Tải bản đầy đủ (.pdf) (62 trang)

Nghiên cứu đặc điểm phân bố, thử nghiệm nhân giống cây xạ đen (ehretia asperula zoll mor ) bằng phương pháp giâm hom và gieo hạt tại tỉnh hòa bình

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.09 MB, 62 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PTNT

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LÂM NGHIỆP
-----------------------------

ĐỖ THANH HẢI

NGHIÊN CỨU ĐẶC ĐIỂM PHÂN BỐ, THỬ NGHIỆM NHÂN GIỐNG
CÂY XẠ ĐEN (Ehretia asperula Zoll. & Mor.)
BẰNG PHƯƠNG PHÁP GIÂM HOM VÀ GIEO HẠT
TẠI TỈNH HÒA BÌNH

LUẬN VĂN THẠC SỸ KHOA HỌC LÂM NGHIỆP

Hà Nội, 2011


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PTNT

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LÂM NGHIỆP
-----------------------------

ĐỖ THANH HẢI

NGHIÊN CỨU ĐẶC ĐIỂM PHÂN BỐ, THỬ NGHIỆM NHÂN GIỐNG
CÂY XẠ ĐEN (Ehretia asperula Zoll. & Mor.)
BẰNG PHƯƠNG PHÁP GIÂM HOM VÀ GIEO HẠT


TẠI TỈNH HÒA BÌNH

Chuyên ngành: QUẢN LÝ BẢO VỆ TÀI NGUYÊN RỪNG
Mã số: 60.62.68

LUẬN VĂN THẠC SỸ KHOA HỌC LÂM NGHIỆP

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. NGUYỄN VĂN DƯ

Hà Nội, 2011


-1-

ĐẶT VẤN ĐỀ
Tài nguyên cây thuốc đóng vai trò quan trọng trong chăm sóc sức
khoẻ, chữa bệnh, đặc biệt ở các nước đang phát triển còn nghèo nhưng có
truyền thống lâu đời về sử dụng cây cỏ làm thuốc. Theo báo cáo của Tổ chức
Y tế Thế giới (WHO), ngày nay có khoảng 80% dân số ở các nước đang phát
triển với dân số khoảng 3,5 đến 4 tỉ người trên thế giới có nhu cầu chăm sóc
sức khoẻ ban đầu phụ thuộc vào nền y học cổ truyền. Phần lớn trong số đó
phụ thuộc vào nguồn dược liệu hoặc các chất chiết suất từ dược liệu, chủ yếu
là cây cỏ. Ở Trung Quốc, nhu cầu dươ ̣c liêụ nguồ n gố c từ cây cỏ là 1.600.000
tấn/năm và tăng dầ n khoảng 9%/năm, Châu Âu và Bắc Mỹ tăng trưởng 10%
mỗi năm.
Đất nước ta, với một vị trí tự nhiên hiếm có, một mặt gắn liền với lục
địa, mặt khác lại thông với đại dương và nằm trong vành đai nhiệt đới gió
mùa, khí hậu có nhiều nét độc đáo và đa dạng, thay đổi từ điều kiện khí hậu
nhiệt đới điển hình ở vùng núi thấp phía Nam, đến khí hậu mang tính chất Á

nhiệt đới vùng núi cao ở các tỉnh phía Bắc. Điều kiện tự nhiên đó đã thực sự
ưu đãi cho đất nước và con người Việt Nam một hệ sinh thái phong phú và đa
dạng, một tiềm năng to lớn về tài nguyên cây thuốc nói riêng và tài nguyên
dược liệu nói chung. Theo các tài liêụ về thực vâ ̣t, Việt Nam có khoảng
12.000 loài thực vật bậc cao có mạch. Trong số đó có tới gần 4.000 loài thực
vật bậc cao và bậc thấp được dùng làm thuốc, chúng được phân bố rộng khắp
cả nước. Lợi ích nhiều mặt thu được từ nguồn tài nguyên cây thuốc Việt Nam
thực sự là lớn lao. Vai trò của cây thuốc trong việc chăm sóc sức khoẻ cộng
đồng và đem lại lợi ích kinh tế to lớn cho người dân là điều không thể phủ
nhận, nhưng việc khai thác và sử dụng nguồn nguyên liệu này hiện nay rất
đáng phải lưu ý. Theo ước tính của Bô ̣ Y tế , nguyên liệu làm thuốc có nguồn


-2-

gốc thảo mộc được sử dụng hàng năm tại cộng đồng, tại các cơ sở y tế, phòng
khám đông y, sản xuất và kinh doanh, v.v. khoảng 50.000 tấn/năm thì 1/3
nguyên liệu do thu hái và khai thác tự nhiên, 1/3 do trồng trọt và còn lại do
nhập khẩu chủ yếu từ Trung Quốc , Đài Loan, Hồng Công. Thực trạng hiện
nay do con người phá rừng tràn lan, khai thác dược liệu bừa bãi, chưa có kế
hoạch tái sinh phát triển, nhiều loài cây thuốc mọc tự nhiên cho nhiều loại
dược liệu quý trong rừng đã và đang trở nên bị đe dọa tuyệt chủng, làm cho
vốn quý đa dạng sinh học cây thuốc ngày càng bị cạn kiệt. Do khai thác tài
nguyên cây thuốc kéo dài không có kế hoạch phát triển cộng với nhiều
nguyên nhân tác động khác, nguồn cây thuốc tự nhiên nói chung đều đã bị suy
giảm, nhất là các cây thuốc có giá trị sử dụng phổ biến. Trước kia một số
dược liệu có thể khai thác hàng chục ngàn tấn/năm ở Việt Nam ví dụ như: Ba
kích, Đảng sâm, Hoàng tinh... thì thực tế hiện nay các cây thuốc này đã được
đưa vào sách đỏ vì có nguy cơ bị tuyệt chủng.
Trong vài năm gầ n đây, cây Xa ̣ đen (Ehretia asperula Zoll. & Mor.)

đươ ̣c đánh giá là cây dươ ̣c liê ̣u và có thể dùng chữa đươ ̣c bênh
̣ ung thư nên
giá thu mua cây này bị đẩy lên rấ t cao làm cho tình tra ̣ng khai thác và thu hái
cây Xa ̣ đen hế t sức lô ̣n xô ̣n. Đă ̣c biêṭ ở Hòa Biǹ h, cây Xa ̣ đen đã bi ̣ khai thác
mô ̣t cách triêṭ để và ca ̣n kiêt.̣ Nguồ n dươ ̣c liêụ từ cây Xa ̣ đen trong tự nhiên
trở nên hiế m hoi. Từ những nguyên nhân trên, vấn đề nghiên cứu nhân giống
trong trồng trọt cây Xạ đen trở nên hết sức cần thiết và có ý nghĩa.
Theo các điều tra sơ bộ, chúng tôi thấy cây Xa ̣ đen có thể đươ ̣c nhân
giố ng hữu tin
́ h bằ ng ha ̣t và nhân giố ng vô tính bằ ng hom. Nhân giống hữu
tính được thực hiện trong điều kiện nguồn hạt giống có sẵn, có thể nhân giống
số lượng lớn, cây trưởng thành sinh trưởng và phát triển tốt hơn từ nhân vô
tính. Tuy nhiên, do cây bi ̣ khai thác quá mức nên nguồ n ha ̣t giố ng trở nên
khan hiế m làm cho viêc̣ nhân giố ng bằ ng ha ̣t nhiề u lúc trở nên khó khăn.


-3-

Trong thực tế sản xuất giống cây trồng hiện nay giâm hom đã được áp dụng
khá phổ biến. Giâm hom có nhiều ưu điểm như dễ làm, không yêu cầu cao về
thiết bị, hoá chất, kỹ thuật, có thể nhân giống với số lượng khá lớn và điều
quan trọng nhất là viê ̣c nhân giố ng có thể thực hiện được ta ̣i các hô ̣ nông dân
với sự giúp đỡ kỹ thuật. Việc giâm hom cây Xạ đen hiện nay đã có 1 số đơn
vị, cá nhân đã tiến hành làm thử nghiệm, cây ra rễ có nhiều triển vọng.
Để góp phần bảo tồ n và phát triể n nguồ n dươ ̣c liêụ nói chung, của tỉnh
Hòa Biǹ h nói riêng, chúng tôi đã tiế n hành đề tài “Nghiên cứu đă ̣c điể m phân
bố , thử nghiê ̣m nhân giố ng cây Xa ̣ đen (Ehretia asperula Zoll. & Mor.) bằ ng
phương pháp giâm hom và gieo ha ̣t ta ̣i tỉnh Hòa Bình”.



-4-

Chương 1
TỔNG QUAN CÁC VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1.1. Tình hình nghiên cứu về chi Cườm rụng (Ehretia P. Browne) trên
thế giới
Chi Cườm rụng (Ehretia P. Browne) thuộc họ Vòi voi (Boraginaceae),
bộ Hoa lốc (Polemoniales), lớp Hai lá mầm (Dycotyledones) [1]. Chi Cườm
ru ̣ng bao gồ m các cây gố hay cây bu ̣i, thường xanh hay ru ̣ng lá, kích thước
trưng biǹ h tới các cây gỗ cao tới 30 m, thân thẳ ng và đường kính tới 65 cm,
có rañ h ở gố c, vỏ mà nâu hoă ̣c xám, có nhiề u vế t nứt nhỏ, vỏ trong thì xố p và
có sơ ̣i, màu vàng nha ̣t. Lá đơn, mo ̣c cách, có cuố ng, mép lá nguyên hay khía
răng cưa, đôi khi lươ ̣n sóng, có gân hình ma ̣ng, không có lá kèm. Cu ̣m hoa ở
đầ u cành hay nách lá, phân nhánh hoă ̣c không, đôi khi sắ p xế p thành da ̣ng
ngù hoă ̣c xim cuô ̣n mô ̣t ngả (xim bo ̣ ca ̣p). Hoa lưỡng tính, mẫu 5; đài rời, xế p
lơ ̣p, có 5 thùy; tràng màu trắ ng hay vàng, hình ố ng hoă ̣c hình chuông, ít khi
hiǹ h phễu, trên có 5 thùy, các thùy mở rô ̣ng hoă ̣c uố n cong gâ ̣p la ̣i. Nhi ̣5, chỉ
nhi ̣ điń h trên ố ng tràng, vươ ̣t ra khỏi tràng, bao phấ n hình thuôn tới hình bầ u
du ̣c thuôn. Bầ u thươ ̣ng, hin
̀ h trứng, 2 ô, mỗi ô chứa 2 noañ . Vòi nhu ̣y ở đin̉ h
bầ u, chia 2 nhánh hoă ̣c xẻ sâu tới giữa vòi nhu ̣y; núm nhu ̣y 2, hình đầ u hoă ̣c
thon dài. Quả ha ̣ch, màu vàng, cam hoă ̣c đỏ nha ̣t, gầ n hình cầ u, nhẵn, vỏ quả
trong khi chín chia 2 ô, mỗi ô 2 ha ̣t hoă ̣c 4 ô, mỗi ô 1 ha ̣t.
Cây thuô ̣c chi Cườm ru ̣ng đươ ̣c đánh giá là sinh trưởng nhanh, những
cây gỗ có thể tăng trưởng 0,6-0,8 cm đường kính mô ̣t năm. Cây E. javanica
trổ hoa khi đã ru ̣ng hế t lá. Các cây thuô ̣c chi Cườm ru ̣ng thu ̣ phấ n nhờ sâu bo ̣.
Về mă ̣t hê ̣ thố ng ho ̣c, đôi khi chi Cườm ru ̣ng la ̣i đươ ̣c tách thành mô ̣t
ho ̣ riêng biê ̣t, ho ̣ Cườm ru ̣ng (Ehretiaceae)



-5-

Người ta có thể tìm thấ y các loài thuô ̣c chi Cườm ru ̣ng mo ̣c rải rác ở
vùng đấ t thấ p tới vùng rừng núi cao tới 2.100m.
Các loài Cườm ru ̣ng truyề n giố ng bằ ng ha ̣t. Tỉ lê ̣ nảy mầ m của ha ̣t
không sử lý ước tính vào khoảng 50%, trong khi nế u sử lý bằ ng sulphuric acid
nồ ng đô ̣ thấ p trong 10 phút thì tỉ lể này mầ m có thể đa ̣t 90%.
Trên thế giới, chi này bao gồ m khoảng 50 loài, phân bố chủ yế u ở vùng
nhiêṭ đới và câ ̣n nhiêṭ đới thuô ̣c châu Á, châu Âu, châu Phi và Tân Thế giới.
Chi Ehretia đươ ̣c P. Browne mô tả lầ n đầ u tiên vào năm 1756 và đă ̣t theo tên
của nhà thực vâ ̣t ho ̣c Georg Dionysius Ehret (1708-1770). Công trình nghiên
cứu mô ̣t cách hê ̣ thố ng nhấ t về chi Cườm ru ̣ng là công trình của J. Miller
(1989) [43]. Trong công trình này tấ t cả các loài của chi Cườm ru ̣ng ở Tân
Thế giới đã đươ ̣c xem xét và nghiên cứu la ̣i mô ̣t cách kỹ lưỡng cả về mă ̣t
danh pháp thực vâ ̣t và thực vâ ̣t ho ̣c. Trong đó ông đã cho ̣n la ̣i tên đúng theo
luâ ̣t danh pháp và type của chi là loài Ehretia tinifolia L. Dựa theo nghiên cứu
của Miller, tên chi Ehretia L. do Linnaeus đă ̣t năm 1759 khi công bố loài
Ehretia tinifolia L. đã trở thành tên đồ ng nghiã do là tên lă ̣p danh có muô ̣n
hơn. Sau đó, cũng chiń h Miller còn có công triǹ h về chi Cườm ru ̣ng ở
Madagasca [44]. Trong 7 loài ông mô tả có tới 5 loài là loài mới cho khoa
ho ̣c. Ở Trung Quố c, trong khi Lian và Liu nghiên cứu khá kỹ về ho ̣
Boraginaceae và cũng công bố nhiề u tài liê ̣u liên quan tới ho ̣ thực vâ ̣t này ở
phầ n lu ̣c điạ [39, 41] thì Hsiao và mô ̣t số tác giả khác la ̣i tâ ̣p trung nghiên cứu
ho ̣ này ở Đài Loan và cũng công bố mô ̣t số công trình liên quan tới chi
Ehretia [36]. Ngoài ra còn mô ̣t số công trình liên quan tới chi Ehretia và ho ̣
Boraginaceae của các tác giả khác như của Hara ở Nhâ ̣t [33] hay của Riedl ở
Malaysia [47], v.v.
Trong cuốn “Medicinal and poisonous plants 3”, tác giả G.H.
Schmelzer đã đề câ ̣p tới loài E. philippinensis A.DC. [50] được sử dụng như



-6-

là thuốc chống viêm nhiễm, vỏ thân và rễ làm thuốc tiêu chảy, kiết lị hay
nước súc miệng để điều trị đau răng. Loài E. resinosa của Đài Loan và
Philippines được sử dụng như là thuốc hạ sốt ở Philippines. Ngoài ra, dịch
chiết của loài này còn được sử dụng trong công nghệ mỹ phẩm làm thuốc
chăm sóc da. Lá của loài E. acuminata giã nhỏ dùng để điều trị sưng tấy.
Gỗ của Ehretia thì không cứng lắm nên chỉ được sử dụng trên quy mô địa
phương, lá của nó còn được sử dụng làm thức ăn gia súc. Hai tác giả E. Boer
và M.S.M. Sosef la ̣i đề câ ̣p tới giá tri ̣ làm gỗ của các loài thuô ̣c chi Cườm
ru ̣ng trong mô ̣t cuố n sách khác về tài nguyên thực vâ ̣t Đông Nam Á [29].
Theo 2 tác giả này, gỗ của nhưng loài thuô ̣c chi Cườm ru ̣ng đươ ̣c sử du ̣ng
trong xây dựng, làm bàn ghế , đồ gia du ̣ng, du ̣ng cu ̣ thủ công và trang trí cho
những loa ̣i thuyề n nhỏ. Gỗ của chi này cũng thích hơ ̣p đề làm những loa ̣i
du ̣ng cu ̣ thể thao đòi hỏi khỏe và gỗ chắ c. Ở Ấn Đô ̣, người ta ăn quả của loài
E. acuminata, còn là thì dùng để chăn nuôi gia súc. Lá non của loài này thì
đươ ̣c người Tibet trô ̣n lẫn với trà khi uố ng. Tuy nhiên những nghiên cứu cu ̣
thể về cây Xa ̣ đen (E. asperula) la ̣i rấ t ít. Nguyên nhân có thể do cây này chỉ
phân bố ở Viê ̣t Nam, Trung Quố c và Malaysia.
1.2. Tình hình nghiên cứu về chi Cườm rụng tại Việt Nam
Chi Cườm ru ̣ng ở Viê ̣t Nam lầ n đầ u tiên đươ ̣c Gagnepain và Courcher
nghiên cứu khi viế t ho ̣ Boraginaceae trong cuố n Thực vâ ̣t Đa ̣i Cương Đông
Dương [32]. Trong đó các tác giả đã mô tả 8 loài thuô ̣c chi Cườm ru ̣ng. Khi
viế t về chi Cườm ru ̣ng ở Nam Viê ̣t Nam, P.H. Hô ̣ đã thố ng kê và mô tả 3 loài
[14]. Năm 1993 và năm 2000, theo P.H. Hô ̣ chi Cườm ru ̣ng ở Viê ̣t Nam bao
gồ m 7 loài [15, 16]. Cả 7 loài đã đươ ̣c ông mô tả ngắ n go ̣n và kèm theo hiǹ h
ve.̃ Năm 2001, theo Võ Văn Chi trong cuố n “Từ điể n cây thuố c” [5] ông la ̣i
cho là chi Ehretia chỉ có 5 loài do loài E. dentate Courch. đươ ̣c chuyể n sang
chi Carmona và E. thyrsiflora Nakai trở thành tên đồ ng nghiã của loài E.



-7-

acuminate R. Br. Theo Bùi Hồ ng Quang, Vũ Xuân Phương và Trần Ninh,
năm 2007, chi Cườm ru ̣ng ở Viêṭ Nam có 6 loài [24]. Ngoài các tài liêụ
chuyên khảo kể trên trong danh lu ̣c của các Vườn Quố c gia như Cúc Phương
hay Pù Mát, các loài của chi Cườm ru ̣ng cũng đươ ̣c thố ng kê. Năm 1997 và
2005 khi lâ ̣p danh lu ̣c các loài thực vâ ̣t ở VQG Pù Mát, Nguyễn Nghiã Thiǹ
cho rằ ng loài E. tsangii Johnst. có ở Pù Mát (Nghê ̣ An) và như vâ ̣y số loài của
chi Cườm ru ̣ng là 7 loài [26].
Gầ n đây (2010) nghiên cứu sinh Hoàng Quỳnh Hoa, trường Đa ̣i ho ̣c
Dươ ̣c Hà Nô ̣i đã hoàn thành luâ ̣n án tiế n si ̃ “Nghiên cứu mô ̣t số cây thuố c chi
Cườm ru ̣ng (Ehretia P. Br.), ho ̣ Vòi voi (Boraginaceae) ở miề n Bắ c Viêṭ
Nam” [12]. Trong luâ ̣n án này, tác giả đã tổ ng kế t la ̣i các nghiên cứu về chi
Cườm ru ̣ng trên thế giới và ở Viêṭ Nam. Theo tác giả chi Cườm ru ̣ng ở miề n
Bắ c Viê ̣t Nam có 7 loài bao gồ m: E. acuminata R.Br.; E. asperula Zoll. et
Mor.; E. dichotoma Blume; E. dicksonii Hance; E. laevis Roxb.; E. longiflora
Champ. ex Benth. và E. tsangii Johnst. Tác giả đã mô tả đầ y đủ các đă ̣c điể m
hiǹ h thái, xây dựng khóa đinh
̣ loa ̣i các loài trong chi. Lầ n đầ u tiên tác giả đã
công bố các đă ̣c điể m vi phẫu cành và lá của 7 loài này. Trong luâ ̣n án, tác giả
cũng khẳ ng đinh
̣ tên khoa ho ̣c của cây Xa ̣ đen là Ehretia asperula Zoll. &
Mor., mô tả chi tiế t các đă ̣c điể m hình thái và ngoa ̣i da ̣ng của cây này dựa
theo mẫu thu đươ ̣c từ tỉnh Hòa Bình. Qua các kế t quả nghiên cứu và điề u tra,
trong luâ ̣n án tác giả cũng xác đinh
̣ đươ ̣c 7 chứng/bênh
̣ đươ ̣c điề u tri ̣bằ ng các
loài thuô ̣c chi Cườm ru ̣ng là số t nóng, ung bướu, di ̣ứng mẩ n ngứa, hậu sản, iả

chảy, gan và đau xương. Trong đó, qua điề u tra thực vâ ̣t dân tô ̣c ho ̣c, tác giả
cũng khẳ ng đinh
̣ lá hoă ̣c toàn bô ̣ phầ n trên mă ̣t đấ t của cây Xa ̣ đen và vỏ thân
của cây Cườm ru ̣ng hoa dài (E. longiflora) là đươ ̣c sử du ̣ng nhiề u nhấ t.


-8-

1.3.Tình hình nghiên cứu về cây Xạ đen
Mă ̣c dù trong dân gian, cây Xa ̣ đen đươ ̣c sử du ̣ng làm thuố c từ lâu đời
nhưng rấ t ít các công trình khoa ho ̣c nghiên cứu về cây này. Theo nghiên cứu
sinh Hoàng Quỳnh Hoa, trường Đa ̣i ho ̣c Dươ ̣c Hà Nô ̣i Trong luâ ̣n án tiế n si ̃
“Nghiên cứu mô ̣t số cây thuố c chi Cườm ru ̣ng (Ehretia P. Br.), ho ̣ Vòi voi
(Boraginaceae) ở miề n Bắ c Viê ̣t Nam”, tác giả cũng khẳ ng đinh
̣ tên khoa ho ̣c
của cây Xa ̣ đen là Ehretia asperula Zoll. & Mor., mô tả chi tiế t các đă ̣c điể m
hiǹ h thái và ngoa ̣i da ̣ng của cây này dựa theo mẫu thu đươ ̣c từ tin̉ h Hòa Biǹ h
với các đặc điểm: Cây bu ̣i trườn, cao 3-10 m; cành màu nâu xám, lúc non có
lông, khi già nhắ n. Lá đơn, mo ̣c cách; cuố ng lá dài khoảng 1 cm, hơi vặn;
phiế n lá hình bầ u du ̣c, dài 10-12 cm, rô ̣ng 5-6 cm, gố c tròn hay hơi thuôn,
mép nguyên hoă ̣c khía răng cưa, chóp lá nho ̣n; nhẵn cả 2 mă ̣t hoă ̣c mă ̣t trên
có lông ở các gân; gân bên 4-5 đôi, phủ lông cứng, dựng đứng. Cu ̣m hoa xim
ở đỉnh cành, rô ̣ng 4-6 cm, có lông. Lá bắ c hiǹ h dải đế n hình ngo ̣n giáo, dài 310 mm. Hoa có cuố ng dài 2-2.5 mm; đài màu xanh, cao 1,5 mm, 5 thùy hình
trứng, có lông. Tràng màu trắ ng, da ̣ng phễu, dài 3,5-4 mm, gố c rô ̣ng 1,5 mm,
ho ̣ng rô ̣ng 5 mm, 5 thùy hình trứng hoă ̣c hình tam giác, dài 2-2,5 mm, khi nở
uố n cong gâ ̣p ra ngoài. Nhi ̣5, dài 3,5- 4 mm, đính cách gố c ố ng tràng khoảng
1 mm, bao phấ n dài khoảng 1 mm, hình mũi tên. Bầ u gầ n hình cầ u. Vòi nhu ̣y
dài 4-4,5 mm, xẻ 2 nhánh dài 1 mm. Quả ha ̣ch, màu vàng cam đế n đỏ, đường
kiń h 7-8 mm, lúc chiń mở thành bố n ha ̣ch, mỗi ha ̣ch chứa 1 ha ̣t.
Thông tin khác về phân loại thực vật: Nguyễn Văn Nam, trong luận

văn của mình, cây Xạ đen đã được gắn với tên khoa học Celastrus hinsii
Benth. nhưng sau này các nhà thực vật và dược học đã xác định lại, loài Xạ
đen được sử dụng làm thuốc phổ biến có tên khoa học đúng là Ehretia
asperula Zoll. & Mor.


-9-

Từ năm 1987, khi được đoàn bác sĩ Học viện Quân y (do GS.TSKH Lê
Thế Trung - Chủ tịch Hội Ung thư TP.Hà Nội dẫn đầu) phát hiện trong
chuyến sưu tầm các bài thuốc quý trong dân gian, cây Xạ đen mới bắt đầu thu
hút sự chú ý của giới khoa học và được đưa về cơ sở này để nghiên cứu. Theo
kết quả nghiên cứu của Học Viện Quân Y dịch chiết từ loài cây này có khả
năng ức chế sự phát triển của tế bào ung thư; qua nghiên cứu về thực vật học,
hoá dược, dược lý, nghiên cứu thực nghiệm trên động vật được gây ung thư
(theo đề tài cấp Bộ về xạ đen do GS. Lê Thế Trung làm chủ nhiệm), các bác sĩ
đã phát hiện ở loài cây này tác dụng hạn chế sự phát triển của khối u ác tính.
Cây Xa ̣ đen là cây làm thuố c và chủ yế u đươ ̣c khai thác ngoài thiên
nhiên vì vâ ̣y chưa có tài liêụ nào đề câ ̣p tới nhân giố ng và trồ ng tro ̣t cây Xa ̣
đen ở Viê ̣t Nam. Tuy nhiên, nhiề u tài liêu,
̣ giáo trình về nhân giố ng các loài
cây gỗ khác đã đươ ̣c xuấ t bản.
Các tài liệu về trồng trọt hay nhân giống về chi Ehretia rất ít. Tuy
nhiên, cũng có một vài tạp chí điện tử có đề cập tới điều kiện trồng trọt và
nhân giống của loài E. dicksonii như tạp chí làm vườn “gardening.eu” hay tạp
chí “naturalmedicinalherbs.net”. Trong các tạp chí này, sơ lược về trồng trọt
nhân giống, sâu bệnh và các kỹ thuật chăm sóc cây E. dicksonii đã được đề
cập. Tuy sơ lược nhưng đây chính là những cơ sở hay gợi ý ban đầu về kỹ
thuật chăm sóc cũng như nhân giống các loài Ehretia. Cuốn “Lanscaping with
Native plants of Texas” có đề câ ̣p tới nhân giố ng loài Ehretia anacua bằ ng

ha ̣t hoă ̣c bằ ng hom. Trong cuố n sách này, E. anacua là mô ̣t trong những hàng
trăm cây cảnh thuô ̣c vùng Texas (My)̃ đươ ̣c tác giả Miller giới thiêụ cũng như
đưa ra phương pháp nhân giố ng cây này bằ ng ha ̣t và bằ ng hom rễ [46]. Boer
và Sosef (1998) khi viế t về chi Ehretia trong cuố n “Timber trees: Lesserknown timber” có đề câ ̣p tới nhân giố ng loài E. acuminata bằ ng ha ̣t [29].
Theo các tác giả tỉ lê ̣ nảy mầ m của ha ̣t E. acuminata là 50% khi không đươ ̣c


- 10 -

xử lý. Trái la ̣i tỉ lê ̣ nảy mầ m là 90% nế u trước khi gieo ha ̣t đươ ̣c xử lý bằ ng
axit sulphuaric nồ ng đô ̣ thấ p trong 10 phút.
1.4. Cơ sở khoa học của nhân giống thực vật bằng hom
Giâm hom là một phương pháp nhân giống sinh dưỡng sử dụng thân
cây (bao gồm các dạng thân như thân củ, thân rễ, thân cành), cành và lá, rễ
cây để tạo ra cây mới gọi là cây hom. Trong đó nhân giống bằng hom thân,
hom cành đang được phát triển nhanh và được áp dụng rộng rãi vào sản xuất
lâm nghiệp như đối loài liễu (Salix), bạch đàn (Eucalyptus), keo lai (Acacia
mangium x Acacia auriculiformis)… Cây hom có đặc tính di truyền giống
như cây mẹ. Nhân giống bằng hom có hệ số nhân giống lớn, giữ được đặc
tính tốt của cây mẹ và tương đối rẻ tiền nên được sử dụng rộng rãi trong nhân
giống cây trồng, cây cảnh và cây ăn quả. Nhân giống bằng hom là làm cho
hom ra rễ, còn thân cây sẽ được hình thành từ các chồi bên hoặc chồi bất
định. Đặc điểm ra rễ phụ thuộc vào đặc điểm di truyền của loài và các nhân tố
ảnh hưởng bên ngoài trong quá trình giâm hom. Do đó, khi giâm phải tạo mọi
điều kiện thuận lợi nhất để cho hom ra rễ.
Rễ bất định là rễ sinh ra ở bất kỳ bộ phận nào của cây ngoài hệ rễ của
nó. Có hai loại rễ bất định là rễ tiềm ẩn và rễ mới sinh. Rễ tiềm ẩn là rễ có
nguồn gốc tự nhiên trong thân, cành nhưng chỉ phát triển khi đoạn thân hoặc
cành đó tách rời khỏi cây, còn rễ mới sinh được hình thành khi cắt hom và là
hậu quả của phản ứng với vết cắt.

Khi hom bị cắt, các tế bào sống ở vết cắt bị tổn thương và các tế bào
dẫn truyền đã chết của mô gỗ được hở ra và gián đoạn, sau đó, quá trình tái
sinh sẽ diễn ra theo các bước là các tế bào mặt ngoài chết, hình thành lớp bao
bọc, mạch gỗ được đậy lại bằng lớp keo để mặt cắt khỏi bị thoát nước. Sau
đó, các tế bào bên trong phân chia và hình thành lớp mô mềm. Các tế bào ở
vùng lân cận của tượng tầng mạch và libe bắt đầu hình thành rễ bất định. Các


- 11 -

rễ này thường được hình thành bên cạnh và sát ngoài lõi trung tâm của mô
mạch và ăn sâu vào trong thân tới gần ống sát bên ngoài tượng tầng.
Nhìn chung, với việc giâm hom từ thân, cành, để hom hình thành một
bộ rễ mới là vấn đề quan trọng nhất. Tuy nhiên, có rất nhiều nhân tố ảnh
hưởng đến tỷ lệ ra rễ, chồi. Chúng bao gồm các nhân tố nội sinh và ngoại
sinh.
Các nhân tố nội sinh:
- Đặc điểm di truyền của loài:
Theo quan điểm giâm hom Quijada (1985) chia các loài thành 3 nhóm:
nhóm khó ra rễ, nhóm ra rễ trung bình và nhóm dễ ra rễ . Có loài cây có biến
động lớn tỷ lệ ra rễ , Roulund (1971) thí nghiệm các dòng giâm hom như loài
cây Vân sam (Picea abies) tỷ lệ ra rễ giao động từ 3,2% - 48,5%, và mỗi
dòng đều ổn định khả năng ra rễ [48].
- Tuổi cây mẹ, tuổi cành lấy hom:
Nhìn chung, cây mẹ càng già tỷ lệ ra rễ càng giảm. Cây chưa sinh sản
bằng hạt thì dễ nhân giống bằng hom hơn khi cây đã sinh sản, nhân giống
bằng hom giảm khi tuổi mẹ tăng lên. Tuổi cành cũng ảnh hưởng lớn đến tỷ lệ
ra rễ. Hom ở giai đoạn nửa hoá gỗ thích hợp cho việc ra rễ. Hom non thì dễ bị
thối rữa, hom già đã hoá gỗ thì khó bật rễ [22].
- Đặc điểm của cây cá thể:

Nhiều thí nghiệm giâm hom với các cây cá thể đã chứng tỏ có cây cho
tỷ lệ hom ra rễ rất cao, còn có cây hầu như không ra rễ. Ngay từ năm 1940,
Deuber đã cho biết là ở một số loài cây lá kim, tỷ lệ ra rễ có biến động lớn từ
0% - 100%. Theo Simsiri (1991) ở loài cây keo lá tràm, cây cá thể có ảnh
hưởng rõ rệt tới khả năng ra rễ của hom (60% - 80%). Trong thí nghiệm của
Lambeth et al. (1989) với bạch đàn E.grandis ở Colombia tỷ lệ hom ra rễ biến
động từ 0% - 100% tùy theo cây mẹ. Cụ thể trong 950 cây trội được chọn để


- 12 -

nhân giống tiếp có 10 cây trội có hom chồi gốc không ra rễ, còn 940 cây trội
có hom ra rễ ở tỷ lệ khác nhau, chỉ có 460 cây trội được sử dụng vào khảo
nghiệm dòng vô tính, vì các cây này có tỷ lệ hom ra rễ đạt từ 60% trở lên. Vì
vậy chọn dòng vô tính sử dụng vào nhân giống đại trà người ta sử dụng
ngưỡng tỷ lệ ra rễ 60% trở lên thì nhân giống hom mới đạt hiệu quả kinh tế
[22].
- Chất điều hoà sinh trưởng:
Trong các chất này, Auxin được coi là quan trọng nhất trong qúa trình
ra rễ của hom. Song nhiều chất khác nhau tác động cùng auxin và hoạt tính
của auxin cũng tồn tại một cách tự nhiên trong các mô của hom giâm và tác
động đến quá trình ra rễ của chúng. Vì vậy, khi giâm hom để tăng hiệu quả
việc giâm hom, đặc biệt là với những loài cây khó ra rễ cần sử dụng các chất
điều hoà sinh trưởng để tăng tỷ lệ ra rễ của hom. Ngày nay sử dụng các chất
điều hoà sinh trưởng hầu như không thể thiếu trong nhân giống bằng hom.
Để hom ra rễ với tỷ lệ cao thì mỗi loài cần có loại chất, nồng độ và thời gian
xử lý thuốc thích hợp. Các chất kích thích thường dùng hiện nay là IAA (Axit
Indol - Axetic), IBA (Axit Indol - Butiric), NAA (Axit Napthalen - Axetic).
Với Bạch đàn trắng thí nghiệm cho thấy IBA là chất cho tỷ lệ ra rễ cao nhất
(93,8%) (Lê Đình Khả, Nguyễn Hoàng Nghĩa, 1977). Ngoài ra, việc xử lý

bằng thuốc nước hoặc thuốc dạng bột cũng cho kết quả khác nhau. Theo Lars
Chmist (1993) thì chất điều hoà sinh trưởng dạng dung dịch nồng độ thấp 20
– 200ppm, phần gốc hom nhúng trong 24 giờ, còn ở nồng độ 500 – 1000ppm
chỉ cần nhúng nhanh trong dung dịch khoảng 4 – 5 giây. Hoặc theo kết quả thí
nghiệm với Thông đuôi ngựa 2 tuổi xử lý bằng thuốc dung dịch IBA nồng độ
75ppm, 100ppm và 150ppm trong 8 giờ có tỷ lệ ra rễ tương ứng là 6%, 80%,
87% (Lê Đình Khả, 1994). Tóm lại, nồng độ thấp cần xử lý thời gian dài và
nồng độ cao cần thời gian xử lý ngắn. Tuy nhiên, việc sử dụng loại thuốc,


- 13 -

nồng độ, thời gian xử lý thuốc cần nghiên cứu với từng loài cây, ở từng giai
đoạn và điều kiện cụ thể để cho kết quả chính xác.
- Vị trí lấy hom trên cây:
Lấy cành giâm hom ở vị trí khác nhau cũng cho tỷ lệ ra rễ khác nhau,
theo Nguyễn Hoàng Nghĩa [22] (Wong, 1989) Keo tai tượng nhỏ tuổi vị trí
lấy hom kể từ ngọn cây non xuống gốc thì tỷ lệ ra rễ ở vị trí phần gốc cao hơn
vị trí lấy hom ở phần ngọn. Thông thường, các hom lấy ở phần gốc dễ ra rễ
hơn các hom lấy ở phần ngọn.
- Lá giữ vai trò chủ chốt trong hình thành mô phân sinh của rễ ở các
hom chưa hóa gỗ đặt dưới phun mù. Giâm hom cây keo tai tượng 1 năm tuổi
(Darus, 1991) cho thấy tỷ lệ ra rễ của hom có lá (66%) cao hơn hom không có
lá (12%) và hom cắt 1/2 diện tích phiến lá có kết quả tỷ lệ ra rễ tốt nhất
(76%). Tỷ lệ ra rễ còn liên quan đến bề mặt lá nghĩa là quang hợp. Đối với
bạch đàn E. deglupta (Nguyễn Hoàng Nghĩa 2001) hầu hết các hom ngắt bỏ lá
trước khi giâm hom đều không ra rễ và các hom này chết trong vòng 10 ngày
[22].
Các nhân tố ngoại sinh:
- Thời vụ giâm hom: Một số loài có thể giâm quanh năm nhưng nhiều

loài có tính thời vụ rõ rệt. Thời vụ giâm gắn liền với diễn biến thời tiết, mùa
sinh trưởng của cây và trạng thái sinh lý của cành. Hầu hết các cây sinh
trưởng mạnh trong mùa xuân hè (mùa mưa). Vì thế, mùa mưa là mùa giâm có
tỷ lệ ra rễ cao ở nhiều loài cây, mùa đông thường cho tỷ lệ ra rễ thấp. Tỷ lệ ra
rễ ở loài Keo lai trong mùa giâm hom (tháng 4 – tháng 10) thường có tỷ lệ ra
rễ 80 – 90%, song khi đảm bảo các điều kiện cần thiết cho ra rễ của hom giâm
thì trong các tháng 11 – 12 cũng chỉ có thể đạt tỷ lệ ra rễ 60 – 70%, còn giâm
hom vào tháng 1 thì hoàn toàn không ra rễ [17]. Tuy nhiên, với từng loài cụ
thể cần có những nghiên cứu thực nghiệm để có kết quả cụ thể.


- 14 -

- Giá thể cắm hom: Một số loại giá thể thông dụng như cát tinh, mùn
cưa, xơ dừa băm nhỏ, hoặc hỗn hợp đất, mùn và phân. Giá thể phải không
nhiễm bệnh, rễ thoát nước. Giâm hom cho Mắc ca dùng giá thể 1/3 trấu + 1/3
rơm băm nhỏ ủ hoai + 1/3 cát vàng là thích hợp nhất vừa cho tỷ lệ ra rễ của
hom cao nhất (75,5%) và chất lượng bộ rễ trên cây hom là tốt nhất (Chỉ số ra
rễ: 39,8) [11].
- Điều kiện ánh sáng, nhiệt độ, độ ẩm của không khí và của giá thể: Các
nhân tố này đều có ảnh hưởng quan trọng đến tỷ lệ ra rễ. Tuy nhiên, chúng tác
động mang tính tổng hợp chứ không riêng lẻ. Vì vậy, cần chú ý việc che bóng
và các chế độ chăm sóc để đảm bảo nhiệt độ và độ ẩm thích hợp. Theo
Tewary, ánh sáng tán xạ khoảng 40-50% là phù hợp cho hom nhưng cá biệt
như Nhài nhật có thể ra rễ cả khi che bóng hoàn toàn trong 30 ngày. Các loài
cây nhiệt đới cần nhiệt độ thích hợp là 28 – 33oC (Longman, 1993).
Năm 2009, Bùi Thanh Nam làm khoá luận tốt nghiệp Đại học với đề tài
“Nghiên cứu đặc điểm sinh học, đặc điểm nơi mọc và tìm hiểu kỹ thuật gây
trồng loài cây Xạ đen (Celastrus hinsii) ở Vườn Quốc gia Cúc Phương”.
Trong luận văn, tác giả đã sơ bộ thử nghiệm nhân giống cây Xạ đen bằng hạt

và hom (chọn cành bánh tẻ, dùng chất kích thích ra rễ IBA dạng bột, nồng độ
0,5-1,0%).
1.5. Cơ sở khoa học của nhân giống thực vật bằng hạt
Sử dụng hạt để nhân giống cây trồng là rất phổ biến hiện nay. Ưu điểm
của phương pháp này là dễ làm, dễ áp dụng, hệ số nhân giống rất cao. Đối
với nhân giống từ hạt tỷ lệ nảy mầm hạt giống có ý nghĩa quan trọng đến tỷ
lệ cây con xuất vườn.
Sự nảy mầm của hạt bao gồm 3 gia đoạn gối nhau là: 1)Hấp thụ nước
làm cho hạt trương lên, vỏ hạt nứt ra, 2) Hoạt tính men, hô hấp và tăng lên,
các dự trữ được sử dụng và vận chuyển đến những vùng sinh trưởng, 3) Sự


- 15 -

phân chia và lớn lên của các tế bào làm cho rễ mầm và chồi mầm đâm ra
ngoài vỏ hạt (Evenari 1957)
Sự nảy mầm của hạt là sự khởi đầu sự phát triển từ phôi thành cây con
độc lập. Sự nảy mầm thể hiện hạt có khả năng sinh ra một cây con bình
thường trong điều kiện thích hợp (Justice 1972) . Sự nảy mầm được thể hiện
bằng tỷ lệ phần trăm những hạt sản sinh ra những cây con bình thường. Tỷ lệ
nảy mầm của hạt giống phụ thuộc vào bản chất của loài cây, chất lượng của
hạt, độ ẩm, nhiệt độ không khí, ánh sáng, trong đó yếu tố độ ẩm và nhiệt độ
không khí là quyết định nhất.
Sự ngủ của hạt giống là trạng thái hạt còn sống nhưng không nảy mần
mặc dù đã có yếu tố thuận lợi cho sự nảy mầm. Hạt sống là hạt có thể này
mầm trong điều kiện thích hợp khi trạng thái ngủ nếu có của hạt được loại trừ
(Roberts 1972) Sự ngủ trong tự nhiên của hạt có vai trò giữ cho hạt không nảy
mầm khi điều kiện lúc đầu thích hợp cho nảy mầm, nhưng sau đó lại quá khắc
nghiệt với sự sống của cây con. Trong sản xuất cây giống sự ngủ của hạt
giống cũng có lợi khi chúng ta vận chuyển, chế biến, chúng không bị chết

[10].


- 16 -

Chương 2
ĐỐI TƯỢNG, MỤC TIÊU, NỘI DUNG
VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Đối tượng nghiên cứu
Cây Xạ đen (Ehretia asperula Zoll. & Mor.
2.2. Địa điểm nghiên cứu: tỉnh Hòa Bình
2.3. Mục tiêu nghiên cứu
2.3.1. Mục tiêu tổng quát
Nhân giống cây Xạ đen bằng phương pháp giâm hom và bằng hạt nhằm
tìm được phương pháp nhân giống tối ưu cây Xạ đen.
2.3.2. Mục tiêu cụ thể
- Nắm được hiện trạng phân bố và đặc điểm phân bố của cây Xạ đen tại
tỉnh Hòa Bình.
- Chọn công thức tối ưu cho việc nhân giống cây Xạ đen bằng phương
pháp giâm hom và gieo hạt tại tỉnh Hòa Bình.
2.4. Nội dung nghiên cứu
2.4.1. Điều tra về đặc điểm phân bố của cây Xạ đen tại tỉnh Hòa Bình
- Hiện trạng phân bố trong tự nhiên, tình hình khai thác và sử dụng cây
Xạ đen tại tỉnh Hòa Bình.
- Đặc điểm phân bố (theo đai cao, theo dạng sinh cảnh).
2.4.2. Nghiên cứu thử nghiệm kỹ thuật nhân giống cây Xạ đen
- Nhân giống bằng giâm hom:
+ Nghiên cứu về tuổi hom giâm (hom đoạn ngọn, hom đoạn giữa, hom
đoạn gốc)
+ Nghiên cứu về loại và nồng độ chất kích thích ra rễ (2 loại chất kích

thích IBA và TTG).


- 17 -

+ Nghiên cứu về giá thể khi giâm hom (2 loại: hỗn hợp đất đóng bầu
và cát thô sạch)
+ Nghiên cứu về thời vụ giâm (2 thời vụ: Vụ xuân hè tháng 4 và Vụ thu
đông tháng 7).
- Nhân giống bằng hạt xác định:
+ Tỷ lệ nẩy mầm của hạt.
+ Tỷ lệ sống của cây con khi đưa vào bầu với tỷ lệ che bóng khác nhau
(50% và 70%).
+ Tỷ lệ sống của cây con khi đưa vào bầu ở 1 tháng tuổi, 2 tháng tuổi.
2.5. Phương pháp nghiên cứu
2.5.1. Điều tra đặc điểm phân bố của cây Xạ đen
- Điều tra sơ bộ: thông qua phỏng vấn người dân, thầy lang, .v.v. để
nắm được tình hình phân bố, khai thác và sử dụng của cây Xạ đen tại tỉnh Hòa
Bình.
- Điều tra thực địa: Điều tra theo địa giới hành chính (huyện, xã).
Chọn huyện, xã điển hình theo kết quả phỏng vấn sơ bộ.
Tại các điểm có bắt gặp cây Xạ đen tiến hành điều tra trong bán kính
20m tất cả các cây gỗ có đường kính ngang ngực trên 6cm để xác định loài
ưu thế. Khu vực điều tra tại các huyện Lạc Sơn, huyện Tân Lạc; huyện Cao
Phong, huyện Đà Bắc và huyện Kim Bôi tỉnh Hòa Bình.
Số liệu thu thập được ghi chép theo biểu mẫu 2.1.


- 18 -


Mẫu biểu 2.1. Biểu điều tra đặc điểm phân bố theo địa giới hành chính

Tên xã

Số điểm

Số điểm

Tỷ lệ %

Số cá

% theo

Độ cao

Loài cây

điều tra

gặp Xạ

gặp Xạ

thể bắt

số cá

khu vực


đen

đen

gặp

thể

điều tra

2.5.2. Thử nghiệm giâm hom cây Xạ đen tại vườn ươm
Do điều kiện và thời gian làm thí nghiệm có hạn, nên chúng tôi chỉ sử
dụng mỗi công thức là 30 hom giâm.
- Vật liệu nghiên cứu:
Các đoạn hom được phân thành đoạn ngọn, đoạn giữa và đoạn gốc ký
hiệu là: T1, T2, T3; Hom được cắt thành các đoạn dài 10 – 12 cm; Hom có 1
– 2 lá (được cắt bỏ 2/3 diện tích phiến lá).
- Chất kích thích ra rễ: IBA và TTG
+ Dùng chất kích thích ra rễ IBA pha thành dung dịch với các nồng độ
100ppm, 200ppm, 300ppm ngâm trong 10 phút.
+ Dùng chất kích thích ra rễ TTG dạng bột để chấm hom giâm. (Do
Trung tâm giống cây rừng – Viện Khoa học lâm nghiệp Việt Nam sản xuất)
- Giá thể giâm hom:
+ Cát thô sạch.
+ Hỗn hợp đất đóng bầu vườn ươm + 10% phân chuồng đã ủ hoai +
1% lân.


- 19 -


Giá thể được sử lý bằng phun dung dịch Ben lát – C với nồng độ 3%
trước khi giâm hom 1- 2 ngày.
- Khu vực giâm hom: Khu giâm hom được xây dựng có mái che bằng
lưới nilon che nắng có độ che 60% cao cách mặt đất 2,2 m và chung quanh
có bao che bằng bạt nhựa trong đến độ cao 1,5 m. Lồng giâm hom làm bằng
tre hoặc sắt có kích thước cao 1,4m rộng 1,2m, được che phủ bằng ni lon
trắng. Luống giâm hom cách nhau 40 cm và có đường đi lại thuận tiện. Nền
luống giâm hom có chiều rộng 1 – 1,2m, chiều dài 5m và chiều cao 6 – 10
cm, dễ thoát nước.

1,4m

1,2m
Hình 2.1: Kích thước lồng giâm hom
- Giâm hom Xạ đen được thực hiện 2 đợt tại vườn ươm Trung tâm
giống cây trồng tỉnh Hòa Bình :
+ Đợt 1: Vụ xuân hè tháng 4/2011.
+ Đợt 2: Vụ thu tháng 7/2011.
- Sơ đồ bố trí thí nghiệm như sau:


- 20 -

Giâm hom vụ xuân hè tháng 4/2011
Hom giâm
trên cát
thô sạch
Hom giâm
trên đất
đóng bầu

vườn ươm

T1100

T1200

T1300

T1TTG

T1ĐC

T2100

T2200

T2300

T2TTG

T2ĐC

T3100

T3200

T3300

T3TTG


T3ĐC

T1100

T1200

T1300

T1TTG

T1ĐC

T2100

T2200

T2300

T2TTG

T2ĐC

T3100

T3200

T3300

T3TTG


T3ĐC

Giâm hom vụ thu tháng 7/2011
Hom giâm
trên cát
thô sạch
Hom giâm
trên đất
đóng bầu
vườn ươm

T1100

T1200

T1300

T1TTG

T1ĐC

T2100

T2200

T2300

T2TTG

T2ĐC


T3100

T3200

T3300

T3TTG

T3ĐC

T1100

T1200

T1300

T1TTG

T1ĐC

T2100

T2200

T2300

T2TTG

T2ĐC


T3100

T3200

T3300

T3TTG

T3ĐC

Tổng số 60 công thức với 1800 hom.
Kí hiệu các công thức giâm hom:
T1 TTG: Hom đoạn ngọn dùng chất kích thích ra rễ TTG.
T1 100 : Hom đoạn ngọn dùng chất kích thích ra rễ IBA nồng độ
100ppm; T1 ĐC: Hom đoạn ngọn, đối chứng (không dùng chất kích thích ra
rễ) ; T2 TTG: Hom đoạn giữa dùng chất kích thích ra rễ TTG .v.v.


- 21 -

- Chỉ tiêu thu thập:
+ Số ngày hom bật chồi: Thời gian tính từ lúc giâm đến lúc hom bật
chồi, lá chồi bắt đầu xòe dài 0,5 – 0,7cm và chuyển từ màu nâu sang màu
vàng nõn.
+ Số hom ra rễ: Hom có xuất hiện rễ màu trắng dài 1cm trở lên.
+ Thời gian ra rễ: Thời gian hom bắt đầu giâm đến khi hom ra rễ màu
trắng rễ dài 1cm, thời gian ra rễ tính bằng ngày.
+ Số lượng rễ /hom: Số lượng rễ có chiều dài 2 cm trở lên.
+ Chiều dài rễ/hom: Chiều dài rễ trung bình tính bằng cm, thời gian đo

đếm là 45 ngày sau giâm hom.
Số liệu thu thập được ghi chép theo biểu mẫu 2.2
Mẫu biểu 2.2. Biểu theo dõi tình hình sinh trưởng hom giâm
Công
thức/
Nồng
độ

Số thứ
tự hom

Ngày
giâm

Số ngày
bật chồi

Số
ngày
ra rễ

Số
Số
Chiều
hom ra lượng
dài
rễ
rễ/hom rễ(cm)/
hom


Ghi
chú

2.5.3. Thử nghiệm nhân giống hữu tính loài cây Xạ đen bằng hạt tại
vườn ươm
Quả giống Xạ đen được thu hái tháng 10 năm 2010 được ủ đống 1 ngày
cho chín đều, mền quả. Sau đem đãi sạch phần thịt quả thu lấy hạt và phơi
khô trong nắng nhẹ. Hạt giống khô được bảo quản trong điều kiện nhiệt độ,
độ ẩm không khí thông thường.
- Xác định tỷ lệ nẩy mầm của hạt trong các thời gian:
+ Gieo hạt ngay sau khi thu hái.


- 22 -

+ Gieo hạt sau bảo quản thông thường 3 tháng .
+ Gieo hạt sau bảo quản thông thường 9 tháng.
Thí nghiệm về tỷ lệ nẩy mầm của hạt Xạ đen được bố trí 100 hạt/ô và
nhắc lại 3 lần tổng số 900 hạt được thí nghiệm.
Số liệu thu thập được ghi chép theo biểu mẫu 2.3:
Mẫu biểu 2.3. Biểu theo dõi hạt nảy mầm
Ô thí nghiệm

Thời gian

Thời gian bắt

Thời gian kết

Số hạt nảy


gieo hạt

đầu nảy mầm

thúc nảy mầm

mầm

1
2
3

- Xác định tỷ lệ sống của cây con khi đưa vào bầu với thời gian:
+ Cấy cây khi cây mầm được 1 tháng tuổi
+ Cấy cây khi cây mầm được 2 tháng tuổi.
+ Che bóng 50% và 70%.
Cây sống sau 2 tháng cây vẫn xanh tốt được xác định là sống. Mỗi công
thức thí nghiệm là 30 cây mầm và được lặp lại 3 lần. Các công thức thí
nghiệm với tổng số 360 cây mầm.
Số liệu thu thập được ghi chép theo biểu mẫu 2.4


- 23 -

Mẫu biểu 2.4. Biểu theo dõi tỷ lệ cây sống.
TT

Công thức


Cấy cây sau
nảy mầm 1
tháng

Che bóng
50%

Cấy cây sau
nảy mầm 2
tháng

Thời gian cấy

Số cây sống
(sau 2 tháng)

Ghi chú

Che bóng
70%
Che bóng
50%
Che bóng
70%

Xử lý số liệu thí nghiệm theo phương pháp thống kê trong lâm nghiệp
và bằng phần mềm Excel, SPSS trên máy tính.



×