Tải bản đầy đủ (.docx) (21 trang)

ôn tập triết học, các vấn đề triết học, các cách làm bài tập tiểu luận triết, các đề tiểu luận triết và hướng làm bài

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (78.96 KB, 21 trang )

Hạt nhân của Phép Biện chứng Duy vật là Quy luật thống
nhất và đấu tranh của các mặt đối lập (quy luật mâu thuẫn)
Quy luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập hay còn gọi là quy luật mâu
thuẫn là một trong ba quy luật cơ bản của phép biện chứng duy vật và là quy luật
quan trọng nhất của phép biện chứng duy vật trong triết học Mác - Lênin, là hạt
nhân của phép biện chứng. Theo Lênin: “có thể định nghĩa vắn tắt phép biện chứng
là học thuyết về sự thống nhất của các mặt đối lập. Như thế, là nắm được hạt nhân
của phép biện chứng…”.
- Phép biện chứng duy vật là học thuyết xem xét sự vật, hiện tượng trong trạng thái
vận động, phát triển. Nguồn gốc, động lực của mọi sự vận động, phát triển của thế
giới chính là mâu thuẫn. Quy luật thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập là
quy luật về nguồn gốc, động lực cơ bản, phổ biến của mọi quá trình vân động và
phát triển. Theo quy luật này, nguồn gốc và động lực cơ bản, phổ biến của mọi quá
trình vận động, phát triển của sự vật, hiện tượng chính là xuất phát từ mâu thuẫn
khách quan, vốn có của nó:
Tất cả các sự vật, hiện tượng đều chứa đựng những mặt trái ngược nhau, tức những
mặt đối lập trong sự tồn tại của nó. Các mặt đối lập của sự vật vừa thống nhất vừa
đấu tranh với nhau tạo thành nguồn gốc, động lực của sự vận động, phát triển của
sự vật. Phép biện chứng duy vật đã đưa ra và sử dụng các khái niệm: mặt đối lập,
mâu thuẫn biện chứng, sự thống nhất của các mặt đối lập, đấu tranh của các mặt
đối lập để diễn đạt mối quan hệ giữa thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập
trong bản thân sự vật – tạo thành nguồn gốc, động lực phổ biến của mọi sự vận
động và phát triển của thế giới.
VD: …..


- Nắm vững nội dung của quy luật này là cơ sở để hiểu biết tất cả các phạm trù và
quy luật khác của phép biện chứng duy vật. Nó giúp chúng ta hình thành phương
pháp, tư duy khoa học, biết khám phá bản chất, nguồn gốc, động lực của sự vận
động và phát triển của các sự vật, hiện tượng và giải quyết các mâu thuẫn để thúc
đẩy sự phát triển.



SỰ THỐNG NHẤT VÀ SỰ ĐỒNG NHẤT CỦA CÁC MẶT
ĐỐI LẬP
- Phạm trù “mặt đối lập”: Mặt đối lập là phạm trù triết học dùng để chỉ những mặt,
những đặc điểm, những thuộc tính, những tính quy định có khuynh hướng biến đổi
trái ngược nhau, tồn tại một cách khách quan và phổ biến trong mỗi sự vật, hiện
tượng. Ví dụ như: Trong nguyên tử có điện tử và hạt nhân hay trong sinh vật thì có
sự đồng hoá và dị hoá; trong kinh tế thị trường có cung và cầu, hàng và tiền…
Những mặt trái ngược nhau đó trong phép biện chứng duy vật gọi là mặt đối lập.
- Sự thống nhất của các mặt đối lập:
+ “Sự thống nhất của các mặt đối lập” là sự nương tựa vào nhau, ràng buộc, quy
định lẫn nhau, không tách rời của các mặt đối lập, mặt này phải lấy mặt kia làm
tiền đề để tồn tại.
VD: … (bám vào các từ mô tả ở trên để lấy VD nhé).
+ Giữa các mặt đối lập bao giờ cũng có những nhân tố giống nhau, “đồng nhất” với
nhau (nôm na là “giống hệt nhau”, “trùng khít nhau” đấy các bác, nói thế cho các
bác dễ hiểu để lấy ví dụ thôi chứ đừng ghi vào văn viết người ta lại bẩu nà “làm
tầm thường hóa khoa học”). Với nghĩa đó, sự thống nhất của các mặt đối lập cũng
bao hàm sự đồng nhất của chúng.
VD: …
Do có sự "đồng nhất" của các mặt đối lập mà trong sự vận động, phát triển của


mâu thuẫn đến một lúc nào đó, các mặt đối lập có thể chuyển hoá lẫn nhau để giải
quyết mâu thuẫn.
Như vậy, sự thống nhất của các mặt đối lập bao giờ cũng bao hàm trong nó sự
đồng nhất, mặc dù thế, “sự thống nhất của các mặt đối lập” không đồng nhất với
“sự đồng nhất giữa các mặt đối lập”.

SỰ THỐNG NHẤT CỦA CÁC MẶT ĐỐI LẬP VÀ TRẠNG

THÁI “ĐỨNG IM” CỦA SỰ VẬT, HIỆN TƯỢNG
- Phạm trù “mặt đối lập”: Mặt đối lập là phạm trù triết học dùng để chỉ những mặt,
những đặc điểm, những thuộc tính, những tính quy định có khuynh hướng biến đổi
trái ngược nhau, tồn tại một cách khách quan và phổ biến trong mỗi sự vật, hiện
tượng. Ví dụ như: Trong nguyên tử có điện tử và hạt nhân hay trong sinh vật thì có
sự đồng hoá và dị hoá; trong kinh tế thị trường có cung và cầu, hàng và tiền…
Những mặt trái ngược nhau đó trong phép biện chứng duy vật gọi là mặt đối lập.
- “Sự thống nhất của các mặt đối lập” là sự nương tựa vào nhau, ràng buộc, quy
định lẫn nhau, không tách rời của các mặt đối lập, mặt này phải lấy mặt kia làm
tiền đề để tồn tại. Sự thống nhất của các mặt đối lập chỉ là tương đối, là tạm thời,
nó làm nên trạng thái đứng im của sự vật, hiện tượng.
VD: …
- “Đứng im” là trạng thái đặc biệt của vận động, đó là vận động trong thế cân bằng,
ổn định; vận động mà chưa làm thay đổi căn bản về chất, về vị trí, hình dáng, kết
cấu của sự vật. Trạng thái đứng im của sự vật, hiện tượng chỉ là tương đối, là tạm
thời.
VD: …


>> Như vậy, sự thống nhất của các mặt đối lập tương ứng với
trạng thái “đứng im” tương đối, tạm thời của sự vật, hiện tượng-là thời điểm mà có
sự thống nhất biện chứng giữa mặt “chất” và mặt “lượng” của sự vật, hiện tượng
trong khoảng giới hạn của một “độ”-là thời điểm xác định sự vật, hiện tượng còn
đang là nó mà chưa chuyển thành cái khác.
Theo Lênin: “Sự thống nhất (phù hợp, đồng nhất, tác dụng ngang nhau) của các
mặt đối lập là có điều kiện, tạm thời, thoáng qua, tương đối. Sự đấu tranh của các
mặt đối lập, bài trừ lẫn nhau là tuyệt đối, cũng như sự phát triển, sự vận động là
tuyệt đối”.

SỰ ĐẤU TRANH CỦA CÁC MẶT ĐỐI LẬP VÀ SỰ VẬN

ĐỘNG, PHÁT TRIỂN CỦA SỰ VẬT, HIỆN TƯỢNG
- Theo Ph.Ăngghen: “Vận động hiểu theo nghĩa chung nhất, - tức được hiểu là một
phương thức tồn tại của vật chất, là một thuộc tính cố hữu của vật chất-thì bao gồm
tất cả mọi sự thay đổi và mọi quá trình diễn ra trong vũ trụ, kể từ sự thay đổi vị trí
đơn giản cho đến tư duy”.
- Phạm trù “mặt đối lập”: Mặt đối lập là phạm trù triết học dùng để chỉ những mặt,
những đặc điểm, những thuộc tính, những tính quy định có khuynh hướng biến đổi
trái ngược nhau, tồn tại một cách khách quan và phổ biến trong mỗi sự vật, hiện
tượng. Ví dụ như: Trong nguyên tử có điện tử và hạt nhân hay trong sinh vật thì có
sự đồng hoá và dị hoá; trong kinh tế thị trường có cung và cầu, hàng và tiền…
Những mặt trái ngược nhau đó trong phép biện chứng duy vật gọi là mặt đối lập.
- “Sự đấu tranh của các mặt đối lập” là sự tác động theo xu hướng bài trừ, phủ định
lẫn nhau của các mặt đối lập. Hình thức đấu tranh của các mặt đối lập rất phong
phú, đa dạng, tùy thuộc vào tính chất, mối quan hệ và điều kiện cụ thể của sự vật,


hiện tượng. Sự đấu tranh của các mặt đối lập tất yếu sẽ dẫn tới sự chuyển hóa giữa
chúng, qua đó mâu thuẫn được giải quyết. Nhờ sự đấu tranh và chuyển hóa của các
mặt đối lập để giải quyết mâu thuẫn mà thể thống nhất cũ được thay thế bằng thể
thống nhất mới; sự vật cũ mất đi sự vật mới ra đời thay thế cho sự vật cũ...
VD: …
- Trong sự thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập, sự thống nhất là tương đối,
tạm thời còn sự đấu tranh là tuyệt đối, là vĩnh viễn. Sự đấu tranh của các mặt đối
lập làm nên sự vận động vĩnh viễn của thế giới vật chất.
VD: …
Theo Lênin: “Sự thống nhất (phù hợp, đồng nhất, tác dụng ngang nhau) của các
mặt đối lập là có điều kiện, tạm thời, thoáng qua, tương đối. Sự đấu tranh của các
mặt đối lập, bài trừ lẫn nhau là tuyệt đối, cũng như sự phát triển, sự vận động là
tuyệt đối”; “Sự phát triển là một cuộc đấu tranh giữa các mặt đối lập”. Bởi vậy, sự
liên hệ, tác động và chuyển hóa giữa các mặt đối lập là nguồn gốc, động lực của sự

vận động và phát triển trong thế giới.

NHỮNG ĐIỀU KIỆN CỦA SỰ HÌNH THÀNH MỘT MÂU
THUẪN
- Các phạm trù:
+ “Mâu thuẫn” là phạm trù triết học dùng để chỉ sự thống nhất và đấu tranh,
chuyển hóa giữa các mặt đối lập của mỗi sự vật, hiện tượng hoặc giữa các sự vật,
hiện tượng với nhau.
+ “Mặt đối lập” là phạm trù triết học dùng để chỉ những mặt, những đặc điểm,
những thuộc tính, những tính quy định có khuynh hướng biến đổi trái ngược nhau,
tồn tại một cách khách quan và phổ biến trong mỗi sự vật, hiện tượng.


+ “Sự thống nhất của các mặt đối lập” là sự nương tựa vào nhau, ràng buộc, quy
định lẫn nhau, không tách rời của các mặt đối lập, mặt này phải lấy mặt kia làm
tiền đề để tồn tại.
+ “Sự đấu tranh của các mặt đối lập” là sự tác động theo xu hướng bài trừ, phủ
định lẫn nhau của các mặt đối lập.
- Qúa trình hình thành của mâu thuẫn:
+ Từ hai mặt khác nhau phát triển theo khuynh hướng trái ngược nhau nhưng cùng
tồn tại trong một thể thống nhất của sự vật, hiện tượng thì xuất hiện hai mặt đối lập
nhau.
+ Trong quá trình vận động, phát triển của sự vật, hiện tượng, hai mặt đối lập vừa
thống nhất với nhau, đồng thời chúng đấu tranh với nhau; khi đến độ chín muồi và
có điều kiện thì chuyển hoá cho nhau, qua đó, mâu thuẫn được giải quyết.
>> Như vậy, trong phép biện chứng duy vật, khái niệm “mâu thuẫn” đồng nghĩa
với mâu thuẫn biện chứng và phân biệt với mâu thuẫn theo nghĩa thông thường.
Một mâu thuẫn được tạo thành KHÔNG phải chỉ bởi sự xuất hiện của hai mặt đối
lập hay chỉ là sự đấu tranh của hai mặt đối lập. Mâu thuẫn CHỈ ra đời khi có sự
xuất hiện của ít nhất hai mặt đối lập; đồng thời các mặt đối lập đó phải vừa thống

nhất, vừa đấu tranh rồi chuyển hóa cho nhau.

CÁC TÍNH CHẤT CỦA MÂU THUẪN
* “Mâu thuẫn” là phạm trù triết học dùng để chỉ sự thống nhất và đấu tranh,
chuyển hóa giữa các mặt đối lập của mỗi sự vật, hiện tượng hoặc giữa các sự vật,
hiện tượng với nhau.
* Các tính chất chung của mâu thuẫn là tính khách quan, tính phổ biến, tính phong
phú và đa dạng.


- Mâu thuẫn có tính KHÁCH QUAN vì mâu thuẫn là cái vốn có trong sự vật, hiện
tượng, là bản chất chung của mọi sự vật, hiện tượng.
- Theo Ăngghen: “Nếu bản thân sự di động một cách máy móc đơn giản đã chứa
đựng mâu thuẫn, thì tất nhiên những hình thức vận động cao hơn của vật chất và
đặc biệt là sự sống hữu cơ và sự phát triển của sự sống hưữ cơ đó lại càng phải
chứa đựng mâu thuẫn…Sự sống trước hết chính là ở chỗ một sinh vật trong mỗi
lúc vừa là nó nhưng vừa là một cái khác. Như vậy, sự sống cũng là một mâu thuẫn
tồn tại trong bản thân các sự vật và quá trình, một mâu thuẫn thường xuyên nảy
sinh và tự giải quyết, và khi mâu thuẫn chấm dứt thì sự sống cũng không còn nữa
và cái chết xảy đến. Cũng như chúng ta thấy rằng trong lĩnh vực tư duy, chúng ta
không thể thoát khỏi mâu thuẫn; chẳng hạn như mâu thuẫn giữa năng lực nhận
thức vô tận ở bên trong của con người với sự tồn tại thực tế của năng lực ấy trong
những con người bị hạn chế bởi hoàn cảnh bên ngoài, và bị hạn chế, trong những
năng lực nhận thức, mâu thuẫn này được giải quyết trong sự tiếp nối của các thế
hệ, sự tiếp nối đó ít ra đối với chúng ta trên thực tiễn, cũng là vô tận, và được giải
quyết trong sự vận động đi lên vô tận”
>> Như vậy, mâu thuẫn có tính KHÁCH QUAN, mâu thuẫn là cái tồn tại vốn có
của bản thân sự vật, hiện tượng trong cả tự nhiên, xã hội và tư duy con người. Sự
vật, hiện tượng là một thể thống nhất biện chứng chứa đựng các mặt đối lập, tức là
chứa đựng những mâu thuẫn tự thân của nó. Do đó, mâu thuẫn tồn tại khách quan

trong sự vật, hiện tượng chứ KHÔNG phải do con người GÁN cho sự vật, hiện
tượng. Sự tồn tại của mâu thuẫn hoàn toàn không phụ thuộc và ý thức của con
người, bất kể hiểu biết của con người về chúng, bất kể suy nghĩ, tình cảm ý chí của
con người như thế nào thì chúng vẫn tồn tại. VD: …
Ngoài tính khách quan, mâu thuẫn còn có tính phổ biến, tính phong phú và đa
dạng.


VỊ TRÍ, VAI TRÒ, NỘI DUNG KHÁI QUÁT CỦA QUY
LUẬT PHỦ ĐỊNH CỦA PHỦ ĐỊNH
>> Quy luật phủ định của phủ định là một trong ba quy luật cơ bản của phép biện
chứng duy vật. Quy luật này chỉ rõ KHUYNH HƯỚNG cơ bản, phổ biến của mọi
sự vận động, phát triển diễn ra trong thế giới thông qua những chu kỳ “phủ định
của phủ định” - đó là KHUYNH HƯỚNG ĐI LÊN.
- Phủ định biện chứng là quá trình tự thân phủ định, tự thân phát triển, là một mắt
khâu trên con đường dẫn tới sự ra đời của cái mới tiến bộ hơn so với cái bị phủ
định.
- Phủ định của phủ định:
Qúa trình phủ định của phủ định diễn ra vô tận trong bản thân mỗi sự vật, hiện
tượng tạo nên sự vận động, phát triển vô tận của thế giới vật chất. Mỗi chu kỳ phát
triển của sự vật, hiện tượng THƯỜNG trải qua hai lần phủ định biện chứng-tức là
trải qua một quá trình phủ định của phủ định. Sự phủ định của phủ định kết thúc
một chu kỳ phát triển, đồng thời lại là điểm xuất phát của một chu kỳ mới và được
lặp lại vô tận.
Sự phát triển không diễn ra theo đường thẳng mà theo đường “xoắn ốc”. Ở mỗi chu
kỳ phủ định của phủ định, sự vật, hiện tượng THƯỜNG trải qua ba hình thái tồn
tại cơ bản. Trong đó, hình thái cuối chu kỳ dường như lặp lại những đặc trưng cơ
bản của hình thái ban đầu nhưng trên cơ sở cao hơn về trình độ phát triển.
Trong chuỗi phủ định của phủ định, nhờ tính kế thừa của phủ định biện chứng, cái
mới ra đời trên cơ sở cái cũ, chỉ loại bỏ những yếu tố đã lỗi thời, lạc hậu, cản trở sự

phát triển, đồng thời giữ lại và cải biến những yếu tố tích cực cho phù hợp với cái
mới, nhờ đó, mỗi lần phủ định biện chứng đều tạo ra những điều kiện, tiền đề cho
sự phát triển tiếp theo của sự vật. Trải qua nhiều lần phủ định biện chứng, tức “phủ


định của phủ định” sẽ tất yếu dẫn tới sự vận động theo KHUYNH HƯỚNG ĐI
LÊN của sự vật, hiện tượng.
VD: …
>> Quy luật Phủ định của phủ định chỉ rõ KHUYNH HƯỚNG cơ bản, phổ biến
của mọi sự vận động và phát triển - đó là khuynh hướng đi lên; Quy luật lượng chất khái quát về CÁCH THỨC cơ bản, phổ biến; còn Quy luật mâu thuẫn khái
quát về NGUỒN GỐC, ĐỘNG LỰC cơ bản, phổ biến của mọi sự vận động và
phát triển diễn ra trong thế giới.

ĐẶC TRƯNG CƠ BẢN CỦA PHỦ ĐỊNH BIỆN CHỨNG
- Thế giới vận động và phát triển không ngừng, vô cùng, vô tận. Các sự vật, hiện
tượng trong thế giới luôn thay thế nhau. Sự thay thế đó gọi là sự phủ định. Có
những sự phủ định chấm dứt sự phát triển - sự phủ định sạch trơn, phủ định siêu
hình; nhưng cũng có những sự phủ định tạo ra điều kiện, tiền đề cho quá trình phát
triển của sự vật, hiện tượng-đó là sự phủ định biện chứng.
>> Phủ định biện chứng là quá trình tự thân phủ định, tự thân phát triển, là một mắt
khâu trên con đường dẫn tới sự ra đời của cái mới tiến bộ hơn so với cái bị phủ
định.
VD: phủ định sạch trơn: …; phủ định biện chứng: ...
- Phủ định biện chứng có hai đặc trưng cơ bản là tính khách quan và tính kế thừa:
+ Tính khách quan thể hiện ở chỗ: nguyên nhân của sự phủ định nằm trong chính
bản thân sự vật, hiện tượng. Đó là kết quả chuyển hoá của các mặt đối lập nhằm
giải quyết những mâu thuẫn bên trong bản thân sự vật, hiện tượng và của quá trình
tích luỹ về lượng dẫn đến nhảy vọt về chất. Qúa trình đó hoàn toàn không phụ



thuộc vào ý thức của con người.
+ Tính kế thừa thể hiện ở chỗ: phủ định biện chứng không phải là sự phủ định sạch
trơn. Ngược lại, với phủ định biện chứng, cái mới ra đời trên cơ sở cái cũ, chỉ loại
bỏ những yếu tố đã lỗi thời, lạc hậu, cản trở sự phát triển của cái mới ở cái cũ,
đồng thời giữ lại và cải biến những yếu tố tích cực cho phù hợp với cái mới từ cái
cũ.
>> Như vậy: CHỈ có phủ định biện chứng mới đồng thời có hai tính chất là tính
khách quan và tính kế thừa. Đặc biệt, tính kế thừa là đặc trưng cơ bản NHẤT của
phủ định biện chứng. Nó chính là đặc trưng quan trọng nhất để phân biệt phủ định
biện chứng với phủ định sạch trơn, phủ định siêu hình.
VD: …

HÌNH THỨC (CON ĐƯỜNG) PHÁT TRIỂN THÔNG
QUA “PHỦ ĐỊNH CỦA PHỦ ĐỊNH”
- Quy luật phủ định của phủ định là một trong ba quy luật cơ bản của phép biện
chứng duy vật. Quy luật này chỉ rõ KHUYNH HƯỚNG cơ bản, phổ biến của mọi
sự vận động, phát triển diễn ra trong thế giới thông qua những chu kỳ “phủ định
của phủ định” - đó là KHUYNH HƯỚNG ĐI LÊN.
- Mặc dù khuynh hướng tất yếu của sự phát triển thông qua "phủ định của phủ
định" là khuynh hướng đi lên, song sự phát triển lại không diễn ra theo hình thức
(con đường) thẳng, mà phát triển diễn ra theo hình thức “xoáy ốc”. Lênin đã khái
quát con đường đó như sau: “Sự phát triển hình như diễn lại những giai đoạn đã
qua, nhưng dưới một hình thức khác, ở một trình độ cao hơn (“phủ định của phủ
định”); sự phát triển có thể nói là theo đường tròn xoáy ốc chứ không phải theo con
đường thẳng…”.


Khuynh hướng phát triển theo đường “xoáy ốc” thể hiện tính chất biện chứng của
sự phát triển, đó là tính kế thừa, tính lặp lại và tính tiến lên. Mỗi vòng mới của
đường xoáy ốc phản ánh quá trình phát triển vô tận từ thấp đến cao của sự vật, hiện

tượng trong thế giới. Trong quá trình phát triển của sự vật, phủ định biện chứng đã
đóng vai trò là những “vòng khâu” của quá trình đó. Ở mỗi chu kỳ phủ định của
phủ định, sự vật, hiện tượng THƯỜNG trải qua ba hình thái tồn tại cơ bản. Trong
đó, hình thái cuối chu kỳ dường như lặp lại những đặc trưng cơ bản của hình thái
ban đầu nhưng trên cơ sở cao hơn về trình độ phát triển. Những chu kỳ "phủ định
của phủ định" như vậy được lặp lại tạo nên hình thức "xoáy ốc" của sự phát triển.
VD: …

QUAN ĐIỂM BIỆN CHỨNG TRONG PHỦ ĐỊNH CÁI CŨ
- Thế giới vận động và phát triển không ngừng, vô cùng, vô tận. Các sự vật, hiện
tượng trong thế giới luôn thay thế nhau. Sự thay thế đó gọi là sự phủ định. Có
những sự phủ định chấm dứt sự phát triển-được gọi là phủ định sạch trơn hay phủ
định siêu hình, nhưng cũng có những sự phủ định tạo ra điều kiện, tiền đề cho quá
trình phát triển của sự vật, hiện tượng-đó là sự phủ định biện chứng.
Như vậy: phủ định biện chứng là quá trình tự thân phủ định, tự thân phát triển, là
một mắt khâu trên con đường dẫn tới sự ra đời của cái mới tiến bộ hơn so với cái bị
phủ định.
- Phủ định biện chứng có hai đặc trưng cơ bản là tính khách quan và tính kế thừa,
trong đó, tính kế thừa là đặc trưng cơ bản nhất của phủ định biện chứng, nó thể
hiện ở chỗ: phủ định biện chứng không phải là sự phủ định sạch trơn; ngược lại,
cái mới ra đời trên cơ sở cái cũ, chỉ loại bỏ những yếu tố đã lỗi thời, lạc hậu, cản


trở sự phát triển, đồng thời giữ lại và cải biến những yếu tố tích cực cho phù hợp
với cái mới.
>> Do đó, trong thực tiễn, muốn có cái mới tiến bộ hơn ra đời thì phải có quan
điểm biện chứng trong quá trình phủ định đối với cái cũ, cụ thể là: không được phủ
định sạch trơn hay kế thừa toàn bộ cái cũ, mà chỉ loại bỏ những yếu tố đã lỗi thời,
phản tiến bộ, kìm hãm sự phát triển của cái mới ở cái cũ; đồng thời kế thừa những
yếu tố hợp lý, hạt nhân hợp lý, tiến bộ, phù hợp với sự phát triển của cái mới từ cái

cũ. Điều này có ý nghĩa thực tiễn to lớn trong thời kỳ hội nhập hiện nay của đất
nước ta.
VD: ….

: PHẠM TRÙ “CHẤT"
- “Chất” là một phạm trù triết học dùng để chỉ tính quy định khách quan vốn có của
SV, HT; là sự thống nhất hữu cơ giữa các thuộc tính, các yếu tố cấu thành SV, HT,
làm cho SV, HT là nó mà không phải là cái khác.
- “Chất” là sự thống nhất hữu cơ giữa các thuộc tính, các yếu tố cấu thành SV, HT,
do đó, mỗi “chất” được tạo thành từ vô số các thuộc tính cơ bản của SV, HT-tùy
thuộc vào từng mối liên hệ cụ thể của SV, HT đó với SV, HT khác.
+ Thuộc tính là biểu hiện một khía cạnh nào đó về “chất” của SV, HT trong mối
quan hệ qua lại với các SV, HT khác.
+ Mỗi SV, HT đều có những thuộc tính cơ bản và không cơ bản. Chỉ những thuộc
tính cơ bản mới hợp thành “chất” của SV, HT. Khi những thuộc tính cơ bản thay
đổi thì “chất” của nó thay đổi.
+ Việc phân biệt thuộc tính cơ bản và không cơ bản của SV, HT cũng chỉ là tương


đối. Phải tùy theo quan hệ cụ thể của sự phân tích; cùng một thuộc tính, trong quan
hệ này là cơ bản thì trong quan hệ khác có thể là không cơ bản.
+ “Chất” của SV, HT không chỉ được xác định bằng các thuộc tính cơ bản của nó
mà còn được xác định bởi phương thức liên kết giữa các yếu tố cấu thành SV, HT
đó. Do đó, “chất” của SV, HT không chỉ thay đổi khi thay đổi những yếu tố cấu
thành nó mà còn phụ thuộc vào sự thay đổi phương thức liên kết giữa các yếu tố
đó.
+ “Chất” biểu hiện tính ổn định tương đối của SV, HT.
>> Mỗi SV, HT không chỉ có một “chất”, mà có nhiều “chất” - vô vàn “chất”, tùy
thuộc vào các mối quan hệ cụ thể của nó với những cái khác. VD: … (không chuẩn
bị trước VD chắc chắn không thể nghĩ kịp khi vào làm bài nhé! Các bác lấy VD

minh họa cho độc ý này thôi chứ không phải minh họa cho từng ý ở trên đâu.
PHẠM TRÙ “ĐIỂM NÚT”
- Chất là một phạm trù triết học dùng để chỉ tính quy định khách quan vốn có của
SV, HT; là sự thống nhất hữu cơ giữa các thuộc tính, các yếu tố cấu thành SV, HT,
làm cho sự vật là nó mà không phải là cái khác.
- Lượng là phạm trù triết học dùng để chỉ tính quy định khách quan vốn có của SV,
HT, biểu thị số lượng, quy mô, trình độ, nhịp điệu của sự vận động và phát triển
của SV, HT cũng như của các thuộc tính của nó.
>> Sự vận động, biến đổi của SV, HT thường bắt đầu từ sự thay đổi về lượng. Khi
lượng thay đổi đến một giới hạn nhất định thì sẽ dẫn đến sự thay đổi về chất. Giới
hạn đó chính là “điểm nút”.
- “Điểm nút” là phạm trù triết học dùng để chỉ thời điểm mà tại đó sự thay đổi về
lượng ĐÃ ĐỦ làm THAY ĐỔI CĂN BẢN về chất của SV, HT. Sự thay đổi về


lượng khi đạt tới “điểm nút”, với những điều kiện nhất định tất yếu sẽ dẫn đến sự
ra đời của chất mới thông qua “bước nhảy” căn bản về chất.
- “Bước nhảy” là phạm trù triết học dùng để chỉ sự THAY ĐỔI CĂN BẢN về chất
của SV, HT do sự thay đổi về lượng của SV, HT trước đó gây nên. “Bước nhảy” là
sự kết thúc một giai đoạn vận động, phát triển đồng thời đó cũng là điểm khởi đầu
cho một giai đoạn vận động, phát triển mới của SV, HT.
>> Như vậy, “Điểm nút” là giới hạn mà tại đó mà sự thay đổi về lượng ĐÃ ĐỦ để
làm thay đổi CĂN BẢN về chất của SV, HT - có nghĩa là, tại đó, SV, HT đã tích
lũy đủ về lượng để CÓ THỂ (chỉ là “có thể” thôi-câu trong ngoặc đơn này không
ghi vào bài nhá!) thực hiện được “bước nhảy” làm thay đổi căn bản về chất,
chuyển từ chất cũ sang chất mới; SONG, KHÔNG PHẢI sự tích lũy về lượng cứ
đạt đến điểm nút là đã LÀM CHO chất của SV, HT thay đổi HOÀN TOÀN. CHỈ
SAU KHI thực hiện XONG BƯỚC NHẢY về chất, SV, HT MỚI thay đổi được
HOÀN TOÀN về chất.
(Nói nhanh cho nó dễ hiểu-nhưng không được ghi vào bài-thì: “Điểm nút”

KHÔNG đánh dấu sự thay đổi hoàn toàn về chất của SV, HT mà CHỈ đánh dấu
thời điểm SV, HT CÓ THỂ thực hiện bước nhảy làm thay đổi căn bản về chất. CHỈ
sau khi bước nhảy căn bản về chất ĐÃ được thực hiện XONG, khi đó, SV,HT mới
thay đổi HOÀN TOÀN về chất).

QUAN HỆ BIỆN CHỨNG GIỮA “LƯỢNG” VÀ “CHẤT”
- “Chất” là một phạm trù triết học dùng để chỉ tính quy định khách quan vốn có của
SV,HT; là sự thống nhất hữu cơ giữa các thuộc tính, các yếu tố cấu thành SV,HT,
làm cho sự vật là nó mà không phải là cái khác.
- “Lượng” là phạm trù triết học dùng để chỉ tính quy định khách quan vốn có của
SV,HT, biểu thị số lượng, quy mô, trình độ, nhịp điệu của sự vận động và phát triển


của SV,HT cũng như của các thuộc tính của nó.
- “Chất” và “lượng” luôn thống nhất hữu cơ với nhau, không tách rời nhau, tác
động lẫn nhau một cách biện chứng. Bất cứ sự thay đổi nào về lượng cũng TẤT
YẾU sẽ dẫn tới sự thay đổi nhất định về “chất” của SV,HT.
- Tuy nhiên, KHÔNG PHẢI bất cứ sự thay đổi nào về “lượng” cũng dẫn đến sự
thay đổi CĂN BẢN về “chất” của SV,HT và ngược lại. Ở một giới hạn nhất định,
sự thay đổi về “lượng” CHƯA ĐỦ để làm thay đổi CĂN BẢN về “chất” - giới hạn
đó là “độ”. Trong giới hạn của “độ”, sự thống nhất hữu cơ giữa chất và lượng chưa
bị phá vỡ-sự thay đổi về “lượng” chưa đủ để làm thay đổi căn bản về “chất” của
SV,HT, khiến cho SV,HT vẫn là nó mà chưa chuyển hóa thành SV,HT khác.
Sự thay đổi CĂN BẢN về chất của SV,HT chỉ CÓ THỂ xảy ra khi sự thay đổi về
lượng đã đạt tới “điểm nút”. Sự thay đổi về “lượng” khi đạt tới “điểm nút”, với
những điều kiện nhất định tất yếu sẽ dẫn đến sự ra đời của “chất” mới thông qua
“bước nhảy” căn bản về “chất” của SV,HT.
>> Như vậy: Mặc dù chất và lượng của SV,HT là hai mặt thống nhất hữu cơ với
nhau khiến cho bất cứ sự thay đổi nào về lượng cũng TẤT YẾU dẫn đến sự thay
đổi NHẤT ĐỊNH nào đó về chất. Song, KHÔNG PHẢI bất cứ sự thay đổi nào về

lượng cũng dẫn đến sự thay đổi CĂN BẢN về chất của SV,HT. Sự thay đổi CĂN
BẢN về chất chỉ CÓ THỂ xảy ra khi sự thay đổi về lượng đã đạt đến điểm nút.
SV,HT chỉ THAY ĐỔI CĂN BẢN về chất sau khi đã thực hiện xong bước nhảy về
chất.

THỰC TIỄN VÀ CÁC HÌNH THỨC CƠ BẢN CỦA THỰC
TIỄN


- Thực tiễn là toàn bộ hoạt động VẬT CHẤT có mục đích, mang tính lịch sử-xã
hội của con người nhằm cải biến tự nhiên và xã hội.
(Như vậy, KHÔNG PHẢI MỌI hoạt động có mục đích của con người đều là thực
tiễn. Hoạt động tư duy, hoạt động nhận thức hay hoạt động nghiên cứu khoa học
đều là những hoạt động có mục đích của con người, song chúng là hoạt động tinh
thần, là hoạt động trong hệ thần kinh trung ương của bộ não người và chúng không
phải là thực tiễn).
- Các hình thức của thực tiễn: có ba hình thức cơ bản:
+ Hoạt động SẢN XUẤT VẬT CHẤT là hình thức hoạt động cơ bản, đầu tiên của
thực tiễn. Đây là hoạt động mà trong đó con người sử dụng những công cụ lao
động tác động vào giới tự nhiên để tạo ra của cải vật chất, các điều kiện cần thiết
nhằm duy trì sự tồn tại và phát triển của mình. VD: …
+ Hoạt động CHÍNH TRỊ-XÃ HỘI là hoạt động của các cộng đồng người, các tổ
chức khác nhau trong xã hội nhằm cải biến những quan hệ chính trị-xã hội để thúc
đẩy xã hội phát triển. VD: …
+ Hoạt động THỰC NGHIỆM khoa học là một hình thức đặc biệt của thực tiễn,
được tiến hành trong những điều kiện do con người tạo ra, gần giống, giống hoặc
lặp lại những trạng thái của tự nhiên và xã hội nhằm xác định những quy luật biến
đổi, phát triển của đối tượng nghiên cứu. Dạng hoạt động này có vai trò trong sự
phát triển của xã hội, đặc biệt là trong thời kỳ cách mạng khoa học và công nghệ
hiện đại.

(Như vậy, hoạt động NGHIÊN CỨU khoa học không phải là thực tiễn vì nó là hoạt
động tinh thần, diễn ra trong hệ thần kinh trung ương của bộ não các nhà nghiên
cứu. Ở đây cần phân biệt rõ thuật ngữ “nghiên cứu khoa học” với “thực nghiệm
khoa học”. Thực nghiệm khoa học là một trong ba hình thức cơ bản của thực tiễn


vì hoạt động này là sự hiện thực hóa các nghiên cứu lý luận, phát minh, sáng chế
trong phòng thí nghiệm…). VD: …
(Vì thực tiễn là hoạt động MANG TÍNH LỊCH SỬ-XÃ HỘI của con người cho
nên HOẠT ĐỘNG THỰC TIỄN CỦA CON NGƯỜI Ở MỖI THỜI ĐẠI LÀ
KHÁC NHAU. Từ hoạt động sản xuất vật chất, cho đến hoạt động chính trị-xã hội
và thực nghiệm khoa học đều mang những đặc trưng của từng thời đại, gắn với
trình độ phát triển nhất định của Lực lượng sản xuất của mỗi thời đại đó…).
- Mối quan hệ giữa ba hình thức của thực tiễn: có quan hệ chặt chẽ, tác động qua
lại lẫn nhau:
+ Hoạt động SẢN XUẤT VẬT CHẤT là loại hoạt động có vai trò quan trọng nhất,
đóng vai trò QUYẾT ĐỊNH đối với các hoạt động thực tiễn KHÁC. Không có hoạt
động sản xuất vật chất thì không thể có các hình thức thực tiễn khác. Các hình thức
thực tiễn khác, suy đến cùng cũng xuất phát từ thực tiễn sản xuất vật chất và nhằm
phục vụ thực tiễn sản xuất vật chất. VD:…
+ NGƯỢC LẠI, hoạt động chính trị-xã hội và hoạt động thực nghiệm khoa học có
tác dụng kìm hãm hoặc thúc đẩy hoạt động sản xuất vật chất phát triển. VD:…
>> Chính sự tác động qua lại lẫn nhau của các hình thức hoạt động cơ bản đó làm
cho hoạt động thực tiễn vận động, phát triển và ngày càng có vai trò quan trọng đối
với hoạt động nhận thức.

VAI TRÒ CỦA THỰC TIỄN ĐỐI VỚI NHẬN THỨC
^*^ Thực tiễn là toàn bộ hoạt động VẬT CHẤT có mục đích, mang tính lịch sử-xã
hội của con người nhằm cải biến tự nhiên và xã hội.



^*^ Nhận thức là quá trình phản ánh tích cực, tự giác và sáng tạo thế giới khách
quan vào bộ óc con người trên cơ sở thực tiễn, nhằm sáng tạo ra những tri thức về
thế giới khách quan đó.
^*^ Vai trò của thực tiễn đối với nhận thức
Đối với nhận thức, thực tiễn đóng vai trò là cơ sở, động lực, mục đích của nhận
thức và là tiêu chuẩn của chân lý, kiểm tra tính đúng đắn của quá trình nhận thức
chân lý:
- Thực tiễn là nguồn gốc, cơ sở (điểm xuất phát) của nhận thức:
Thông qua hoạt động thực tiễn, trước hết là lao động, con người tác động vào các
sự vật hiện tượng làm cho các sự vật, hiện tượng bộc lộ những thuộc tính, những
mối liên hệ và quan hệ khác nhau giữa chúng, đem lại những tài liệu cho nhận
thức, giúp cho nhận thức nắm bắt được bản chất, các qui luật vận động và phát
triển của thế giới. Trên cơ sở đó mà hình thành nên các lý thuyết khoa học.
VD: (Sự xuất hiện học thuyết Macxit vào những năm 40 của thế kỷ XIX cũng BẮT
NGUỒN từ hoạt động thực tiễn của các phong trào đấu tranh của giai cấp công
nhân chống lại giai cấp tư sản lúc bấy giờ). (Hãy cố gắng lấy VD khác nhau).
>> Do đó, nếu XA RỜI THỰC TIỄN, không dựa vào thực tiễn thì nhận thức sẽ xa
rời cơ sở hiện thực nuôi dưỡng sự phát sinh, tồn tại và phát triển của mình. Cũng vì
thế, chủ thể nhận thức KHÔNG THỂ có được những tri thức đúng đắn và sâu sắc
về thế giới nến nó xa rời thực tiễn. Vai trò của thực tiễn đối với nhận thức, đòi hỏi
chúng ta phải luôn luôn quán triệt quan điểm thực tiễn. Quan điểm này yêu cầu
việc nhận thức phải xuất phát từ thực tiễn, dừa trên cơ sở thực tiễn, đi sâu vào thực
tiễn, phải coi trọng công tác tổng kết thực tiễn. Việc nghiên cứu lý luận phải liên hệ
với thực tiễn, học đi đôi với hành. Nếu xa rời thực tiễn sẽ dẫn đến sai lầm của bệnh
chủ quan, duy ý chí, giáo điều, máy móc, quan liêu. Ngược lại, nếu tuyệt đối hóa


vai trò của thực tiễn sẽ rơi vào chủ nghĩa thực dụng và kinh nghiệm chủ nghĩa.
Như vậy, nguyên tắc thống nhất giữa thực tiễn và lý luận phải là nguyên tắc cơ bản

trong hoạt động thực tiễn và hoạt động lý luận; lý luận mà không có thực tiễn làm
cơ sở và tiêu chuẩn để xác định tính chân lý của nó thì đó chỉ là lý luận suông,
ngược lại, thực tiễn mà không có lý luận khoa học, cách mạng soi sáng thì nhất
định sẽ biến thành thực tiễn mù quáng.
VD: …
- Thực tiễn là động lực của nhận thức:
+ Thực tiễn sản xuất vật chất và cải biến thế giới đặt ra yêu cầu buộc con người
phải nhận thức về thế giới.
+ Thực tiễn làm cho các giác quan, tư duy của con người phát triển và hoàn thiện,
từ đó giúp con người nhận thức ngày càng sâu sắc hơn về thế giới.
VD: (Chẳng hạn, xuất phát từ NHU CẦU thực tiễn con người CẦN phải “đo đạc
diện tích và đo lường sức chứa của những cái bình, từ sự tính toán thời gian và sự
chế tạo cơ khí” MÀ toán học đã ra đời và phát triển). (Hãy cố gắng lấy VD khác
nhau).
- Thực tiễn là mục đích của nhận thức: Mục đích cuối cùng của nhận thức là giúp
con người hoạt động thực tiễn nhằm cải biến thế giới. Nhấn mạnh vai trò này của
thực tiễn Lênin đã cho rằng: “Quan điểm về đời sống, về thực tiễn, phải là quan
điểm thứ nhất và cơ bản của lý luận về nhận thức”.
VD: (Ngay cả những thành tựu mới đây nhất là khám phá và giải mã bản đồ gien
người cũng ra đời từ chính thực tiễn, từ MỤC ĐÍCH chữa trị những căn bệnh nan y
và từ MỤC ĐÍCH tìm hiểu, khai thác những tiềm năng bí ẩn của con người…có
thể nói, suy cho cùng, không có một lĩnh vực tri thức nào mà lại không xuất phát từ
một MỤC ĐÍCH nào đó của thực tiễn, không NHẰM vào việc phục vụ, hướng dẫn
thực tiễn. (Hãy cố gắng lấy VD khác nhau).


- Thực tiễn là tiêu chuẩn kiểm tra tri thức, là tiêu chuẩn của chân lý: Thực tiễn là
thước đo chính xác nhất để kiểm tra tính đúng đắn của tri thức, xác nhận tri thức đó
có phải là chân lý hay không. Mác đã từng khẳng định: “Vấn đề tìm hiểu xem tư
duy của con người có thể đạt tới chân lý khách quan hay không, hoàn toàn không

phải là vấn đề lý luận mà là một vấn đề thực tiễn. Chính trong thực tiễn mà con
người phải chứng minh chân lý”.

PHẠM TRÙ “SỰ ĐẤU TRANH CỦA CÁC MẶT ĐỐI LẬP”
Hiện có quan điểm cho rằng: Sự đấu tranh của các mặt đối lập KHÔNG CHỈ là sự
BÀI TRỪ, PHỦ ĐỊNH LẪN NHAU của các mặt đối lập, mà là sự BÀI TRỪ, PHỦ
ĐỊNH LẪN NHAU VÀ CHUYỂN HÓA LẪN NHAU của các mặt đối lập.
Trong khi đó, theo quan điểm của một số thầy, cô trong đó có I CAN: sự đấu tranh
của các mặt đối lập chỉ là sự BÀI TRỪ, PHỦ ĐỊNH LẪN NHAU của các mặt đối
lập. SỰ CHUYỂN HÓA CỦA CÁC MẶT ĐỐI LẬP không nằm trong sự đấu tranh
của chúng mà là KẾT QUẢ CỦA SỰ ĐẤU TRANH CỦA CHÚNG. ĐÁNG TIẾC!
QUAN ĐIỂM CỦA I CAN ĐANG BỊ RƠI VÀO THẾ THIỂU SỐ. VÌ THẾ,
NOTE NÀY thầy làm là để phục vụ cho việc làm bài của học trò thôi, chứ thầy
không đồng tình với cách quan niệm trên. Tức là sau đây thầy đang phải viết ra
những lập luận trái với quan điểm của mình! ĐAU BỘ NÃO LẮM ĐẤY MÀ VẪN
PHẢI NHẮM MẮT ĐƯA BÀN PHÍM. Nên vẫn phải nói ông ổng vài câu cho cả
làng tỏ tường cái LỖI KHỔ CỦA KẺ THIỂU SỐ! ADIĐÀPHẬT!)
START:
- “Mặt đối lập” là phạm trù triết học dùng để chỉ những mặt, những đặc điểm,
những thuộc tính, những tính quy định có khuynh hướng biến đổi trái ngược nhau,
tồn tại một cách khách quan và phổ biến trong mỗi sự vật, hiện tượng. VD: (lấy


VD 2 mặt đối lập và dựa vào định nghĩa Mặt đối lập để lập luận vì sao chúng lại là
2 mặt đối lập nhau).
- “Sự đấu tranh của các mặt đối lập”:
+ Sự đấu tranh của các mặt đối lập là sự tác động theo xu hướng bài trừ, phủ định
lẫn nhau VÀ CHUYỂN HÓA lẫn nhau

:(


:(

:( của các mặt đối lập.

+ Hình thức đấu tranh nhằm bài trừ, phủ định lẫn nhau của các mặt đối lập rất
phong phú, đa dạng, tùy thuộc vào tính chất, mối quan hệ và điều kiện cụ thể của
sự vật, hiện tượng.
+ Sự chuyển hóa của các mặt đối lập là tất yếu, là kết quả của sự đấu tranh của các
mặt đối lập. Do sự đa dạng của thế giới nên hình thức chuyển hóa cũng rất đa
dạng: có thể hai mặt đối lập chuyển hóa lẫn nhau, cũng có thể cả hai mặt đối lập cũ
đều mất đi chuyển hoá lên hình thức cao hơn và hình thành hai mặt đối lập mới
trong sự vật mới - mâu thuẫn được giải quyết, nhờ đó thể thống nhất cũ được thay
thế bằng thể thống nhất mới; sự vật cũ mất đi sự vật mới ra đời thay thế.
VD: (lấy VD về sự bài trừ, phủ định, chuyển hóa lẫn nhau giữa 2 mặt đối lập nhằm
giải quyết mâu thuẫn).
>> Như vậy, sự đấu tranh của các mặt đối lập KHÔNG CHỈ là sự bài trừ, phủ định
lẫn nhau của các mặt đối lập MÀ CÒN bao gồm cả sự CHUYỂN HÓA lẫn nhau
giữa chúng
mới.

:(

:(

:( nhằm giải quyết mâu thuẫn, dẫn tới sự ra đời của sự vật




×