Tải bản đầy đủ (.docx) (5 trang)

Chủ đề thảo luận thị trường chứng khoán (2)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (76 KB, 5 trang )

Các yếu tố ảnh hưởng đến thị trường chứng khoán theo
thời gian và lãi suất ảnh hưởng tới thị trường chứng
khoán như thế nào?
Nguyễn Thị Hoan

1.Các yếu tố ảnh hưởng đến thị trường chứng khoán theo
thời gian
Có rất nhiều yếu tổ ảnh hưởng đến TTCK như các thông tin cập nhật, thậm chí cả tin đồn; tiền và
tâm lý của nhà đầu tư cũng như quá trình phát triển của nền kinh tế quốc dân. Những yếu tố này
sẽ ảnh hưởng đến TTCK như thế nào, trong khoảng thời gian bao lâu?
Các yếu tố ảnh hưởng ngắn hạn
Thời kỳ ngắn hạn, TTCK lên xuống do những sự kiện hàng ngày, các thông tin cập nhật, kể cả
những tin đồn gây nên. Các nhà đầu tư chuyên nghiệp và không chuyên tiếp nhận, diễn giải
thông tin, suy đoán, kết luận và quyết định mua bán có thể sai hoặc nhầm lẫn nếu thông tin đó
không chính xác. Ở thời kỳ này, không phải bản thân các sự kiện hay thông tin, mà chính trạng
thái tâm lý hiện hành trên thị trường làm giá chứng khoán lên xuống. Đôi khi, nhà đầu tư phản
ánh một cách hốt hoảng, thái quá, ngược với mọi logic thường nhật hay các luận cứ kinh tế. Điều
này có thể dẫn đến thị trường tăng giảm vô căn cứ, chỉ vì người chơi chứng khoán lấy các sự
kiện như một cách biện minh cho hành động của mình.
Một ví dụ rõ nhất là sự ảnh hưởng mạnh và rõ rệt của những biến động hàng ngày, hàng giờ của
kinh tế thế giới trong thời gian qua. Những sự kiện như việc phá sản hàng loạt tổ chức tài chính
hàng đầu sau khi mọi nỗ lực giải cứu không thành khiến TTCK toàn thế giới sụt giảm kỷ lục.
Tâm lý nặng nề đó tiếp tục khiến nhà đầu tư hoảng hốt, tháo chạy không cân nhắc và hiển nhiên
TTCK càng thêm suy thoái.
Các yếu tố ảnh hưởng trung hạn
Tiền và tâm lý là những yếu tố có tính quyết định đến trào lưu thị trường trung hạn. Theo nhiều
nhà kinh tế, khi cả hai yếu tố tiền và tâm lý đều âm, TTCK rất trầm. Nếu chỉ có một trong hai
yếu tố tích cực, còn yếu tố kia âm thì thị trường vẫn chưa thể khởi sắc. Song khi có tiền cộng với
tâm lý phấn khích, TTCK theo xu hướng đi lên, phát triển nhanh một cách bùng nổ. Bên cạnh
tiền và tâm lý, yếu tố lãi suất cũng đóng vai trò quan trọng. Việc tăng hay giảm lãi suất của hệ
thống tổ chức tín dụng đôi khi còn phát huy tác dụng lên TTCK, vượt trước tác động vào nền


kinh tế một thời gian.
Các yếu tố ảnh hưởng dài hạn


Quá trình phát triển nền kinh tế quốc dân, quá trình kinh doanh của các ngành cũng như từng
doanh nghiệp, triển vọng sinh lời của chúng là những yếu tố ảnh hưởng tới TTCK trong một
khoảng thời gian dài. Thêm vào đó, các tiến bộ khoa học kỹ thuật, công nghệ hay tình hình chính
trị và chính sách tín dụng, tiền tệ cũng rất quan trọng. Hai trạng thái bi quan và lạc quan trong
tâm lý công chúng nhà đầu tư cũng là vấn đề cần lưu tâm. Ngoài ra, vấn đề đối nội, đối ngoại,
chủ trương phát triển kinh tế của nhà nước, sự phát triển thị trường bất động sản, thị trường vàng,
thị trường tiền tệ,… cũng có ảnh hưởng trực tiếp đến TTCK.
Lưu ý
Việc phân chia các yếu tố ảnh hưởng theo thời gian chỉ là tương đối, bởi thực tế các yếu tố ảnh
hưởng này có thể diễn ra luân phiên nhau, thay thế và xen kẽ nhau nên rất khó biết trước để phán
đoán chính xác sự biến động của TTCK. Có thể nhà đầu tư đã tham gia thị trường khá lâu sẽ dần
hình thành trực giác cho khả năng quan sát và cảm nhận diễn biến của TTCK.

2.Lãi suất ảnh hưởng đến thị trường chứng khoán như thế nào?
Câu chuyện về lạm phát, lãi suất cùng với sự chững lại của thị trường chứng khoán thời gian gần đây
dường như đang thu hút sự quan tâm lớn của nhiều người. Trong phạm vi bài viết này, tôi mạn phép
xin được lạm bàn một chút về mối quan hệ giữa lãi suất và thị trường chứng khoán. Giữa chúng thật
ra có mỗi quan hệ thế nào? Và chúng ảnh hưởng đến cuộc sống của chúng ta ra sao?
Lãi suất
Bình thường, lãi suất thực chất không là gì khác hơn ngoài chi phí mà một ngưòi phải trả cho việc sử
dụng tền của người khác. Đối với hầu hết chúng ta thì thuật ngữ” lãi suất” có lẽ là không có gì xa lạ.
Nếu ai đã từng có vay tền của ngân hàng để trang trải chi phí học hành, hay để mua nhà trả góp theo
các chương trình hấp dẫn của các ngân hàng, hay đơn giản là vay vốn về đầu tư cho các dự án đang
cần tài trợ thì hơn ai hết họ là những người hiểu rõ nhất về “lãi suất”. Thế nhưng câu chuyện về lãi
suất khi nó chạy sang thị trường chứng khoán lại không dừng lại ở đó. Thuật ngữ “ lãi suất” mà chúng
ta đề cập ở đây vượt xa hơn ý nghĩa của chính nó trong các ví dụ trên.

Lãi suất có thể ảnh hưởng đến toàn bộ nhà đầu tư chính là lãi suất chiết khấu của ngân hàng trung
ương (ở VN là ngân hàng nhà nước). Lãi suất chiết khấu là chi phí mà các ngân hàng thuơng mại phải
trả cho việc vay tền từ ngân hàng trung ương. Nói rõ ràng hơn thì khi các ngân hàng thương mại cần
tền, họ có thể vay ở ngân hàng trung ương bằng cách mang chiết khấu các giấy tờ có giá với một lãi
suất do ngân hàng trung ương công bố từ trước, gọi là lãi suất chiết khấu.
Nhưng tại sao con số này lại quan trọng đến như vậy?
Bởi đó là một trong những cách hữu hiệu nhất mà ngân hàng trung ương nỗ lực để kiểm soát lạm
phát. Hiện tượng sức mua của tền bị giảm, đồng tền mất giá liên tục trong một thời gian dài, không
phải do các yếu tố bất thường gây ra thì đó chính là lạm phát. Không một quốc gia nào muốn để lạm
phát ở mức cao. Việt Nam cũng không nằm ngoài mục têu đó, chúng ta đang cố gắng khống chế tỷ lệ


lạm phát ở mức 8%. Bằng việc thay đổi lãi suất chiết khấu, ảnh hưởng đến lượng cung tền trong xã
hội, ngân hàng trung ương hy vọng có thể kiểm soát lạm phát. Đây cũng là cách làm phổ biến của hầu
hết các quốc gia.
Hiểu một cách cơ bản nhất thì khi ngân hàng trung ương gia tăng lãi suất chiết khấu tức là họ đang nỗ
lực làm cho lượng cung tền trong xã hội giảm bằng cách tạo chi phí vay tền đắt hơn.
Hiệu ứng của sự gia tăng lãi suất chiết khấu
Khi ngân hàng trung ương tăng lãi suất chiết khấu, việc này sẽ không tác động ngay lập tức lên thị
trường chứng khoán. Thay vì vậy, lãii suất chiết khấu lại có những tác động trực tếp theo cách của
riêng nó. Nó khiến cho việc vay tền của ngân hàng thương mại từ ngân hàng trung ương trở nên đắt
hơn. Tuy nhiên, sự gia tăng lãi suất chiết khấu không chỉ dừng lại ở đó, nó còn tạo nên tác động lan
truyền ảnh hưởng đến hầu hết các cá nhân và doanh nghiệp.
Tác động gián tếp đầu tên của việc gia tăng lãi suất chiết khấu: các ngân hàng sẽ tăng lãi suất cho vay
đối với khách hàng. Khách hàng cá nhân bị ảnh hưởng thông qua việc lãi suất tăng đối với thẻ tín dụng
và các khoản vay ngắn hạn khác. Song song đó, các cá nhân cũng có thể sẽ hạn chế mức vay nợ xuống,
do vậy lúc này người têu dùng sẽ có ít tền hơn để chi têu. Sau cùng, mỗi tháng mọi người đêù phải
trả tền cho các hoá đơn và khi các hoá đơn này trở nên đắt hơn thì khoản thu nhập dự phòng của mỗi
gia đình sẽ trở nên ít hơn.
Lãi suất chiết khấu tác động đến các khách hàng têu dùng cá nhân, đến lượt mình sự thay đổi trong

hành vi của người têu dùng cá nhân lại ảnh hưởng đến các doanh nghiệp, tuy nhiên với doanh nghiệp
ảnh hưởng của sự tăng lãi suất chiết khấu không chỉ có thế, họ còn chịu tác động nhiều hơn. Dễ thấy,
chính bản thân các doanh nghiệp cũng cần vay tền từ ngân hàng thương mại để duy trì hoạt động và
mở rộng sản xuất. Một khi các khoản vay từ ngân hàng trở nên đắt hơn thì các doanh nghiệp sẽ có tâm
lý ngại vay tền và thực tế thì họ phải trả lãi suất cao hơn cho các khoản vay. Với một doanh nghiệp
trong thời kỳ tăng trưởng thì điều này có thể tác động nghiêm trọng, doanh nghiệp phải thu hẹp phạm
vi hoạt động và kết quả là lợi nhuận bị giảm sút.
Tác động đến thị trường chứng khoán
Rõ ràng, sự thay đổi trong lãi suất chiết khấu đã ảnh hưởng đến hành vi của các cá nhân cũng như các
doanh nghiệp, nhưng câu chuyện không chỉ có như vậy mà thị trường chứng khoán cũng bị ảnh
hưởng. Như chúng ta đã biết, một trong những cách để định giá một doanh nghiệp chính là đưa tất cả
các dòng tền kỳ vọng trong tương lai chiết khấu về hiện tại. Lấy giá trị của doanh nghiệp chia cho số
lượng cố phần đang lưu hành ta có giá trị một cổ phần. Gía chứng khoán thay đổi tuỳ theo các kỳ vọng
khác nhau của nhà đầu tư về công ty ở các thời điểm khác nhau. Do đó mà nhà đầu tư sẵn sàng mua
hoặc bán cổ phần ở các mức giá khác nhau.
Một khi doanh nghiệp bị thị trường nhìn thấy là sẽ cắt giảm các chi phí đầu tư tăng trưởng hoặc là
doanh nghiệp đang tạo ra lợi nhuận ít hơn vì chi phí vay nợ tăng cao hoặc là doanh thu sụp giảm do
người têu dùng thì dòng tền tương lai được dự đoán sẽ giảm đi. Và hệ quả là giá cổ phần của doanh


nghiệp sẽ thấp xuống. Nếu số lượng doanh nghiệp trên TTCK có sự sụp giảm này đủ lớn thì xét toàn bộ
thị trường, chỉ số thị trường chứng khoán sẽ giảm.
Tác động đến đầu tư
Đối với nhiều nhà đầu tư, thị trường đi xuống hoặc giá chứng khoán sụt giảm là điều không hề mong
muốn. Nhà đầu tư nào cũng kỳ vọng giá trị khoản đầu tư của mình sẽ không ngừng tăng lên, có thể là ở
dạng lãi vốn, cổ tức hoặc cả hai. Nhưng với kỳ vọng về sự tăng trưởng trong tương lai thấp hơn và
dòng tền trong tương lai của doanh nghiệp không tốt như mong đợi, chắc chắn không nhà đầu tư
thông minh nào tếp tục đánh giá cao doanh nghiệp, nhà đầu tư sẽ mong đợi ít hơn khi sở hữu các cổ
phần.
Hơn nữa, đầu tư vào cổ phiếu có thể được xem là rủi ro hơn so với việc đầu tư vào các lĩnh vực khác.

Khi ngân hàng trung ương công bố tăng lãi suất chiết khấu, thường sẽ kèm theo là các chứng khoán
chính phủ mới được phát hành thí dụ như trái phiếu chính phủ. Đây được xem là cơ hội đầu tư an
toàn nhất. Nói cách khác, lúc này tỷ suất sinh lợi phi rủi ro sẽ tăng và do đó đầu tư vào trái phiếu chính
phủ và các cơ hội đầu tư tương tự trở nên hấp dẫn hơn. Nếu nhà đầu tư vẫn tếp tục trung thành với
các cổ phiếu thì họ sẽ nâng tỷ suất sinh lợi đòi hỏi của mình lên để bù đắp cho phần rủi ro tăng thêm
một lượng gọi là phần bủ rủi ro. Tỷ suất sinh lợi mong đợi từ việc nắm giữ cổ phiếu bao gồm tổng của
tỷ suất sinh lợi phi rủi ro và phần bù rủi ro thị trường. Dĩ nhiên là độ lớn của phần bù rủi ro khác nhau
với mỗi nhà đầu tư, tuỳ thuộc vào khả năng chịu đựng rủi ro cũng như doanh nghiệp mà họ đầu tư.
Tuy nhiên nói một cách tổng quát thì, khi ngân hàng trung ương tăng lãi suất chiết khấu, lãi suất phi rủi
ro cũng tăng theo, và do đó tổng tỷ suất sinh lợi đầu tư đòi hỏi cũng sẽ tăng. Do vậy, nếu phần bù rủi ro
đòi hỏi giảm trong khi tỷ suất sinh lợi tềm năng vẫn như cũ hoặc thậm chí là thấp hơn, thì chắc là nhà
đầu tư sẽ cảm thấy đầu tư vào cổ phiếu trở nên rủi ro hơn và kết quả là họ sẽ chuyển tền của mình
vào các lĩnh vực đầu tư khác.
Thay lời kết

Lãi suất ảnh hưởng nhưng không quyết định thị trường chứng khoán
Lãi suất thông qua các phương tện thông tn đại chúng như báo đài, t vi, mạng internet dễ dàng được
người têu dùng biết đến và thật sự thì nó có một tác động rộng lớn khác nhau đối với cả nền kinh tế.
Khi lãi suất chiết khấu gia tăng, hiệu ứng tổng thể là nó sẽ làm giảm lượng cung tền nhằm mục đích
duy trì lạm phát ở mức thấp. Nó cũng làm cho việc vay tền của các cá nhân và doanh nghiệp trở nên
đắt hơn, nó tác động đến hành vi têu dùng của các cá nhân và chiến lược kinh doanh của các doanh
nghiệp, gia tăng chi phí cho các doanh nghiệp, khiến cho thu nhập thấp hơn và cuối cùng là nó có
khuynh hướng làm cho thị trường chứng khoán trở nên kém hấp dẫn hơn đối với các nhà đầu tư.
Tuy nhiên phải luôn nhớ rằng, mỗi sự kiện và kết quả luôn có liên hệ với nhau. Lãi suất không phải là
yếu tố có tính quyết định đối với giá chứng khoán và có rất nhiều cách thức khác nhau để xem xét sự
thay đổi của giá chứng khoán và khuynh hướng thị trường - một sự gia tăng trong lãi suất chiết khấu


chỉ là một trong những cách đó. Do vậy, không ai có thể tự tn nói rằng một công bố gia tăng lãi suất
chiết khấu của ngân hàng trung ương có thể tạo nên ảnh hưởng xấu đến toàn bộ giá chứng khoán.




×