Tải bản đầy đủ (.doc) (23 trang)

Bài tiểu luận thị trường chứng khoán

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (340.45 KB, 23 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG
LỚP QUẢN TRỊ KINH DOANH 11
BÀI TIỂU LUẬN
MÔN: THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN
ĐỀ TÀI:
PHƯƠNG THỨC HOẠT ĐỘNG CỦA CÔNG TY
KINH DOANH CHỨNG KHOÁN VIỆT NAM
GVHD: Vỏ Ngọc Niên
Cần Thơ ngày 10/09/2013
Danh sách nhóm
1. Nguyễn Thế Loan MSSV: CT11QT3037
2. Phan Văn Rộ MSSV: CT11QT3065
3. Mai Minh Nhựt MSSV: CT11QT3058
4. Huỳnh Nguyễn Sương Thảo MSSV: CT11QT3074
5. Lê Thành Lợi MSSV: CT11QT3042
6. Trần Thanh Duẫn MSSV: CT11QT3009
LỜI MỞ ĐẦU
Ở Việt Nam thị trường chứng khoán là một kênh huy động vốn rất có
hiệu quả đối với nền kinh tế, hoạt động theo cơ chế thị trường, với rất nhiều
nỗ lực đã rút ngắn được khoảng cách trên con đường hội nhập và hợp tác
quốc tế. Vì vậy sự ra đời và phát triển của Thị Trường Chứng Khoán là yêu
cầu hết sức cần thiết và là yếu tố quan trọng cho sự phát triển đất nước, góp
phần tạo ra cơ chế huy động vốn linh hoạt giữa những người sử dụng vốn
với những người có vốn, cung cấp giá cả cho các giao dịch, tạo ra tính thanh
khoản cao, giúp điều tiết và bình ổn thị trường.
Hoạt động mua bán chứng khoán trên thị trường của các doanh nghiệp
Việt Nam đều phải thông qua một tổ chức trung gian, gọi là các công ty
chứng khoán. Sự phát triển của Thị Trường Chứng Khoán gắn liền với hoạt
động của các công ty Chứng Khoán, chính vì những lý do đó đã thúc đẩy
những dịch vụ thiết yếu hỗ trợ các nhà đầu tư ra đời, góp phần vào việc điều
tiết kinh tế vĩ mô của nền kinh tế.


Những năm qua tình hình lạm phát, giá cả các mặt hàng đồng loạt tăng
cao là một khó khăn đối với Thị Trường Chúng Khoán Việt Nam. Dù vậy.
nhưng hoạt động của các công ty Chứng Khoán vẫn diễn ra liên tục và khá
suôn sẻ, không có trường hợp bị giải thể hay phá sản. Đó chính là sự thành
công lớn của các công ty.
Chính sự thành công đó đã tạo cho nhóm chúng em niềm đam mê và sự
tìm tòi học hỏi về Thị Trường Chứng Khoán. Cả nhóm chúng em quyết định
chọn đề tài “Phương thức hoạt động của công ty kinh doanh chứng khoán
Việt Nam” để viết bài tiểu luận.
Cả nhóm chúng em vốn kiến thức không nhiều cộng với sự nhìn nhận
còn đơn giản nên khi thực hiện tiểu luận chắc chắn không thể tránh khỏi sai
sót, nhóm chúng em hi vọng bài tiểu luận này sẽ thể hiện được hết những
nội dung cơ bản và quan trọng của các doanh nghiệp kinh doanh chứng
khoán trên thị trường Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.
Qua bài tiểu luận này chắc chắn nhóm chúng em sẽ có thêm thật nhiều
kiến thức mới và tạo cho chính mình những khả năng, phương pháp làm việc
theo nhóm có hiệu quả.
Chương 1: TỔNG QUAN VỀ CÔNG TY KINH DOANH
CHỨNG KHOÁN
I. KHÁI NIỆM CÔNG TY CHỨNG KHOÁN (CTCK):
Công ty chứng khoán là một tổ chức kinh doanh chứng khoán, có
tư cách pháp nhân, có vốn riêng hoạt động theo chế độ hạch toán kinh
tế, hoạt động theo giấy phép của Ủy Ban Chứng Khoán (UBCK) Nhà
nước cấp.
II. CHỨC NĂNG & NHIỆM VỤ CỦA CTCK :
Công ty chứng khoán có các chức năng của người môi giới, người
chuyên viên và người bảo lãnh chứng khoán. Để trở thành thành viên của Sở
giao dịch, CTCK cũng phải đáp ứng đủ những điều kiện do pháp luật qui
định và phải đăng ký kinh doanh chứng khoán trong Sở giao dịch chứng
khoán.

1. Chức năng môi giới chứng khoán :
a. Khái niệm :
Là một hoạt động kinh doanh của công ty chứng khoán. Trong đó
CTCK đại diện cho khách hàng tiến hành giao dịch thông qua cơ chế giao
dịch tại sở giao dich chứng khoán hay thi trường OTC mà chính khách hàng
sẽ phải chịu trách nhiệm về hậu quả kinh tế của việc giao dịch đó.
Khi thực hiện nghiệp vụ môi giới, công ty chứng khoán phải mở tài
khoản giao dịch chứng khoán và tiền cho từng khách hàng trên cơ sở hợp
đồng ký kết giữa khách hàng và công ty.
b. Chức năng môi giới chứng khoán :
- Nối liền khách hàng với bộ phận nghiên cứu đầu tư: cung cấp cho
khách hàng các báo cáo nghiên cứu và các khuyến nghị đầu tư.
- Nối liền những người bán và những người mua: đem đến cho khách
hàng tất cả các loại sản phẩm và dịch vụ tài chính.
- Đáp ứng những nhu cầu tâm lý của khách hàng khi cần thiết: trở thành
người bạn, người chia sẻ những lo âu căng thẳng và đưa ra những lời động
viên kịp thời.
- Khắc phục trạng thái xúc cảm quá mức (điển hình là sợ hãi và tham
lam), để giúp khách hàng có những quyết định tỉnh táo.
- Đề xuất thời điểm bán hàng.
2. Chức năng tự doanh chứng khoán
a. Khái niệm :
Tự doanh chứng khoán là việc CTCK tự tiến hành các giao dịch mua,
bán chứng khoán cho chính công ty mình.
b. Mục đích của hoạt động tự doanh :
Mục đích của hoạt động tự doanh của các CTCK nhằm thu lợi nhuận
cho chính mình. Tuy nhiên, để đảm bảo sự ổn định và tính minh bạch của thị
trường, pháp luật các nước đều yêu cầu các CTCK khi thực hiện nghiệp vụ
tự doanh phải đáp ứng yêu cầu về vốn và con người.
∗ Những yêu cầu đối với CTCK trong hoạt động tự doanh :

Tách biệt quản lý :
- Các CTCK phải có sự tách biệt giữa nghiệp vụ tự doanh và nghiệp vụ
môi giới để đảm bảo tính minh bạch, rõ ràng trong hoạt động.
- Các CTCK phải có đội ngũ nhân viên riêng biệt để thực hiện nghiệp vụ
tự doanh. Các nhân viên này phải hoàn toàn tách biệt với bộ phận môi giới.
- Bên cạnh đó, các CTCK còn phải đảm bảo sự tách bạch về tài sản của
khách hàng với các tài sản của chính công ty.
Ưu tiên khách hàng :
- CTCK phải tuân thủ nguyên tắc ưu tiên cho khách hàng khi thực hiện
nghiệp vụ tự doanh. Điều đó có nghĩa là lệnh giao dịch của khách hàng phải
được xử lý trước lệnh tự doanh của công ty.
Bình ổn thị trường :
- Do tính đặc thù của TTCK, đặc biệt là các TTCK mới nổi, bao gồm chủ
yếu là các nhà đầu tư cá nhân, nhỏ lẻ thì tính chuyên nghiệp trong hoạt động
đầu tư không cao. Điều này rất dễ biến động bất thường trên thị trường. Vì
vậy, các nhà đầu tư lớn, chuyên nghiệp rất cần thiết để làm tín hiệu hướng
dẫn cho toàn bộ thị trường. Bên cạnh hoạt động của các quỹ đầu tư chứng
khoán, các CTCK với khả năng chuyên môn và nguồn vốn lớn của mình có
thể thông qua hoạt động tự doanh góp phần rất lớn trong việc điều tiết cung
cầu, bình ổn giá cả của các loại chứng khoán trên thị trường.
3. Chức năng bảo lãnh phát hành chứng khoán
Bảo lãnh phát hành là việc tổ chức bảo lãnh giúp tổ chức phát hành
thực hiện các thủ tục trước khi chào bán chứng khoán, tổ chức việc phân
phối chứng khoán và giúp bình ổn giá chứng khoán trong giai đoạn đầu sau
khi phát hành.
Tổ chức bảo lãnh chịu trách nhiệm mua hoặc chào bán chứng khoán
của một tổ chức phát hành nhằm thực hiện việc phân phối chứng khoán để
hưởng hoa hồng.
Thông thường, để phát hành chứng khoán ra công chúng, tổ chức phát
hành cần phải có được sự bảo lãnh của một công ty nhỏ, và số lượng phát

hành không lớn, thì chỉ cần có một tổ chức bảo lãnh phát hành. Nếu đó là
một công ty lớn, và số lượng chứng khoán phát hành vượt quá khả năng của
một tổ chức bảo lãnh thì cần phải có một tổ hợp bảo lãnh phát hành, bao
gồm một hoặc một tổ chức bảo lãnh chính và một số tổ chức bảo lãnh phát
hành thành viên.
Các tổ chức bảo lãnh phát hành được hưởng phí bảo lãnh hoặc một tỷ lệ
hoa hồng nhất định trên số tiền thu được từ đợt phát hành. Phí bảo lãnh phát
hành là mức chênh lệch giữa giá bá.n chứng khoán cho người đầu tư và số
tiền tổ chức phát hành nhận được.
∗ Bảo lãnh phát hành gồm có các phương thức sau:
a. Bảo lãnh với cam kết chắc chắn:
Là phương thức bảo lãnh mà theo đó tổ chức bảo lãnh cam kết sẽ mua
toàn bộ số chứng khoán phát hành cho dù có phân phối được hết chứng
khoán hay không. Trong hình thức bảo lãnh tổ hợp theo "cam kết chắc
chắn", một nhóm các tổ chức bảo lãnh hình thành một tổ hợp để mua chứng
khoán của tổ chức phát hành với giá chiết khấu so với giá chào bán ra công
chúng (POP) và bán lại các chứng khoán đó ra công chúng theo giá POP.
Chênh lệch giữa giá mua chứng khoán của các tổ chức bảo lãnh và giá chào
bán ra công chúng được gọi là hoa hồng chiết khấu.
b. Bảo lãnh theo phương thức dự phòng:
Đây là phương thức thường được áp dụng khi một công ty đại chúng
phát hành bổ sung thêm cổ phiếu thường ở các nước phát triển. Trong
trường hợp đó, công ty cần phải bảo vệ quyền lợi cho các cổ đông hiện hữu,
và như vậy, công ty phải chào bán cổ phiếu bổ sung cho các cổ đông cũ
trước khi chào bán ra công chúng bên ngoài. Dĩ nhiên, sẽ có một số cổ đông
không muốn mua thêm cổ phiếu của công ty. Do vậy, công ty cần có một tổ
chức bảo lãnh dự phòng sẵn sàng mua những quyền mua không được thực
hiện và chuyển thành những cổ phiếu để phân phối ra ngoài công chúng. Có
thể nói, bảo lãnh theo phương thức dự phòng là việc tổ chức bảo lãnh cam
kết sẽ mua nốt số chứng khoán còn lại chưa được phân phối hết của tổ chức

phát hành và bán lại ra công chúng. Tại các nước đang phát triển, khi các tổ
chức bảo lãnh còn non trẻ và chưa có tiềm lực lớn thì phương thức bảo lãnh
phát hành dự phòng lại là phương thức bảo lãnh thông dụng nhất.
c. Bảo lãnh theo phương thức bán tất cả hoặc không:
Trong phương thức này, tổ chức phát hành yêu cầu tổ chức bảo lãnh
bán một số lượng chứng khoán nhất định, nếu không phân phối được hết sẽ
huỷ toàn bộ đợt phát hành.
d. Bảo lãnh theo phương thức tối thiểu - tối đa:
Là phương thức trung gian giữa phương thức bảo lãnh với cố gắng
cao nhất và phương thức bảo lãnh bán tất cả hoặc không. Theo phương thức
này, tổ chức phát hành yêu cầu tổ chức bảo lãnh bán tối thiểu một tỷ lệ
chứng khoán nhất định (mức sàn). Vượt trên mức ấy, tổ chức bảo lãnh được
tự do chào bán chứng khoán đến mức tối đa quy định (mức trần). Nếu lượng
chứng khoán bán được đạt tỷ lệ thấp hơn mức yêu cầu thì toàn bộ đợt phát
hành sẽ bị huỷ bỏ.
4. Chức năng tư vấn đầu tư
a. Khái niệm
Tư vấn đầu tư chứng khoán là đưa ra lời khuyên, phân tích các tình
huống hay thực hiện một số công việc có tính chất dịch vụ cho khách hàng.
b. Nguyên tắc của hoạt động tư vấn
Hoạt động tư vấn là việc người tư vấn sử dụng kiến thức, đó chính là
vốn họ bỏ ra kinh doanh, nhưng những báo cáo phân tích của họ lại có tác
động tâm lý rất lớn đến người được tư vấn và có thề làm cho người được tư
vấn hưởng lợi hay bị thiệt hại. Nhà tư vấn phải luôn là những người thận
trọng khi đưa ra những lời bình luận về giá trị của các loại chứng khoán, nếu
người đầu tư có lợi, kiếm được tiền từ lời tư vấn này thì họ sẽ vui mừng
nhưng nếu họ bị thiệt hại thì họ sẽ tìm kiếm các nhà tư vấn để phàn nàn,
thậm chí bắt bồi thường. Do vậy, khi hành động, nhà tư vấn cần đặt ra và
tuân theo một số nguyên tắc nhất định, tối thiểu như sau:
+ Không bảo đảm chắc chắn về giá trị của chứng khoán.

+ Luôn nhắc nhở khách hàng rằng những lời tư vấn của mình có thể
không hoàn toàn chính xác và khách hàng cần biết rằng nhà tư vấn sẽ
không chịu trách nhiệm về những lời khuyên đó.
+ Không được dụ dỗ, mời gọi khách hàng mua hay bán một loại chứng
khoán nào đó, những lời tư vấn phải được xuất phát từ cơ sở khách quan
là sự phân tích tổng hợp một cách lôgíc, khoa học.
5. Chức năng quản lý danh mục đầu tư
Đây là một dạng nghiệp vụ tư vấn của CTCK nhưng ở mức độ cao hơn
vì trong hoạt động này, khách hàng ủy thác cho CTCK thay mặt mình quyết
định đầu tư theo một chiến lược hay những nguyên tắc khác đã được khách
hàng đồng ý.
Chương 2 : CÁC HOẠT ĐỘNG CỦA CÔNG TY KINH DOANH
CHỨNG KHOÁN
I. HOẠT ĐỘNG MÔI GIỚI :
Quy mô và phạm vi hoạt động của CTCK ngày càng được mở rộng, với
94 CTCK thành viên, hơn 50 phòng giao dịch đang hoạt động rộng khắp các
tỉnh và thành phố lớn như Hà Nội, TP. HCM, Nha Trang, Bình Dương, Cần
Thơ, Hải Phòng…Cùng với sự phát triển mạng lưới hoạt động, số lượng tài
khoản giao dịch tại các CTCK cũng tăng mạnh. Năm 2012 số tài khoản giao
dịch chứng khoán tại các CTCK đạt hơn 900.000 tài khoản. Tăng 2.1 lần so
với năm 2011. Cùng với sự gia tăng khối lượng giao dịch, các CTCK đã
thực hiện trên 6.000 hợp đồng tư vấn và bảo lãnh phát hành. Tính đến cuối
năm 2012 đã có gần 90 CTCK hoạt động có lãi. Quy mô vốn hoạt động của
các CTCK ngày càng được nâng cao. Tính đến cuối năm 2012, tổng số vốn
điều lệ của các CTCK là 29.856 tỷ đồng, tăng 11,6% so với năm 2011.Ta có
10 công ty chứng khoán lớn nhất đã chiếm tới gần 50% thị phần môi giới cổ
phiếu trong nước; trong đó dẫn đầu là SSI (HSX) với mức lãi ròng trên 448
tỉ đồng, tăng 27% so với năm 2011, thứ hai là HCM (HSX) với mức lãi ròng
hơn 246 tỉ đồng. Đối với mảng môi giới cổ phiếu cho nhà đầu tư nước ngoài,
10 công ty lớn nhất nắm trên 87% thị phần; trong đó SSI đứng đầu với gần

36,91% thị phần, gấp đôi thị phần của thành viên đứng thứ hai là HCM với
18,64% thị phần. Trong mảng môi giới chứng chỉ quỹ, SSI tiếp tục đứng đầu
khi nắm 10,42% thị phần môi giới trong nước và 48,03% thị phần môi giới
nước ngoài. Mảng môi giới trái phiếu, SSI đứng đầu khi nắm 27% thị phần
môi giới trong nước và 65,78% thị phần môi giới nước ngoài…
10 công ty chứng khoán đạt lợi nhuận sau thuế cao nhất năm 2012:
MCK Tên công ty SGD
Lợi nhuận sau thuế
2012
SSI CTCP Chứng khoán Sài Gòn HSX 448.522.786.693
HCM CTCP Chứng khoán T.P Hồ Chí Minh HSX 246.380.523.819
CTCP Chứng khoán FPT 126.458.338.902
Công ty TNHH Chứng khoán ACB 91.697.491.515
Công ty TNHH Chứng khoán Kỹ Thương 80.352.899.716
VND CTCP Chứng khoán VNDIRECT HNX 78.873.342.609
BVS CTCP Chứng khoán Bảo Việt HNX 77.701.401.041
CTS
CTCP Chứng khoán Ngân hàng Công thương Việt
Nam
HNX 72.740.116.297
AGR
CTCP Chứng khoán Ngân hàng Nông nghiệp và
Phát triển Nông thôn
Việt Nam
HSX 61.691.164.755

Công ty TNHH Chứng khoán Ngân hàng TMCP
Việt Nam Thịnh Vượng
61.249.241.492
II. HOẠT ĐỘNG TỰ DOANH :

Hoạt động tự doanh là hoạt động của công ty chứng khoán (CTCK)
thực hiện việc mua và bán chứng khoán bằng nguồn vốn của công ty.
Thời điểm hiện nay các CTCK hoạt động tự doanh vẫn chưa thực sự
nổi bật, các CTCK mới chỉ tập trung vào hoạt động môi giới. Điều này có
thể được nhìn nhận dưới rất nhiều lý do khác nhau như: tính chất phức tạp
của hoạt động tự doanh hay các CTCK chỉ muốn tập trung hoàn thiện nghiệp
vụ môi giới trước để từ đó rút kinh nghiệm triển khai các hoạt động có liên
quan trong tương lai.
Nghiệp vụ tự doanh của CTCK có thể chia thành 2 lĩnh vực:
Thứ nhất: các CTCK thực hiện việc mua bán chứng khoán niêm yết
cho chính công ty mình. Tuy nhiên, hiện nay do số lượng các chứng khoán
niêm yết còn ít nên nghiệp vụ này hầu như chưa được triển khai.
Thứ hai: các CTCK thực hiện hoạt động tự doanh bằng hình thức như
mua chứng khoán không niêm yết trên OTC. Tuy nhiên hoạt động này phải
tuân thủ những hạn mức do pháp luật quy định.
Ngoài ra, một hoạt động tự doanh phổ biến hiện nay của một số CTCK
là việc mua chứng khoán niêm yết lô lẻ, sau đó CTCK sẽ gộp lại thành lô
chẵn để niêm yết và có thể bán lại trên Trung tâm Giao dịch chứng khoán
(TTGDCK). Đây là một lĩnh vực có khả năng mang lại lợi nhuận tương đối
lớn cho các CTCK. Giá mua lô lẻ được xác định bằng thỏa thuận giữa khách
hàng bán với CTCK, do đó các CTCK có điều kiện để đưa ra mức giá phù
hợp để thu hút khách hàng, tạo sự chủ động cho các CTCK trong hoạt động
kinh doanh của mình.
Hiện nay có nhiều công ty đang thực hiện nghiệp vụ tự doanh rất
chuyên nghiệp. Kết quả thu được cũng khá khả quan. Công ty BVS, doanh
thu môi giới tăng mạnh của công ty chứng khoán BVS nhờ nguồn thu lớn từ
phí giao dịch của khách hàng lên tới 24 tỷ đồng, tăng 300% so với quý I.
Đối với nghiệp vụ tự doanh, quý II cũng đạt 36 tỷ đồng doanh thu, tăng
200% so với quý I. Chi phí trong quý II của BVS chủ yếu ở chỉ tiêu "dự
phòng giảm giá chứng khoán tự doanh". Trong quý II, BVS đã hoàn nhập dự

phòng giảm giá CK tự doanh được hơn 200 tỷ đồng. Một số mã cổ phiếu
trong danh mục tự doanh đã có lãi so với giá vốn. Dưới đây là tổng kết
doanh thu của một số CTCK giữa hoạt động môi giới và hoạt động tự doanh
hết quý II.

III. HOẠT ĐỘNG BẢO LẢNH PHÁT HÀNH VÀ HOẠT ĐỘNG TƯ
VẤN ĐẦU TƯ CK :
Ở Việt Nam, theo nghị định số 58/2012/NĐ−CP ngày 20/07/2012 của chính
phủ qui định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của luật chứng
khoán và luật sửa đổi về phát hành cổ phiếu, trái phiếu ra công chúng thì bảo
lãnh phát hành được thực hiện theo một trong hai phương thức sau:
Công ty chứng khoán được bảo lãnh phát hành theo hình thức cam kết
chắc chắn khi đảm bảo các điều kiện sau:
1. Được cấp phép thực hiện nghiệp vụ bảo lãnh phát hành chứng khoán.
2. Tại thời điểm ký hợp đồng bảo lãnh phát hành, tổng giá trị của tất cả các
hợp đồng bảo lãnh phát hành theo hình thức cam kết chắc chắn còn hiệu
lực phải đáp ứng các điều kiện sau:
a) Không được lớn hơn một trăm phần trăm (100%) vốn chủ sở hữu tính
theo báo cáo tài chính quý gần nhất;
b) Không được vượt quá mười lăm (15) lần hiệu số giữa tài sản ngắn hạn
và nợ ngắn hạn tính theo báo cáo tài chính quý gần nhất.
3. Không bị đặt vào tình trạng kiểm soát, kiểm soát đặc biệt trong ba (03)
tháng liền trước thời điểm ký hợp đồng bảo lãnh phát hành.
- Mua số cổ phiếu hoặc trái phiếu còn lại của đợt phát hành chưa được
phân phối hết. Đây thực chất cũng là một dạng của phương thức cam kết
chắc chắn, nhưng tổ chức bảo lãnh phát hành cam kết mua phần chứng
khoán còn lại của đợt phát hành chưa được phân phối hết.
CTCK chỉ được phép thực hiện nghiệp vụ bảo lãnh phát hành chứng
khoán khi thực hiện nghiệp vụ tự doanh chứng khoán; vốn pháp định để thực
hiện nghiệp vụ tự doanh chứng khoán là 100 tỷ đồng, nghiệp vụ bảo lãnh

phát hành là 165 tỷ đồng. Trước thời điểm bảo lãnh, các CTCK không được
vi phạm luật chứng khoán trong 6 tháng liên tục, đồng thời, tổng giá trị bảo
lãnh phát hành không được lớn hơn 50% vốn chủ sở hữu của tổ chức bảo
lãnh phát hành vào thời điểm cuối quý gần nhất tính đến ngày ký hợp đồng
bảo lãnh phát hành, trừ trường hợp bảo lãnh phát hành trái phiếu chính phủ,
trái phiếu được Chính phủ bảo lãnh. Và, CTCK cũng phải có tỷ lệ vốn khả
dụng trên nợ điều chỉnh trên 6% trong 3 tháng liền trước thời điểm nhận bảo
lãnh phát hành.
Hoạt động bảo lãnh phát hành của các CTCK vẫn tập trung chủ yếu là
bảo lãnh phát hành các loại trái phiếu như trái phiếu chính phủ cho Kho bạc
Nhà nước, trái phiếu ngân hành, trái phiếu đô thị.
Trong những tháng vừa qua, có một số hợp đồng bảo lãnh phát hành
được thực hiện như: 10/06/2013 Kho bạc Nhà nước và Công ty cổ phần
Chứng khoán Bảo Việt (BVSC) đã thống nhất để ký Hợp đồng nguyên tắc
thực hiện đợt bảo lãnh phát hành trái phiếu Chính phủ kỳ hạn 15 năm đợt
I/2013., Ngân hàng Nhà nước cho phép thực hiện nghiệp vụ đại lý phát hành
trái phiếu và bảo lãnh phát hành trái phiếu trong phạm vi lãnh thổ Việt Nam
với số vốn điều lệ của ngân hàng này là 1.500 tỷ đồng.
Nhìn chung, hoạt động tư vấn đã có những phát triển đáng kể so với
thời gian đầu. Theo Ủy ban Chứng khoá Nhà nước (UBCKNN), năm 2012
có gần 90 CTCK hoạt động có lãi. Hết năm 2012, tổng vốn điều lệ của các
CTCK là 29.856 tỷ đồng, tăng 11,6% so với năm 2011. Ngoài hội sở chính,
các thành viên đã có 94 CTCK với hơn 50 phòng giao dịch đang hoạt động
trên cả nước. Các CTCK cũng đã thực hiện trên 6.000 hợp đồng tư vấn và
bảo lãnh phát hành. Số lượng tài khoản giao dịch tại các thành viên này cũng
tăng mạnh với trên 900.000 tài khoản, tăng 2.1 lần so với năm 2011.
Số lượng người hành nghề kinh doanh chứng khoán ngày càng tăng.
Tính đến nay, UBCKNN đã cấp chứng chỉ người hành nghề chứng khoán
cho 2.744 nhân viên. Nhiều CTCK đã tuyển dụng được nhân viên có trình
độ, chuyên môn cao trong lĩnh vực tài chính, chứng khoán, góp phần nâng

cao năng lực quản lý trong hoạt động. Các CTCK đã chú trọng đầu tư, hiện
đại hóa, hệ thống công nghệ thông tin trong cung cấp dịch vụ chứng khoán.
Hoạt động giao dịch phục vụ khách hàng diễn ra suôn sẻ và ngày một tốt
hơn.
IV. CÁC HOẠT ĐỘNG KHÁC :
1. Lưu ký chứng khoán
Ngày 18/12/2008, Thủ tướng Chính phủ đã ký Quyết định số 171/QĐ-
TTg về việc thành lập Trung tâm Lưu ký Chứng khoán (TTLKCK) Việt
Nam. Theo Quyết định này, TTLKCK Việt Nam là đơn vị sự nghiệp thuộc
Uỷ ban Chứng khoán Nhà nước (UBCKNN)- Bộ Tài chính.
Việc ra đời TTLKCK Việt Nam là đòi hỏi tất yếu của TTCK Việt Nam ở
giai đoạn phát triển hiện nay; đó cũng là xu hướng và theo thông lệ trên TTCK
quốc tế, nhằm thúc đẩy TTCK phát triển.
Thông thường ở các nước trên thế giới, các dịch vụ đăng ký, lưu ký, bù
trừ, thanh toán chứng khoán và các dịch vụ hỗ trợ cho việc hoàn tất giao
dịch trên TTCK do một hoặc một số tổ chức độc lập với Sở Giao dịch
Chứng khoán đảm nhận. Các tổ chức này được xây dựng theo một trong hai
mô hình sau: TTLKCK thực hiện toàn bộ các dịch vụ đó; hoặc TTLKCK và
một tổ chức bù trừ cùng cung cấp các dịch vụ đó.
Quy mô TTCK tập trung của Việt Nam hiện nay chưa lớn: Với gần 300
loại chứng khoán được niêm yết, đăng ký giao dịch tại TTGDCK Tp. Hồ
Chí Minh và TTGDCK Hà Nội (trong đó có 30 loại cổ phiếu niêm yết tại
TTGDCK Tp. Hồ Chí Minh, 6 loại cổ phiếu đăng ký giao dịch tại TTGDCK
Hà Nội; khoảng 260 trái phiếu Chính phủ, trái phiếu đô thị, trái phiếu công
ty; và 1 loại Chứng chỉ Quỹ đầu tư); hơn 24.000 tài khoản giao dịch chứng
khoán của các nhà đầu tư tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước mở tại 13
CTCK. Số chứng khoán này đã và đang được các nhà đầu tư giao dịch mua/
bán trên TTCK. Điều này có nghĩa là nhu cầu đăng ký, lưu ký, bù trừ và
thanh toán chứng khoán là “có thực” trên TTCK hiện nay.
Việc lưu ký chứng khoán hiện nay được thực hiện qua 2 cấp:

Cấp I - Người sở hữu chứng khoán phải lưu ký chứng khoán tại thành
viên lưu ký (hiện có 13 CTCK, 2 ngân hàng trong nước và 3 ngân hàng nước
ngoài là thành viên lưu ký);
Cấp II - Thành viên lưu ký sẽ tái lưu ký chứng khoán đó tại TTGDCK.
Thực tế hiện nay, hoạt động đăng ký, lưu ký và bù trừ, thanh toán
chứng khoán (bao gồm cả chứng khoán niêm yết/đăng ký giao dịch và
chứng khoán không niêm yết/đăng ký giao dịch trên 2 TTGDCK) được thực
hiện thông qua 2 Phòng Đăng ký- Thanh toán bù trừ - Lưu ký chứng khoán
của 2 TTGDCK. Chức năng, nhiệm vụ của Phòng Đăng ký - Thanh toán bù
trừ- Lưu ký chứng khoán tại TTGDCK là: đăng ký chứng khoán, lưu ký
chứng khoán,thanh toán bù trừ.
Trước đòi hỏi thực tế của TTCK Việt Nam và theo thông lệ quốc tế,
việc “gộp” 2 bộ phận đăng ký, lưu ký, bù trừ và thanh toán chứng khoán tại
2 TTGDCK để hình thành một TTLKCK độc lập với Sở Giao dịch Chứng
khoán/TTGDCK là một “thực tiễn khách quan”, làm cho loại hình dịch vụ
này trở lên an toàn hơn và chuyên nghiệp hơn.
TTLKCK đi vào hoạt động ngoài việc tạo sự đồng bộ về kết cấu hạ
tầng cho TTCK Việt Nam; cung cấp các dịch vụ đăng ký, lưu ký và thanh
toán, bù trừ chứng khoán,còn giúp giảm rủi ro, giảm chi phí, nâng cao hiệu
quả cho nghiệp vụ sau thanh toán, tiêu chuẩn hoá giữa các thành viên tham
gia thị trường, góp phần tạo thuận lợi cho việc thúc đẩy tiến trình phát triển
và hội nhập, cung cấp các dịch vụ liên quan tới giao dịch chứng khoán. Điều
này gíp thị trừờng hoạt động có hiệu quả hơn
TTLKCK sẽ được tổ chức theo mô hình là các dịch vụ đăng ký, lưu ký,
bù trừ, thanh toán chứng khoán và các dịch vụ hỗ trợ cho việc hoàn tất giao
dịch trên TTCK sẽ do một tổ chức độc lập duy nhất thực hiện là TTLKCK,
không cần có thêm tổ chức bù trừ chứng khoán cùng đảm nhận
2. Cầm cố chứng khoán
Các nguyên tắc và phương thức cầm cố CK:
a. Là một nghiệp vụ kinh doanh CK - ít nhất có hai chủ thể tham gia:

+ Bên cầm cố là thành viên lưu ký nhân danh chính mình hoặc được
người đi vay uỷ quyền giao CK cho bên nhận cầm cố;
+ Bên cầm cố là thành viên lưu ký nhân danh chính mình hoặc được
người cho vay uỷ quyền nhận cầm cố CK bên cầm cố.
Việc thực hiện cầm cố CK trên cơ sở hợp đồng pháp lý cầm cố CK
của hai chủ thể tham gia, trong đó quy định rõ giá trị CK cầm cố, số tiền
vay, lãi suất và thời hạn trả nợ, phương thức xử lý CK cầm cố.
b. TTGDCK sau khi kiểm tra thủ tục, nhất là tính hợp pháp, hợp lý
của nó thì trung tâm phải mở tài khoản cầm cố và chuyển CK vào tài khoản
cầm cố theo yêu cầu của bên cầm cố.
Trường hợp bên cho vay (hoặc bên vay) không phải là thành viên lưu
ký, bên cho vay (hoặc bên vay) phải uỷ quyền việc nhận cầm cố CK (hoặc
việc giao CK cầm cố) cho một thành viên lưu ký khác.
c. Tài khoản cầm cố phải tách biệt với tài khoản lưu ký các CK khác
của bên cầm cố. Sau khi ghi vào tài khoản cầm cố CK, thì phải đình chỉ việc
rút, chuyển khoản hoặc chuyển nhượng các CK trên tài khoản cầm cố trong
thời gian cầm cố. TTGDCK gửi thông báo bằng công văn cho bên nhận cầm
cố về việc đã thực hiện cầm cố CK.
d. Việc giải toả cầm cố CK được thực hiện theo các nguyên tắc:
- Người giải toả cầm cố CK phải là bên nhận cầm cố CK;
- Có thể giải toả toàn bộ hoặc một phần CK cầm cố bằng hình thức rút
chứng chỉ hay chuyển khoản;
- Có văn bản đề nghị giải toả cầm cố CK của bên nhận cầm cố. Trên cơ
sở đó, TTGDCK thực hiện huỷ bỏ việc cầm cố CK trong đăng ký người sở
hữu CK và thông báo bằng văn bản cho người nhận cầm cố việc huỷ bỏ cầm
cố CK và giải toả tài khoản cầm cố sang tài khoản khác.
Nếu bên cầm cố CK thực hiện không đúng theo thoả thuận thì CK cầm
cố đó được xử lý do các bên thoả thuận hoặc đưa ra bán đấu giá theo quy
định của pháp luật.
3. Repo chứng khoán

Repo chứng khoán được hiểu là một giao dịch trong đó các chứng
khoán được mua ở tỉ lệ giao ngay và được mua lại ở tỉ lệ kì hạn. Về bản chất
thì nghiệp vụ repo giống như một khoản vay có đảm bảo bằng các chứng
khoán và các tài sản đảm bảo khác. Về hình thức biểu hiện thì repo chứng
khoán sử dụng một hợp đồng mua lại ( còn gọi là hợp đồng rp) trong đó quy
định các điều khoản mà mỗi bên tham gia phải tôn trọng.
Khi hai bên thực hiện kí một hợp đồng repo thì bên A tức bên Nhà
buôn sẽ thực hiện bán số chứng khoán tương đương với một khoản tiền vay
nào đó tại một tỉ lệ lãi suất chấp nhận được cho cả hai bên cho bên B ( nhà
đầu tư) và cam kết sẽ mua lại vào một thời gian nào đó (thông thường dưới 1
năm vì hợp đồng repo là công cụ trên thị trường tiền tệ).
Nói chung thì một giao dịch repo có hai giai đoạn là giai đoạn bán
chứng khoán và giai đoạn mua lại chứng khoán.
Tham gia chủ yếu vào giao dịch repo là các nhà đầu tư có tổ chức lớn
như ngân hàng, công ty chứng khoán., các quỹ đầu tư , các nhà buôn, nhà
kinh doanh chứng khoán, ngân hàng trung ương, các tổ chức cung cấp dịch
vụ riêng cho hoạt động repo. Hợp đồng repo cũng được coi là một công cụ
thực hiện chính sách tiền tệ trong ngắn hạn.
Để hoạt động repo diễn ra suôn sẻ và tránh thiệt hại cho mỗi bên khi giá
các chứng khoán repo bị biến động bởi thị trường thì các bên tham gia
thường thỏa thuận với nhau một biên độ giao động giá hay một khoản giảm
trừ đối với các chứng khoán repo. Vì thế giá của các chứng khoán cơ sở
thường thấp hơn so với giá thị trường. Khoản giảm trừ này là tương đối nhỏ
đối với các trái phiếu kho bạc và trái phiếu chính phủ và lớn hơn đối với cổ
phiếu.
Nghiệp vụ repo làm tăng tính thanh khoản cho thị trường trái phiếu vì
thế rất quan trọng nếu muốnphát triển thị trường trái phiếu.
Còn ở Việt Nam, nghiệp vụ repo được các CTCK và ngân hàng thực hiện từ
năm 2003 đối với các trái phiếu chính phủ, đến nay nghiệp vụ này đã đi tới
cổ phiếu với mức độ rủi ro hơn nhiều so với trái phiếu. Đây cũng là nghiệp

vụ mang lại doanh thu lớn cho các CTCK.
PHẦN KẾT LUẬN
Thị trường chứng khoán ra đời và phát triển mạnh từ giữa thế kỷ XV nó
giữ vai trò hết sức quan trọng trong nền kinh tế của các nước có lực lượng
sản xuất phát triển nhất hiện nay như Hoa Kỳ, Nhật Bản và ở Việt Nam
chúng ta cũng phát triển mạnh sau 13 năm hoạt động.
Cùng với sự hình thành các thị trường khác, sự hình thành TTCK và
các CTCK ở Việt Nam sẽ làm cho bộ khung của nền kinh tế thị trường nước
ta trở nên đấy đủ và hoàn thiện hơn. Và trong một tương lai không xa, các
CTCK ở Việt Nam sẽ có vai trò như chiếc “ xương sống ’’ của nền kinh tế
nếu như ở Việt Nam có một nền kinh tế hiện đại.
Tuy nhiên ở nước ta hiện nay các vấn đề về CTCK còn là một phạm trù
kinh tế khá mới mẻ và đây cũng là một đề tài không xa lạ gì nhưng mang
tính hiện thực và rất cần thiết trong điều kiện phát triển của thị trường tài
chính trong giai đoạn hiện nay.
Qua sự đóng góp vai trò vào nền kinh tế cho thấy sự có mặt của các
CTCK giữ vai trò quan trọng trong quá trình kết nối những nguồn cung cầu
chứng khoán. Nói cách khác, chúng đã góp phần đẩy nhanh quá trình lưu
thông và phân phối chứng khoán, qua đó giúp cho các dòng chảy của nguồn
vốn trên thị trường được liên tục.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo trình Thị trường chứng khoán TS.Bùi Văn Trịnh, NXB Đại Học
Cần Thơ. Năm 2011
2. Hướng dẫn đầu tư trên Thị trường chứng khoán, Phạm Thế Anh, NXB
Thanh Niên
3. Hỏi đáp về Thị trường chứng khoán TS. Đặng Quang Gia, NXB Thống

4. Báo điện tử Vneconomy.vn
5. Website : www.hiendaihoa.com
6. Website : www.hsx.vn

7. Website :www.vi.wikipedia.org

×