứng khoán. Vì thế mà luôn có những tác
động qua lại giữa hoạt động của các chủ thể kinh doanh chứng khoán và TTCK
ở Việt Nam.
II.1. Tác động từ hoạt động của các chủ thể kinh doanh chứng khoán đối với
thị trường chứng khoán
II.1.1. Tác động tích cực đối với thị trường chứng khoán
Thứ nhất: hoạt động của các chủ thể kinh doanh chứng khoán là chất xúc
tác, là cầu nối giữa cung – cầu trên thị trường chứng khoán. Nói cách khác nó là
phương thức thiết lập kênh dẫn vốn trực tiếp giữa các nhà đầu tư là công chúng
với chính phủ và doanh nghiệp.
Nếu coi chứng khoán là hàng hóa với các đặc điểm đầy đủ của chúng,
chứng khoán cần được sản xuất, lưu thông và nhà sản xuất tham gia lưu thông
có nhu cầu đương nhiên là tạo thu nhập từ hoạt động của mình thông qua TTCK.
Nhưng để chứng khoán được lưu thông từ nhà phát hành tới các nhà đầu tư đem
lại hiệu quả thì không phải là dễ dàng. Như vậy, cần phải có những tổ chức làm
cầu nối giữa cung – cầu chứng khoán trên thị trường.
Trên thị trường sơ cấp một doanh nghiệp khi thực hiện huy động vốn bằng
cách phát hành chứng khoán thường họ không tự bán chứng khoán của mình bởi

5


lẽ các công việc trong quá trình phát hành như: xác định giá bán, số lượng và
thời điểm phát hành chứng khoán,… nếu doanh nghiệp phát hành tự tiến hành
thì hiệu quả thường không cao, mất nhiều thời gian và quá tốn kém, thậm chí
còn gánh chịu hậu quả rủi ro về mặt tài chính và pháp lý. Nên cần nhờ đến các
chủ thể chuyên nghiệp hoạt động trên thị trường chứng khoán tư vấn và giúp họ
phát hành chứng khoán thì những khó khăn trên sẽ được giải quyết và chi phí
cho những công việc này cũng giảm đi.
Trên thị trường sơ cấp: chứng khoán có sự lưu thông của nhiều loại chứng
khoán của các ngành kinh tế. Mà chứng khoán là loại hàng hóa đặc biệt, giá trị
chứng khoán không được kết tinh vào kết cấu lý hóa của bản thân nó mà phụ
thuộc vào tình hình hoạt động của tổ chức phát hành. Để đánh giá chính xác giá
trị thực của chứng khoán từ đó đưa ra quyết định đầu tư hợp lý thì người đầu tư
phải có thông tin đáng tin cậy và phải cập nhật thường xuyên về tình hình kinh
doanh của tổ chức phát hành thì đây là một công việc vượt qua khả năng của nhà
đầu tư bình thường. Trong khi đó, có tổ chức chuyên nghiệp cập nhật, lưu trữ và
xử lý các thông tin về tổ chức phát hành để cung cấp cho người đầu tư bất cứ lúc
nào mà họ cần. Hơn nữa trong TTCK bao giờ cũng có người cần mua, người cần
bán chứng khoán nhưng họ không biết nhau. Nếu họ tự đi tìm đối tác thì mất rất
nhiều thời gian. Cách tốt nhất là họ ủy quyền cho các tổ chức chuyên nghiệp thu
thập các nguyện vọng kiểu này đó là những nhà môi giới chứng khoán. Theo
cách này, cơ hội gặp nhau của người mua và người bán chứng khoán dễ dàng
hơn mà thời gian, chi phí cho những giao dịch này cũng thấp. Đối với người đầu
tư chứng khoán khi mua bán chứng khoán cũng cần có sự giúp đỡ của những
người môi giới đầu tư giàu kinh nghiệm để không bị nhầm lẫn hoặc lừa gạt, dẫn
đến rủi ro trong hoạt động đầu tư.
Tác động này được thể hiện trong các hoạt động của các chủ thể kinh
doanh chứng khoán như: ngân hàng thương mại, công ty quản lý quỹ. Trong đó

điển hình nhất là hoạt động của công ty chứng khoán gồm những hoạt động như:
6


hoạt động môi giới, tự doanh, bảo lãnh phát hành, tư vấn đầu tư chứng khoán và
các hoạt động dịch vụ tài chính khác. Với tư cách là một định chế tài chính trung
gian tham gia hầu hết vào quá trình luân chuyển của chứng khoán: từ khâu phát
hành trên thị trường sơ cấp đến khâu giao dịch mua bán trên thị trường thứ cấp.
Trê thị trường sơ cấp: thì công ty chứng khoán là cầu nối giữa nhà phát
hành và nhà đầu tư, giúp các tổ chức phát hành huy động vốn một cách nhanh
chóng thông qua nghiệp vụ bảo lãnh phát hành.
Công ty chứng khoán với nghiệp vụ chuyên môn, kinh nghiệm nghề
nghiệp và bộ máy tổ chức thích hợp, họ thực hiện tốt vai trò trung gian môi giới
mua bán, phát hành chứng khoán, tư vấn đầu tư và thực hiện một số dịch vụ
khác chi cả người đầu tư và người phát hành. Với nghiệp vụ này, công ty chứng
khoán thực hiện vai trò làm cầu nối và là kênh dẫn vốn từ nơi thừa đến nơi thiếu.
Còn trên thị trường thứ cấp: công ty chứng khoán là cầu nối giữa các nhà
đầu tư, là trung gian chuyển các khoản đầu tư thành tiền và ngược lại. Trong môi
trường đầu tư ổn định, các nhà đầu tư luôn chuộng những chứng khoán có tính
thanh khoản cao, vì họ luôn có nhu cầu chuyển đổi số vốn tạm thời nhàn rỗi
thành các khoản đầu tư và ngược lại. Công ty chứng khoán với nghiệp vụ môi
giới, tư vấn đầu tư đảm nhận tốt vai trò chuyển đổi này, giúp cho các nhà đầu tư
giảm thiểu thiệt hại về giá trị khoản đầu tư của mình.
Hay nhằm phục vụ cho mục tiêu tăng trưởng, nhu cầu vốn dài hạn thông
qua phát hành trái phiếu của các ngân hàng thương mại là rất lớn. Việc các ngân
hàng thương mại phát hành trái phiếu chính là một kênh dẫn vốn quan trọng cho
các ngân hàng thương mại với mục tiêu tăng trưởng kinh tế.
Thứ hai: tác động làm thúc đẩy thị trường chứng khoán hoạt động thông
qua đòn bẩy lợi ích kinh tế của các nhà kinh doanh chứng khoán chuyên nghiệp.
Điều dễ hiểu là khi các nhà kinh doanh chứng khoán được lợi nhuận nhiều

hơn trong các hoạt động kinh doanh thì đương nhiên họ sẽ tham gia vào thị
trường chứng khoán một cách tích cực hơn và ngược lại. Khoản lợi ích này thực
7


chất là sự chia sẻ giữa khách hàng với các nhà kinh doanh chứng khoán thông
qua con đường thương lượng bằng hợp đồng.
Ví dụ: hợp đồng bảo lãnh phát hành chứng khoán: loại hợp đồng này tỏ ra
rất có lợi cho tổ chức phát hành chứng khoán vì dường như họ không phải lo
lắng gì về nguy cơ thất bại của đợt phát hành chứng khoán. Tuy nhiên bù lại họ
sẽ phải trả một mức phí dịch vụ cao hơn cho tổ chức phát hành chuyên nghiệp,
có khả năng tài chính mạnh và có tham vọng chi phối đối với thị trường dịch vụ
bảo lãnh phát hành chứng khoán.
Thứ ba: tác động góp phần điều tiết và bình ổn giá trên TTCK
Cung cấp các dịch vụ tư vấn cần thiết của các chủ thể kinh doanh góp
phần cho TTCK hoạt động ổn định, cụ thể:
Các chủ thể kinh doanh chứng khoán giúp cung cấp cơ chế xác định giá
cho các khoản đầu tư: các chủ thể kinh doanh chứng khoán thông qua Sở giao
dịch chứng khoán và thị trường OTC cung cấp một cơ chế xác định giá nhằm
giúp các nhà đầu tư đánh giá đúng thực tế và chính xác các khoản đầu tư của
mình.
Trên thị trường sơ cấp: khi thực hiện nghiệp vụ bảo lãnh phát hành chứng
khoán, các chủ thể kinh doanh chứng khoán thực hiện vai trò tạo cơ chế giá
chứng khoán thông qua việc xác định và tư vấn cho các tổ chức phát hành mức
giá phát hành hợp lý.
Trên thị trường thứ cấp: tất cả các lệnh mua bán thông qua các công ty
chứng khoán được xác định theo quy luật cung – cầu. Ngoài ra, công ty chứng
khoán còn cung cấp nhiều dịch vụ khác hỗ trợ giao dịch chứng khoán.
Thứ tư: hoạt động của các chủ thể kinh doanh chứng khoán khiến cho
dòng vốn trên thị trường chứng khoán vận hành nhanh hơn, hiệu quả hơn.

Thông qua các nghiệp vụ như: môi giới chứng khoán, bảo lãnh phát hành,
tự doanh, quản lý danh mục đầu tư hay tư vấn đầu tư chứng khoán góp phần
giảm chi phí giao dịch cho nhà đầu tư: TTCK cũng tương tự như tất cả các thị
8


trường khác, để tiến hành giao dịch người mua, người bán phải có cơ hội gặp
nhau, thẩm định chất lượng hàng hóa và thỏa thuận giá cả. Tuy nhiên, TTCK với
những đặc trưng riêng của nó như người mua người bán có thể ở rất xa nhau,
hàng hóa là vô hình, vì vậy để cung – cầu gặp nhau, thẩm định chất lượng, xác
định giá cả thì phải mất rất nhiều thời gian, công sức, tiền bạc cho một giao dịch
để phục vụ cho việc thu thập, phân tích, xử lý thông tin… Các chủ thể kinh
doanh chứng khoán với lợi thế chuyên môn hóa, trình độ kinh nghiệm nghề
nghiệp sẽ thực hiện tốt vai trò trung gian mua bán chứng khoán, giúp các nhà
đầu tư giảm được chi phí trong từng giao dịch.
II.1.2. Tác động tiêu cực đến thị trường chứng khoán
Bên cạnh những tác động tích cực do hoạt động của các chủ thể kinh
doanh chứng khoán đối với TTCK thì nó còn đem lại những tác động xấu, kìm
hãm sự phát triển trên TTCK.
Vì mục tiêu lợi nhuận mà các hoạt động của các chủ thể kinh doanh
chứng khoán đã sử dụng những biện pháp cạnh tranh không lành mạnh gây ảnh
hưởng xấu đến sự phát triển chung của TTCK, tạo tâm lý lo ngại cho các nhà
đầu tư. Có lẽ chưa bao giờ người ta nói nhiều đến chuyện rò rỉ thông tin, chuyện
cạnh tranh thiếu lành mạnh,… của một bộ phận tham gia thị trường chứng
khoán như hiện nay. Rò rỉ thông tin được coi là một trong những vấn đề đạo đức
nguy hại nhất trên thị trường chứng khoán. Nó thường bắt nguồn từ những
người có trách nhiệm trong các công ty niêm yết, công ty chứng khoán và cả
nhân viên làm việc trên sàn chứng khoán. Do vậy, một quy chuẩn đạo đức tin
cậy cho TTCK tại Việt Nam đang được giới đầu tư mong đợi. Bên cạnh đó,
không ít trường hợp người môi giới đã lái nhà đầu tư theo hướng có lợi cho

mình hoặc một nhóm người nào đó bằng những thông tin không đầy đủ. Lãnh
đạo một công ty chứng khoán cũng thừa nhận rằng, đã có công ty chứng khoán
vì mục đích lợi nhận mà đã thổi phồng tình hình kinh doanh của doanh nghiệp
lên để phát hành cổ phiếu giá cao. Sau đó bỏ mặc các nhà đầu tư với những thua
9


lỗ của doanh nghiệp đã phát hành cổ phiếu. Tính minh bạch của các doanh
nghiệp và cá nhân tham gia là sự sống còn của thị trường chứng khoán, nhưng
hiện nay nó đang bị coi nhẹ, cho biết cuộc chiến thầm lặng giữa các công ty
chứng khoán vẫn đang xảy ra với sự đôi co về phí dịch vụ môi giới, phí tổ chức
đấu giá, … Theo quy định của Nhà nước ban hành, chi phí môi giới chứng
khoán là 0,5% nhưng hiện nay các công ty hầu như đều đã giảm xuống mức thấp
hơn. Cũng chính do cách cạnh tranh bằng giảm phí nên chất lượng dịch vụ
chứng khoán không đảm bảo. Thêm vào đó, có công ty chứng khoán gặp phải
trường hợp cán bộ của mình sau khi bị kéo sang công ty khác đã tiết lộ thông tin
nội bộ của doanh nghiệp cho đối thủ cạnh tranh. Không ít nhà đầu tư đã tạo mối
thân quen với những người nắm giữ thông tin để mua hoặc hợp tác làm ăn. Khi
giao dịch nội gián có đất sống thì cũng có nghĩa công tác giám sát quá yếu. Việc
quản lý yếu kém đồng nghĩa với việc tạo cơ hội ăn cắp cho những người làm
việc trong môi trường ấy. Hậu quả là những doanh nghiệp trung thực, chân
chính mất cơ hội phát triển. Từ đó ảnh hưởng tới sự phát triển của TTCK ở nước
ta.
II.2. Tác động trở lại của thị trường chứng khoán với các chủ thể kinh doanh
chứng khoán.
Sau một thời gian xây dựng và phát triển, đến nay ở nước ta đã có 697
doanh nghiệp niêm yết; 374 công ty giao dịch trên sàn upcom, giá trị vốn hóa
đạt 1.947 nghìn tỷ đồng, tương đương 42,3% GDP năm 2016.1
Có thể nói, so với các TTCK trên thế giới thì TTCK ở Việt Nam vẫn còn
non trẻ, tuy nhiên TTCK ở Việt Nam đã chứng tỏ là một kênh dẫn vốn quan

trọng, phục vụ đắc lực cho công cuộc phát triển kinh tế của đất nước và đem lại
nhiều lợi nhuận cho các chủ thể kinh doanh chứng khoán. Từ khi TTCK Việt

1 />
10


Nam ra đời đã chứng minh được vai trò quan trọng của mình đối với hoạt động
của các chủ thể kinh doanh chứng khoán, đó là:
Thứ nhất, qua việc phát hành chứng khoán trên thị trường chứng khoán,
hoạt động của các doanh nghiệp được phản ánh một cách tổng hợp và chính xác,
giúp cho việc đánh giá và so sánh hoạt động của doanh nghiệp được nhanh
chóng và thuận tiện, từ đó cũng tạo ra một môi trường cạnh tranh lành mạnh
nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn cho các chủ thể kinh doanh chứng khoán.
Thứ hai, thị trường chứng khoán bao gồm thị trường sơ cấp và thị trường
thứ cấp, đây là nơi để cho các chủ thể kinh doanh chứng khoán thu được nhiều
lợi nhuận. Từ việc thực hiện các hoạt động kinh doanh chứng khoán như môi
giới chứng khoán cho các nhà đầu tư sẽ đem lại nguồn thu nhập, lợi nhuận cho
các công ty chứng khoán, công ty quản lý quỹ,…
Thứ ba, thị trường chứng khoán phát triển cũng góp phần quan trọng
trong tiến trình tái cơ cấu nền kinh tế nói chung, đặc biệt là tái cấu trúc hệ thống
doanh nghiệp nhà nước. Do đó, thị trường cũng phải hoạt động công bằng, hiệu
quả để hỗ trợ trở lại cho doanh nghiệp, cho nền kinh tế. Thông qua thị trường
chứng khoán, doanh nghiệp huy động được nguồn vốn lớn để mở rộng sản xuất
kinh doanh.
Thứ tư, cơ sở hạ tầng của TTCK bao gồm: hệ thống thông tin thị trường,
hệ thống giao dịch, hệ thống lưu lý, thanh toán bù trừ,… Thị trường cơ sở hạ
tầng tiên tiến và đồng vộ sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho việc thực hiện giao dịch,
giảm thiểu rủi ro hệ thống. Các hoạt động trên thị trường chứng khoán đều được
công khai hóa thông tin về các loại chứng khoán được đưa ra mua bán trên thị

trường, tình hình tài chính, kết quả kinh doanh của các công ty, số lượng chứng
khoán và giá cả đều được niêm yết trên TTCK. Vì vậy, thông qua thị trường các
chủ thể kinh doanh sẽ có sự phân tích đầy đủ và chính xác giúp các nhà đầu tư
gặp ít rủi ro hơn.

11


Thứ năm, nhờ tính thanh khoản của TTCK, các nhà đầu tư có thể chuyển
đổi các chứng khoán mà họ sở hữu thành tiền mặt hoặc các loại chứng khoán
khác mà họ muốn. Khả năng thanh khoản là một trong những đặc tính hấp dẫn
của chứng khoán đối với người đầu tư. Đây là yếu tố cho thấy tính linh hoạt, an
toàn của vốn đầu tư. TTCK hoạt động càng năng động và có hiệu quả thì tính
thanh khoản của các chứng khoán giao dịch trên thị trường càng cao.
C. KẾ LUẬN
Từ những phân tích trên, ta nhận thấy giữa TTCK và hoạt động kinh
doanh của các chủ thể kinh doanh chứng khoán có sự tác động qua lại.

12


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo trình: “Luật chứng khoán”, trường Đại học Luật Hà Nội, năm 2012,
Nxb Công an nhân dân.
2. Luật chứng khoán 2006.
3. Nghị định số 144/2003/NĐ-CP ngày 28/11/2003 của Chính Phủ.
4. />
13



MỤC LỤC

14



×